|
7.7.2012
Mừng
Anh Cu Lùn Sáu Tuổi
Happy
Birthday To U
5.7.2012
@ Lake
Huron, Canada Day
NYRB July
12, 2012
IMMIGRATION
AND
NATURALIZATION
We were that
rag head family
Catching
rainfall in a still.
The old
famines had us spooked,
Thirst-myths
passed on to us sons
By our
drunk, teary father,
Smack of
rock still on his tongue.
Once he had
to bite his tongue,
He told us,
so his family
Could drink
of him. His father
Didn't have
to ask. But still,
He said, you
boys are good sons.
Just do my
will. And don't speak.
We didn't.
Nobody spoke
To us,
either, though our tongues
Could
parrot, palate the sounds.
Yes. Yes,
that was my family,
Awed by
leavened bread, turnstiles,
Drinking
fountains; my father,
Screaming Respect your father
In public;
me, who did not speak.
Come dawn we
poured out the stills
And prayed
in a stranger's tongue
For the
health of our family
And the
rising of the sun.
Can I be my
father's son
Without
being my father?
Or am I
unfamiliar
Because of
the way I speak?
This
foreign, farangi tongue
That
borrowed some words and stole
The rest,
imperial style.
I want to be
a good son,
But without
biting my tongue.
I'm thinking
of my father.
It feels
like treason to speak
Publicly of
my family
But is it
still a family
When the son
cannot speak
The mother
tongue of the father?
-Amit
Majmudar
ps.
K dang gom may bai tho dich cua anh de lam mot bai "Tho Dich Nguyen
Quoc
Tru" . K cung muon tim nhung bai viet ve "Tho la gi ?" cua cac
tac gia anh hay de cap toi ma tim kho qua, vi anh de bai lung tung, ma
viet
cung lung tung . K muon thu thap de lam mot thu guidance cho minh
( va
gian tiep, cho nguoi khac ...)
Tks.
Many Tks
Cái
vụ dịch thơ này, thú vị thật.
Đã
được 1 bạn văn, thay mặt GCC, chào hàng với 1 nhà xb
ở trong nước, nhưng trục trặc vào giờ chót, đành bỏ.
Vả chăng, GCC thực sự cũng
không “khứng”! Vì sợ cú kiểm duyệt.
Bây
giờ K mà bắt tay vô thì tuyệt quá, vì thể nào trong khi biên tập như
thế, cũng
ngứa tay nhặt sạn.
Tks
again. Tôi sẽ đi 1 đường thu thập những bài viết về thơ của mấy đấng
như Simic,
Zagajewski…
NQT
Vẫn về thơ dịch.
Một vị độc giả TV đang chuyển Bi Khúc Bốn Tháng Sáu, của Liu
Xiaobo qua
tiếng Việt, từ nguyên tác. Tin Văn "xuất bản", tất nhiên, tuyệt tác
này, cùng với 1 số bài giới thiệu. GCC có đề nghị, hay là xb ở trong
nước, nhờ….
Mở Miệng chẳng hạn, vị độc giả phán, Trên Đỉnh Non Tản là quá OK rồi!
Tks
“Official
Inquiry Among Grains of Sand”
“Một
cuộc điều tra chính thức
giữa những
hạt cát”
Vang
Bóng Một Thời TSVC
TTT 2012
Bếp Lửa trong văn chương
Ghi
chú
trong ngày
The Violent
Visions of Slavoj Žižek
Những
viễn ảnh
hung bạo của Slavoj Zizeck
... that the
devil lies not so much in the detail of what constitutes
totalitariarism as in
what enables the very designation totalitarian: the liberal-democratic
consensus itself.
Slavoj Zizek
[SZ]: Did somebody say
totalitarianism? Ai nói chủ nghĩa toàn trị đó?
[Quỉ không hẳn
nằm trong chi tiết tạo thành chủ nghĩa toàn trị cho bằng nằm trong chi
tiết tạo
thành chính cái chỉ danh toàn trị: sự đồng thuận tự do dân chủ, đích
thị chính
nó].
SZ là một
trí thức hàng đầu trong những phong trào xã hội mới ở Trung và Đông Âu.
Ông là
nhà nghiên cứu cấp cao trong Học Viện Nghiên Cứu Xã Hội, Đại Học
Ljubljana,
Slovenia, thuộc Nam Tư cũ. Ông còn chuyên về phê bình phim ảnh, chính
trị, văn
học.
Trường hợp
Lê Công Định
Trên Điểm
Sách London, số 23 July, 2009, trong Berlusconi ở Tehran, Slavoj Zizek
viết:
Khi một chế
độ quyền lực đi tới cú giẫy chết, ngay trước khi đó, bất thình lình,
một cú gẫy
đổ, thoái vị bí ẩn, a mysterious rupture, xuất hiện, và nhân dân của nó
ngộ ra,
xong rồi, tới lúc rồi: họ giản dị ngưng sợ, they simply cease to be
afraid.
Không phải
chế độ mất tính chính thống, its legitimacy: cái sự phô trương quyền
lực của
nó, vào lúc này, làm cho người ta nhận ra, đây là một hành động trong
cơn hoảng
hốt, a panic action, một hành động của sự bất lực.
Rysard
Kapuscinski trong Shah of Shads,
kể về cuộc cách mạng Khomeini, đã định vị một
cách thật là rõ ràng, cái thời khắc bể vỡ, rồi thoái trào, này: Tại một
ngã tư
hay ngã ba, hay ngã sáu Tehran, một người biểu tình, chỉ một người, một
cư dân
của thành phố, hẳn thế, đếch chịu nhúc nhích khi một ông công an nhân
dân ra lệnh,
hãy đi chỗ khác chơi, và cái anh công an nhân dân bèn bứt rứt rút lui,
and the
embarrassed policeman withdrew!
Chỉ trong
vài giờ đồng hồ, cả thành phố đều biết biến cố trên, và mặc dù cuộc
chiến đấu
trong đường phố còn tiếp tục trong nhiều tuần lễ tiếp theo, nhưng mọi
người đều
hiểu, xong rồi!
Liệu cái cú
LCD, cái cú diễn đàn Bô Xịt, cái cú NTT, là những cánh chim báo bão, về
cái cú
‘gẫy đổ, sụm bà chè bí ấn’ của nhà nước VC? Hình như ngài Bùi Tín có vẻ
rất tin
tưởng chuyện này, vì trước đó chưa hề có. Những LCD, NTT, những đứa trẻ
của
cách mạng 30 Tháng Tư 1975, đúng ra là phải ngồi vào chỗ của họ, ở trên
đầu
nhân dân, vậy mà không khứng ngồi, báo hiệu cái mysterious rupture mà
Zizek nói
tới.
Có thể lắm,
bởi vì cái sự bắt giữ LCD, NTT... có gì hoảng loạn ở trong đó.
*
Blogger Huỳnh
Thục Vy nói trong phỏng vấn với BBC sau khi được trả tự do rằng Đảng
cầm quyền
đã suy yếu và người dân cần can đảm đấu tranh. (1)
Số NYRB số mới
nhất July 12, 2012 có mấy bài thật thú. Thí dụ, bài điểm cuốn tiểu sử
của Aung
San Suu Kui, The Lady and the Peacok:
Những Ngày Miến Điện, Burmese Days [chắc
là thuổng Những Ngày Ở Sài Gòn của...
Gấu!],
nhưng cái tít ở trang bìa mới thú: Miến Điện: Phía Mặt Tối [Burma:
The Dark Side]. (2)
TV sẽ giới
thiệu bài này, thay cho bài điểm cũng cuốn này, trên tờ TLS.
Bài viết về Mẽo Đực Tiểu Thuyết Gia cũng.... thú lắm, American
Male Novelists: The
New Deal, trong đó, tác giả bài viết nói về sự khác biệt
giữa Michel
Houellebecq và John Updike, thí dụ: Cùng 1 thứ nhân vật, đếch được gái
yêu, và
cùng thứ bịnh, loserdom, nhưng mỗi ông viết cách.
Người ta
không đo đạc con người bằng những tấm bản đồ.
Note: Trong
bài Préface, Freud quả có nhắc tới vụ
Dos bị tố làm thịt một bé gái [l’attentat sexuel commis sur une petite
fillette]. GCC nhớ là, đọc vụ này trên 1 tờ nhật báo, trang văn học chủ
nhật, [tờ Toronto Star, hình
như vậy], sợ quá, ném ngay tờ báo vô thùng rác, nhằm
thủ
tiêu tang chứng!
…
tôi chắc chắn một điều, cho dù miền đèo heo hút gió đó - tôi muốn nói
Bắc Hàn -
tà ma ác quỉ tới mức nào, tôi chẳng thể thù ghét nó." ("... I am
certain, no matter how evil North Korea is supposed to be, that I could
never
hate it". Suki Kim: A Visit to North Korea, NYRB, số đề ngày 13 tháng
Hai,
2003)
Ui
chao, GCC cũng muốn phán như thế, về cái xứ "quỉ tha ma bắt", quê hương
Bắc Kít của Gấu, nhưng sao… khó quá!
Hà,
hà!
*
Tôi vẫn tự
chế nhạo mình viết như một ca sĩ không có giọng hát tốt, yêu hát nhưng
không
vươn lên nốt cao được cũng không cúi xuống nốt trầm được, nên mãi mãi
hát những
nốt chung chung ngang phè phè nghe ngấy lỗ tai.
Tôi có những
nỗi đau, tự trách mình nhưng giấu kín không dám viết ra, không dám đối
diện với
cái thất bại, cái ngu xuẩn của chính mình. Biết chỗ nào đau tôi né
tránh chứ
không hề dám đụng đến.
Blog HH
Tình cờ, GCC đọc bài viết
ngắn trên, cùng lúc đang đọc cuốn A Reader on Reading
[Một độc giả về Đọc]
của Alberto Manguel. Trong có bài viết The
End of Reading [Chấm dứt Đọc].
Trích:
Lars
Gustafsson, trong cuốn tiểu thuyết cảm động của mình, Death
of a Beekeeper [Cái chết của Người giữ mật ong], trong đó, nhân
vật kể chuyện, Lars Lenmart Westin, chết vì ung thư, trước khi chết,
làm 1 danh sách những hình
thức nghệ thuật, art forms, theo mức độ khó khăn của chúng, according
to their
level of difficulty.
Đứng đầu là nghệ thuật huê tình [erotic arts. Thảo nào viết
về sex cực khó!], tiếp theo là âm nhạc, thơ, kịch…
Nhưng có 1 thứ hình thức nghệ
thuật không làm sao lọt vô danh sách trên: Nghệ thuật ôm nỗi đau, the art of
bearing pain. “Chúng ta đụng hình thức nghệ thuật độc nhất mà
mức độ khó quá
cao”, Westin viết, “cho đến nay, chưa từng có ai hiện hữu để mà thực
tập nó”.
*
Brodsky phán:
Có một giả
tưởng quái đản cho rằng có đau khổ mới có nghệ thuật lớn, Đau khổ làm
cho người
ta mù lòa, điếc lác, tàn hại, và thường khi, sát nhân. [It’s an
abominable
fallacy that suffering makes for great art. Suffering blinds, deafens,
ruins,
and often kills]. Osip Mandelstam là nhà thơ vĩ đại “trước” cách mạng.
Cũng vậy,
là Akhmatova. Cũng vậy, là Marina Tsvetaeva. Họ sẽ vẫn là họ, đếch cần
đến cái
cuộc cách mạng đó, đếch cần dù chỉ một biến cố lịch sử đó giáng lên đầu
dân
Nga: Bởi vì họ là thiên bẩm [gifted].
Cơ bản mà
nói, tài năng đếch cần lịch sử.
Joseph
Brodsky: Ai điếu Nadezhda Mandelstam
[1899-1980].
Cơ bản, tài
năng đếch cần lịch sử. [Basically, talent doesn’t need history]. Hãy
nhớ lại những
tài năng tiền chiến, đếch cần tới Mùa Thu Lịch Sử sau đó. Thê thảm hơn,
họ bị
nó nghiền nát bấy, biến thành, hoặc đao phủ hoặc nạn nhân. Người đọc
chẳng đã sửng
sốt vì những cái độc cái ác đầy rẫy ở trong sổ Ghi của Trần Dần, chúng
đâu làm
cho tài năng của ông lớn thêm lên đâu?
Một cách nào đó, phải coi hành
động tiêu
diệt nhóm Nhân Văn Giai Phẩm như
là một hành động sát nhân.
Chúng ta hãy
so sánh những bài Mùa Cầm Xanh,
của thi sĩ Joseph Huỳnh Văn, được làm vào thời
kỳ miền nam tương đối thanh bình, với những bài sau này, như Em đẹp như cách mạng
[1972], hay Cây Đa Bến Cũ Hồn Ta
[1975], là thấy rõ.
Những bài Mùa Cầm Xanh,
giống như một cõi Thiên Thai của Văn Cao.
Hai bài sau, đã nhuốm
mùi trần tục: Thi sĩ sửa soạn, dọn mình, để cùng đau với cả một miền
đất, với bạn
bè của ông.
Mùa Cầm
Xanh
làm năm 1970, như để chào mừng Tập
San Văn Chương, tờ báo của đám bạn, với ông là Tổng Thư Ký!
Ông, và đám
bạn của ông có thể tự hào, Tập San
Văn Chương [1972-1974?] là "đỉnh
cao" cuối cùng của văn học Miền Nam, trước
khi được dán nhãn phản động đồi trụy tuốt
luốt.
1972, nghĩa
là, sau Mậu Thân 1968?
Đúng như vậy,
và do đó, theo tôi, có lẽ phải đọc Mùa
Cầm Xanh theo dòng của Tống
Biệt,"suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi",
"mấy năm tiên cảnh [1954-1975], một bước trại giam".
Muối mặn
chưa trao ngày nhạt nắng
Miếng gừng
cay đắng tới ngàn sau
Và đây là cảnh
chia ly, ‘bước chân xuống thuyền nước mắt
như mưa”:
Khuya nức nở
những cõi lòng không ngủ
Đợi vì sao dậy
sớm tiễn người đi
Trang
Thơ
Joseph Huỳnh Văn
Đọc
Joseph
và Akhmatova
Gallant in
Paris in 1959. "No one is as real to me as people in the novel," she
wrote.
Miếng Cơm
Manh Chữ
hay là
Nhật Ký Đói
THE HUNGER
DIARIES
A writer's
apprenticeship.
BY MAVIS
GALLANT
In 1950, at
the age of twenty-eight, Mavis Gallant left a job as a journalist in
Montreal
and moved to Paris. She published her first short story in The New
Yorker in 1951
and spent the next decade travelling around Europe, from city to city,
from
hotel to pension to rented apartment, while working on her fiction.
The
following excerpts from her diary cover March to June, 1952, when
Gallant was
living hand to mouth in Spain, giving English lessons and anxiously
waiting for
payment for her New Yorker stories to arrive via her literary agent,
Jacques
Chambrun.
Ghi_1/chet_vi_tinh.html
Note: Bài
đang hot!
Lạ thật! Làm
sao mà độc giả mò ra nó?
Cali 1998 @
NMG's
|
|