|
May 30, 2012
Center
Island, Summer, 2010
Tribute to Carlos Fuentes
Tribute to Horst Faas
Thơ Mỗi Ngày
There’s
something else in my past that I only recently realized contributed to
my
perseverance in writing poems, and that is my love of chess. I was
taught the
game in wartime Belgrade by a retired professor of astronomy when I was
six
years old and over the next few years became good enough to beat not
just all
the kids my age, but many of the grownups in the neighborhood. My first
sleepless nights, I recall, were due to the games I lost and replayed
in my
head. Chess made me obsessive and tenacious. Already then, I could not
forget
each wrong move, each humiliating defeat. I adored games in which both
sides
are reduced to a few figures each and in which every single move is of
momentous significance. Even today, when my opponent is a computer
program (I
call it “God”) that outwits me nine out of ten times, I’m not only in
awe of
its superior intelligence, but find my losses far more interesting to
me than
my infrequent wins. The kinds of poems I write—mostly short and
requiring
endless tinkering—often recall for me games of chess. They depend for
their
success on word and image being placed in proper order and their
endings must
have the inevitability and surprise of an elegantly executed checkmate.
Why I Still
Write Poetry
Charles
Simic
Còn
điều này nữa trong quá khứ mà chỉ mới đây thôi tôi mới
nhận ra, nó đóng góp vào cái sự “dai như đỉa”, kiên trì mần thơ, đó
là tình yêu của tôi dành cho môn chơi cờ. Tôi học chơi cờ vào thời gian
chiến
tranh ở Belgrade, sư phụ là 1 vị giáo sư thiên văn về hưu, tôi khi đó 6
tuổi, và
chỉ vài năm tiếp theo, tôi trở thành một cao thủ, nghĩa là, chơi đủ
bảnh để hạ
không chỉ tất cả đám con nít cùng tuổi, mà
còn rất nhiều đấng trưởng thành lối xóm. Những
đêm mất ngủ đầu tiên
trong đời, tôi nhớ lại, thì đều là do những ván cờ bị thua hành, khi
tôi chơi lại
chúng ở trong đầu. Cờ ám tôi và biến tôi trở thành ngoan cố, kiên
cường. Ngay từ
lúc còn bé tí như thế đó, mà tôi đã không thể nào quên nổi một nước cờ
đi lầm,
một trận cờ thất bại nhục nhã. Tôi cực mê những trận cờ mà đôi bên cùng
lâm vào
cái thế gọi là “tàn cờ”, mỗi bên chỉ còn vài quân, và mỗi nước đi, vào
lúc đó, mới cực
kỳ ý nghĩa làm sao. Ngay cả bây giờ, khi đối thủ của tôi là một chương
trình máy
tính (tôi gọi nó là “Thượng Đế”), đánh bại tôi 9 trong 10 trận, tôi
không chỉ kinh
sợ cái thông minh trên cơ của nó, nhưng còn nhận ra, những lần thua
của tôi
mới thú vị làm sao so với những lần thắng hiếm hoi. Những thứ thơ mà
tôi viết,
phần lớn là ngắn, và đòi hỏi sửa đi sửa lại, chắp chắp, vá vá hoài
hoài, bất tận –
thường gợi lên ở nơi tôi những trận cờ. Sự thành công của chúng tùy
thuộc từ ngữ
và hình ảnh được đặt đúng thứ tự, và những kết thúc của chúng thì không
tránh
được, và ngạc nhiên, như một cú chiếu bí lịch lãm.
NQT dịch
Một điều nữa
trong quá khứ mà tôi chỉ gần đây mới phát giác đã giúp tôi kiên trì làm
thơ, đó
là nỗi đam mê cờ vua. Vào thời chiến ở Belgrade, năm tôi lên sáu, một
giáo sư
thiên văn học về hưu đã dạy tôi cách chơi cờ vua và trong nhiều năm sau
đó tôi
đã đủ giỏi để đánh bại không chỉ đám lỏi tì cùng lứa với tôi, mà ngay
cả nhóm
người lớn trong khu phố. Những đêm mất ngủ đầu tiên trong đời, tôi nhớ,
là do
các ván cờ tôi đã thua và chơi lại trong đầu. Cờ vua làm tôi bị ám ảnh,
thành
ngoan cường. Ngay lúc còn bé, tôi không thể quên mỗi nước đi sai, mỗi
thất bại
nhục nhã. Tôi say mê những ván cờ lúc hai bên chỉ còn lác đác mấy quân
cờ và mỗi
nước đi là cả một quyết định trọng đại. Thậm chí ngày nay, khi đối thủ
của tôi
là một chương trình máy tính (tôi gọi nó là "Thượng Đế") đánh bại tôi
chín trong mười bận, tôi không chỉ bái phục trí thông minh vượt trội
của nó, mà
cũng thấy rằng những ván thua của tôi thú vị gấp trăm nghìn lần những
ván thắng
hiếm hoi. Các loại thơ tôi sáng tác – phần nhiều là thơ ngắn và thường
đòi hỏi
những duyệt sửa bất tận – gợi cho tôi những ván cờ vua. Sự thành công
của những
bài thơ phải dựa trên vị trí ngôn từ và hình ảnh được đặt theo đúng thứ
tự; kết
thúc của chúng cũng phải có sự chắc nịch nhưng bất ngờ không khác một
cú chiếu
bí tuyệt xảo.
Tại
Sao Tôi
Vẫn Làm Thơ?
Charles
Simic
Chuyển ngữ:
Đinh Từ Bích Thúy
PRODIGY
I grew up
bent over
a
chessboard.
I loved the
word endgame.
All my
cousins looked worried.
It was a
small house
near a Roman
graveyard.
Planes and
tanks
shook its
windowpanes.
A retired
professor of astronomy
taught me
how to play.
That must have
been in 1944.
In the set
we were using,
the paint
had almost chipped off
the black
pieces.
The white
King was missing
and had to
be substituted for.
I'm told but
do not believe
that that
summer I witnessed men
hung from
telephone poles.
I remember
my mother
blindfolding
me a lot.
She had a
way of tucking my head
suddenly
under her overcoat.
In chess,
too, the professor told me,
the masters
play blindfolded,
the great
ones on several boards
at the same
time.
Người Phi
Thường
Tôi lớn lên,
trên
một cái bàn
cờ
Tôi mê cái từ tàn cuộc
Tất cả bà
con họ hàng đều tỏ ra buồn lòng.
Ðó là 1 căn
nhà nhỏ
ở gần một
nghĩa địa Ba Lan
Máy bay và
xe tăng
lắc lắc mấy
khung cửa sổ của nó
Một vị giáo
sư thiên văn về hưu
dạy tôi chơi
cờ
Hẳn là năm
1944
Bộ cờ của
chúng tôi
Quân đen
tróc sơn gần hết
Tướng Trắng,
mất
Phải thay bằng
một mẩu gỗ
Tôi nghe kể
nhưng không tin
rằng mùa hè
năm đó, tôi chứng kiến những người đàn ông
treo trên những
cột điện thoại
Tôi nhớ mẹ
tôi đã
bịt mắt tôi khá nhiều lần
Bà luôn luôn
có cái cách của bà
bất thình
lình cuốn đầu tôi
trong chiếc
áo khoác của bà
Trong cờ tướng,
thì cũng vậy, vị giáo sư biểu tôi
những bậc thầy
chơi cờ mắt bịt kín,
những bậc đại
sư phụ thường chơi,
cùng một lúc
vài cuộc cờ.
Charles
Simic
The very
deliberate movement of this poem, its constant stopping and starting,
seems to
track the memory's discoveries, sudden bursts of brief recall. We
recognize
that the poem may draw on personal experience, but we also sense its
suppression of personal emotion; the deadpan manner finally makes the
emotional
impact stronger, but it also serves to divert attention from personal
experience and memory to the emerging pattern of chess game as refuge
from (and
mirror of) the world of tanks, planes, and executions, a world which
also
stretches out to include the history implied by a Roman graveyard and
the
realms studied by the professor of astronomy: several boards at once.
The
ending is wonderfully inconclusive, especially as it refers us back to
the title:
what kind of prodigy the boy is or will be is left open, and we duck
out of his
strange little world before we have answers.
What we'll
retain is a strong sense of how firmly the mundane details of chess set
and
wartime have been elevated into a stunning design. Again, it is Simic
the
artist rather than Simic the refugee or deprived child who remains, as
what I've
called a responsible presence.
[Trích bài viết
của David Young, điểm tập thơ Classic
Ballroom Dances của Charles
Simic, trong
số báo Fields 24, mùa xuân 1981, sau được
in trong Charles Simic, Essays on Poetry,
Bruce Weigl biên tập, nhà xb The University of Michigan Press]
Cái chuyển động
rất ư thong thả của bài thơ này, cái sự ngưng nghỉ, khởi động hằng hằng
của nó,
có vẻ như theo dõi, lần mò những khám phá của trí nhớ, những
cú bật ra bất thình của một hồi ức ngắn,
vụn. Chúng ta nhận ra bài thơ có thể sử dụng, khai thác kinh nghiệm cá
nhân, nhưng
chúng ta cũng cảm nhận ra, sự câu thúc, kìm kẹp, cố nén lại, cố dẹp
bỏ, cảm xúc cá nhân, và chính cái bộ dạng bất cần, dửng dưng, làm mặt
lạnh, đếch
thèm vãi linh hồn [deadpan manner] sau cùng lại làm cho tác động tình
cảm trở
thành mạnh lên [“thánh nhân” vô tình coi… BHD
như rơm rác, một đi không ngoái lại, mẹ già
ba năm cũng đừng trông, chị thà coi như hạt bụi, em coi như hơi rượu
cay…. là
theo nghĩa này], nhưng còn được sử dụng để đánh lạc hướng, đừng nhìn về
cái phía
kinh nghiệm cá nhân, hay hồi ức, nhường chỗ cho sự trỗi dậy của những
cuộc cờ,
như là nơi ẩn trốn [một tấm gương của] cái thế giới của chiến xa, xe
tăng, phi
cơ, và những cuộc hành quyết, một thế giới vươn rộng ra, bao gồm lịch
sử, một lịch
sử trong có cái nghĩa địa La Mã, và những
“cõi trời” được nghiên cứu bởi vị giáo sư thiên văn: mấy cuộc cờ cùng
một lúc,
liền tù tì.
Cái kết thúc của bài thơ thì mới hững hờ, lửng lơ con cá vàng tuyệt vời làm sao, đặc biệt là nó kéo chúng ta
trở lại với cái tít của bài thơ: phi thường, thần đồng kiểu nào, cậu bé
là, hay
sẽ trở thành, câu hỏi này được bỏ ngỏ, và chúng ta chưa tìm thấy câu
trả lời,
thì bị cái kết của bài tống ra khỏi cái thế giới lạ thường nho nhỏ của
cậu.
Cái
còn lại mà chúng ta sẽ giữ được thì là một cảm quan mạnh mẽ: vững vàng
làm sao,
những chi tiết trần tục về một bộ cờ và thời chiến được đẩy lên thành
một “design”
[kiểu mẫu] tuyệt trần đời.
Lại
ở đây là một thi sĩ Simic, một nghệ sĩ hơn là một Simic kẻ tị nạn, hay
một đứa
bé bị tước đoạt, một con người–cái còn lại, như tôi gọi: một hiện diện
trách
nhiệm.
Bi Khúc Bốn
Tháng Sáu
Bi Khúc 3 [nguyên tác]
Memory
Under house
arrest with the Public Security Bureau
in the
northwest outskirts of Beijing, 613/1995
Sixth
anniversary offering for 6/4
1
Late in the
night
suspended
at
a sheer edge
So often
woken up
wanting
to
see what clearly
So often
sleep's like facing an abyss
Thick fog
spreads within the body
gentle
wind,
intermittent flash
a needle
migrates through the veins
stitches
together scattered fragments of words
Ideals'
threads destroyed
like
lovers
torn apart
betrayed
by
one another's reproaches
30.4.2012
Hành
xử
trong chế độ ta và chế độ Ngụy
Trang web của
tỉnh Bến Tre có bài viết về sự ra đời của đội quân tóc dài. Trong
bài viết đó
có đoạn thuật lại như sau: "Nhiều người phẫn nộ không ngần ngại tụt
quần
trườn mặt những tên ác ôn mặt dày mày dạn làm chúng phải cúi mặt bỏ
đi".
Trang Ngôi sao đăng những bức ảnh chụp cảnh
cưỡng chế đất, trong đấy có những cảnh
vệ sĩ lôi kéo hai phụ nữ trần truồng ở Cần Thơ. Dưới chế độ Ngụy những
tên ác
ôn mặt dày mày dạn đã cúi mặt bỏ đi trước những người phụ nữ lõa thể,
nhưng ở
chế độ ta những người ngày ngày được nghe tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
vẫn hăng
hái xông vào lôi kéo những người phụ nữ trần truồng. Đấy là điểm khác
nhau giữa
chế độ ta và chế độ Ngụy. Không
biết những người phụ nữ trong đội quân tóc dài
ngày xưa đấy giờ ra sao, có kinh nghiệm gì truyền lại cho chị em hôm
nay không
và khi xuôi tay có nhắm mắt được không?
Đông A Blog
Note: Lần đầu
tiên 1 anh VC xác nhận, chế độ ta khốn kiếp hơn nhiều so với chế độ Ngụy
Cái đội quân tóc dài ngày nào, nhờ Bắc Kít giải phóng, biến thành
Quỉ Đỏ
hết rồi.
Chứng cớ: Một bà Bình, chót đời viết hồi ký, đâu có biết Bà là Quỉ,
thua 1 một
em Yankee mũi lõ như Jane Fonda, mang nỗi đau qua bên kia mồ, thua Cao
Bồi PXA,
không làm sao nhắm mắt.
Be careful
what you wish for
Hãy coi chừng,
hãy cẩn thận cái điều mà bạn mong muốn:
Bắc Kít mong
thắng cuộc chiến với bất cứ giá nào.
Thắng, nhưng cái giá phải trả đắt quá, và
nó liên quan tới cái sự giáo dục con nít hận thù.
Ở hải ngoại,
có ba diễn đàn. Hậu Vệ và Da Mùi không rành tiếng Mít, Chợ Cá quá rành,
nhưng
toàn thứ cực độc, cực ác, phải dẹp tiệm, quay qua “lốc liếc”, nhưng
cũng không
khá!
Không thể nào
khá được, bởi vì cái độc nó tẩm vô người tới xương tới da, tới linh hồn
Bắc Kít
rồi, mà điều này là do nền giáo dục hận thù gây nên.
Người ta, trong có cả
Naipaul, vẫn chê Borges không màng
tới thế sự,
chỉ mơ tưởng cõi thiên thu, bất diệt. Nhưng ông có mấy bài viết về Nazi
thật thần
sầu, trong có bài về giáo dục hận thù Do Thái của Đức. Ông phán, chính
cái thứ
giáo dục này đẩy nước Đức tới tội ác Lò Thiêu, chứ không phải chủ nghĩa
Nazi.
GCC không
tin đám Bắc Kít thay đổi được.
Làm sao thay
máu?
Đâu 1 người,
mà cả một dân tộc.
NOTES GERMANY & ON THE WAR
A Pedagogy of Hatred
Displays of hatred
are even more obscene and denigrating than exhibitionism. I defy
pornographers to show me a picture more vile than any of the twenty-two
illustrations that comprise the children's book Trau keinem Fuchs auf
gruener Heid und keinem Jud bei seinem Bid [Don't Trust Any Fox from a
Heath or Any Jew on his Oath] whose fourth edition now infests Bavaria.
It was first published a year ago, in 1936, and has already sold 51,000
copies. Its goal is to instill in the children of the Third Reich a
distrust and animosity toward Jews. Verse (we know the mnemonic virtues
of rhyme) and color engravings (we know how effective images are)
collaborate in this veritable textbook of hatred.
Take any page: for example, page 5. Here I find, not without
justifiable bewilderment, this didactic poem-"The German is a proud man
who knows how to work and struggle. Jews detest him because he is so
handsome and enterprising" -followed by an equally informative and
explicit quatrain: "Here's the Jew, recognizable to all, the biggest
scoundrel in the whole kingdom. He thinks he's wonderful, and he's
horrible." The engravings are more astute: the German is a
Scandinavian, eighteen-year-old athlete, plainly portrayed as a worker;
the Jew is a dark Turk, obese and middle-aged. Another sophistic
feature is that the German is clean-shaven and the Jew, while bald, is
very hairy. (It is well known that German Jews are Ashkenazim,
copper-haired Slavs. In this book they are presented as dark
half-breeds so that they'll appear to be the exact opposite of the
blond beasts. Their attributes also include the permanent use of a fez,
a rolled cigar, and ruby rings.)
Another engraving shows a lecherous dwarf trying to seduce a young
German lady with a necklace. In another, the father reprimands his
daughter for accepting the gifts and promises of Solly Rosenfeld, who
certainly will not make her his wife. Another depicts the foul body
odor and shoddy negligence of Jewish butchers. (How could this be, with
all the precautions they take to make meat kosher?) Another, the
disadvantages of being swindled by a lawyer, who solicits from his
clients a constant flow of flour, fresh eggs, and veal cutlets. After a
year of this, the clients have lost their case but the Jewish lawyer
"weighs two hundred and forty pounds." Yet another depicts the
opportune expulsion of Jewish professors as a relief for the children:
"We want a German teacher;' shout the enthusiastic pupils, "a joyful
teacher who knows how to play with us and maintain order and
discipline. We want a German teacher who will teach us common sense."
It is difficult not to share such aspirations.
What can one say about such a book? Personally I am outraged, less for Israel's sake than for Germany's,
less for the offended community than for the offensive nation. I don't know if the world can do
without German civilization, but I do know that its corruption by the
teachings of hatred is a crime.
[1937]
Jorge
Luis Borges: Selected Non-Fictions,
Penguin Books
Người dịch: Suzanne Jill Levine
*
Note: Tình cờ vớ được bài trên, Sư
Phạm của Hận Thù, đọc, Gấu bỗng nhớ đến bài viết Còn Lại Gì? của
PTH, thí dụ, những đoạn dậy toán bằng đếm xác Mỹ Ngụy...
I don't know
if the world can do without German civilization, but I do know that its
corruption by the teachings of hatred is a crime.
Tôi không biết thế giới làm ăn ra sao, nếu thiếu nền văn minh Đức,
nhưng tôi biết,
cái sự sa đọa, hư ruỗng của nó, do dậy dỗ hận thù, và đây là 1 tội ác.
Cái
việc dậy con nít hận thù là một tội ác. Cái sự thắng trận và băng hoại
sau đó, chính là do dậy con nít thù hận.
We
want a German teacher who will teach us common sense: Chúng em muốn 1
ông thầy
dậy chúng em lương tri.
They Ate Their Sleep
Họ đợp giấc
ngủ của họ
Can Literature Bear Witness?
Văn
chương làm chứng?
“When I read
the books of other
authors, writing resembles speech. When I write my own, I only speak
inside my
own mouth, and the writing resembles silence.” I often hear writers
talk about
"voice" and treat it as an essential element of storytelling. Maybe
it is, but Müller, at least in her own writing, is more interested in
the
silence of storytelling than in the voice of the storyteller.
"Khi tôi
đọc văn của “bạn quí”, viết giống nói. Khi tôi viết cái của tôi, tôi
chỉ nói ở
bên trong cái miệng của riêng tôi, và viết giống như im lặng."
Herta Muller
TTT 2012
Ghi
chú
trong ngày
Qua server cho biết, có
cái
website sau đây, bằng tiếng Tầu, GCC mù tịt, lạ làm sao lại “link” gần
như tất
cả những bài viết, trang viết, của Tin Văn.
Tks, "anyway".
NQT
http://www.myip.cn/inlink/tanvien.net
Con
hổ ghê sợ
Việt Nam có
vẻ giống như một câu truyện thành
công, nhưng với Miến Điện tan băng, bây giờ là nước đàn áp bậc nhất
Đông Nam Á
DTBT
Note:
Câu chuyện mới đúng chính tả.
Mít dùng hai
từ chuyện, và truyện để phân biệt giữa [văn]
nói, và [văn] viết.
Bắc
Kít coi văn Miền Nam là văn thô, còn thuộc dạng nói, chưa được gọi là
văn chương!
Nhưng điều
này không thể xảy ra, trừ khi họ thăng tiến
về thành tích nhân quyền.
DTBT
“tiến bộ”, không phải “thăng tiến”.
Bài này, được
Bi Bì Xèo dịch rồi, nhưng thiến mẹ mất vài đoạn vì sợ VC quá.
GCC thấy vậy, bèn
"hiệu đính".
Bây giờ tới
em này lại dịch lại một lần nữa, nhưng bằng 1 thứ tiếng Mít buồn cười
quá!
Ở hải ngoại,
có ba diễn đàn. Hậu Vệ và Da Mùi không rành tiếng Mít, Chợ Cá quá rành,
nhưng
toàn thứ cực độc, cực ác, phải dẹp tiệm, quay qua “lốc liếc”, nhưng
cũng không
khá!
Không thể nào
khá được, bởi vì cái độc nó tẩm vô người tới xương tới da, tới linh hồn
Bắc Kít
rồi, mà điều này là do nền giáo dục hận thù gây nên.
[Tới đây, mở
1 cái ngoặc: Người ta, trong có cả Naipaul, vẫn chê Borges không màng
tới thế sự,
chỉ mơ tưởng cõi thiên thu, bất diệt. Nhưng ông có mấy bài viết về Nazi
thật thần
sầu, trong có bài về giáo dục hận thù Do Thái của Đức. Ông phán, chính
cái thứ
giáo dục này đẩy nước Đức tới tội ác Lò Thiêu, chứ không phải chủ nghĩa
Nazi.]
GCC không
tin đám Bắc Kít thay đổi được.
Làm sao thay
máu?
Đâu 1 người,
mà cả một dân tộc.
Note: bài dịch
này, GCC coi lại, hóa ra là do đấng ký giả già Đinh Từ Thức dịch.
Tay này, một đời xài tiếng Việt, sao mà ẹ thế.
Tiếng Anh thì cũng ẹ. Tất nhiên.
Thì cũng thường
thôi, chẳng đáng để ý đến làm gì. Miễn đừng quá sai, lệch pha hẳn đi.
Nhưng vấn
đề là, 1 lần ông dịch sai, GCC khui ra, ông nhất định là ông dịch đúng;
ông dịch
từ bản tiếng Anh, nhưng đòi phải có bản tiếng Tầu để đối chiếu, tếu
thế! (1)
(1) GCC nhớ
lộn, 1 độc giả của DM, thuổng ý của GCC trên TV, bèn hỏi thăm ông, sức
mấy là ông ta
dám đối thoại với TV.
Thường, TV khui sai sót, mấy đấng như Thầy Cuốc [viết sai tên de
Beauvoir,
trên Blog VOA], hay DTBT [lầm “đủ” với “cần”] đều len lén
sửa, đếch cám ơn, cám iếc gì hết.
Có thể già mà ẹ, là do vậy.
Trang TV
dịch sai hoài, đầy sạn, nhưng GCC hơn người ở chỗ, chịu nhận sai sót,
chưa bao
giờ cãi chầy cãi cối, dù thích cả chầy lẫn cối!
Và rất mừng và biết ơn vị nào chỉ giùm sai sót.
Trân trọng
NQT
Nearly four
decades after the end of the Vietnam War, America's former foe is seen
globally
as a success story. It boasts a booming economy, a growing middle
class, and
thriving tourism and manufacturing industries. But as political reforms
transform Burma, Vietnam is in danger of becoming something else: the
most
repressive country in Southeast Asia. This week, prosecutors at a court
in Ho
Chi Minh City charged three Vietnamese bloggers for "conducting
propaganda
against the state," the latest in a series of arrests designed to
silence
a growing opposition movement.
Gần bốn thập
niên sau khi chiến tranh Việt nam chấm dứt, kẻ thù cũ của Hoa Kỳ được
thế giới
coi như một câu truyện thành
công. Nó tự hào về một
nền kinh tế bộc
phát, giới
trung lưu gia tăng, công nghiệp và du lịch phát triển. Nhưng trong khi
cải cách
chính trị thay đổi Miến Điện, Việt Nam trong nguy cơ trở thành thứ
khác: một nước
đàn áp hạng nhất tại Đông Nam Á. Tuần này, Viện Kiểm Sát Nhân Dân tại
một tòa
án ở Thành phố HCM truy tố ba bloggers Việt Nam về tội “tuyên truyền
chống nhà
nước”, là vụ mới nhất sau hàng loạt vụ bắt giữ để làm im tiếng phe
chống đối
ngày càng đông.
DTT
It boasts, nó
khoe khoang, thổi phồng, không phải tự hào.
GCC dịch:
Gần bốn chục
niên đã qua, kể từ khi chấm dứt Cuộc Chiến Mít, kẻ thù ngày nào của Mẽo
được
nhìn, một cách tổng quát, toàn cầu, như một câu chuyện của sự thành
công, qua
đó, là những thành quả được thổi phồng, bùng nổ về kinh tế, tăng trưởng
giai cấp
trung lưu, khách du lịch mò tới rất đông, và xưởng sản xuất mọc ra như
nấm.
Nhưng, khi những cải tổ chính trị đang chuyển đổi Miến Điện, Việt Nam
rớt vào
nguy cơ trở thành 1 cái gì khác, đếch giống hình ảnh thổi phồng trên.
Tuần này, mấy
đấng Trùm VC, ở tòa án TP Sài Gòn ngày nào được đổi tên thành Thành Nhà
Hồ,
giáng cho ba bloggers Mít tội “cầm đầu chiến dịch chống nhà nước”, một
trong những
cuộc bắt bớ mới nhất trong nhiều chuỗi bắt bớ, nhằm dẹp tắt, xóa sổ lực
lượng
chống đối ngày càng lớn rộng.
Hổ Khủng Khiếp VC
Terrble Tiger 2
"Vietnam
is starting to recognize that by continuing its crackdown on rights, it
invites
unwelcome comparisons with Burma as the worst human rights abuser in
ASEAN [the
Association of Southeast Asian Nations]," said Phil Roberson, deputy
Asia
director of Human Rights Watch.
Xứ Mít của
VC bắt đầu nhận ra rằng, nếu cứ tiếp tục quất túi bụi đám ly khai,
chống đối,
tiếp tục vờ nhân quyền, là càng làm nổi bật sự tương phản giữa Mít VC,
và Miến
Điện, và càng được gán nhãn, xứ chà đạp nhân quyền tồi tệ nhất trong
khối
ASEAN, như Phil Roberson, phó giám đốc khu vực Á Châu của tổ chức
Nhân Quyền,
phán.
[Câu này BCC
dịch tếu lắm: Ông Phil Robertson, phó giám đốc khu vực Á châu của
tổ
chức Human Rights Watch, nói: "Việt Nam bắt đầu nhận thấy rằng
với việc trấn áp của mình, họ đã khiến người ta so sánh một
cách
bất lợi với Miến Điện trong vai trò quốc gia vi phạm
nhân quyền
nghiêm trọng nhất khối Asean".]
“Tồi tệ nhất”,
không phải “nghiêm trọng nhất”, “the most serious”!
Từ “vai trò”
ở đây quá tếu!
GCC có 1 kỷ
niệm thú vị về từ “nghiêm trọng”, khi ở Trại Cấm Thái Lan, lần đi khám
sức khoẻ
để "tái định cư" Canada, do cơ quan y tế của UNHCR đóng “vai trò” đảm
nhiệm.
Trong khi tán gẫu với tay bác sĩ trưởng phái đoàn, [hình như Gấu Cái
còn nhớ tên,
vì Bả có viết về tay này, trong 1 truyện ngắn, về cú ông đụng độ với
đám quản giáo Thái Lan, cũng về "nhân
quyền" của đám tị nạn], GCC hứng lên, bèn khoe, tớ là nhà văn, ông ta,
mắt sáng rỡ,
phán, tao đang cần một nhà văn Mít!
GCC ngạc nhiên quá, hỏi, để làm gì, ông ta
bèn chìa ra 1 bản văn bằng tiếng Anh, về Aids, và đề nghị GCC dịch qua
tiếng Mít,
để sử dụng cho 1 cuốn video phòng ngừa Aids.
Đọc 1 phát, GCC chê, có 1 từ dùng sai,
hà, hà.
Ông ngạc nhiên quá, hỏi từ nào, GCC chỉ vô, từ “serious”.
Câu tiếng
Anh, như Gấu còn nhớ đại khái, Aids…
nghiêm trọng. Gấu phán, Aids… nguy hiểm,
mới đúng. Ông nghe ra, gật gù, đúng rồi, nguy hiểm chết người, nghiêm
trọng cái
con khỉ, hà, hà!
Đàn áp chính
trị thì là chuyện cũ mèm ở Việt Nam. Kể từ khi Sài Gòn thất thủ, Đảng
VC chơi
luật bàn tay sắt. Nhưng những năm cô lập do Cuộc Chiến Tranh Lạnh, sự
thiếu vắng
một thế lực chống đối được tổ chức ở trong nước – chưa kể mặc cảm tội
lỗi của Tây
Phương về cuộc chiến, cảm tình của phe tả, của đám bợ đít VC – khiến
rất ít người
quan tâm đến cái hồ sơ nhân quyền thảm hại của xứ Mít VC. Khi VC mở cửa
về kinh
tế vào những năm 1990, những nhà đầu tư ngoại quốc, và đám bỏ chạy ùa
vô/bò về, quốc tế
trở nên mù lòa vì phép lạ kinh tế Mít VC. Xứ Mít VC đi từ một trong
những nước
nghèo nhất thế giới vào giữa thập niên 1980, với bình quân đầu người
dưới 100 đô, tới Hổ Á Châu với bình quân 1,130 đô vào cuối năm 2010.
Hiện sinh vs Cơ cấu luận
GCC có nhớ từng
viết gì về cơ cấu luận và đăng tờ nào không? Thời ấy GCC đọc Trần Thiện
Đạo về CCL
không?
TTD, tôi chỉ
đọc ông ta khi dịch Sa Đọa. Ông này
mà văn chương cái con khỉ gì.
Lạ, là làm
sao mà ông ta lại chọn đúng cuốn Sa
Đọa để dịch?
Không lẽ ông ta đã ngửi ra cái
thân phận 1 tên bỏ chạy cuộc chiến, trốn qua Tây, và tự rủa xả mình,
như nhân vật
của Camus?
Vô lý quá! (1)
Hồi đó đó,
TTD, đám học trường Tây, như Mít Butor mà GCC bé cái lầm, cứ đinh ninh
“bạn quí”,
hay những đấng giáo sư Triết… đều được Xìn
Phóng, tức TPG, “biệt nhãn”, so với GCC.
GCC vẫn còn nhớ cái nhìn khinh khỉnh của
TPG khi thấy Gấu cầm cuốn Lịch sử và
Ý thức giai cấp của Lukacs, cậu mua thứ này
tính nhát ma ư?
Cũng cái nhìn
đó, là của Mít Butor, mỗi lần ghé Quán Chùa, nhưng Gấu lại không nhận
ra, vì
nghĩ, "bạn quí" vốn thế!
Ui chao phải
đến khi về già, nhìn lại, thì GCC mới thật sự cám ơn ông Giời, cho mình
được đi
học, mà học trường Mít.
Nếu không, thì cũng như lũ mất gốc đó rồi.
Bởi vì, bạn
chỉ có thể học ngoại ngữ để rành tiếng mẹ đẻ của bạn.
Một khi bạn học
ngoại ngữ,
để mong đặc quyền, cơ hội... là vứt đi.
Tất cả cái đám tinh anh hồi đó, học
tiếng Tây,
chỉ để mong có dịp bỏ chạy.
Đó là sự thực.
GCC học tiếng Tây chỉ để mong sẽ có ngày viết được 1
cái thư bằng
tiếng Tây, cám ơn 1 ông Tây thuộc địa, chồng bà cô của Gấu, Cô Dung,
một me Tây,
nhờ ông chồng của bà cô - GCC còn nhớ cái nick của ông, Ông Tây - Gấu
có cơ
hội đi học.
Thế rồi khi biết tiếng Tây rồi, thì mới đọc hiện sinh, đọc Camus, đọc
Sartre, đọc Lukacs, đọc Lefebvre, đọc
Nguyễn Đình Thi… là để tìm ra lời giải cho cuộc chiến.
Nhờ đọc
Koestler mà
thoát được nọc độc CS.
Nhưng chỉ đến khi đọc Barthes, đọc cơ cấu luận, thì mới
thoát ra được cái thứ văn chương dấn thân, xuống thuyền, viết cho ai…
Nhờ
Barthes mà Gấu hiểu ra được, "viết như thế nào" mới là vấn đề.
(1)
NB 2. Có một câu nói ác, bảo
Camus là triết gia của học sinh cấp
ba, và Cioran bảo văn chương Camus là thứ văn chương tỉnh lẻ :p (đồng
thời
Sartre chẳng có gì đáng quan tâm cả). Cioran cũng là một cục đen hiểm
ác, cực
hiểm ác.
Blog NL
Không phải 1 câu, mà
1 cuốn
sách:
Camus, philosophe pour
classes terminales
Sự kiện Cioran không
khoái
Camus, thì cũng đúng thôi, vì 1 bên là mặt trời, 1 bên là đêm đen; cả
chuyện
coi ông là triết gia của lớp chót bậc TH cũng đúng, vì cái thái độ đạo
đức của
ông, chỉ đám học sinh may ra còn chịu nổi, hay tin được.
Điều làm GNV điên cái
đầu,
là, cái ông Tẩy mũi tẹt, tại làm sao lại chọn cuốn La Chute để
dịch ?
Chỉ đến khi thấy ông
ta
"về", và phán nhảm, thì Gấu mới vỡ ra là Người chẳng có thú tội gì
hết :
Sự thú tội của
Clamence vẽ lên chân dung 1 con người bị cắn rứt bởi tuyệt vọng,
tội lỗi và ân hận vì đã vờ 1 em tự trầm.
Nhưng Clamence còn đưa 1 tấm gương cho những người muốn dòm vào
đó, theo
cái kiểu mà Nguyễn Huệ của NHT đã từng làm :
Hãy nhét cứt vào miệng chúng, để chúng nhận ra thân phận của chúng.
Trong NHT có cả ba,
Clamence & Tướng Về Hưu & Nguyễn Huệ, là vậy !
Hà, hà !
1956: Cuộc chiến Mít chưa hứa
hẹn những điều khủng khiếp, và ông
Tẩy thì chắc cũng mới chuồn qua Paris, hẳn thế?
Với riêng Gấu, phải đến khi ra được hải ngoại, thì mới nhìn ra sự thân
quen
giữa Clamence và Tướng Về Hưu!
Sa Đọa gióng lên hồi chuông báo
tử cho những kẻ tưởng là giải
phóng, hóa ra là ăn cướp, tưởng xây dựng thiên đàng, hóa ra địa ngục,
là 1 nước
Mít hậu chiến.
GNV
Mô phỏng:
La Chute sonne comme un adieu
de l'auteur à ses
propres illusions:
Sa Đọa gióng lên lời vĩnh biệt của tác giả với những
ảo mộng của chính
ông.
Face aux désordres et
à la
confusion du temps après 1975, j'ai pensé avoir déjà vécu toute
ma vie,
le temps qui me restait était quelque chose en trop, je ne me donnais
plus la
peine d'y penser. La désillusion était totale. En 1975, le
nouveau régime
m'envoyait en camp de rééducation avec mes amis « de la même fête et
dans le
même bateau », nous quittions la plaine pour les monts avec calme et
indifférence,
sans désespoir et sans espoir.
J'ai pensé « disparaître » sans espoir de retour, pourquoi pas comme le
déchet
emporté par l'inondation de l'histoire. Mais je me trompais.
Đối diện với
hỗn loạn,
tình trạng mơ mơ hồ hồ thời gian sau 1975, tôi có cảm tưởng đã sống hết
đời
tôi, quãng còn lại chỉ là dư thừa, tôi chẳng để ý tới nữa. Ảo vọng là
hoàn
toàn. Năm 1975, chế độ mới đưa tôi đi trại cải tạo, cùng với bạn bè của
tôi,
"cùng hội, cùng thuyền"; chúng tôi rời đồng bằng lên vùng rừng núi,
dửng dưng, bình thản, không tuyệt vọng cũng không hy vọng. Tôi đã nghĩ
mình
"biến mất", chẳng mong ngày trở lại, như bọt bèo trong cơn lũ lịch
sử, tại sao không. Nhưng tôi đã lầm.
TTT: La poésie entre la guerre et le camp
Thơ giữa chiến tranh và trại tù
Ui
chao, chẳng lẽ đây là giấc đại mộng của những anh nhà quê Bắc Kít,
những anh Cu
Sài, xẻ dọc Trường Sơn, hy vọng vô được nước Xề Gòn, kiếm tí chiến lợi
phẩm, về
làng cũ, xây cái nhà gạch nho nhỏ, sửa sang phần mộ cho ông cụ, cưới
một em ở
Xóm Đoài, Xứ Đoài mây trắng lắm?, và cái anh chàng Tướng Về Hưu, Jean
Baptiste
Clamence, sau khi xây dựng xong Địa Ngục, bèn đi vào miền Sa Đọa, The
Fall,
tên một tác phẩm của Camus, sám hối, và trong một khoảnh khắc trầm
thống, rống
lên như một con quỉ, Quỉ Bắc Kít, trong một cuộc độc thoại nội tâm:
“Ôi, mặt trời Bắc Kịt, ôi bãi biển Đồ Sơn, ôi những hòn đảo Hạ Long của
những
trận gió thương mại, ôi những hồi ức của thuở thanh niên, chúng mới làm
cho đám
Bắc Kít chúng ta chán chường làm sao!”
[‘Oh, sun, beaches, islands of trade winds, memories of youth that make
us
despair’].
Cái mẩu tóm tắt La
Chute,
trên, là từ số đặc biệt về Camus, của tờ ML, hors-série. Tờ này
làm tới
hai số, hoặc có thể hơn, về Camus, vì GNV có hai số về Camus. (1)
On 'As I Lay
Dying'
Về "Khi
tôi nằm hấp hối"
La Condition humaine
Phận
Người
Malraux không
có mặt ở Thượng Hải khi biến động bùng ra, với những sự kiện được ông
mô tả, hay
đúng hơn, phịa ra, nhung ông ở Canton [Quảng Đông?], khi xẩy ra vụ đình
công vào
năm 1925, và là bạn và người “cộng tác”, collaborator [chúng ta không
biết “cộng
tác” tới mức nào] của Borodin, đặc sứ của Comintern, Quốc tế CS, [nói
một cách
khác, của Stalin], để cố vấn phong trào CS Tẫu. Điều này hiển nhiên
giúp cho ông
chuyên chở, cảm nhận, ý nghĩa của từ “sống”, trong “kinh nghiệm sống”,
lived
experience, ở trong cuốn tiểu thuyết, khi ông mô tả, theo nghĩa, nhớ
lại, những
cuộc tấn công trên đường phố.
Từ cái nhìn ý
thức hệ, Phận Người rõ ràng là phò Cộng
[unambiguously pro-Communist]. Tuy nhiên, nó không có tính Stalinist,
mà đúng hơn,
Trotskyist, bởi vì 1 cách công khai, cuốn sách kết án những mệnh lệnh
từ
Moscow, đặt để ra cho những người CS Tẫu, bởi những tên thư lại của
Quốc Tế CS,
hãy trao khí giới của họ cho Tưởng Giới Thạch, thay vì cất giấu để bảo
vệ, khi
Quốc Dân Đảng trở cờ. Chúng ta đừng quên là khi những giai đoạn này xẩy
ra ở
TQ, thì ở Liên Xô đang có cuộc lèm bèm lớn, great debate, giữa những
người theo
Xì, và những người theo Trốt-ky, giữa Cách Mạng thường trực, và chủ
nghĩa CS, và
nó trở nên thật dữ dằn, và đã bắt đầu xẩy ra những vụ làm cỏ đám Trốt
Kít.
Nhưng 1 cách
đọc ý thức hệ, hay có mùi chính trị sẽ làm mất đi điểm chính: rằng, cái
thế giới
mà cuốn tiểu thuyết sáng tạo ra, trong chi ly chi tiết như thế đó, thì
mắc nợ
nhiều ở sức tưởng tượng và sức mạnh quằn quại, co giật convulsive force
[bỗng
nhớ đến những hình ảnh như “vết thương dậy thì”, “hơi thở rướn cong”
của nữ văn
sĩ Túy Hồng, hay beauté convulsive, của
Linda Lê (2)],
của câu chuyện [tale], hơn là những thời kỳ lịch sử mà nó sử dụng như
chất
liệu thô [its raw material]
Nó, Phận Người,
không giống một cuốn tiểu thuyết cho lắm, nhưng lại giống một bi kịch
cổ điển lồng,
khảm, cấy, ghép vô [grafted on] đời hiện đại. Một nhóm đàn ông (và một
người đàn
bà đơn, a single woman, May, một người mà trong thế giới thiết yếu ghét
đờn bà
của Malraux - sực nhớ đến câu của Gide, thế giới của Malraux đếch có
đàn bà trẻ
con và tiếng cười – thì chỉ được phác ra, như 1 cái bóng, chỉ sáng sủa
hơn 1 tị,
so với Valéry và những em bướm tạo nên một phần của cái nền) từ những
miền khác
nhau của thế giới, đứng dậy, nhìn thẳng vào mặt kẻ thù hơn họ, để, bằng
những từ
của Kyo, “đem trả lại phẩm giá” cho những người mà họ chiến đấu cho họ,
nhân
danh họ [“give back dignity” to those that they are fighting for],
những kẻ khốn
khổ, thất bại, bị khai thác, bóc lột, những nô lệ dân quê hay thợ nhà
máy.
Trong cuộc chiến đấu đó, qua đó, họ bị đánh bại, và tiêu trầm, perish,
Kyo,
Chen, và Katow vươn tới một mặt phẳng đạo đức cao hơn, hoàn tất một sự
cao cả,
nó diễn tả “phận người”, trong cái dạng kiểu mẫu tuyệt vời nhất, bảnh
nhất của
nó, “the human condition” in its most exemplary form.
Koestker
by Steiner
Elfriede
Jelinek
Lolita
vs BHD
Cali
Tháng Tám 2011
Văn chương
và Đạo đức
Le moi est
haissable, dites-vous. Pas le mien.
Cái tôi thì
đáng ghét, bạn quí phán.
Cái tôi của
GCC đếch đáng ghét!
Hà, hà!
Note: Mò…
cái sẹo không thấy, sao lại lòi ra bài này!
Thần sầu! Cực tếu!
Mẹ tôi và
Ionesco
Hãy để những con tê giác ở ngoài cửa
Bạn quí của
GGC gọi điện thoại, và Gấu chưa biết tại làm sao thì cả hai bèn nhớ
tới....Chesterton: “Nếu chúng ta không thể yêu anh thợ hớt tóc của
chúng ta (mà chúng
ta đã gặp) làm sao chúng ta có thể yêu đám Nhật Lùn, mà chúng ta chưa
từng
gặp?”
Thế là cả
hai cười vỡ bụng, và rồi chào hỏi, gút bai, rồi để điện thoại vô chỗ
của nó.
Cuộc
trò chuyện vừa chớp nhoáng vừa phi lý, kết thúc như thế đó.
Không lẽ bạn quí gọi
điện thoại để nói về những ông thợ cắt tóc, những người chuyên nắm đầu
nắm cổ thiên hạ
[cái này thì liên quan đến Thánh địa lý, Tả Ao, một lần lang thang tới
một làng
kia, và khi dân làng biết, bèn năn nỉ ông để mả cho ông tổ làng, sao
cho con cháu
sau này thành đạt, chuyên nắm đầu nắm cổ, thế là ông bèn cho cả làng
làm nghề cắt
tóc!]
Pleiku
Có
hai nơi, ở Việt Nam, Gấu chưa được “đi”, là Hội An, và Pleiku. Nhiều
nơi chưa
đi, như Qui Nhơn, thí dụ, nhưng chỉ thèm, tự hỏi, và tự trách mình, tại
làm sao mà chưa “đi”
Pleiku và
Hội An.
Huế cũng chưa, nhưng lại có 1 kỷ niệm thật
thê luơng về Huế. Lần bỏ
chạy quê
hương, trên đường từ Sài Gòn tới Lao Bảo, có nghỉ 1 đêm ở Huế. Buổi
chiều, xe
chạy trên 1 con cầu, ngó xuống, thấy xa xa, 1 anh chạy xích lô, dừng
cái xế, chìa cái tay ra cho 1 anh bán ken chích cho 1 phát.
Ui chao, nhớ hoài.
Ði, ở đây, có
1 “gia nghĩa”, connotation, thật thú vị, và liên quan tới 1 nhà thơ,
bạn của Gấu
từ hồi còn đi học. Anh học sư phạm, ra trường, được bổ về Pleiku. Tuổi
trẻ, xa
nhà, làm thơ, sống rất bụi, chẳng có tí giáo sư nào trong cách sống cả.
Nghe
truyền tụng, giường anh nằm, nơi nhà trọ, chăng đầy nội y của bướm. Mỗi
1 lần đi
là xin bướm nội y về treo quanh giường làm kỷ niệm. Một lần có 1 anh
bạn, trưởng
1 cái tầu hải quân, ghé thăm. Thì lại rủ đi thăm bướm. Trong câu chuyện
anh có
nói cho anh bạn biết, học trò tao có 1 em làm nghề này, 1 lần tao gặp,
thầy trò
đều ngượng. Anh trưởng tầu vô ý kể lại cho 1 anh bạn, dân Pleiku. Anh
này lại
có 1 đứa
con gái học ông thầy, thi sĩ cà chớn.
Thế là ầm
lên.
Ông bạn nhà giáo thi sĩ sau phải đưa đi tỉnh khác.
Tribute to Carlos Fuentes
Tribute to Horst Faas
Thơ Mỗi Ngày
Bi Khúc Bốn
Tháng Sáu
Bi Khúc 3 [nguyên tác]
Memory
Under house
arrest with the Public Security Bureau
in the
northwest outskirts of Beijing, 613/1995
Sixth
anniversary offering for 6/4
1
Late in the
night
suspended
at
a sheer edge
So often
woken up
wanting
to
see what clearly
So often
sleep's like facing an abyss
Thick fog
spreads within the body
gentle
wind,
intermittent flash
a needle
migrates through the veins
stitches
together scattered fragments of words
Ideals'
threads destroyed
like
lovers
torn apart
betrayed
by
one another's reproaches
30.4.2012
They Ate Their Sleep
Họ đợp giấc
ngủ của họ
ZEPPELIN
Herta Muller
Even inside the Zeppelin, love had its
seasons. The
wildcat weddings came to end in our second year, first because of the
winter and later because of the hunger. When the hunger angel was
running rampant during the skin-and-bones time, when male and female
could not be distinguished from each other, coal was still unloaded at
the silo. But the path in the weeds was overgrown.
Purple-tufted vetch
clambered among the white yarrow and the red orache, the blue burdocks
bloomed and the thistles as well. The Zeppelin slept and belonged to
the rust, just like the coal belonged to the camp, the grass belonged
to the steppe and we belonged to hunger. _
GRANTA,
Spring, 2010
Sex
Note:
Tờ Granta, số mới nhất, sex, có truyện ngắn trên.
Làm Gấu nhớ một truyện ngắn của Thảo Trường, viết về cuộc tình qua hàng
rào giây kẽm gai, ở trong tù, giữa một nữ và nam tù nhân. Làm nhớ Nhà Hội của Amis.
Và nhất
là, làm nhớ cú "sex" ở trại tù Đỗ Hòa!
Nhưng
cái xen, hàng đêm Đức Quốc Trưởng phải hì hục tiếp các cháu gái ngoan,
đứng xếp hàng chờ tới lượt, mới thú!
Nó làm nhớ đến mệnh lệnh của Bắc Bộ Phủ, gởi tới đám tập kết, năm 1954,
mỗi anh phải làm một em Miền Nam mang bầu, trước khi ra
Hà Lội trình diện Bác!
Nhớ
nhắc Bác cạo râu đấy nhé:
Send the Fuhrer a telegram that he better shave first.
Cháu có mắc
tiểu không? Để Bác chỉ chỗ cho mà tiểu
(1)
Cái tay Đại
Gìáo Sư VC, [theo ông cậu, Cậu Toàn của GGC, thì hai người cùng promo,
hình như
cùng lớp], NDM, viện Dos để giải thích “cas” này.
Theo GCC,
không phải.
Phải muợn
Freud.
Hay muợn ca
dao:
Ngày thì Bác
Hát là Thần
Đêm thì Bác Hát
tần mần như Ma!
“Bác” lúc
nào cũng tơ tưởng chuyện đó, cho nên, bất thần, phọt ra.
Bởi vì, nếu bình thường, nếu là 1 người chăm lo đến cái phần tỉ mỉ
của cá
nhân con người, thì Bác sẽ phán, “Cháu có cần nghỉ ngơi, vệ sinh cá
nhân thì để
anh cận vệ của Bác hướng dẫn”.
Đại khái thế.
Cũng thế, là cas Bùi Tín,
“Chúng mày còn cái đéo gì nữa mà bàn giao”!
Lúc nào anh này cũng tơ tưởng chuyện làm thịt Miền Nam.
Cũng thế, là Võ Tướng Quân.
Trường hợp Bác
H, GCC cũng đã từng gặp, nhưng không đến nỗi tục tĩu như của Bác. GCC
cũng
đã lèm bèm
đôi lần rồi, và nó liên quan tới cái sẹo ở cổ tay “cô bạn”. Vào những ngày đầu mới tới xứ lạnh, không biết
GCC nghe qua ai kể những ngày đầu khi gia đình của cô được một cơ quan
thuộc
Nhà Thờ bảo lãnh qua, rồi tất tả hội nhập, tất tả kiếm việc, đi
làm, công việc chân
tay chắc
cũng nặng nề, và cái gân ở cổ tay bị nhão, bị chùng, phải giải phẫu…
Thế là cứ
mơ tưởng so sánh hoài, bàn tay ngày nào khi còn là nữ sinh viên con nhà
giầu, lỡ
thương đúng thằng chồng cô bạn thân, và bàn tay khi lưu vong... Mơ
tưởng
hoài, thế là đêm nằm, lầm tay vợ đang nằm kế bên với tay cô bạn,
thế là mò
mò cái sẹo
ở cổ tay, chẳng thấy đâu, thế là bèn buột miệng la, như Bác H buột
miệng, cái sẹo
đâu rồi!
Ui chao, cái
bà bạn của cả hai bà, từ hồi còn học tiểu học, trường Đốc Binh Kiều,
Cai
Lậy, cái
bà nghe kể "5 năm trời không dám đụng", bèn bĩu môi, làm sao biết ma ăn
cỗ, nhưng
khi nghe kể chuyện cái sẹo thì lại gật gù, giả như mà tui gặp được 1
người đàn ông
thương tui như thế, thì cũng bõ 1 đời nhan sắc!
Hà, hà!
TTT 2012
Ghi
chú
trong ngày
On 'As I Lay
Dying'
Về "Khi
tôi nằm hấp hối"
La Condition humaine
Phận
Người
Malraux có
viết: "Người ta không thể nào viết lại một quyển tiểu thuyết."
Tôi không tin như thế.
.....
Mười
bẩy năm đã qua.
Kinh nghiệm dạy cho tôi là lời của Malraux đúng. Tôi đã loay hoay quá
lâu với một
quyển sách. Lần này tôi quyết định đề là ấn bản chung quyết.
Tôi hiểu đã đến lúc nên viết những quyển sách khác.
Tháng
3 – 73
THANH TÂM TUYỀN (1)
Khi
đọc Bếp Lửa,
1973, GCC dựa vào kinh nghiệm đọc Lukacs. (1)
Một đời đã…
gần qua, nhìn lại, GCC tự hỏi, liệu có ai đọc Lukacs?
Mít chắc
không, nhưng, liệu có nhà văn nhớn nào, của thế giới, đọc Lukacs,
phương pháp,
lý thuyết của ông, như GCC đọc, và áp dụng nó vào 1 tác giả?
Có đấy:
Orhan Pamuk.
Trong bài Bạt
trong cuốn mới nhất của ông, "Tiểu thuyết gia ngù ngờ
vãi linh hồn", The naive and the sentimental novelist, ông nhắc tới G. Lukacs,
cuốn Lý Thuyết Tiểu Thuyết và
có ý định sử dụng nó vào những bài đọc, The
Norton Lectures, ở Harvard University.
Bài viết thú
lắm [bài viết nào cũng thú lắm],TV sẽ post, và dịch.
*
L’Express:
Nền đạo hạnh
nào, cho dù phiến diện, theo ông, chúng ta có thể tái xây dựng nó, cho
thế kỷ mới
mẻ này?
Steiner:
Thần học xưa
kia là chỗ dựa của nền văn hoá cao của chúng ta. Sau cùng, như chúng ta
thấy đấy,
chính thần học, hay giả thuyết về một Thượng Đế, đã củng cố những giá
trị, kể cả
những giá trị thẩm mỹ. Nhưng, nếu con người ngày một bớt tin tưởng thì
càng cần
phải tìm một nền đạo đức của con người, một nền đạo đức không có Thượng
Đế,
không có Mười Điều Răn, để giúp chúng ta. Phải tự nhủ với nhau, như thế
này:
"Con người đơn độc trên trái đất, cùng với loài vật, đó là tất cả những
gì
còn lại với con người." Nếu không có kiếp sau, có thể con người nên
sáng tạo
ra một nền đạo hạnh thế tục? Lại cũng vẫn những nhà văn lớn chỉ cho
chúng ta
con đường. Ở cuối tác phẩm Phận Người
của André Malraux, một trong hai tay Cộng sản, sắp sửa chết bằng một
cái chết cực
kỳ ghê rợn, đã nhường viên thuốc độc (cyanure) cho người kia, để giúp
cho anh
ta không phải chịu đau đớn. Anh đã hành động bằng một đạo đức, theo đó,
chính
con người phải trách nhiệm về cái phẩm giá tối hậu của con người. Chúng
ta có
những cái nền, những nhà tư tưởng về nỗi cô đơn trơ trọi của con người
không
Thượng Đế, lẽ dĩ nhiên, trong đó có những triết gia vô thần cổ điển
lớn. (1)
Tất cả những
cuốn tiểu thuyết của Malraux đều bảnh, ngon cơm, excellent. Tuy nhiên,
Hy Vọng, L'Espoir, dài quá, Những kẻ chinh phục, Les
Conquérants, Con đường
vương giả, La Voie Royale, và Thời Khinh Thị, Le Temps du
Mépris,
[bản tiếng Anh, An Age of Oppression], thì lại ngắn quá. Phận
Người
là 1 kiệt tác, xứng đáng được nhắc tới, kế bên tác phẩm của Joyce,
Proust,
Faulkner, Thomas Mann, hay Kafka, như là 1 trong những sáng tạo ngất
ngư con tầu
đi, sáng loà đến làm mù con mắt, one of the most dazzling creations,
của thời
chúng ta. Tôi phán điều này với sự xác tín của 1 kẻ đã đọc nó ít lắm
thì cũng nửa
chục lần, và, mỗi lần mỗi rùng mình khi tên khủng bố Chen cắm
lưỡi
dao vào nạn nhân đang nằm ngủ, và cảm động rơi nước mắt trước hành
động
hoành tráng, cao vời vợi của Katow, khi anh trao viên thuốc độc
cyanure
cho anh Tẫu trẻ tuổi, cũng bị kết án thiêu sống như anh ta, bởi
những tên
tra tấn của Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch.
Mọi thứ ở
trong cuốn tiểu thuyết thì đều tuyệt hảo: Câu chuyện kể sử thi, the
epic story,
với những gia vị là chất mùi mẫn, vãi linh hồn vào những lúc ngưng
nghỉ,
spiced with romantic
interludes, sự tương phhản giữa cuộc phiêu lưu cá nhân và những cuộc
lèm bèm ý
thức hệ; tâm lý và văn hóa đối nghịch của những nhân vật, và những hành
động điên
rồ của Nam tước Clappique, thì, như cú điểm xuyết của sự thái quá, và
phi lý –
hay là chúng ta có thể nói, cái sự không thể tiên đoán được, và tự do –
cú điểm xuyết, nếu thiếu nó, thì cuộc đời quá lô gíc, hay dùng từ của
Gấu Cà
Chớn, quá cà chớn, quá đơn điệu, hay, dùng toán học để mà giải thích:
sau điều đó,
thì là điều đó!
Nhưng trên tất cả, tính hiệu quả của thứ văn xuôi cà giựt
[syncopated] cứ thế mà xuội dần đi [pare-down] bắt người đọc luôn luôn
phải sử
dụng tới trí tưởng tượng để lấp đầy những khoảng trống,
chúng vờ
đi, đếch thèm để ý tới những cuộc đối thoại và những miêu tả của cuốn
truyện.
Phận Người dựa
trên một cuộc cách mạng thực, xẩy ra vào năm 1927 ở Thượng Hải, được
dẫn
dắt bởi Đảng
CS TQ, và đồng minh của nó, Quốc Dân Đảng, chống lại Những Người Của
Chiến
Tranh, Men of War, như tên gọi đám nhà binh chuyên quyền cai trị 1 nước
Tầu
chia rẽ lúc đó, một nước Tầu mà những thế lực Tây Phương toan tính biến
thành
thuộc địa với dân Tầu như nô lệ, bằng
sức mạnh, hay bằng tham nhũng. Một đặc sứ của Mao, Chu Ân Lai -
nhân vật
Kyo
trong truyện, một phần dựa trên nhân vật có thực Chu Ân Lai này -
dẫn
dắt cuộc
cách mạng. Nhưng không như Kyo, Chu Ân Lai không bị giết, và sau khi
đánh bại
chính quyền quân sự, Quốc Dân Đảng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo quay
qua chống
đồng minh của họ, là Đảng CS Trung Hoa, và, như cuốn tiểu thuyết mô tả,
đã tàn
bạo trấn áp đồng minh cũ của nó. Chu Ân Lai trốn thoát, gặp lại Mao,
đồng hành
với Mao trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh, và là cố vấn, kẻ uỷ quyền,
deputy, của
Mao trong suốt cuộc đời còn lại của ông.
Vargas Llosa
Koestker
by Steiner
Nobel 2004
Jelinek par ML
Elfriede
Jelinek ou la perte
de l'innocence
Jelinek hay sự mất ngây thơ
Có phải những
người sống là những người sống như chết, ù ù cạc cạc không? Toàn những
«phác
họa của
những người chết» không?
Sau các tội
ác của chủ nghĩa toàn trị của thế kỷ 20, và nhất là tội ác của Ðức quốc
xã,
chúng ta toàn là những người sống mà như xác chết, tôi còn dám nói như
thế. Khi
Adorno nói, thật là man rợ sau những gì xảy ra ở Auschwitz mà còn làm
được thơ,
tôi nghĩ, ông muốn nói đến hai chuyện: một chuyện, không thể nào làm
thơ, và
chuyện thứ hai, rằng Auschwitz phải được có mặt trong tất cả các thơ
văn được
viết sau Auschwitz. Không còn ngây thơ, cũng không còn những người sống
nữa. Ðiều
tôi quan tâm, gồm cả những phim ma đã khởi hứng cho tôi, là có một
người chết
mà họ không biết họ chết. Vậy, sau Hitler, chúng ta, dân của một dân
tộc phạm tội
ác (dù cho, trong trường hợp của tôi, xuất thân từ một gia đình Do Thái
có rất
nhiều nạn nhân), chúng tôi tất cả đều đã chết, chỉ có một điều là chúng
tôi
không biết chúng tôi chết.
Jenlinek par Obs
Bà thầy
pháp
trừ dâm
Elfriede
Jelinek, kaputt
"Winterreise",
le dernier ouvrage d'Elfriede Jelinek, accumule canards et fausses
notes.
Elle en veut
au monde entier... et s'y perd.
Par André
Clavel (L'Express), publié le 10/05/2012 à 10:30
Lolita
vs BHD
Âm
nhạc của trái cầu
Và rồi, cách
đây một năm, trong khi sửa soạn cho một chuyến đi xa, tôi lôi cái túi
đã lâu không
dùng tới, kể từ chuyến đi Úc, và tôi bỗng nghe thấy 1 âm thanh yếu ớt,
nhẹ nhàng,
như có ý trách
móc, rên rỉ, làm nũng, "đừng bỏ em một mình," “bàn chân ai rất
nhẹ, tựa hồn những năm xưa”, vọng về.
Già rồi, vãi...
linh hồn hoài, không sợ con nít nó cười cho ư?
Ðường Lippincott,
Toronto. Căn nhà bên kia đường, phía trước mặt, kế bên sân chơi của 1
ngôi
trường, là nơi tạm trú đầu tiên của vợ chồng Gấu.
Gặp lại cô
bạn ở đó. Cô tháo bao tay, bắt tay Gấu tự nhiên như người Hà Lội, nhưng
Gấu lại
nhớ đến cái lần cầm tay đầu tiên, trong 1 rạp chớp bóng Xề Gòn, khi
“sắp
sửa” đi lính,
[trình diện Trung Tâm Ba tuyển mộ nhập ngũ Quang Trung], được cô thương
tình nhận
lời đi ciné…
Thế là run lên như… con thằn
lằn đứt đuôi [hình ảnh này chôm của Kiệt, trong Một Chủ Nhật Khác, của TTT, khi
chàng
lên cơn sốt, chạy dưới mưa, vô Bưu Ðiện Ðà Lạt, đánh cái điện cầu cứu
cô học trò
Oanh, SOS, SOS!...].
Gấu Cái giận run lên…
Hà, hà!
|
|