Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 


July 23, 2014


*

Vĩnh biệt nhà văn Nobel Nadine Gordimer



Nhị

Go on, run away, but you'd be far safer if you stayed at home.
(John Fowles trích dẫn Martial, nguyên văn: I, fugi, sed poteras tutior esse domi.)

Trong Tựa đề cho những bài thơ, Foreword to the Poems, John Fowles cho rằng cơn khủng hoảng của tiểu thuyết hiện đại, là do bản chất của nó, vốn bà con với sự dối trá. Đây là một trò chơi, một thủ thuật; nhà văn chơi trò hú tim với người đọc. Chấp nhận bịa đặt, chấp nhận những con người chẳng hề hiện hữu, những sự kiện chẳng hề xẩy ra, những tiểu thuyết gia muốn, hoặc (một chuyện) có vẻ thực, hoặc (sau cùng) sáng tỏ. Thi ca, là con đường ngược lại, hình thức bề ngoài của nó có thể chỉ là trò thủ thuật, rất ư không thực, nhưng nội dung lại cho chúng ta biết nhiều, về người viết, hơn là đối với nghệ thuật giả tưởng (tiểu thuyết). Một bài thơ đang nói: bạn là ai, bạn đang cảm nhận điều gì; tiểu thuyết đang nói: những nhân vật bịa đặt có thể là những ai, họ có thể cảm nhận điều gì. Sự khác biệt, nói rõ hơn, là như thế này: thật khó mà đưa cái tôi thực vào trong tiểu thuyết, thật khó mà lấy nó ra khỏi một bài thơ. Go on, run away... Cho dù chạy đi đâu, dù cựa quậy cỡ nào, ở nhà vẫn an toàn hơn.

Khi trở về với thơ, vào cuối đời, Mai Thảo đã ở nhà. Cái lạnh, trong thơ ông, là cái ấm, của quê hương. Của Nhị.


Anne Frank, một ghi nhận

Nếu Anne Frank không mất tại trại tập trung vào năm 1945, cô ăn mừng lễ sinh nhật 68 tuổi vào tháng Sáu vừa qua (1996). Và nếu cô không giữ tập nhật ký khác thường, qua đó, chúng ta có thể coi cô là một trong những nhà văn nổi tiếng của thế kỷ - cho dù vậy, số phận của cô cũng không quá sức bi đát, như là bây giờ, sau những khám phá mới nhất về cô.
Cô sinh ra để là một nhà văn. Vào năm 13 tuổi, cô đã cảm thấy quyền năng này; tới 15, cô điều khiển được nó. Nếu cô được phép sống, thật dễ dàng khi tưởng tượng, biết bao nhiêu tiểu thuyết, khảo luận, từ cái nguồn giầu sang, từ ngòi bút lưu loát, chín mùi chữ nghĩa đó. Người ta cũng thấy được những tác phẩm chẳng bao giờ có được đó, sẽ gần gụi với Nadine Gordimer, Nobel văn chương, hơn là Francois Sagan. Cô bé la lên, vào mùa xuân năm 1944: "Ta muốn tiếp tục sống, ngay cả sau cái chết của ta!" (I want to go on living even after my death!)


Thơ Mỗi Ngày

FAITH

The word Faith means when someone sees
A dew-drop or a floating leaf, and knows
That they are, because they have to be.
And even if you dreamed, or closed your eyes
And wished, the world would still be what it was,
And the leaf would still be carried down the river.

It means that when someone's foot is hurt
By a sharp rock, he also knows that rocks
Are here so they can hurt our feet.
Look, see the long shadow cast by the tree;
And flowers and people throw shadows on the earth:
What has no shadow has no strength to live.

CZESLAW MILOSZ

translated by Robert Hass
and Robert Pinsky with Renata Gorczynski

Gấu đọc bài thơ trên, thì bèn nhớ ra bài viết dưới đây:

Người Về

Người về từ cõi ấy
Vợ khóc một đêm con lạ một ngày

Người về từ cõi ấy
Bước vào cửa người quen tái mặt 

Người về từ cõi ấy
Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy

Một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui
Hai năm còn mộng toát mồ hôi

Ba năm còn nhớ một con thạch thùng
Mười năm còn quen ngồi một mình trong tối 

Một hôm có kẻ nhìn trân trối
Một đêm có tiếng bâng quơ hỏi 

Giật mình,
một cái vỗ vai

Hoàng Hưng

Gấu nhớ, trong Gulag, có một đoạn Solz tả, về cái cảm giác giữa những người đã từng ở Gulag, và sau đó, được trả về đời. Họ nhận ra nhau ngay, giữa phố đông người. Chỉ ánh mắt gặp nhau, là biết liền đằng ấy và tớ đã từng ở trong đó.
Gấu mê nhất, câu "Một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui".
Nhưng cũng lạ nhất, tò mò nhất, là cái thời gian "một năm sau".
*
Bài thơ của Hoàng Hưng, như được biết, là một trong 100 bài thơ hay. Không hiểu thi sĩ có tiên tri ra được cái sự bí nhiệm của con số hay không, nhưng có vẻ như ông rất quan tâm đến nó, chỉ để "đếm" thời gian: vợ khóc 'một' đêm. con lạ 'một' ngày. Một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui, hai năm sau còn toát mồ hôi. Năm năm, muời năm... một hôm, một đêm...
Liệu tất cả những cân đo đong đếm đó, là để qui chiếu về câu: Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại?
Câu này, lại trở thành một ẩn dụ, nếu so cảnh tại ngoại của ông, như được miêu tả trong bài thơ:
Có vẻ như cái cảnh trở về đời kia, vẫn chỉ là, tù trong tù.

Tuy nhiên, khi đọc như thế, có vẻ như hạ thấp bài thơ.

Bài thơ Hoàng Hưng bảnh hơn cách đọc đó nhiều. Có cái vẻ thanh thoát, vượt lên trên tất cả của nhà thơ. Đây cũng là điều nhân loại tìm đọc Gulag của Solz: Cái thái độ đạo đức, nhân bản của tác phẩm và của tác giả, mới bảnh làm sao. (1)

(1)

The book was also written as a treatise on the subject of survival. The tone had been set in Solzhenitsyn's first published masterpiece, One Day in the Life of Ivan Denisovich (not included in The Solzhenitsyn Reader). Unlike another genius writing in this genre, Varlam Shalamov  (a kind of Russian Primo Levi), who had exposed the prison camp as an unmitigated hell where man is stripped of any vestige of humanity, Solzhenitsyn's narrative is a moral fable of  the condemned soul seeking, in the grueling  experience of prison life, the light of spiritual rejuvenation. It gave hope. This was another reason why his writing was such a huge success in the West.
Giọng kể của Solz là một thứ đạo đức kinh của một linh hồn bị đọa đầy tìm mong sự cứu cuộc, mặc khải, tái sinh, "trẻ mãi không già".(1)
Nó đem đến hy vọng.


(1) Đọc văn chưa thấy già, cho dù, nghe nói, sắp xuống lỗ.
[Đa tạ. NQT]

The Solz. Reader

Câu thơ "Muời năm còn quen ngồi một mình trong bóng tối" làm nhớ một chi tiết về một nhà thơ trong nhóm Nhân Văn, [không nhớ là ai, NMG có nhắc tới trong một số Văn Học], ông quen ngồi một mình đến nỗi bóng in lên tường, thành một cái vệt, thời gian không làm sao xóa mờ.

Nếu như thế, một người quen ngồi một mình trong bóng tối, cái bóng của người đó in lên tường mới khủng khiếp làm sao. Không ai có thể nhìn thấy nó, để mà hỏi thử, thời gian, khi nào xoá mờ!


THE GUEST

Everything's just as it was: fine hard snow
beats against the dining room windows,
and I myself have not changed:
even so, a man came to call.

I asked him: "What do you want?"
He said, "To be with you in hell."
I laughed: "It seems you see
plenty of trouble ahead for us both."

But lifting his dry hand
he lightly touched the flowers.
"Tell me how they kiss you,
tell me how you kiss."

And his half-closed eyes
remained on my ring.
Not even the smallest muscle moved
in his serenely angry face.

Oh, I know it fills him with joy-
this hard and passionate certainty
that there is nothing he needs,
and nothing I can keep from him.

1 January 1914

ANNA AKHMATOVA

translated by Jane Kenyan and Vera Dunham

Người khách

Mọi thứ vũ như cẩn: Tuyết nặng đẹp
Đập lên cửa sổ phòng ăn
Và tôi, chính tôi, chẳng thay đổi
Ngay cả thế, chàng tới

Tôi hỏi: Chàng muốn gì?
Ta muốn cùng với em, ở địa ngục
Tôi cười: Có vẻ như chàng nhìn ra
Đầy tai ương trước đôi ta

Nâng bàn tay khô
Chàng chạm nhẹ những bông hoa,
Hãy nói cho ta biết, chúng hôn em như thế nào
Và như thế nào, em hôn

Và mắt chàng, nhắm một nửa
Đọng trên nhẫn của tôi
Không một thớ thịt, dù nhỏ nhặt đến cỡ nào, cử động
Trên khuôn mặt thanh thoát giận dữ

Ôi chao tôi biết, nó làm chàng tràn đầy niềm vui –
Điều chân xác đam mê, gay gắt
Rằng, chẳng có gì, chàng cần
Và, chẳng có gì tôi giữ được cho riêng mình, đối với chàng.

 
An ủi

Ví thử luân hồi là có thật
Ta về soi lại vạn kiếp xưa
Xem thử kiếp nào ta gây tội
Mà đeo nhau mãi đến bây giờ 

Biết đâu ta từng là bọ ngựa
Cắn cổ người tình lúc giao hoan
Kiếp này tạ tội ngàn đêm lẻ
Trả từ ngọn tóc đến bàn chân 

Hay trước ta là tù giữ ngục
Hành nhau đến ma dại thân tàn
Kiếp này tha mãi từng sợi cỏ
Tự kết cho mình chiếc lồng son

Thản hoặc trước ta là con nhện
Chiều chiều sau ngõ cứ giăng tơ
Kiếp này gom hết bao mầu sắc
Dệt cho người hạnh phúc như mơ

Hoặc giả ta là sam thuở trước
Thảo nào thấy trông trống trên lưng
Nhìn quanh cả biển người trùng điệp
Chỉ lụy một người, có lạ không

Thôi thế kiếp này ta tu nhé
Không hờn, không oán, chỉ cười vui
Đừng trách, đừng buồn, đừng kể lể
Mai sau làm mây trắng ven trời

Đặng Lệ Khánh

Nancy Jane

Grandma laughing on her deathbed.
Eternity, the quiet one, listening in.

Like moths around an oil lamp we were.
Like rag dolls tucked away in the attic.

In walked a cat with a mouthful of feathers.
(How about that?)

A dark little country store full of gravediggers' children
    buying candy.
(That's how we looked that night.)

The young man pumping gas spoke of his friends: the clouds
It was such a sad story, it made everyone laugh.

A bird called out of a tree, but received no answer.

The beauty of that last moment
Like a red sail on the bay at sunset,

Or like a wheel breaking off a car
And roaming the world on its own.

Charles Simic

 

Nancy Jane

Người bà cười khằng khặc trên giường chết
Vĩnh cửu, thứ trầm lặng, xin nhập vô, cùng lắng nghe

Lũ chúng ta
Như bướm đêm xúm quanh cây đèn dầu
Như búp bế rách bị thẩy vô căn gác xép

Dạo với chú mèo mồm đầy lông
[Thế là thế lào?]

Tiệm nhỏ, miền quê, tối thui, đầy đám con nít của những người đào mồ
Mua kẹo
(Đêm đó, chúng ta giống như lũ con nít đó)

Chàng thanh niên cây xăng tán gẫu với bạn: Những đám mây
Một câu chuyện buồn, như thế đó, và nó làm mọi người cười

Chim ới cây
Cây đếch trả lời

Cái đẹp của khoảnh khắc sau cùng đó
Như cánh buồm đỏ ra khơi vào lúc mặt trời lặn

Hay như cái bánh xe vuột ra khỏi cái xe
Và dong chơi thế giới, mình ên.


NHÀ THƠ

Không nên trách các nhà thơ là ngây thơ. Không ngây thơ, khó có ai có thể làm thơ vào thời buổi bây giờ, khi mọi người, nói chung, đều rất ít ngây thơ. Chức năng của thơ là để cứu rỗi, phần nào, sự ngây thơ ấy. Để tâm hồn con người, có thêm chút hoa và chút hương, đẹp hơn. — with Tuan Nguyen

FB Thầy Kuốc

Cần phải phân biệt, theo GCC, giữa thơ và sự ngây thơ. Gấu nghi là Thầy Kuốc coi giống nhau. Và có thể cũng nghĩ như thế, cho nên Mít rất ghét thứ thơ gọi là thơ trí tuệ. Ngây thơ mà…  trí tuệ sao được, hà hà!

Đọc thêm bài viết của THQ, gửi Thầy Kuốc thì rõ ra vấn đề, cả hai ông đều chưa từng làm thơ. Viết về thơ, dịch về thơ, có thể, nhưng chưa từng làm thơ.
Bạn phải làm thơ, thì mới hiểu được chức năng của nó, không phải để cứu rỗi, dù phần nào, sự ngây thơ. Làm thơ theo GCC là để thoả mãn cơn thèm làm thơ đến phát….  khóc lên được, sự tình có lẽ chỉ giản dị như thế!

Gấu xuống phố, trả phim, ghé sạp báo Tẩy, hoá ra là ngày cuối, mai dẹp. Thế là bèn bị mấy anh phóng viên & bộ sậu, đi một đường phỏng vấn… bằng tiếng Tẩy, tất nhiên, mi có thèm, có nhớ tiếng Tây không, một khi sạp dẹp!
Buồn, làm sao không. Bèn chơi hai tờ chót, và bèn ghé tiệm sách Hồng Mao, Indigo, chơi thêm hai cuốn thơ.
Về.
Đọc lại cái status của Thầy Kuốc, thấy Thầy delete bài của THQ [Trương Hồng Quang, một tay hay viết cho talawas ngày nào] mất rùi!
Chán thế.

Cái sự thèm làm thơ đến phát khóc, một nữ thi sĩ đã diễn tả bằng những dòng, “trong túi luôn có 1 bài thơ đang làm dở”, và nếu như thế, là để giải đáp liền tức thời, hứng thơ bất thình lình vọt ra!

Trong bài tưởng niệm Mai Thảo, TTT đã lấy ý câu của Holderlin, “Tại sao thi sĩ, trong thời điêu linh khốn khổ”, để vinh danh bạn mình, và mình nữa tất nhiên [trong thơ tôi có thơ anh], điều này cho thấy, đây là 1 đề tài lớn – “tôi như người chợt tỉnh sau giấc hôn thuỵ” - không phải chuyện đùa.
Viết về thơ vào thời điểm này, là bắt buộc phải viện tới hai câu khủng nhất về nó. Một, "Tại sao thi sĩ trong thời khốn kiếp", của Holderlin, mà Heidegger dùng làm tựa đề cho bài viết thần sầu của ông về thơ và về Rilke, mà ông coi là thi sĩ của Đêm Đen [Đêm Thiêng]. Và câu của Adorno, Làm thơ sau Lò Thiêu thì thật là Man Rợ.
Tin Văn sẽ đi bài này, để…  ăn mừng SN của GCC!

Hà, hà!

Trong Đất Trời Nhau....

Trong nhiều năm anh viết văn, bằng lòng làm nhà văn, không làm thơ. Trên Sáng Tạo chỉ một lần anh đăng hai bài thơ ngắn – Nghe Đất, Ý Thức – cũng ký tên Nhị. Cả ba bài thơ của thời trẻ này được giữ lại trong tập Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền gồm những bài thơ anh làm sau ngày anh bắt buộc phải lìa bỏ Sàigòn. Chẳng rõ anh Khánh có tìm thấy những trang thảo để lại trên bàn viết của Anh bài thơ nào sót không? Câu thơ trích làm nhan cho bài viết này lấy từ một bài thơ anh gửi tôi khi tôi còn ở nhà sau chuyến đi Bắc.
Người Việt rồi Sáng Tạo, anh viết truyện ngắn, tùy bút, lý luận… Những bài tùy bút như Phương Sao, Tiếng Còi Trên Sông Hồng đánh dấu một bước mới mẻ của câu văn Việt. Tuy nhiên, đối với tôi, anh lúc nào cũng là một thi sĩ cho dù anh không làm thơ.
Đầu năm 78, ở Lao Kay lần đầu tiên nhận được thơ nhà, biết tin anh đi xa. (Vợ tôi viết: “Bố nuôi của Thái về quê ngoại sống, không ở Sàigòn nữa”) tôi như người chợt tỉnh sau giấc hôn thuỵ. Bài Nhớ Thi  Sĩ viết vào lúc ấy đề tặng một thi sĩ đã mất và gửi Anh, một thi sĩ lưu lạc khi chúng tôi nghĩ chắc không còn ngày gặp lại. Trong những lời thơ vẳng trong tôi bấy giờ có cả lời thơ của anh.
*

Như mọi thi sĩ của một thời điêu đứng, anh chạy trốn thơ cho đến lúc không thể trốn được nữa...

5 năm TTT ra đi

(22.3.2006-22.3.2010)

*

What are poets for?
Thi sĩ để làm cái quái gì cơ chứ?
Pourquoi des poètes en temps de détresse?
Tại sao thi sĩ trong thời điêu đứng?
Heidegger

Bài viết này, bạn NXH chọn đúng ngày 22, Tháng Ba, 2010,
là ngày cách đây 5 năm nhà thơ từ giã chúng ta,
để đăng trên VOA, như là một tưởng nhớ của tất cả chúng ta,
trong lúc cùng tưởng nhớ sự ra đi của nhà thơ Hữu Loan, ở trong nước.

*

Ngày 22 tháng 3 năm nay, 2010, là đúng 5 năm nhà thơ từ giã chúng ta. Trong những nhận xét về thơ của ông, có của Quỳnh Giao, theo người viết, thật độc đáo:
“Thơ Thanh Tâm Tuyền phải được đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến tranh' của một thành phố mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay khung cảnh ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của ông.”
Và, nhận xét của D.M. Thomas, trong cuốn tiểu sử nhà văn Solzhenitsyn, ["Alexander Solzhenitsyn: A Century in his Life" By D. M. Thomas, St. Martin's Press], về sự ra đi của nhà thơ Pasternak, có thể áp dụng vào trường hợp nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, nếu chúng ta nhớ lại, tình cảm sửng sốt, bàng hoàng của đồng bào hải ngoại, khi được tin ông mất:
“Nỗi đau của dân Nga khi nhà thơ Pasternak qua đời vào năm 1960 đánh dấu bước ngoặt của lịch sử Xô Viết.”
The explosion of grief and celebration at Pasternak's funeral in 1960 marked a turning point in Soviet history.
*
Nhân dịp tưởng nhớ nhà thơ năm nay, chúng ta tìm hỏi ý nghĩa của sự chọn lựa, “Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn”, của ông, sau khi ra khỏi trại tù.
Liệu đây có nghĩa là, từ chối viết? (1)
Như rất nhiều tác giả khác, cũng như ông, thí dụ như một Melville, nhà văn nổi tiếng Mỹ, qua nhân vật nổi tiếng của ông, Bartleby, với câu nói nổi tiếng: I would prefer not to: Tôi chọn đừng.

Báo Văn học Pháp, Le Magazine Littéraire, số đặc biệt về Văn chương và những trại tù [La littérature et les camps], trong bài viết mở đầu, Thư gửi độc giả, Lettre aux lecteur, dưới nhan đề Hội chứng Bartleby, Jean-Louis Hue viết:
Nghĩ đến chuyện từ bỏ viết, Melville tưởng tượng ra nhân vật Bartleby, thách đố câm lặng và hư vô, đã chọn lựa một giải pháp là tự nhốt mình trong văn phòng, vắng mặt trước những kẻ khác, và trước chính mình. “Tôi chọn lựa đừng” [I would prefer not to, khi được dịch sang tiếng Pháp, là, “Je préférais ne pas le faire”, và mới nhất, “Je préférais pas”].
Trong số những nhà văn “Tôi chọn lựa đừng” này, có, kể sơ sơ, Rimbaud, Robert Walser, J.D. Salinger… và nhà thơ Celan, sống sót Lò Thiêu, sau tự sát.
Liệu thái độ “Tôi chọn lựa đừng” này, là cũng của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, sau trại tù cải tạo?

(1)
Après ma libération, sur le chemin du retour, la première chose que j'ai faite, a été de me replier et écrire mes poèmes mémorisés tout au long de ma détention.
Je suis un survivant, mais je ne veux plus être écrivain, comme je l'ai pourtant souhaité depuis toujours.
J'ai écrit dans ma mémoire au camp: «II faut que j'arrive à écrire comme si rien ne s'était passe, comme si rien n'était modifié.»
Et maintenant je me dis: «Quand serai-je capable d'une telle chose?» Pour re-écrire.
THANH TAM TUYEN
La poésie entre la guerre et le camp
Thơ giữa chiến tranh và trại tù
Propos recueillis et traduits par Le Huu Khoa

Khi ra khỏi trại tù, trên đường về, điều đầu tiên tôi làm, là cúi gập mình viết ra những bài thơ lưu giữ trong trí nhớ suốt thời gian tù đầy.
Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn.
Tôi đã từng lưu vào trí nhớ, khi ở trong trại tù, điều này: "Phải làm sao viết như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi."
Và bây giờ tôi tự hỏi: "Khi nào thì tôi có thể làm được như vậy? Để lại viết?”
Thanh Tâm Tuyền
*
La poésie entre la guerre et le camp
Thơ giữa chiến tranh và trại tù

Văn chương và những trại tù
La litérature et les camps

Trại Cải Tạo vs Lò Thiêu
Hai cái tít nói lên tất cả!
[NQT]
*
Bài viết thực ra, chỉ là một cái dàn bài, bạn NXH cần bài gấp quá, cho đúng dịp tưởng nhớ ngày nhà thơ từ giã chúng ta; tuy nhiên “luận điểm” (1) của bài viết thì đã đưa ra được rồi.
Rằng, cái sự từ chối không làm nhà văn nữa của TTT, nó liên can đến Lò Cải Tạo. Nó liên can đến câu phán của Adorno:
Sau Lò Thiêu mà còn làm thơ thì thật là dã man.
Nói một cách khác, sau 30 Tháng Tư 1975, giả như còn văn học Mít, thì nó bắt buộc phải trả lời cho được câu hỏi: Tại sao Lò Cải Tạo?

(1)

Phạm Gia Thanh (Việt Nam)
Ở bài này ông Nguyễn Quốc Trụ chỉ góp nhặt linh tinh rồi chép lại chứ không có một luận điểm gì cả. Dàn bài cũng tùy tiện. Tôi không hiểu tại sao nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng lại chọn đăng và VOA lại đồng ý cho đăng. Nản quá ạ.
Độc giả VOA

Cám ơn đã góp ý.

Bài này tôi định viết ngay sau khi nhà thơ TTT mất, nhưng ngại, sẽ có người cho rằng dựa hơi cái chết của nhà thơ đế đánh bóng mình.
Bây giờ, 5 năm qua đi, viết, thoải mái hơn.

NQT

On Poetry

CHÚC MỪNG PVH

Gấu đã tính mở ra cuốn tiểu thuyết đầu tiên vào cuối đời của mình, bằng những hồi ức về quãng đời quen bạn Hàm, sau khi đậu Trung Học, được bà cô ở bên Pháp viết thư, ra lệnh, hãy học tiếp, tháng tháng ta gửi tiền về. Và thế là Gấu bèn bye bye cái khu Chợ Vườn Chuối, sang Thủ Thiêm đóng vai một học sinh thực thụ, không phải vừa đi học, vừa làm bồi bàn nơi nhà hàng Chả Cá Thăng Long, ở đầu đường Phạm Đăng Hưng, kế bên cầu Sài Gòn.
Tuy nhiên, đúng vào thời gian này, thì thiên hạ bèn mở ra cái vụ kỷ niệm 60 năm di cư, thế là Gấu bèn tự bảo mình, làm sao mi không “bắt đầu bằng bắt đầu”, để cho cuốn tiểu thuyết của mi có tí mùi… lịch sử?
Hà, hà!

Hồi ức di cư của Gấu chắc chắn là bảnh nhất, so với ba cái lăng nhăng Gấu vừa mới lướt qua trên net. Chắc chắn như vậy, vì ba thứ hồi ký đó, thì toàn của những người ra đi vào lúc sớm sủa, trong khi, Gấu, không hề có ý định di cư, và chỉ đi vào lúc sắp sửa hết hạn 300 ngày dành cho Hải Phòng, cánh cửa Miền Bắc sẽ vĩnh viễn đóng sập xuống, cho đến ngày 30 Tháng Tư, 1975, nó lại mở ra và nuốt trọn Miền Nam vào họng nó!


Nhạc Sĩ Trường Sa

Ngụy Tín

Tình cờ đọc lại tờ báo Văn Nghệ số ra ngày 3-12-1988 ở Hà Nội, thấy một lời tâm sự thành thực và thấm thía của Nguyễn Minh Châu:
“Là những nhà văn hiền lành, vô sự, chỉ biết ca ngợi, cả đời chúng ta không làm hại ai, không làm điều ác với ai. Nhưng cái lỗi lầm lớn nhất của mỗi người chúng ta là khiếp hãi trước cái xấu và cái ác. Và lâu dần dường như không làm gì được thì chúng ta coi như không có nó – cuộc đời không có cái xấu và cái ác đang hoành hành, đang chi phối số phận con người, coi như cuộc đời không còn oan khiên, oan khuất.”
Lời tâm sự ấy, áp dụng vào tình hình hiện nay, không chừng vẫn còn đúng. Vẫn còn vô số những kẻ khiếp hãi trước cái xấu và cái ác. Vì khiếp hãi nên im lặng; không những im lặng, còn coi như không có những cái xấu và cái ác ấy, một thứ tâm lý được Jean-Sartre gọi là nguỵ tín (mauvaise fois / bad faith). — with Tuan Nguyen.

FB Thầy Kuốc

Note: Jean-Paul Sartre. Không phải Jean-Sartre.
Mauvaise foi, không phải mauvaise fois.
Nguỵ tín, như từ điển định nghĩa, là khẳng định 1 điều, khi biết nó đếch có đúng, affirmer quelque chose tout en sachant que cela n'est pas vrai, (1) và nếu như thế, không liên quan tới "im lặng coi như đếch có cái xấu"!

Chán quá! NQT

Note: Cái "xì ta tuy", status, này, Gấu đọc xong, đi 1 đường "còm", đi ngủ, bất giác thức, coi, thì thấy bản gốc bị delete, bèn đi ngủ trở lại, sáng ra, lại thấy bản gốc vưỡn còn đó!
Tếu quá!
“Mauvais foi”, biến thành mauvais “fùa”, rồi lại trở thành “mauvais foi”, qua bản tiếng Anh, “bad faith”, rồi trở thành bản tiếng Vịt, "ngụy tín", nghĩa là, biết mà sợ nên câm họng!

Thấm thía thật!


*

Kasparov says, “I have to be careful not to become cruel, because I became a soldier too early".
Kỳ Vương phán: Tớ phải rất ư là cẩn thận để không trở thành độc ác, bởi vì tớ đi lính sớm quá!
The Tsar’s Opponent

Note: Câu phán của Vua Cờ đúng là số mệnh của giống Mít.
Ðúng hơn, nó chỉ ra nguồn cơn của Cái Ác Bắc Kít.
André Glucksmann, triết gia Tẩy mũi lõ cũng đã từng phán:
Bắc Kít bị Ông Giời trù ẻo, bắt phải gây chiến hoài hoài!

Bài viết của Remnick, thú vị. Ông là chuyên gia về Liên Xô. Đọc, lại thèm dịch ra tiếng Mít!

Two great traditions have survived in Russia: the power of the secret police and the use of allegory as a means of truthtelling. In Putin’s Russia, the latter is one of the few effective means of describing the former.
Hai truyền thống lớn sống sót ở Nga:  Quyền năng của Cớm Chìm và nói sự thực qua ám dụ. Dưới thời Putin, cái sau là 1 trong một số ít phương tiện, để miêu tả cái trước.

Tếu nhất là chưa bao giờ Mít thèm hòa bường, và sợ chiến tranh, với Tẫu, như lúc này!
Và thèm Mẽo trở lại xứ Mít!


Bolano

Trong Ngoặc       


NYRB điểm cuốn tiểu sử mới ra lò WB: A Critical Life

Note: Bài này, Gấu tính dịch, nhưng chưa làm sao dịch được, chán thế!


VĨNH BIỆT NHÀ VĂN TÔ HOÀI     

Tình Buồn

Truyện ngắn này, quả là thần sầu. Nhân tình cờ đọc 1 bài viết về nó, bèn nhớ ra, và bèn mò trên net, và có lại được.
Bài viết về nó, ở đây

Ở đây nữa:

11:06-18/07/2014
Tô Hoài - Giữa sự viết và hư vô
Trần Ngọc Hiếu 

Thú thực, Gấu đọc, và không mặn lắm, bài viết, nhất là cái tít. Hư vô cái con mẹ gì ở đây.
Đúng ra, bài viết có thể hay hơn nhiều, nếu đừng bày đặt, đừng khệnh khạng, ra cái điều “ta là nhà phê bình, ta đang viết phê bình”, thực ra, ta đang bịp thiên hạ, nhất là cái câu kết:
Tô Hoài viết để làm chúng ta nhớ. Khi sự hư vô xâm lấn mạnh mẽ vào đời sống ở mọi phương diện, chẳng đợi đến tuổi già người ta mới thấm thía, nhớ có lẽ cũng là một cách kháng cự.
nhớ có lẽ cũng là một cách kháng cự: “có lẽ" cái con khỉ gì nữa!

NQT

Nhân mò net, kiếm truyện ngắn của Tô Hoài, ra cái trang net này.

Gấu nhớ là, khi còn nhỏ, ở đất Bắc, đọc 1 câu chuyện về 1 anh chồng, hình như ở nhà trông con, cho vợ đi làm, buổi tối, cãi nhau với vợ, cáu quá, quăng cái ly xuống đất, vỡ thành mấy mảnh, sau đó hai vợ chồng làm lành - chắc là có làm 1 cú - sáng hôm sau, vợ đi làm sớm, anh chồng mò ra đường lộ, cạy 1 cục nhựa đường, về hàn cái ly, miệng hát bi ba bi bô...

Đặc chất Tô Hoài.

Không biết có phải của ông không.

Cái chuyện “Tình Buồn” thì lại làm Gấu nhớ tới bà mẹ của Scarlett, trong “Cuốn Theo Chiều Gió”, bà chủ Trại Sồi, Tara, chỉ đến khi hấp hối, mới la tên người yêu, thời còn con gái, rồi... đi!


Đọc Chuyện Cũ Hà Nội ( Đặng Tiến)
Thương nhớ Tô Hoài ( Đặng Tiến)
Tổng quan về Hồi Ký Tô Hoài ( Đặng Tiến)


SOMETIMES A MAN STANDS UP
DURING SUPPER

Sometimes a man stands up during supper
and walks outdoors, and keeps on walking,
because of a church that stands somewhere in the East. 

And his children say blessings on him as if he were dead. 

And another man, who remains inside his own house,
dies there, inside the dishes and in the glasses,
so that his children have to go far out into the world
toward that same church, which he forgot. 

RAINER MARIA RILKE

translated by Robert Bly

Note: Có vẻ như bài thơ trên có thể dùng để tiễn đưa cha đẻ “Ba Thằng Lăng Nhăng”:

Đôi khi một người đàn ông đứng lên
trong bữa ăn tối

Đôi khi một người đàn ông đứng lên trong bữa ăn tối
Bước ra ngoài, và tiếp tục bước
Vì một ngôi nhà thờ ở đâu đó ở phía Đông

Và mấy đứa con bèn đi 1 đường chúc phúc, như thể bố mình ngỏm 

một đấng khác, bèn cứ ngồi lỳ trong căn nhà của chính mình
Và chết, giữa đống chén dĩa, đồ ăn
Mấy đứa con bèn phải đi ra bên ngoài,
Về phiá cũng ngôi nhà thờ mà ông bố mình quên béng, hoặc đếch thèm nhớ!

Ui chao, không lẽ trong những đứa con của Ông Bố Bắc Kít này, chỉ mỗi một mình Gấu là “bèn di ra ngoài, về phía nhà thờ mà ông Bố của mình quên béng rồi” ư?
Chứ gì nữa. Chỉ có mình mi!
Hà, hà!


*

@ Factory's Bistro

Lần gặp ở nhà NDT, NVL đang đóng vai bodyguard cho DN. Gấu ghé tai em nói nhỏ, có vẻ tìm đúng người, em mỉm cười, gật đầu, em cũng có cái “feeling” như vậy.
Nhưng cuộc tình đúng là ở giữa 2 lần mở và đóng [and live the space of a door that opens and shuts] bởi vì chỉ được ít lâu, Gấu nghe nói bodyguard ôm đầu máu chạy về lại xứ lạnh, hà, hà!
Gấu bất giác nhớ đến lần Gấu Cái [Gấu Cái nhe] gặp DN lần đầu tiên, trong đám cưới, của con của 1 cô bạn cùng học với Gấu Cái từ những ngày tiểu học, trường tiểu học Ðốc Binh Kiều, Cai Lậy.
Ðám cưới ở tiểu bang Atlanta. Có Tara của Cuốn Theo Chiều Gió. Cả đám bạn gái của Gấu Cái thì đều rành cuộc tình của GCC với cô phù dâu, vì họ đều cùng học Ðốc Binh Kiều. Ai cũng trách cô bạn lẫn ông chồng khốn nạn hết.

Hà, hà!

Mày đã thu xếp qua chơi bên Mĩ này lần nữa vào dịp Tết cuối năm nay chưa? Chúc sức khỏe.
À, Văn sẽ về VN Thứ Tư tuần sau thăm ông già nó đang rất yếu, ăn uống không được.
NKL


Ðời trong mộng

Rất nhiều kẻ như thằng cha GCC trong số chúng ta. Nó tưởng tượng ra hình bóng này, hình bóng nọ, rồi si mê, không phải 1 con người thực, mà là một ý tưởng mà nó dâng lên thánh nữ.
Lạ là không bao giờ nó tỉnh mộng, vỡ mộng cả, thế mới cà chớn!
Sắp đi xa mà vẫn như đứa con nít ngày nào dừng cái mobylette ở bên lề đường, nơi cổng trường Gia Long, đợi BHD  tan học về, đến nỗi bị Ban Giám Hiệu ra thông báo, cấm cái trò đưa đón như vậy.

Ðầy giọng cà chớn, thật dễ ghét!

Tks again. NQT

Hồi này Thầy Cuốc hết còn múa may trường phái văn học này, cách đọc gần, đọc xa kia, và chỉ “đành làm” [chôm chữ của TTT], 1 anh ký giả hạng bét, lèm bèm chửi VC, nhạt đến nỗi mấy đấng đệ tử cũng chán, hết còn hót rầm trời như hồi mới mở Blog. Bữa trước qua Cali, có 1 đấng hỏi GCC, Thầy Cuốc đâu có xứng để cho anh để mắt tới, Gấu bèn trả lời, đâu có phải như vậy. Gấu bị Thầy Cuốc đánh, qua diễn đàn Chợ Cá của Sến Cô Nương, từ những ngày nảo ngày nào, Gấu đâu có trả lời, đến nỗi Sến mà còn bực giùm, tại sao anh không trả lời, hay là già quá rồi, hết xí oát rồi. Phải đến mãi sau này, khi Gấu làm xong mấy chuyện kể như đại sự, thấy còn dư tí thời giờ, mới trở lại chuyện cũ, bởi nghĩ, một phần như Brodsky, khi trích dẫn 1 châm ngôn của anh Tẫu, cứ ngồi hoài bên bờ sông là sẽ có ngày nhìn thấy xác kẻ thù trôi qua, và một phần, như…  Ðường Tăng, khi vượt qua dòng sông sau cùng, tới Ðất Phật, nhìn thấy xác ‘kẻ thù’ trôi qua, bèn hỏi Phật, xác ai đó, Phật “xoa đầu” đệ tử GCC, phán, xác mi đó!

Hà, hà!
*

Trong những thánh ngôn của thánh nữ BHD có câu này, thật là tuyệt.

Vào những ngày Sài Gòn đảo chính lên đảo chính xuống, nhớ hồi em còn học Gia Long, lúc biểu tình xuống, biểu tình lên, có lần, nhờ Gia Long biểu tình bãi khoá mà Gấu có được hạnh phúc chở em lên nghĩa trang Bắc Việt, hôn em giữa những ngôi mộ, đám cỏ may, và thấy những hồn ma gật đầu, được, được, bèn nhờ Cô Nga điện thoại viên gọi điện thoại cho em. Ðúng như tiên đoán, ông bố khốn kiếp trả lời.

Không hỏi, có boyfriend chưa, hẳn có rồi, nhưng mà là, anh ta ra làm sao.

-Vừa ý ông bố em lắm. Vừa nghe rục rịch đảo chính là đã vác mấy bao gạo tới nhà H rồi.
Một lát cũng khá lâu, nói tiếp:
-Gấu không làm được chuyện đó đâu.

Ui chao, Gấu nghe mà sướng hết cả cõi lòng.

Về già, Gấu nghĩ ra, quả như thế, mà cũng không như thế.
Gấu làm được chuyện đó, dư sức làm chuyện đó, nhưng không làm sao nghĩ ra chuyện đó.
[Không trình ra cuộc đời như nó là, mà như nó ở trong mộng].