|
July 11, 2012
Brodard ngày
nào
@ Lake
Huron, Canada Day
Happy
Birthday To U, Richie
5.7.2012
@ NMG's 1998
INTERVIEWER
Then you
don't draw your characters from life?
GREENE
No, one
never knows enough about characters in real life to put them into
novels. One
gets started and then, suddenly, one can not remember what toothpaste
they use;
what are their views on interior decoration, and one is stuck utterly.
No,
major characters emerge; minor ones may be photographed.
The Paris
Review
Ông chôm
nhân vật từ đời sống?
Không. Nhân vật nổi cộm bật ra từ.... hư không. Ba thứ lẻ tẻ có thể
chụp giựt từ
cuộc đời
Tiểu thuyết
"Mùa Biển Động" là một biến cố quan trọng trong nền văn chương Việt Nam
ở hải ngoại,
cần được chào đón xứng đáng, và cần được phân tích, thảo luận, phê phán
cặn kẽ,
bên ngoài cái vòng khen chê tùy hứng và lẩn thẩn, hay cuồng nộ theo
những định
kiến chính trị hay phe phái.
Đặng Tiến
Tác phẩm “Đường
Một Chiều”, nxb Nam Giao, Sài Gòn 1974,
của Nguyễn Mộng Giác, từng được giải thưởng của chính quyền Nguyễn Văn
Thiệu, Giải
thưởng Trung tâm Văn bút Việt Nam, năm 1974
Gió O
Note: Không
phải của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, mà là của PEN Việt Nam.
Thiệu làm gì
có giải thưởng.
Nếu muốn nói như vậy, thì phải nói là của VNCH, và người đẻ ra giải
thưởng này là Ngô Đình Diệm.
Như tôi nhớ mài mại, NMG năm đó tranh giải với Nguyễn Hữu Nhật, và bị
phe NHN
chơi nhiều đòn cũng khá nặng.
Sau này NHN viết cho Văn Học.
NMG coi như pha chuyện cũ.
GCC chẳng đã
chê NMG, đếch viết được truyện dài! Vậy mà sau viết cho VH hai năm
trường.
Ông
còn biểu GCC, ông “sáng tác”, bằng viết Tạp Ghi, tôi không làm được như
ông.
NMG không có
sự đố kỵ tài năng, khác hẳn đám bạn quí của GCC.
Đúng là theo
tinh thần câu của DT mà GCC viết về NMG, ngay từ khi ông còn sống,
chính
là vì sợ ông
nằm xuống rồi, thì không thể viết được nữa.
Đám ngốc cứ
nghĩ là GCC thù NMG!
Vả chăng,
người đời chỉ thích thổi. Viết đúng cũng đếch thích!
Phim này cũng
thật tuyệt. Gấu xem hồi còn nhỏ, và nhớ hoài. Trong có chi tiết thần
sầu, mà có
thể Kim Dung đã từng thuổng. Cái chi tiết mà nhờ nó, Ðoàn Dự khám phá
ra bí mật
sau núi Vô Lượng, tìm được đường vô hang động bí mật, gặp pho tượng mỹ
nhân giống
hệt em Vương Ngọc Yến, học được chiêu Lăng Ba Vi Bộ, sau truyền lại cho
Gấu Nhà
Văn, áp dụng vào những bài viết không ai lần ra cấu trúc của chúng!
Hà, hà!
Ðúng như thế,
một bạn văn, lần đầu đọc bài viết về Võ Phiến, cứ
lẩm bẩm, ông
này viết ngược ngạo, như thể lầm đoạn trên với đoạn dưới, rồi sau đó
lại lầm đoạn
dưới với đoạn trên, nhưng sau vỡ ra, lại khen tới chỉ, văn viết như tơ,
như lụa,
không biết làm sao mà lần…
[Nguyên văn:
Cấu trúc bài viết vừa rồi của chú dù chia phần rõ vẫn rất lạ. Lúc đầu
N. tưởng
bị lẫn đoạn. Đó là cấu trúc của thơ. Trong đó có những suy diễn rất
thích.]
Ui chao, lại
tự thổi!
Gấu sử dụng,
cũng cấu trúc đó, viết Một Chuyến Ði, được cả băng VH
khen là tuyệt chiêu, và
nhà "phê bình riêng" của băng chỉ đích danh, đây là chiêu
Lăng
Ba Vi Bộ của Kim Dung!
Tuyệt nhất,
là được 1 vị độc giả khen, bài viết tuyệt quá. ( 1) Gấu phổng mũi, post
liền
cái
mail, thế là vị này từ luôn Gấu. Không thèm mail nữa. Gấu hoảng quá,
không biết
chuyện gì xẩy ra, sau cùng vị này thương tình, đi 1 cái mail chót, ta
vẫn bình
thường, mi khỏi phải lo cho ta…
Tks, and
take care. Bye. NQT
Note: Vị độc
giả, thương tình, mới mail...
Tks
NQT
(1)
"Mot
chuyen di" cua GNV hay qua. Nguoi trong nuoc cung dang viet hang loat
ve
Nguyen Tuan, nhung khong hieu sao, doc ho cu co cam giac nhu dang nghe
mot nhom
nguoi noi chuyen voi nhau trong mot... dam gio^~. Toi khong noi dieu
nay vi
do-ky gi dau, that long thoi.
… anh để bài
lung tung, mà viết cũng lung tung.
GCC kiếm 1
chi tiết, trên Tin Văn, mà còn chịu thua, đâu phải chỉ độc giả. Nhiều
lần gõ Google,
cũng không kiếm ra.
Thần sầu như
Gabo mà bi giờ còn lú lẫn, GCC nhằm nhò gì! (2)
Viết đã lung
tung, mà còn... tham, cùng 1 lúc viết, dịch chừng… vài
bài!
Gabo lú lẫn,
là do chữa trị ung thư, bị phản ứng phụ của thuốc, side-effect. Gấu, từ
hồi còn
nhỏ, đã sợ lú lẫn rồi, thành ra lấy Gấu Cái, cùng tên với BHD.
Cho chắc ăn!
Album
@ Lake
Huron, Canada Day
Thơ Mỗi Ngày
Chúng ta
cùng ở một tầng lớp mà ra. Chúng ta cũng là những người ra từ một phong
trào
thơ mới. Chúng ta bắt đầu cùng có mặt trong cuộc Cách mạng tháng Tám.
Ngày nay
hầu hết những nhà thơ cũ thờ ấy đều đã sống lại, trưởng thành: Xuân
Diệu, Tế
Hanh, Huy Cận, Anh Thơ, Lưu trọng Lư, Nguyễn xuân Sanh, Huyền Kiêu. Ít
nhiều
chúng tôi đều có cái tự hào đã đóng góp gì cho thơ, cho dân tộc.
Chế Lan Viên
viết về Vũ Hoàng Chương [Blog NL]
(1)
Tình cờ, GCC
lướt Blog Tin Văn, gặp bài này, của Gấu, tất nhiên:
Dân tộc nào?
Bạn hỏi tôi
về một xứ sở mà những chi tiết về nó đã chạy khỏi tôi,
Tôi không nhớ
địa dư của nó, cũng chẳng nhớ lịch sử của nó.
Hay là tôi
nên viếng thăm nó, bằng hồi ức,
Chắc là nó sẽ
giống như một tình yêu đã qua,
Mà sau nhiều
năm, trở lại, trong một đêm, không còn thao thức
Vì đam mê,
Vì lo sợ
Vì tiếc nuối.
Tôi đã tới
tuổi mà một con người đi thăm trái tim chỉ vì lịch sự.
Đúng là một
bài thơ vừa tình mình, vừa tình nước "chẳng giống ai",
"uncompromising"]! Rushdie phán.
Đọc, Gấu lại
thèm nghe lại Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, khi ở Tù VC, mơ mòng nhìn
thấy
cái gạt nước xua đi nỗi nhớ!
Merde!
Cờ Tướng
CHESS
Jorge Luis Borges
I
In their serious corner,
the players
move the gradual pieces. The board
detains them until dawn in its hard
compass: the hatred of two colors.
In the game, the forms
give off a severe
magic: Homeric castle, gay
knight, warlike queen, king solitary,
oblique bishop, and pawns at war.
Finally, when the players
have gone in,
and when time has eventually consumed them,
surely the rites then will not be done.
In the east, this war has
taken fire.
Today, the whole earth is its provenance.
Like that other, this game is for ever.
II
Tenuous king, slant
bishop, bitter queen,
straightforward castle and the crafty pawn –
over the checkered black and white terrain
they seek out and enjoin their armed campaign.
They do not realize the
dominant
hand of the player rules their destiny.
They do not know an adamantine fate
governs their choices and controls their journey.
The player, too, is
captive of caprice
(the sentence is Omar's) on another ground
crisscrossed with black nights and white days.
God moves the player, he,
in turn, the piece.
But what god beyond God begins the round
of dust and time and dream and agonies?
-Translated
by ALASTAIR REID
ECHECS
I
Ils sont
seuls à leur table austere. Le tournoi
Alterne ses
dangers; lentes, les pieces glissent.
Tout au long
de la nuit deux couleurs se haissent
Dans le
champ agencé qui les tient sous sa loi.
Radieuse
magie où joue un vieil effroi,
Des destins
rigoureux et parés s'accomplissent :
Reine en
armes, brefs pions qui soudain s'anoblissent,
Fou qui
biaise, tour carrée, ultime roi.
Le rite se
poursuit. Il reste ; il faut qu'il reste
Même si le
pied branle à la table déserte,
Même quand
les joueurs seront cherchés en vain.
Le profond
Orient nous légua cette guerre
Dont la
flamme aujourd'hui fait le tour de la terre;
Et comme
l'autre jeu, ce jeu n'a pas de fin.
II
Tour droite,
fou diagonal, reine acharnée,
Roi
vulnérable, pions qu'achemine l'espoir,
Par les
détours fixés d'un ordre blanc et noir
Vous
cherchez, vous livrez la bataille obstinée.
Mais qui de
vous sent sa démarche gouvernée ?
La main ni
le joueur, vous ne sauriez les voir;
Vous ne
sauriez penser qu'un rigoureux pouvoir
Dicte votre
dessein, règle votre journée.
Le joueur, ô
Khayam ! est lui-même en prison,
Et c'est un
échiquier que l'humain horizon:
Jours blancs
et noires nuits, route stricte et finie.
La piece se
soumet à l'homme, et l'homme à Dieu.
Derriere
Dieu, qui d'autre a commencé ce jeu
De
poussière, de temps, de rêve, d'agonie?
J.L. Borges.
[Bản tiếng
Tây của IBARRA, Gallimard, 1970]
I
Ở cái góc nghiêm trọng của họ,
Những kỳ thủ di chuyển những quân cờ.
Cái bàn cờ cầm giữ họ tới sáng
Bằng cái la bàn cứng cỏi của nó:
Lòng thù hận giữa
hai màu cờ,
Một, cờ máu,
Và một, cờ ba que.
Trong cuộc chơi, là luật chơi,
Một ma thuật nghiêm ngặt:
Lâu đài Hô me, kỵ sĩ xám, nữ hoàng thiện chiến, hoàng đế cô đơn,
giám mục xiên xẹo, và những con tốt lao vào cuộc chiến
Sau cùng, khi những kỳ thủ đã
nhập cuộc,
Và khi thời gian đã thiêu đốt cả đám
Rõ ràng là chẳng cần gì đến những nghi thức
[Bàn giao cái con
khỉ, chúng ông lấy hết rồi,
Minh gà tồ còn gì
mà bàn giao?]
Ở phía Ðông, lửa chiến tranh
bừng bừng
Ngày hôm nay, trọn trái đất thuộc về nó,
Như cái khác, trò
chơi này là thiên thu, bất tận.
II
Hoàng đế tế nhị, giám mục xiên
xiên, nữ hoàng cay đắng,
Lâu đài thẳng thắn, và anh cu Sài láu cá –
Trên mảnh đất đen trắng của cái bàn cờ
Tất cả hăm hở tìm tòi, và sung sướng tận hưởng những chiến dịch…
Ðiện Biên, Mùa Hè Ðỏ Lửa, thí dụ.
Họ đâu có nhận ra,
Cái bàn tay thống trị của những thế lực quốc tế bửn thỉu,
Và hơn cả thế nữa,
Là những luật chơi của định mệnh.
Họ đâu có biết cái số phần cứng như gang thép,
Trấn ngự, cai quản những lựa chọn, và kiểm tra những hành trình của họ
Kỳ thủ kia ơi, mi thì cũng bị
cầm giữ bởi tính bất thường
(Câu này thuổng Omar) trên một mảnh đất khác,
Ðan chéo nhau bằng những đêm đen, và ngày trắng.
Ông
Giời di chuyển những kỳ
thủ, và tới luợt họ,
Di chuyển quân cờ
Nhưng Giời nào, ngoài Giời lại có Giời?
Thứ Ông Giời bắt đầu vòng luân hồi
Của bụi, thời gian, và những cơn hấp hối?
Note:
Bạn có thể đọc bài thơ này, và nhớ NMG.
Cả
hai cuốn trường thiên tiểu thuyết của ông, là đều lấy cảm hứng từ, và viết về, cuộc chiến bửn thỉu, với những nhân vật
- cũng bửn
thỉu - của nó. (1)
Chúng ta có 1 tên đao phủ, một tên nhà văn VC nằm vùng
[Ngữ, nghe nói, là từ NN mà ra].
Chỉ
thiếu 1 Nguyễn Huệ của Miền Nam
(1)
"Nói
chung, bộ trường thiên lấy khung cảnh thời Tây Sơn, thế kỷ 18 và khởi
đầu là sự
nghiệp của anh em nhà Tây Sơn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ và
chấm dứt
khi Nguyễn Huệ mất. Đây là thời gian có nhiều biến động. Quan trọng là
qua những
biến động đó, cái thử thách dành cho người đương thời, nhất là những
nho sĩ, những
người viết lách, những người có trình độ trí thức cao, phong phú lắm.
Mỗi người
một thái độ phản ứng khác nhau."
"Một thời đại mà tất cả biến động của lịch sử và cái phức tạp của đời
sống
hiện ra trọn vẹn, giống như những phức tạp hiện ra trong thời kỳ cộng
sản ở Việt
Nam vậy, giống nhau lắm. Và vì giống như vậy, thay vì trực tiếp viết về
cộng sản,
tôi chuyển qua hai thế kỷ trước viết về thời Tây Sơn. Có nhiều hoàn
cảnh mà tôi
suy từ thời mình bây giờ sang thời trước."
NMG
Realism,
in
a narrower sense, was a method of gaining reality for the novel. (2)
Canetti: Realism and New Reality
Chủ
nghĩa hiện thực, theo một nghĩa hạn hẹp, là
một phương pháp kiếm tí thực tại cho tiểu thuyết.
WISLAWA
SZYMBORSKA
1923-2012
Szymborska's
poetry is strongly influenced by modem science. She assumes that the
borderline
between us and the rest of nature is tenuous. On the other hand, she
knows that
our inveterate habits incline us to look at animals and insects with a
feeling
of our special privilege. Thence her ironic poem.
SEEN FROM
ABOVE
On a dirt
road lies a dead beetle.
Three little
pairs of legs carefully folded on his belly.
Instead of
death's chaos-neatness and order.
The horror
of this sight is mitigated,
the range
strictly local, from witchgrass to spearmint.
Sadness is
not contagious.
The sky is
blue.
For our
peace of mind, their death seemingly shallower,
animals do
not pass away, but simply die,
losing-we
wish to believe-less of awareness and the world,
leaving-it
seems to us-a stage less tragic.
Their humble
little souls do not haunt our dreams,
they keep
their distance,
know their
place.
So here lies
the dead beetle on the road,
glistens
unlamented when the sun hits.
A glance at
him is as good as a thought:
he looks as
though nothing important had befallen him.
What's
important is valid supposedly for us.
For just our
life, for just our death,
a death that
enjoys an extorted primacy.
Translated
from the Polish by Magnus J. Krynski and Robert A. Maguire
Czeslaw
Milosz giới thiệu
Thơ của
Szymborska ảnh hưởng nặng bởi khoa học hiện đại. Bà cho rằng đường biên
giữa chúng
ta và phần còn lại của thiên nhiên thì mỏng, mảnh. Mặt khác, bà biết,
con người
có thói quen nhìn xuống những sinh vật khác - loài vật và côn trùng
– với
vẻ kẻ cả của họ.
Từ đó, là bài thơ hóm hỉnh sau đây.
Nhìn từ bên
trên
Trên mặt đường
dơ dáy có một con ong chết.
Ba cái chân
nhỏ của nó thu gom lại thật là cẩn thận ở trên bụng
Thay vì một
cái chết - hỗn loạn, điêu tàn, hoang mang, nhược tiểu, da vàng [bạn tha
hồ phịa
thêm ra]… -
thì là một cái chết ngăn nắp,
gọn gàng, sạch sẽ….
Sự kinh hoàng,
ghê sợ của cảnh tượng thì được giảm thiểu đi, tối giản đi,
“chỉ có tính địa phương,
cục bộ, từ 'cỏ nội hoa hèn' cho tới 'bèo dâu
quen thói'…”
Cái buồn ở đây
thì không gây nhiễm
[Đếch có
chuyện “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”!]
Bầu trời thì
xanh.
Vì sự bình
an của tâm hồn của chúng ta,
cái chết của một con ong thì là cái thớ gì.
Loài vật thì
làm gì có chuyện "đi xa", chúng giản dị chết, mất đi
– chúng ta đành phải tin như vậy
-
thế giới, hay tí nhận thức về thế giới
Để lại – Có
vẻ như vậy đối với chúng ta – sàn diễn bớt bi thương
Những linh hồn
nhỏ bé, khiêm tốn… của chúng
không hành hạ, ám ảnh những giấc mơ của chúng ta.
Chúng giữ một
khoảng cách,
chúng biết chỗ, thân phận bọt bèo của chúng
Và thế là đây
là con ong nằm chết ở trên mặt đường
mặt trời chói
chang trên thân thể trần trụi của nó,
thế mà nó cũng
đếch thèm than thở!
Một cái nhìn
thoáng qua,
Thì tốt chứ
không có hại, cho tâm hồn của bạn
Với ý nghĩ
như thế này này:
Con ong nằm
chết như thể chẳng có số mệnh quan trọng mẹ gì giáng lên nó.
Cái gọi là
quan trọng thì chỉ quan trọng với lũ con người chúng ta
Cho cuộc đời
của chúng ta
Chứ không phải
cho cái chết
Thì cũng của
chúng ta!
Chết là hết.
Đừng quan trọng
nó quá nhe, Gấu Cà Chớn!
Cái ý chót,
Sébastien Chamfort có 1 câu thơ, được Beckett “không” dịch được [thuổng
ý của
Thầy Tiên Chỉ Xứ Mít, VP], ra tiếng Anh như sau đây:
Bi kịch có 1
cái cực khó chịu, cực bất tiện, về mặt đạo đức, đó là, nó đặt nặng sự
quan trọng
vào cuộc đời và vào cái chết.
Le théâtre tragique
a le grand inconvenient moral de mettre
trop d’importance à la vie et à la mort.
Bản tiếng
Anh của Beckett:
The trouble
with tragedy is the fuss it makes
About life
and death and other tupppenny aches.
Bạn thấy, có
sự "lệch pha" giữa hai câu thơ.
VP vin vào đó, phán, thơ đếch dịch
được, thơ dịch
đếch phải thơ, trong khi “cả nhân loại”, coi, cả hai đều là thơ, và, có
người
còn phán, họ là 1 cặp vợ chồng!
Note: Tập Collected, mua lâu
rồi, second-hand, nhưng cũng “bày đặt đọc”, mới
đây thôi.
Khi mua,
thì chỉ vì trong có bài thơ TTT thuổng, để viết về cô con
gái, được in trong Thơ Ở Đâu Xa.
Tập Selected, vừa mới tậu mua, cùng với
số báo Time đặc biệt Tưởng Niệm Marilyn
Tuyệt nhất
là mấy câu thơ Beckett, GCC cực mê, thấy ở bìa sau cuốn mới mua, cũng
“bắt chước”
GCC, đi 1 đường thổi um lên:
je suis ce cours de sable qui
glisse
entre le galet et la dune
la pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
et finira le jour de son commencement
cher instant je te vois
dans ce rideau de brume qui recule
où je n'aurai plus à fouler ces longs seuils mouvants
et vivrai le temps d'une porte
qui s'ouvre et se referme
my way is in the sand flowing
between the shingle and the dune
the summer rain rains on my life
on me my life harrying fleeing
to its beginning to its end
my peace is there in the
receding mist
when I may cease from treading these long shifting
thresholds
and live the space of a door
that opens and shuts
Samuel Beckett in Collected Poems in English & French. Grove Press.
Note: To K & O:
Dịch giùm.
Bản tiếng Tây theo tôi tuyệt
hơn bản tiếng Anh, cũng của Beckett:
la
pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
Mưa hạ mưa trên đời tôi
Trên tôi đời tôi chạy trốn tôi rượt đuổi tôi
Ui chao, sao mà tuyệt thế!
Lại nhớ mưa Sài Gòn!
Bài thơ trên, bạn phải đọc cùng với một bài viết cũ trên Tin Văn, mới
thú,
tuyệt thú.
Và luôn thể, với bài thơ, cũng của Beckett, sau đây.
Tôi
muốn tình tôi....
Je voudrais que mon amour meure
qu' il pleuve sur le cimetière
et les ruelles où je vais
pleuvant celle
qui crut m'aimer
Samuel Beckett
Bản tiếng Anh của chính tác giả:
I would like my love to die
and the rain to be raining on the graveyard
and on me walking the streets
mourning her who thought that she loved me
Bản của Gấu:
Gấu muốn tình
Gấu
chết,
Và mưa rơi trên nghĩa địa,
trên đường phố [Sài Gòn] Gấu đã từng
vừa đi vừa khóc
người
tưởng
rằng người yêu Gấu (1)
Neutrinos
Still faster than light
The Higgs
boson
Science’s
great leap forward
Bước nhảy vọt
vĩ đại của khoa học
After
decades of searching, physicists have solved one of the mysteries of
the
universe
Sau nhiều thập
niên tìm tòi, những nhà vật lý đã giải được một trong những bí mật của
vũ trụ
Những sự kiện
lịch sử nhạt nhòa đi theo mỗi thập kỷ. Những tiếng la thét, chính trị
hay kinh
tế, thì chỉ còn như những điểm sáng [như trên màn hình radar], trên con
đường tiến
bộ, như chúng thường là như vậy. Ngay cả những nỗi ghê rợn, khủng khiếp
của chiến
tranh thì cũng lên gỉ! Tuy nhiên, những định luật vật lý, thì thiên thu
vĩnh viễn
phổ cập. Làm sáng rỏ, giải thích chúng, là một trong những thành công
của nhân
loại.
Tuần này, con người được nhìn thấy 1 sự sáng tỏ thần sầu như vậy.
Vào ngày 4
Tháng Bẩy, những nhà vật lý làm việc tại Geneva, trung tâm CERN - một
trong những
trung tâm thí nghiệm vật lý phân tử vĩ đại nhất của thế giới - đã thông
báo, họ
kiếm ra được Higgs boson (coi bài viết).
Nói một cách
rộng rãi, vật lý phân tử đối với vũ trụ, thì giống như DNA đối với đời
sống. Giống
như sự khám phá ra cấu trúc của DNA, bởi Francis Crick và
James Watson vào năm 1953: Sự khám phá ra
Higgs làm rõ ra, điều sẽ không không thể hiểu được, nếu khác thế. Ý
nghĩa của nó
mới chất lượng làm sao [massive, bạn phải hiểu gốc của từ này, mass,
mới thú].
Nói rõ hơn, đếch có Higgs, là đếch có khối lượng, mass. Đếch có khối
lượng, là
đếch có những ngôi sao [thí dụ BHD, chẳng là 1… khối
lượng ư? Một toà thiên nhiên như Nguyễn
Du phán, hà hà!], không hành tinh, không phân tử, “atom”. Và tất nhiên,
đếch có
chúng ta!
Thực sự, sẽ đếch có lịch sử. Những phần tử không có khối lượng bị ‘trầm
luân’ bởi bùa chú của Einstein, tức lý thuyết tương đối của ông, về
chuyển động,
bảnh nhất
thì cũng chỉ bằng tốc độ ánh sáng. Điều này có nghĩa, với chúng,
quá khứ,
hiện tại và tương lai thì “mắm xốt” [même chose, same thing].
Bài trên, đọc
trên net, GCC sẽ dịch dọt sau, nhưng vưỡn bệ tờ báo giấy về, vì bài
điểm cuốn mới
ra lò của Vargas Llosa.
Cũng cần phải nói thêm: VL mê tay Casement này lâu rồi,
có thể cùng lúc mê cuốn Trái Tim Của
Bóng Đen, như trong bài viết của ông về cuốn
này, mà TV đang giới thiệu, Cội
Rễ Loài Người.
Nhưng phải về già, ông mới viết ra nổi câu chuyện của
1 vị anh hùng bi thương, và cũng còn là một câu chuyện đạo đức.
Casement có
rất nhiều tật xấu [ông là người đồng tính]; người dân Ái Nhĩ Lan chẳng
hề coi ông
là anh hùng cái con mẹ gì hết, và có thể cũng coi ông là 1 tên phản bội
như đám
Hồng Mao!
“Official
Inquiry Among Grains of Sand”
“Một
cuộc điều tra chính thức
giữa những
hạt cát”
Vang
Bóng Một Thời TSVC
Bi Khúc Bốn
Tháng Sáu
Phiên
Khúc 17
Thơ Dịch
Shape-shifting
For many
centuries, even millennia, the world got by without translation: the
people of
different nations simply learned enough of the next door language to
communicate adequately. Marco Polo used a mixture of languages to
describe his
travels, probably without realising that many of them were “foreign”.
It was the
widespread use of the printing press that changed all that. The nature
of words
began to acquire an (apparently) settled meaning. Dictionaries are
routinely
thought to be about the meaning of words. Yet, Mr Bellos says, the
concept of a
word itself is almost impossible to define. The French have two
distinct words
for “word”, parole and mot. And how, for example, do you treat a German
compound verb, or a Hungarian word formation which can incorporate a
whole
sentence? Are they words in themselves, or are they just separate words
stapled
together?
Trong nhiều nhiều thế kỷ,
thiên niên kỷ, thế giới cứ nhẩn nha mà đi, đếch cần dịch dọt: dân chúng
của những quốc gia khác nhau, “nói với nhau” bằng tay, và nếu cần lắm,
thì học vài ba tiếng, đủ để giao thiệp với ông bạn láng giềng, nói
tiếng khác với mình. Marco Polo dùng một thứ ngôn ngữ trộn trạo nhiều
ngôn ngữ, để diễn tả những cuộc du lịch của ông, và có thể ông chẳng
thèm để ý, rất nhiều thứ tiếng ông trộn trạo với nhau đó, là
“ngoại ngữ”.
Chính là cái thứ chữ in, máy in, thứ báo chí in và sự lan tràn của
chúng làm thay đổi tất cả. Bản tính của những từ bắt đầu đòi một cái
nghĩa (bề ngoài, có vẻ như) được xác định, đặt để. Từ điển ra đời là vì
vậy.
Tuy nhiên, ý niệm về nghĩa của từ thì vô phương định nghĩa. Tiếng mẫu
quốc của dân Mít ngày nào, tiếng Tẩy, có đến hai từ khác biệt, cho từ
“từ” [word], là “parole” và “mot”. Bởi vậy Mít cũng theo mẫu quốc:
chúng ta có hai từ “chuyện” và “truyện”, để chỉ cùng 1 thứ!
TTT 2012
Bếp Lửa trong văn chương
Le Magazine
Littéraire
Le Nobel Kenzaburô Ôé milite contre
le nucléaire au Japon
Nhà văn Noel
Nhật, Oé, xuống đường chiến đấu với nguyên tử lực ở Nhựt Bổn
Notes
de Fukushima aurait pu écrire Kenzaburô Ôé.
Ghi chú về Fukushima
đã viết ra Oé, không phải Oé viết nó.
Presque
cinquante ans après ses Notes
d’Hiroshima (1965) dans lesquelles il se penchait sur les souffrances
des
irradiés, le prix Nobel de littérature 1994 vient de signer une
pétition contre
la reprise de l’activité nucléaire au Japon, pétition qu’il a remise en
main
propre au premier Ministre Yoshihiko Noda.
Après l’accident
de Fukushima, en Mars 2011, l’ensemble des réacteurs nucléaires de
l’archipel
avaient été arrêtés pour des questions de sécurité. Mais la semaine
dernière,
deux mois après l’extinction du dernier réacteur, le gouvernement
décidait de
reprendre l’activité, suscitant l’ire des anti-nucléaires.
Déjà au
Salon du Livre de Paris, en mars dernier, Ôé avait insisté sur la
nécessité
d’une rupture, situant Fukushima dans la droite ligne d’Hiroshima : «
Les
Japonais ne devraient pas penser l'énergie nucléaire en termes de
productivité
industrielle » rapportait alors le journal ActuaLitté, citant ses
propos, « ils
ne devraient pas tirer de la tragédie d'Hiroshima une « recette » de
croissance. Comme les séismes, les tsunamis, et les autres catastrophes
naturelles,
l'expérience d'Hiroshima devrait être gravée dans la mémoire humaine.
C'était
une catastrophe bien plus dramatique que les désastres naturels,
justement
parce qu'elle est née de la main de l'homme ». Selon un sondage publié
par
l’organisme indépendant Pew Research Center, 70% des Japonais
interrogés sont
partisans d’une réduction ou d’un arrêt total de la production
d’énergie
nucléaire.
Thảm họa Nhựt
GCC xuống phố,
vớ cuốn trên cùng với 1 số báo Thế Giới Ngoại Giao trong có bài viết
“Một nhà
văn, một xứ sở”, về thảm họa động đất và sóng thần, 11 Tháng Ba 2011, ở
Nhựt.
Tác giả bài viết
Ikezawa Natsuki là tiểu thuyết gia Nhựt, đã từng đoạt giải thưởng
Akutagawa.
Câu văn Oé lấy
làm đề từ cho chuyến đi thăm Hiroshima:
Qui donc,
dans les temps à venir, pourra comprendre
[. .. ] qu'après avoir connu la lumière,
nous avons été amenés ainsi, de nouveau, à
basculer dans les ténèbres ?
SEBASTIEN
CASTILIAN
De arte
dubitandi (1562)
Kẻ nào,
trong số hậu duệ của chúng ta sẽ giải ra được nghi án thê lương sau đây:
Sau khi con
người biết ánh sáng, nó lại quay lại với bóng tối?
*
« Si un
accident entrainant la fonte du coeur
nucléaire se produisait à Tokaimura
ou à Fukushima, les dommages que devrait
supporter la société japonaise seraient
trop lourds » écrivait en 1993 le
romancier Ikezawa Natsuki dans « Une
fin joyeuse ».
Dans un
texte inédit, il tire les lecons de la
catastrophe. Une facon de saluer la littérature
japonaise, invitée du Salon du livre de
Paris, du 16 au 19 mars.
IKEZAWA
NATSUKI
Động đất và sóng
thần làm chúng ta tái khám phá ra mấy điều sau đây:
Thứ nhất, thiên nhiên đếch ưa con người. Nó có đó không phải để hớn hở
chào đón
con người. Thiên nhiên bất nhân coi con người như rơm rác!
Thứ nhì, con
người có khả năng làm lại. Ngay cả những đấng khóc lóc thảm thiết,
tưởng không
thể sống được, sau thảm họa, thì cũng có bữa thò tay ra dọn dẹp, nếu
đồng loại
cũng làm như vậy, tuy vẫn trông cậy ở sức mình.
Thứ ba, đừng
tin bất cứ nhà nước, nhất là nhà nước VC!
Thứ tư, tai ương
có khi là dịp để đổi thay.
Ghi
chú
trong ngày
Xử VC
Bị VC xử
Tôi sẽ không
bao giờ gột nổi thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan trong bức hình nổi tiếng
của Eddie
Adams ra khỏi trí nhớ….
PTH
The stories
surrounding the victim in Eddie Adams' execution photo differed. Lt.
Colonel
Loan had said that the man had killed many South Vietnamese and even
Americans.
Vietnamese photographers said that he was a traitor, working for both
sides -
the Vietcong and the South Vietnamese police. Others said he was a
small-time
Vietcong who had put on a fresh shirt hoping to slip away.
Thirty-two
years later, I met his widow, who still lived in their home in a
southern
Saigon suburb and mourned him. In a corner of the living room, behind
plastic
flowers, was a heavily retouched photograph of Nguyen Van Lam, who, as
a Viet
Cong, had the "secret name" (alias) Bay Lap. Yes, he had been a
member of the National Liberation Front, the Vietcong. He just
disappeared
shortly before the Tet Offensive, and never came back.
Eddie Adams'
photograph made him a martyr, but, no, she does not have and does not
want to
see the photograph of her husband's death. She will mourn Nguyen Van
Lam until
his body is found, she said in 2000, when the Vietnam government
celebrated the
25th anniversary of the end of the war.
The Saigon
Execution
October 2004
by Horst
Faas
Ghi 1/chet_vi_tinh.html
Note: Bài
đang hot!
Lạ thật! Làm
sao mà độc giả mò ra nó?
Cali
Tháng Tám 2011
2012
Brodard ngày
nào
@ NMG's 1998
INTERVIEWER
Then you
don't draw your characters from life?
GREENE
No, one
never knows enough about characters in real life to put them into
novels. One
gets started and then, suddenly, one can not remember what toothpaste
they use;
what are their views on interior decoration, and one is stuck utterly.
No,
major characters emerge; minor ones may be photographed.
The Paris
Review
Ông chôm
nhân vật từ đời sống?
Không. Nhân vật nổi cộm bật ra từ.... hư không. Ba thứ lẻ tẻ có thể
chụp giựt từ
cuộc đời
Tiểu thuyết
"Mùa Biển Động" là một biến cố quan trọng trong nền văn chương Việt Nam
ở hải ngoại,
cần được chào đón xứng đáng, và cần được phân tích, thảo luận, phê phán
cặn kẽ,
bên ngoài cái vòng khen chê tùy hứng và lẩn thẩn, hay cuồng nộ theo
những định
kiến chính trị hay phe phái.
Đặng Tiến
Tác phẩm “Đường
Một Chiều”, nxb Nam Giao, Sài Gòn 1974,
của Nguyễn Mộng Giác, từng được giải thưởng của chính quyền Nguyễn Văn
Thiệu, Giải
thưởng Trung tâm Văn bút Việt Nam, năm 1974
Gió O
Note: Không
phải của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, mà là của PEN Việt Nam.
Thiệu làm gì
có giải thưởng.
Nếu muốn nói như vậy, thì phải nói là của VNCH, và người đẻ ra giải
thưởng này là Ngô Đình Diệm.
Như tôi nhớ mài mại, NMG năm đó tranh giải với Nguyễn Hữu Nhật, và bị
phe NHN
chơi nhiều đòn cũng khá nặng.
Sau này NHN viết cho Văn Học.
NMG coi như pha chuyện cũ.
GCC chẳng đã
chê NMG, đếch viết được truyện dài! Vậy mà sau viết cho VH hai năm
trường.
Ông
còn biểu GCC, ông “sáng tác”, bằng viết Tạp Ghi, tôi không làm được như
ông.
NMG không có
sự đố kỵ tài năng, khác hẳn đám bạn quí của GCC.
Đúng là theo
tinh thần câu của DT mà GCC viết về NMG, ngay từ khi ông còn sống,
chính
là vì sợ ông
nằm xuống rồi, thì không thể viết được nữa.
Đám ngốc cứ
nghĩ là GCC thù NMG!
Vả chăng,
người đời chỉ thích thổi. Viết đúng cũng đếch thích!
Phim này cũng
thật tuyệt. Gấu xem hồi còn nhỏ, và nhớ hoài. Trong có chi tiết thần
sầu, mà có
thể Kim Dung đã từng thuổng. Cái chi tiết mà nhờ nó, Ðoàn Dự khám phá
ra bí mật
sau núi Vô Lượng, tìm được đường vô hang động bí mật, gặp pho tượng mỹ
nhân giống
hệt em Vương Ngọc Yến, học được chiêu Lăng Ba Vi Bộ, sau truyền lại cho
Gấu Nhà
Văn, áp dụng vào những bài viết không ai lần ra cấu trúc của chúng!
Hà, hà!
Ðúng như thế,
một bạn văn, lần đầu đọc bài viết về Võ Phiến, cứ
lẩm bẩm, ông
này viết ngược ngạo, như thể lầm đoạn trên với đoạn dưới, rồi sau đó
lại lầm đoạn
dưới với đoạn trên, nhưng sau vỡ ra, lại khen tới chỉ, văn viết như tơ,
như lụa,
không biết làm sao mà lần…
[Nguyên văn:
Cấu trúc bài viết vừa rồi của chú dù chia phần rõ vẫn rất lạ. Lúc đầu
N. tưởng
bị lẫn đoạn. Đó là cấu trúc của thơ. Trong đó có những suy diễn rất
thích.]
Ui chao, lại
tự thổi!
Gấu sử dụng,
cũng cấu trúc đó, viết Một Chuyến Ði, được cả băng VH
khen là tuyệt chiêu, và
nhà "phê bình riêng" của băng chỉ đích danh, đây là chiêu
Lăng
Ba Vi Bộ của Kim Dung!
Tuyệt nhất,
là được 1 vị độc giả khen, bài viết tuyệt quá. ( 1) Gấu phổng mũi, post
liền
cái
mail, thế là vị này từ luôn Gấu. Không thèm mail nữa. Gấu hoảng quá,
không biết
chuyện gì xẩy ra, sau cùng vị này thương tình, đi 1 cái mail chót, ta
vẫn bình
thường, mi khỏi phải lo cho ta…
Tks, and
take care. Bye. NQT
Note: Vị độc
giả, thương tình, mới mail...
Tks
NQT
(1)
"Mot
chuyen di" cua GNV hay qua. Nguoi trong nuoc cung dang viet hang loat
ve
Nguyen Tuan, nhung khong hieu sao, doc ho cu co cam giac nhu dang nghe
mot nhom
nguoi noi chuyen voi nhau trong mot... dam gio^~. Toi khong noi dieu
nay vi
do-ky gi dau, that long thoi.
… anh để bài
lung tung, mà viết cũng lung tung.
GCC kiếm 1
chi tiết, trên Tin Văn, mà còn chịu thua, đâu phải chỉ độc giả. Nhiều
lần gõ Google,
cũng không kiếm ra.
Thần sầu như
Gabo mà bi giờ còn lú lẫn, GCC nhằm nhò gì! (2)
Viết đã lung
tung, mà còn... tham, cùng 1 lúc viết, dịch chừng… vài
bài!
Gabo lú lẫn,
là do chữa trị ung thư, bị phản ứng phụ của thuốc, side-effect. Gấu, từ
hồi còn
nhỏ, đã sợ lú lẫn rồi, thành ra lấy Gấu Cái, cùng tên với BHD.
Cho chắc ăn!
@ Lake
Huron, Canada Day
Chúng ta
cùng ở một tầng lớp mà ra. Chúng ta cũng là những người ra từ một phong
trào
thơ mới. Chúng ta bắt đầu cùng có mặt trong cuộc Cách mạng tháng Tám.
Ngày nay
hầu hết những nhà thơ cũ thờ ấy đều đã sống lại, trưởng thành: Xuân
Diệu, Tế
Hanh, Huy Cận, Anh Thơ, Lưu trọng Lư, Nguyễn xuân Sanh, Huyền Kiêu. Ít
nhiều
chúng tôi đều có cái tự hào đã đóng góp gì cho thơ, cho dân tộc.
Chế Lan Viên
viết về Vũ Hoàng Chương [Blog NL]
(1)
Tình cờ, GCC
lướt Blog Tin Văn, gặp bài này, của Gấu, tất nhiên:
Dân tộc nào?
Bạn hỏi tôi
về một xứ sở mà những chi tiết về nó đã chạy khỏi tôi,
Tôi không nhớ
địa dư của nó, cũng chẳng nhớ lịch sử của nó.
Hay là tôi
nên viếng thăm nó, bằng hồi ức,
Chắc là nó sẽ
giống như một tình yêu đã qua,
Mà sau nhiều
năm, trở lại, trong một đêm, không còn thao thức
Vì đam mê,
Vì lo sợ
Vì tiếc nuối.
Tôi đã tới
tuổi mà một con người đi thăm trái tim chỉ vì lịch sự.
Đúng là một
bài thơ vừa tình mình, vừa tình nước "chẳng giống ai",
"uncompromising"]! Rushdie phán.
Đọc, Gấu lại
thèm nghe lại Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, khi ở Tù VC, mơ mòng nhìn
thấy
cái gạt nước xua đi nỗi nhớ!
Merde!
Cờ Tướng
CHESS
Jorge Luis Borges
I
In their serious corner,
the players
move the gradual pieces. The board
detains them until dawn in its hard
compass: the hatred of two colors.
In the game, the forms
give off a severe
magic: Homeric castle, gay
knight, warlike queen, king solitary,
oblique bishop, and pawns at war.
Finally, when the players
have gone in,
and when time has eventually consumed them,
surely the rites then will not be done.
In the east, this war has
taken fire.
Today, the whole earth is its provenance.
Like that other, this game is for ever.
II
Tenuous king, slant
bishop, bitter queen,
straightforward castle and the crafty pawn –
over the checkered black and white terrain
they seek out and enjoin their armed campaign.
They do not realize the
dominant
hand of the player rules their destiny.
They do not know an adamantine fate
governs their choices and controls their journey.
The player, too, is
captive of caprice
(the sentence is Omar's) on another ground
crisscrossed with black nights and white days.
God moves the player, he,
in turn, the piece.
But what god beyond God begins the round
of dust and time and dream and agonies?
-Translated
by ALASTAIR REID
ECHECS
I
Ils sont
seuls à leur table austere. Le tournoi
Alterne ses
dangers; lentes, les pieces glissent.
Tout au long
de la nuit deux couleurs se haissent
Dans le
champ agencé qui les tient sous sa loi.
Radieuse
magie où joue un vieil effroi,
Des destins
rigoureux et parés s'accomplissent :
Reine en
armes, brefs pions qui soudain s'anoblissent,
Fou qui
biaise, tour carrée, ultime roi.
Le rite se
poursuit. Il reste ; il faut qu'il reste
Même si le
pied branle à la table déserte,
Même quand
les joueurs seront cherchés en vain.
Le profond
Orient nous légua cette guerre
Dont la
flamme aujourd'hui fait le tour de la terre;
Et comme
l'autre jeu, ce jeu n'a pas de fin.
II
Tour droite,
fou diagonal, reine acharnée,
Roi
vulnérable, pions qu'achemine l'espoir,
Par les
détours fixés d'un ordre blanc et noir
Vous
cherchez, vous livrez la bataille obstinée.
Mais qui de
vous sent sa démarche gouvernée ?
La main ni
le joueur, vous ne sauriez les voir;
Vous ne
sauriez penser qu'un rigoureux pouvoir
Dicte votre
dessein, règle votre journée.
Le joueur, ô
Khayam ! est lui-même en prison,
Et c'est un
échiquier que l'humain horizon:
Jours blancs
et noires nuits, route stricte et finie.
La piece se
soumet à l'homme, et l'homme à Dieu.
Derriere
Dieu, qui d'autre a commencé ce jeu
De
poussière, de temps, de rêve, d'agonie?
J.L. Borges.
[Bản tiếng
Tây của IBARRA, Gallimard, 1970]
I
Ở cái góc nghiêm trọng của họ,
Những kỳ thủ di chuyển những quân cờ.
Cái bàn cờ cầm giữ họ tới sáng
Bằng cái la bàn cứng cỏi của nó:
Lòng thù hận giữa
hai màu cờ,
Một, cờ máu,
Và một, cờ ba que.
Trong cuộc chơi, là luật chơi,
Một ma thuật nghiêm ngặt:
Lâu đài Hô me, kỵ sĩ xám, nữ hoàng thiện chiến, hoàng đế cô đơn,
giám mục xiên xẹo, và những con tốt lao vào cuộc chiến
Sau cùng, khi những kỳ thủ đã
nhập cuộc,
Và khi thời gian đã thiêu đốt cả đám
Rõ ràng là chẳng cần gì đến những nghi thức
[Bàn giao cái con
khỉ, chúng ông lấy hết rồi,
Minh gà tồ còn gì
mà bàn giao?]
Ở phía Ðông, lửa chiến tranh
bừng bừng
Ngày hôm nay, trọn trái đất thuộc về nó,
Như cái khác, trò
chơi này là thiên thu, bất tận.
II
Hoàng đế tế nhị, giám mục xiên
xiên, nữ hoàng cay đắng,
Lâu đài thẳng thắn, và anh cu Sài láu cá –
Trên mảnh đất đen trắng của cái bàn cờ
Tất cả hăm hở tìm tòi, và sung sướng tận hưởng những chiến dịch…
Ðiện Biên, Mùa Hè Ðỏ Lửa, thí dụ.
Họ đâu có nhận ra,
Cái bàn tay thống trị của những thế lực quốc tế bửn thỉu,
Và hơn cả thế nữa,
Là những luật chơi của định mệnh.
Họ đâu có biết cái số phần cứng như gang thép,
Trấn ngự, cai quản những lựa chọn, và kiểm tra những hành trình của họ
Kỳ thủ kia ơi, mi thì cũng bị
cầm giữ bởi tính bất thường
(Câu này thuổng Omar) trên một mảnh đất khác,
Ðan chéo nhau bằng những đêm đen, và ngày trắng.
Ông
Giời di chuyển những kỳ
thủ, và tới luợt họ,
Di chuyển quân cờ
Nhưng Giời nào, ngoài Giời lại có Giời?
Thứ Ông Giời bắt đầu vòng luân hồi
Của bụi, thời gian, và những cơn hấp hối?
Note:
Bạn có thể đọc bài thơ này, và nhớ NMG.
Cả
hai cuốn trường thiên tiểu thuyết của ông, là đều lấy cảm hứng từ, và viết về, cuộc chiến bửn thỉu, với những nhân vật
- cũng bửn
thỉu - của nó. (1)
Chúng ta có 1 tên đao phủ, một tên nhà văn VC nằm vùng
[Ngữ, nghe nói, là từ NN mà ra].
Chỉ
thiếu 1 Nguyễn Huệ của Miền Nam
(1)
"Nói
chung, bộ trường thiên lấy khung cảnh thời Tây Sơn, thế kỷ 18 và khởi
đầu là sự
nghiệp của anh em nhà Tây Sơn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ và
chấm dứt
khi Nguyễn Huệ mất. Đây là thời gian có nhiều biến động. Quan trọng là
qua những
biến động đó, cái thử thách dành cho người đương thời, nhất là những
nho sĩ, những
người viết lách, những người có trình độ trí thức cao, phong phú lắm.
Mỗi người
một thái độ phản ứng khác nhau."
"Một thời đại mà tất cả biến động của lịch sử và cái phức tạp của đời
sống
hiện ra trọn vẹn, giống như những phức tạp hiện ra trong thời kỳ cộng
sản ở Việt
Nam vậy, giống nhau lắm. Và vì giống như vậy, thay vì trực tiếp viết về
cộng sản,
tôi chuyển qua hai thế kỷ trước viết về thời Tây Sơn. Có nhiều hoàn
cảnh mà tôi
suy từ thời mình bây giờ sang thời trước."
NMG
Realism,
in
a narrower sense, was a method of gaining reality for the novel. (2)
Canetti: Realism and New Reality
Chủ
nghĩa hiện thực, theo một nghĩa hạn hẹp, là
một phương pháp kiếm tí thực tại cho tiểu thuyết.
WISLAWA
SZYMBORSKA
1923-2012
Szymborska's
poetry is strongly influenced by modem science. She assumes that the
borderline
between us and the rest of nature is tenuous. On the other hand, she
knows that
our inveterate habits incline us to look at animals and insects with a
feeling
of our special privilege. Thence her ironic poem.
SEEN FROM
ABOVE
On a dirt
road lies a dead beetle.
Three little
pairs of legs carefully folded on his belly.
Instead of
death's chaos-neatness and order.
The horror
of this sight is mitigated,
the range
strictly local, from witchgrass to spearmint.
Sadness is
not contagious.
The sky is
blue.
For our
peace of mind, their death seemingly shallower,
animals do
not pass away, but simply die,
losing-we
wish to believe-less of awareness and the world,
leaving-it
seems to us-a stage less tragic.
Their humble
little souls do not haunt our dreams,
they keep
their distance,
know their
place.
So here lies
the dead beetle on the road,
glistens
unlamented when the sun hits.
A glance at
him is as good as a thought:
he looks as
though nothing important had befallen him.
What's
important is valid supposedly for us.
For just our
life, for just our death,
a death that
enjoys an extorted primacy.
Translated
from the Polish by Magnus J. Krynski and Robert A. Maguire
Czeslaw
Milosz giới thiệu
Thơ của
Szymborska ảnh hưởng nặng bởi khoa học hiện đại. Bà cho rằng đường biên
giữa chúng
ta và phần còn lại của thiên nhiên thì mỏng, mảnh. Mặt khác, bà biết,
con người
có thói quen nhìn xuống những sinh vật khác - loài vật và côn trùng
– với
vẻ kẻ cả của họ.
Từ đó, là bài thơ hóm hỉnh sau đây.
Nhìn từ bên
trên
Trên mặt đường
dơ dáy có một con ong chết.
Ba cái chân
nhỏ của nó thu gom lại thật là cẩn thận ở trên bụng
Thay vì một
cái chết - hỗn loạn, điêu tàn, hoang mang, nhược tiểu, da vàng [bạn tha
hồ phịa
thêm ra]… -
thì là một cái chết ngăn nắp,
gọn gàng, sạch sẽ….
Sự kinh hoàng,
ghê sợ của cảnh tượng thì được giảm thiểu đi, tối giản đi,
“chỉ có tính địa phương,
cục bộ, từ 'cỏ nội hoa hèn' cho tới 'bèo dâu
quen thói'…”
Cái buồn ở đây
thì không gây nhiễm
[Đếch có
chuyện “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”!]
Bầu trời thì
xanh.
Vì sự bình
an của tâm hồn của chúng ta,
cái chết của một con ong thì là cái thớ gì.
Loài vật thì
làm gì có chuyện "đi xa", chúng giản dị chết, mất đi
– chúng ta đành phải tin như vậy
-
thế giới, hay tí nhận thức về thế giới
Để lại – Có
vẻ như vậy đối với chúng ta – sàn diễn bớt bi thương
Những linh hồn
nhỏ bé, khiêm tốn… của chúng
không hành hạ, ám ảnh những giấc mơ của chúng ta.
Chúng giữ một
khoảng cách,
chúng biết chỗ, thân phận bọt bèo của chúng
Và thế là đây
là con ong nằm chết ở trên mặt đường
mặt trời chói
chang trên thân thể trần trụi của nó,
thế mà nó cũng
đếch thèm than thở!
Một cái nhìn
thoáng qua,
Thì tốt chứ
không có hại, cho tâm hồn của bạn
Với ý nghĩ
như thế này này:
Con ong nằm
chết như thể chẳng có số mệnh quan trọng mẹ gì giáng lên nó.
Cái gọi là
quan trọng thì chỉ quan trọng với lũ con người chúng ta
Cho cuộc đời
của chúng ta
Chứ không phải
cho cái chết
Thì cũng của
chúng ta!
Chết là hết.
Đừng quan trọng
nó quá nhe, Gấu Cà Chớn!
Cái ý chót,
Sébastien Chamfort có 1 câu thơ, được Beckett “không” dịch được [thuổng
ý của
Thầy Tiên Chỉ Xứ Mít, VP], ra tiếng Anh như sau đây:
Bi kịch có 1
cái cực khó chịu, cực bất tiện, về mặt đạo đức, đó là, nó đặt nặng sự
quan trọng
vào cuộc đời và vào cái chết.
Le théâtre tragique
a le grand inconvenient moral de mettre
trop d’importance à la vie et à la mort.
Bản tiếng
Anh của Beckett:
The trouble
with tragedy is the fuss it makes
About life
and death and other tupppenny aches.
Bạn thấy, có
sự "lệch pha" giữa hai câu thơ.
VP vin vào đó, phán, thơ đếch dịch
được, thơ dịch
đếch phải thơ, trong khi “cả nhân loại”, coi, cả hai đều là thơ, và, có
người
còn phán, họ là 1 cặp vợ chồng!
Note: Tập Collected, mua lâu
rồi, second-hand, nhưng cũng “bày đặt đọc”, mới
đây thôi.
Khi mua,
thì chỉ vì trong có bài thơ TTT thuổng, để viết về cô con
gái, được in trong Thơ Ở Đâu Xa.
Tập Selected, vừa mới tậu mua, cùng với
số báo Time đặc biệt Tưởng Niệm Marilyn
Tuyệt nhất
là mấy câu thơ Beckett, GCC cực mê, thấy ở bìa sau cuốn mới mua, cũng
“bắt chước”
GCC, đi 1 đường thổi um lên:
je suis ce cours de sable qui
glisse
entre le galet et la dune
la pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
et finira le jour de son commencement
cher instant je te vois
dans ce rideau de brume qui recule
où je n'aurai plus à fouler ces longs seuils mouvants
et vivrai le temps d'une porte
qui s'ouvre et se referme
my way is in the sand flowing
between the shingle and the dune
the summer rain rains on my life
on me my life harrying fleeing
to its beginning to its end
my peace is there in the
receding mist
when I may cease from treading these long shifting
thresholds
and live the space of a door
that opens and shuts
Samuel Beckett in Collected Poems in English & French. Grove Press.
Note: To K & O:
Dịch giùm.
Bản tiếng Tây theo tôi tuyệt
hơn bản tiếng Anh, cũng của Beckett:
la
pluie d'été pleut sur ma vie
sur moi ma vie qui me fuit me poursuit
Mưa hạ mưa trên đời tôi
Trên tôi đời tôi chạy trốn tôi rượt đuổi tôi
Ui chao, sao mà tuyệt thế!
Lại nhớ mưa Sài Gòn!
Bài thơ trên, bạn phải đọc cùng với một bài viết cũ trên Tin Văn, mới
thú,
tuyệt thú.
Và luôn thể, với bài thơ, cũng của Beckett, sau đây.
Tôi
muốn tình tôi....
Je voudrais que mon amour meure
qu' il pleuve sur le cimetière
et les ruelles où je vais
pleuvant celle
qui crut m'aimer
Samuel Beckett
Bản tiếng Anh của chính tác giả:
I would like my love to die
and the rain to be raining on the graveyard
and on me walking the streets
mourning her who thought that she loved me
Bản của Gấu:
Gấu muốn tình
Gấu
chết,
Và mưa rơi trên nghĩa địa,
trên đường phố [Sài Gòn] Gấu đã từng
vừa đi vừa khóc
người
tưởng
rằng người yêu Gấu (1)
Neutrinos
Still faster than light
The Higgs
boson
Science’s
great leap forward
Bước nhảy vọt
vĩ đại của khoa học
After
decades of searching, physicists have solved one of the mysteries of
the
universe
Sau nhiều thập
niên tìm tòi, những nhà vật lý đã giải được một trong những bí mật của
vũ trụ
Những sự kiện
lịch sử nhạt nhòa đi theo mỗi thập kỷ. Những tiếng la thét, chính trị
hay kinh
tế, thì chỉ còn như những điểm sáng [như trên màn hình radar], trên con
đường tiến
bộ, như chúng thường là như vậy. Ngay cả những nỗi ghê rợn, khủng khiếp
của chiến
tranh thì cũng lên gỉ! Tuy nhiên, những định luật vật lý, thì thiên thu
vĩnh viễn
phổ cập. Làm sáng rỏ, giải thích chúng, là một trong những thành công
của nhân
loại.
Tuần này, con người được nhìn thấy 1 sự sáng tỏ thần sầu như vậy.
Vào ngày 4
Tháng Bẩy, những nhà vật lý làm việc tại Geneva, trung tâm CERN - một
trong những
trung tâm thí nghiệm vật lý phân tử vĩ đại nhất của thế giới - đã thông
báo, họ
kiếm ra được Higgs boson (coi bài viết).
Nói một cách
rộng rãi, vật lý phân tử đối với vũ trụ, thì giống như DNA đối với đời
sống. Giống
như sự khám phá ra cấu trúc của DNA, bởi Francis Crick và
James Watson vào năm 1953: Sự khám phá ra
Higgs làm rõ ra, điều sẽ không không thể hiểu được, nếu khác thế. Ý
nghĩa của nó
mới chất lượng làm sao [massive, bạn phải hiểu gốc của từ này, mass,
mới thú].
Nói rõ hơn, đếch có Higgs, là đếch có khối lượng, mass. Đếch có khối
lượng, là
đếch có những ngôi sao [thí dụ BHD, chẳng là 1… khối
lượng ư? Một toà thiên nhiên như Nguyễn
Du phán, hà hà!], không hành tinh, không phân tử, “atom”. Và tất nhiên,
đếch có
chúng ta!
Thực sự, sẽ đếch có lịch sử. Những phần tử không có khối lượng bị ‘trầm
luân’ bởi bùa chú của Einstein, tức lý thuyết tương đối của ông, về
chuyển động,
bảnh nhất
thì cũng chỉ bằng tốc độ ánh sáng. Điều này có nghĩa, với chúng,
quá khứ,
hiện tại và tương lai thì “mắm xốt” [même chose, same thing].
Bài trên, đọc
trên net, GCC sẽ dịch dọt sau, nhưng vưỡn bệ tờ báo giấy về, vì bài
điểm cuốn mới
ra lò của Vargas Llosa.
Cũng cần phải nói thêm: VL mê tay Casement này lâu rồi,
có thể cùng lúc mê cuốn Trái Tim Của
Bóng Đen, như trong bài viết của ông về cuốn
này, mà TV đang giới thiệu, Cội
Rễ Loài Người.
Nhưng phải về già, ông mới viết ra nổi câu chuyện của
1 vị anh hùng bi thương, và cũng còn là một câu chuyện đạo đức.
Casement có
rất nhiều tật xấu [ông là người đồng tính]; người dân Ái Nhĩ Lan chẳng
hề coi ông
là anh hùng cái con mẹ gì hết, và có thể cũng coi ông là 1 tên phản bội
như đám
Hồng Mao!
“Official
Inquiry Among Grains of Sand”
“Một
cuộc điều tra chính thức
giữa những
hạt cát”
Vang
Bóng Một Thời TSVC
Bi Khúc Bốn
Tháng Sáu
Phiên
Khúc 17
Thơ Dịch
Shape-shifting
For many
centuries, even millennia, the world got by without translation: the
people of
different nations simply learned enough of the next door language to
communicate adequately. Marco Polo used a mixture of languages to
describe his
travels, probably without realising that many of them were “foreign”.
It was the
widespread use of the printing press that changed all that. The nature
of words
began to acquire an (apparently) settled meaning. Dictionaries are
routinely
thought to be about the meaning of words. Yet, Mr Bellos says, the
concept of a
word itself is almost impossible to define. The French have two
distinct words
for “word”, parole and mot. And how, for example, do you treat a German
compound verb, or a Hungarian word formation which can incorporate a
whole
sentence? Are they words in themselves, or are they just separate words
stapled
together?
Trong nhiều nhiều thế kỷ,
thiên niên kỷ, thế giới cứ nhẩn nha mà đi, đếch cần dịch dọt: dân chúng
của những quốc gia khác nhau, “nói với nhau” bằng tay, và nếu cần lắm,
thì học vài ba tiếng, đủ để giao thiệp với ông bạn láng giềng, nói
tiếng khác với mình. Marco Polo dùng một thứ ngôn ngữ trộn trạo nhiều
ngôn ngữ, để diễn tả những cuộc du lịch của ông, và có thể ông chẳng
thèm để ý, rất nhiều thứ tiếng ông trộn trạo với nhau đó, là
“ngoại ngữ”.
Chính là cái thứ chữ in, máy in, thứ báo chí in và sự lan tràn của
chúng làm thay đổi tất cả. Bản tính của những từ bắt đầu đòi một cái
nghĩa (bề ngoài, có vẻ như) được xác định, đặt để. Từ điển ra đời là vì
vậy.
Tuy nhiên, ý niệm về nghĩa của từ thì vô phương định nghĩa. Tiếng mẫu
quốc của dân Mít ngày nào, tiếng Tẩy, có đến hai từ khác biệt, cho từ
“từ” [word], là “parole” và “mot”. Bởi vậy Mít cũng theo mẫu quốc:
chúng ta có hai từ “chuyện” và “truyện”, để chỉ cùng 1 thứ!
TTT 2012
Bếp Lửa trong văn chương
Le Magazine
Littéraire
Le Nobel Kenzaburô Ôé milite contre
le nucléaire au Japon
Nhà văn Noel
Nhật, Oé, xuống đường chiến đấu với nguyên tử lực ở Nhựt Bổn
Notes
de Fukushima aurait pu écrire Kenzaburô Ôé.
Ghi chú về Fukushima
đã viết ra Oé, không phải Oé viết nó.
Presque
cinquante ans après ses Notes
d’Hiroshima (1965) dans lesquelles il se penchait sur les souffrances
des
irradiés, le prix Nobel de littérature 1994 vient de signer une
pétition contre
la reprise de l’activité nucléaire au Japon, pétition qu’il a remise en
main
propre au premier Ministre Yoshihiko Noda.
Après l’accident
de Fukushima, en Mars 2011, l’ensemble des réacteurs nucléaires de
l’archipel
avaient été arrêtés pour des questions de sécurité. Mais la semaine
dernière,
deux mois après l’extinction du dernier réacteur, le gouvernement
décidait de
reprendre l’activité, suscitant l’ire des anti-nucléaires.
Déjà au
Salon du Livre de Paris, en mars dernier, Ôé avait insisté sur la
nécessité
d’une rupture, situant Fukushima dans la droite ligne d’Hiroshima : «
Les
Japonais ne devraient pas penser l'énergie nucléaire en termes de
productivité
industrielle » rapportait alors le journal ActuaLitté, citant ses
propos, « ils
ne devraient pas tirer de la tragédie d'Hiroshima une « recette » de
croissance. Comme les séismes, les tsunamis, et les autres catastrophes
naturelles,
l'expérience d'Hiroshima devrait être gravée dans la mémoire humaine.
C'était
une catastrophe bien plus dramatique que les désastres naturels,
justement
parce qu'elle est née de la main de l'homme ». Selon un sondage publié
par
l’organisme indépendant Pew Research Center, 70% des Japonais
interrogés sont
partisans d’une réduction ou d’un arrêt total de la production
d’énergie
nucléaire.
Thảm họa Nhựt
GCC xuống phố,
vớ cuốn trên cùng với 1 số báo Thế Giới Ngoại Giao trong có bài viết
“Một nhà
văn, một xứ sở”, về thảm họa động đất và sóng thần, 11 Tháng Ba 2011, ở
Nhựt.
Tác giả bài viết
Ikezawa Natsuki là tiểu thuyết gia Nhựt, đã từng đoạt giải thưởng
Akutagawa.
Câu văn Oé lấy
làm đề từ cho chuyến đi thăm Hiroshima:
Qui donc,
dans les temps à venir, pourra comprendre
[. .. ] qu'après avoir connu la lumière,
nous avons été amenés ainsi, de nouveau, à
basculer dans les ténèbres ?
SEBASTIEN
CASTILIAN
De arte
dubitandi (1562)
Kẻ nào,
trong số hậu duệ của chúng ta sẽ giải ra được nghi án thê lương sau đây:
Sau khi con
người biết ánh sáng, nó lại quay lại với bóng tối?
*
« Si un
accident entrainant la fonte du coeur
nucléaire se produisait à Tokaimura
ou à Fukushima, les dommages que devrait
supporter la société japonaise seraient
trop lourds » écrivait en 1993 le
romancier Ikezawa Natsuki dans « Une
fin joyeuse ».
Dans un
texte inédit, il tire les lecons de la
catastrophe. Une facon de saluer la littérature
japonaise, invitée du Salon du livre de
Paris, du 16 au 19 mars.
IKEZAWA
NATSUKI
Động đất và sóng
thần làm chúng ta tái khám phá ra mấy điều sau đây:
Thứ nhất, thiên nhiên đếch ưa con người. Nó có đó không phải để hớn hở
chào đón
con người. Thiên nhiên bất nhân coi con người như rơm rác!
Thứ nhì, con
người có khả năng làm lại. Ngay cả những đấng khóc lóc thảm thiết,
tưởng không
thể sống được, sau thảm họa, thì cũng có bữa thò tay ra dọn dẹp, nếu
đồng loại
cũng làm như vậy, tuy vẫn trông cậy ở sức mình.
Thứ ba, đừng
tin bất cứ nhà nước, nhất là nhà nước VC!
Thứ tư, tai ương
có khi là dịp để đổi thay.
Ghi
chú
trong ngày
Xử VC
Bị VC xử
Tôi sẽ không
bao giờ gột nổi thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan trong bức hình nổi tiếng
của Eddie
Adams ra khỏi trí nhớ….
PTH
The stories
surrounding the victim in Eddie Adams' execution photo differed. Lt.
Colonel
Loan had said that the man had killed many South Vietnamese and even
Americans.
Vietnamese photographers said that he was a traitor, working for both
sides -
the Vietcong and the South Vietnamese police. Others said he was a
small-time
Vietcong who had put on a fresh shirt hoping to slip away.
Thirty-two
years later, I met his widow, who still lived in their home in a
southern
Saigon suburb and mourned him. In a corner of the living room, behind
plastic
flowers, was a heavily retouched photograph of Nguyen Van Lam, who, as
a Viet
Cong, had the "secret name" (alias) Bay Lap. Yes, he had been a
member of the National Liberation Front, the Vietcong. He just
disappeared
shortly before the Tet Offensive, and never came back.
Eddie Adams'
photograph made him a martyr, but, no, she does not have and does not
want to
see the photograph of her husband's death. She will mourn Nguyen Van
Lam until
his body is found, she said in 2000, when the Vietnam government
celebrated the
25th anniversary of the end of the war.
The Saigon
Execution
October 2004
by Horst
Faas
Ghi 1/chet_vi_tinh.html
Note: Bài
đang hot!
Lạ thật! Làm
sao mà độc giả mò ra nó?
Cali
Tháng Tám 2011
|
|