|
From
Russia With Love
Reading in
Iowa City, Iowa
Đọc thơ ở Iowa City
SOME YEARS
ago, Joseph came to Iowa City, the University of Iowa where I directed
the
Translation Workshop, to give a reading; I was to read the English
translation.
At the end, he was asked a number of (mostly loaded) questions,
including one (alluded
to earlier) about Solzhenitsyn. "And the legend which had been built
around him?" His answer managed to be both artfully diplomatic and
truthful: "Well, let's put it this way. I'm awfully proud that I'm
writing
in the same language as he does." (Note, again, how he expresses this
sentiment in terms of language.) He continued, in his eccentrically
pedagogical
manner, forceful, even acerbic, but at the same time disarming, without
any
personal animus: "As for legend ... you shouldn't worry or care about
legend, you should read the work. And what kind of legend? He has his
biography
... and he has his words. "For Joseph a writer's words were his
biography,
literally!
On
another visit to Iowa, in 1987, Joseph flew in at around noon and
at once asked me what I was doing that day. I told him that I was
scheduled to
talk to an obligatory comparative literature class about translation.
"Let's do it together", he said. Consequently I entered the
classroom, with its small contingent of graduate students, accompanied
by that
year's Nobel Laureate.
Joseph
indicated that he would just listen, but soon he
was engaging me in a dialogue, except it was more monologue than
dialogue. Finally,
he was directly answering questions put to him by the energized
students. I
wish I could remember what was said, but, alas, even the gist of it
escapes me
now. I did not debate with him, even though our views on the
translation of verse
form differed radically. Instead, I believe that I nudged him a little,
trying
- not very sincerely or hopefully, though perhaps in a spirit of
hospitality
and camaraderie - to find common ground. After the class, I walked back
with
him to his hotel, as he said he wanted to rest before the reading. On
the way,
the conversation, at my instigation, turned to Zbigniew Herbert, the
Polish
poet so greatly admired by Milosz and, I presumed, by Brodsky, and
indeed
translated by the former into English and by the latter into Russian.
Arguably,
Herbert was the preeminent European poet of his remarkable generation.
He was living
in Paris and apparently was not in good health. "Why hasn't Zbigniew
been
awarded the Nobel Prize? Can't something be done about it", I blurted
out
- recklessly, tactlessly, presumptuously. The subtext was: Surely you,
Joseph
Brodsky, could use your influence, etc. Joseph came to a standstill:
"Of course,
he should have it. But nobody knows how that happens. It's a kind of
accident."
He locked eyes with me. "You're looking at an accident right now!"
This was not false modesty on his part, but doubtless he was being more
than a
little disingenuous. Nevertheless, I believe that, at a certain level,
he did
think of his laureateship as a kind of accident. Paradoxically, while
he aimed as
high as may be, he was not in the business of rivalling or challenging
the
great. They remained, in a sense, beyond him, this perception of
destiny and of
a hierarchy surely being among his saving graces.
In a
far deeper sense,
though, they were not in the least beyond him, nor was he
uncompetitive, but it
did not (nor could it) suit his public or even private persona to
display this.
Brodsky certainly considered himself to be - and it is increasingly
clear that
he was - in the grand line that included Anna Akhmatova, Boris
Pasternak, Osip
Mandelstam and Marina Tsvetayeva. Even I sensed this, despite my
ambivalence
about his poetry. Indeed, the continuity embodied in his work accounts,
in
part, for my uncertainty: I have tended to rebel against grand
traditions. But
perhaps this is to exaggerate. At times I hear the music, at other
times the
man, even if, as a rule, I do not hear them both together ... But take,
for
instance, this (the last three stanzas of "Nature Morte" in George
Kline's splendid version in the Penguin Selected Poems):
Mary now
speaks to Christ:
"Are
you my son? - or God?
You are
nailed to the cross.
Where lies
my homeward road?
How can I
close my eyes,
uncertain
and afraid?
Are you
dead? - or alive?
Are you my
son? - or God?
Christ
speaks to her in turn:
"Whether
dead or alive,
Woman, it's
all the same-
son or God,
I am thine."
It is true
that, as I listen to or read the English, I hear the Russian too, in
Joseph's
rendition. I even see Joseph, his hands straining the pockets of his
jacket,
his jaw jutting, as though his eye had just been caught by something
and he
were staring at it, scrutinizing it, while continuing to mouth the
poem, almost
absent- mindedly, that is, while the poem continues to be mouthed by
him. His
voice rises symphonically: Syn ili Bog
(Son or God), "God" already (oddly?) on the turn towards an abrupt
descent; and then the pause and a resonant drop, a full octave: Ya tvoi (I am thine). And the poet, with
an almost embarrassed or reluctant nod, and a quick, pained smile,
departs his
poem.
Daniel
Weissbort: From Russia With Love
Note: Bài
này cũng cực thú. Bị khán giả chất vấn, mi so sao với Solz, Brodsky bèn
trả lời,
tớ có cái hãnh diện là viết bằng cùng thứ tiếng với ông ta:
"And
the legend which had been built around him?" His answer managed to be
both
artfully diplomatic and truthful: "Well, let's put it this way. I'm
awfully proud that I'm writing in the same language as he does." (Note,
again, how he expresses this sentiment in terms of language.)
Chỉ có hai nhà thơ sống
"sự
thực tuyệt đối" của thời chúng ta, bằng cuộc đời “đơn” của họ, là
Brodsky và TTT!
Son of Man
and Son of God
Tuesday,
July 29, 2014 4:11 PM
Thưa ông Gấu,
Xin góp ý với
ông Gấu về một đoạn thơ đã post trên trang Tinvan.
Nguyên tác:
Christ
speaks to her in turn:
“Whether
dead or alive
woman, it’s
all the same –
son or God,
I am thine
Theo tôi, nên
dịch như sau:
Christ bèn
trả lời:
Chết hay là
sống,
Thưa bà, thì
đều như nhau –
Con, hay
Chúa, ta là của bà
Best
regards,
DHQ
Phúc đáp:
Đa
tạ. Đúng là Gấu dịch trật, mà đúng là 1 câu quá quan trọng.
Tks again.
Best Regards
NQT
Note: Không làm sao kiếm ra khúc dịch trật nữa!
Son
of Man and Son of God (2)
Today at 12:02 PM
Dear ông
Gấu
Cháu xin
phép giúp ông tìm lại bản dịch "trật"
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/14.html
Mary nói với Christ:
Mi là con ta? - hay là Chúa Trời?
Mi bị đóng đinh thập tự.
Đâu là con đường trở về quê hương của ta?
Mary now speaks to Christ:
"Are you my son-or God?
You are nailed to the cross
Where lies my homeward road?
Can I pass throught my gate
not having understood:
Are you dead ? - or alive?
Are you my son - or God?
Christ bèn trả lời:
Chết hay là sống,
Đàn bà, thì đều như nhau –
Con, hay Chúa, ta là thine
Christ speaks to her in turn:
“Whether dead or alive
woman, it’s all the same –
son or God, I am thine
Best
regards,
Phúc đáp:
Tks
Take Care
Như vậy là
GCC không dịch được từ “thine”, và không hiểu, từ "woman", trong câu
thơ.
… Anh khoe khong?
K
OK rồi, không què đâu. Tks
NQT
Mạnh
khỏe la vui roi!
O.
Tks. Tưởng là què luôn.
V/v Đi tu tới bến.
Tôi
đang đọc Weil, cũng có cảm giác đó
Bác Tru theo
dao nao vậy?
Toi theo
dao
tho ong ba
Den gia, doc
Weil, thi lai tiec.
Gia ma tre
theo dao Ky To, chac là thành quả nhiều hơn, khi doc Weil.
Gentile or
Jew or simply a man
Whose face
has been lost in time,
We shall not
save the silent
Letters of
his name from oblivion.
What could
he know of forgiveness,
A thief whom
Judea nailed to a cross?
For us those
days are lost.
During his
last undertaking,
Death by
crucifixion,
e learned
from the taunts of the crowd
That the man
who was dying beside him
Was God. And
blindly he said:
Remember me
when thou eomest
Into thy
kingdom, and from the terrible cross
The
unimaginable voice
Which one
day will judge us all
Promised him
Paradise. Nothing more was said
Between them
before the end came,
But history
will not let the memory
Of their
last afternoon die.
O friends,
the innocence of this friend
Of Jesus!
That simplicity which made him,
From the
disgrace of punishment, ask for
And be
granted Paradise
Was what
drove him time
And again to
sin and to bloody crime.
[Mark
Strand]
J.L. Borges
Luke XXIII
Không phải
Do Thái, hay Do Thái, hay giản dị một người đàn ông
Mặt, thời
gian bào mòn
Chúng ta
cũng không thể nào
Giành lại được
từ quên lãng
Những con chữ
câm lặng
Là cái tên của
anh ta
Anh ta biết
gì về tha thứ
Tên trộm từ
Judea, bị đóng đinh vô thập tự?
Với chúng
ta, những ngày đó đã mất.
Trong cú
cuối cùng của anh ta
Chết bằng
đóng đinh thập tự
Anh ta biết,
từ những lời chế nhạo của đám đông
Người đang
chết kế bên anh ta,
Là Chúa.
Và mù lòa, anh nói:
Xin hãy nhớ
đến tôi khi Người vô
Nước Thiên
Đường
Và từ cây thập
tự khủng khiếp
Một giọng
nói không thể nào tưởng tượng được
Một ngày nào
sẽ phán xét tất cả chúng ta
Hãy hứa với
anh ta Thiên Đàng.
Chẳng lời
nào nữa được thốt ra giữa họ trước khi tận cùng
Và lịch sử sẽ
không để cho hồi ức của buổi chiều cuối cùng này chết.
Ôi bạn bè, sự
ngây thơ vô tội của người bạn của Giê Su.
Khiến anh thoát khỏi hình phạt ô nhục
Khẩn
cầu
Và được ban
cho Thiên Đàng
Cho anh
ta thời gian
Và nữa, nữa,
tội lỗi, và tội ác
Note: Bài thơ này, GCC lôi ra, tính dịch, hoá ra là dịch rồi.
Nhưng có lẽ, bạn nên đọc thêm, những dòng thơ này, trong bài viết của
G. Greene:
THE LOST CHILDHOOD
In ancient shadows and
twilights
Where childhood had
strayed,
The world's great sorrows
were born
And its heroes were made.
In the lost boyhood of
Judas
Christ was betrayed.
TLS Mar 6 2015
Mẩu Đoạn
Bóng nắng
chạy
ngoằn ngoèo theo con bãi, vô tới đám cây anh túc
Như sau cùng
được con gió buông tha
Những điều
em nói, Gấu chỉ nhớ ba chớp ba nháng
Nhưng đếch
thèm ghi notes
Who cares?
Gấu thú thật
cũng có tí ham muốn ghi lại
Cái gì gì, lời
nào em không nói,
Tình nào
không gian dối
Nhưng lúc
này, đến lượt Gấu nhăn mặt với cái bãi.
Em sẽ ngồi ở
cái ghế bành
Và ngắm Gấu
nhăn mặt
GREEK
STATUE
With the
help of people and the other elements
time hasn't
done a bad job on it.
It first
removed the nose, then the genitalia,
next, one by
one, the toes and fingers,
over the
years the arms, one after the other,
the left
thigh, the right,
the
shoulders, hips, head, and buttocks,
and whatever
dropped off has since fallen to pieces,
to rubble,
to gravel, to sand.
When someone
living dies that way
blood flows
at every blow.
But marble
statues die white
and not
always completely.
From the one
under discussion only the torso lingers
and it's
like a breath held with great effort,
since now it
must
draw
to itself
all the
grace and gravity
of what was
lost.
And it does,
for now it
does,
it does and
it dazzles,
it dazzles
and endures-
Time
likewise merits some applause here,
since it
stopped work early,
and left
some for later.
Wislawa
Szymborska: Here
Tượng
Hy Lạp
Với sự giúp
đỡ của con người và những yếu tố khác
Thời gian đã
làm được một việc không tệ ở đây.
Trước tiên,
nó liếm cái mũi, rồi tới bộ đồ lòng
Tiếp, từng cái
một, ngón chân, ngón tay
Theo năm tháng, những cánh tay, cái này tới cái kia
Bắp đùi trái,
phải
Vai, hông, đầu,
mông đít,
Và bất cứ cái
gì rời ra,
là kể từ đó, trở thành miểng,
thành sỏi, đá, thành cát.
Khi một người
nào đó đang còn sống, chết kiểu như trên
Máu tuôn ra
từ mọi cú liếm.
Nhưng tượng đá
chết trắng
Và không phải
luôn luôn trọn vẹn
Từ cái chết đang
được bàn tới ở đây,
Còn một
nửa,
Còn bức tượng
bán thân
Cứ như thể, mọi
hơi thở, cố níu kéo
Bởi vì kể từ
bây giờ
Nó phải níu vào
chính nó
tất cả ân sủng
và trọng lực (1)
cái phần đã
bị liếm mất
Và nó làm được
Kể từ giờ này
nó làm được
Và nó chói
lòa,
Nó chói loà,
và nó kéo dài, nó tồn tại –
Thời gian,
như thế, thì cũng đáng để mà vỗ tay khen 1 phát ỏ đây,
Kể từ khi mà
nó ngưng cái việc liếm, để mai tính, mốt tính, cái phần còn lại.
(1)
Chắc là thuổng
hai từ này của Simone Weil.
Bà này, “bạn quí” của
Milosz, mà Milosz thì là “đệ tử” của Weil!
Bài thơ quá tuyệt, nhưng bản dịch của GCC chưa tới, thực sự là vậy.
Không làm
sao mà nói lên được cái ý "ân sủng và trọng lực"!
NQT
ROMANTIC
LANDSCAPE
To grieve,
always to suffer
At the
thought of time passing.
The outside
world shadowy
As your
deepest self.
Melancholy
meadows, trees so still,
They seem
afraid of themselves.
The sunset
sky for one brief moment
Radiant with
some supreme insight,
And then
it's over. Tragic theater:
Blood and
mourning at which
Even the
birds fall silent.
Spirit, you
who are everywhere and nowhere,
Watch over
the lost lamb
Now that the
mouth of the Infinite
Opens over
us
And its dumb
tongue begins to move darkly.
Charles Simic
Phong cảnh lãng
mạn
Đau buồn, luôn
luôn đau buồn, đau thương
Khi nghĩ
thời gian cứ thế mà cắp đít ra đi
Thế giới ngoài
kia mới u ám làm sao
Y chang nơi
sâu thẳm của mỗi tên Gấu Cà Chớn
Đồng cỏ rầu
rĩ, cây trầm tư
Như sợ, chính
chúng.
Bầu trời hoàng
hôn, trong một thoáng
Bỗng long
lanh với 1 cú đốn ngộ cực cao,
Và rồi, hết.
Kịch bi đát:
Máu me, tang
tóc
Ngay cả lũ
chim cũng đành chết sững.
Tinh thần, mi,
ở mọi nơi và ở không đâu,
Trông chừng
con cừu thất lạc
Bây giờ, khi tháng Vô Cùng
Mở ra trước chúng
ta
Và cái lưỡi
đần độn của nó bắt đầu lù tà mù chuyển động
Coetzee, kết
thúc bài viết “Cees Nooteboomm, tiểu thuyết gia, du lịch gia”, [trong
“Những bến
bờ xa lạ hơn, Stranger Shores] bằng những dòng, "dù muốn hay không,
Nooteboom là
1 phần của kỹ nghệ du lịch, part of tourism industry."
Nhưng, Cees
Nooteboom còn là 1 thi sĩ. Khi ông bắt đầu làm thơ, ở Hà Lan vào năm
1956, ông
bị coi là 1 kẻ bị ruồng bỏ, an outcast, vì đếch chiều theo cung cách
mần
thơ vào thời này, for not abiding by the conventional experience style
popular
at the time.
Thay vì chiều theo, thì ông bèn học làm thơ từ hải ngoại, và dịch
chúng.
Đúng là 1
kinh nghiệm quá cần thiết cho thơ Mít.
Thơ của ông, thì trong sáng, và huyền bí,
lucid and mysterious, khơi gợi và thoái thác, evocative and elusive, và
tuyển tập
thơ "Ánh sáng khắp nơi" gồm những bài do chính tác giả tuyển chọn.
traveller
In the
tortured reeds, those two women
wrapped in
their cloaks.
They've been
there for hundreds of years.
Tonight they
guard my fear.
And you, the
devil of my poisoned dreams,
pursuing and
confusing me
on an
Oriental evening like this,
what do you
want?
There are so
many things I haven't learnt,
I only know
myself in reverse, a refugee
running to
meet me,
fleeing
punishment.
Two Japanese
women, once seen
in a storm,
preserved and drawn
in a flaming
gust of leaves.
What are
these things?
I am a
traveller, who was looking for peace.
AN OLD DOG
Okinamaro
are you
still keeping watch
without
sleep through the short summer nights
Washing my
feet in a basin
I see that
the basin leaks
water
running out like the last of spring
A fish in an
old well
leaps at
mosquitoes
a sound of
darkness
Yosa Buson
Japanese
1716-1783
W.S. Merwin: Selected Translations
Chó Già
Okinamaro,
Mi vưỡn canh
chừng, đếch chịu ngủ
Suốt những Đêm Hè
ngắn ngủi?
Rửa chân nơi
cái chậu ở ngoài sân
Gấu nhận ra
cái chậu nứt
Con nước cuối
của Mùa Xuân
Bèn chảy ra
Một chú cá nơi
giếng cũ
Đợp muỗi
Tiếng Động Đen
Parting
Three
hundred nights like three hundred walls
must rise
between my love and me
and the sea
will be a black art between us.
Nothing will
be left but memories.
o afternoons
earned with suffering,
nights
hoping for the sight of you,
fields along
my way, firmament
that I am
seeing and losing ...
Final as
marble
your absence
will sadden other afternoons.
W.S. Merwin
[Translated]
Borges: Selected
Poems
Gấu Đi Xa
Ba trăm đêm
như ba trăm bức tường
Phải mọc lên
giữa Người Yêu Gấu và Gấu
Và biển sẽ là
Nghệ Thuật Đen giữa đôi ta
Chẳng để
lại
cái gì, nếu có chăng, thì là hồi nhớ
Ôi những buổi
chiều đớn đau như lệ không rơi ngoài tim mình
Đêm - miệt mài
trông ngóng bóng hình Em -
Trải dài con
đường Gấu Đi Xa
Bầu Trời
Gấu nhìn và
mất dần ….
Tận cùng như
cẩm thạch
Sự vắng mặt
của Em
Thành Biển Sầu,
những buổi chiều khác.
THE DOORMAN
WHEN I CAME
home from a long walk, the doorman said that I no longer
lived here.
"Why?"
I asked, more out of surprise than fright.
"You
didn't exist enough," he answered.
"What
do you mean?"
"Well,
my dear sir," he went on, "those bouts of sadness, silence,
melancholy ... They did not go unremarked."
"And
what about you?" I shouted. "You don't exist at all.
All you do
is read the sports section and watch television."
"That's
true," the doorman agreed, "sacred truth. Except that I don't have to exist. I'm
a doorman, an observer."
"No,"
I countered, "I'm the observer."
"You
are mistaken, my dear sir," he answered firmly. "But it doesn't
matter anyway. We were counting on your existing beautifully.
"
"And
you mean I disappointed you?"
"The best
proof is that you no longer live here."
Indeed, I
noticed at that very moment that someone new was moving
into my apartment.
When we
passed each other, I whispered maliciously,
"Well,
you won't be staying here long."
Adam
Zagajewski: Two Cities
Tên Gác Cửa
Tớ trở về nhà
sau 1 chuyến tản bộ dài, và người gác cửa phán, mi không còn ở đây nữa.
Tại sao? Tớ
hỏi, ngạc nhiên nhiều hơn là sợ hãi.
Mi không có
sống đủ. Hắn trả lời.
Ông nói
chi?
“Vâng thưa ông",
hắn tiếp tục,”những mẩu buồn bã, câm nín, sầu muộn, cái gì gì, "nhân
hậu và cảm động"… chúng vắng mặt 1 tí, là thiên
hạ nhận ra liền”
Thế còn mi
thì sao? Mi cũng đâu có hiện hữu, tồn tại cái con mẹ gì! Tối ngày ôm tờ
Thể
Thao, hoặc dán mắt vô cái TV!
“Đúng thế”,
người gác cửa phán. “Đó là sự thực, sự thực thiêng liêng, thần thánh!”
“Tuy nhiên,
tớ mà cần gì hiện hữu!”. “Tớ
là kẻ ngoại cuộc, một tên gác cửa!”
No! Không,
Ta mới mà tên ngoại cuộc, người quan sát, “Dư Luận Viên”!
Ngài lầm rồi,
ngài Gấu Cà Chớn! Hắn nói 1 cách rất ư là vững vàng.
Nhưng cũng chẳng có gì là
quan trọng, nói cho cùng.
Chúng tôi trông mong vào sự hiện hữu của GCC, GNV,
Hai Lúa… sự hiện hữu tuyệt đẹp của trang TV của Ngài, hà, hà!
Như vậy là
thằng cha GCC làm ông không hài lòng?
Thì rõ ràng là
như thế. Chứng cớ rõ ràng, ông có còn ở đây nữa đâu?
Quả thế thực,
vì đúng lúc đó, có 1 tên dọn vô.
Hai đứa đụng
nhau. GCC nói thầm vào tai kẻ lạ, một cách rất ư là láu cá chó, mi
không ở đây
lâu được đâu!
Hà, hà!
THE DOORMAN
WHEN I CAME
home from a long walk, the doorman said that I no longer
lived here.
"Why?"
I asked, more out of surprise than fright.
"You
didn't exist enough," he answered.
"What
do you mean?"
"Well,
my dear sir," he went on, "those bouts of sadness, silence,
melancholy ... They did not go unremarked."
"And
what about you?" I shouted. "You don't exist at all.
All you do
is read the sports section and watch television."
"That's
true," the doorman agreed, "sacred truth. Except that I don't have to exist. I'm
a doorman, an observer."
"No,"
I countered, "I'm the observer."
"You
are mistaken, my dear sir," he answered firmly. "But it doesn't
matter anyway. We were counting on your existing beautifully.
"
"And
you mean I disappointed you?"
"The best
proof is that you no longer live here."
Indeed, I
noticed at that very moment that someone new was moving
into my apartment.
When we
passed each other, I whispered maliciously,
"Well,
you won't be staying here long."
Adam
Zagajewski: Two Cities
Tên Gác Cửa
Tớ trở về nhà
sau 1 chuyến tản bộ dài, và người gác cửa phán, mi không còn ở đây nữa.
Tại sao? Tớ
hỏi, ngạc nhiên nhiều hơn là sợ hãi.
Mi không có
sống đủ. Hắn trả lời.
Ông nói
chi?
“Vâng thưa ông",
hắn tiếp tục,”những mẩu buồn bã, câm nín, sầu muộn, cái gì gì, "nhân
hậu và cảm động"… chúng vắng mặt 1 tí, là thiên
hạ nhận ra liền”
Thế còn mi
thì sao? Mi cũng đâu có hiện hữu, tồn tại cái con mẹ gì! Tối ngày ôm tờ
Thể
Thao, hoặc dán mắt vô cái TV!
“Đúng thế”,
người gác cửa phán. “Đó là sự thực, sự thực thiêng liêng, thần thánh!”
“Tuy nhiên,
tớ mà cần gì hiện hữu!”. “Tớ
là kẻ ngoại cuộc, một tên gác cửa!”
No! Không,
Ta mới mà tên ngoại cuộc, người quan sát, “Dư Luận Viên”!
Ngài lầm rồi,
ngài Gấu Cà Chớn! Hắn nói 1 cách rất ư là vững vàng.
Nhưng cũng chẳng có gì là
quan trọng, nói cho cùng.
Chúng tôi trông mong vào sự hiện hữu của GCC, GNV,
Hai Lúa… sự hiện hữu tuyệt đẹp của trang TV của Ngài, hà, hà!
Như vậy là
thằng cha GCC làm ông không hài lòng?
Thì rõ ràng là
như thế. Chứng cớ rõ ràng, ông có còn ở đây nữa đâu?
Quả thế thực,
vì đúng lúc đó, có 1 tên dọn vô.
Hai đứa đụng
nhau. GCC nói thầm vào tai kẻ lạ, một cách rất ư là láu cá chó, mi
không ở đây
lâu được đâu!
Hà, hà!
Charles
Simic
Charles
Simic is a sentence.
A sentence
has a beginning and an end.
Is he a
simple or compound sentence?
It depends
on the weather,
It depends
on the stars above.
What is the
subject of the sentence?
The subject
is your beloved Charles Simic.
How many
verbs are there in the sentence?
Eating,
sleeping, and fucking are some of its verbs.
What is the
object of the sentence?
The object,
my little ones,
Is not yet
in sight.
And who is
writing this awkward sentence?
A
blackmailer, a girl in love,
And an
applicant for a job.
Will they end
with a period or a question mark?
They'll end
with an exclamation point and an ink spot.
Charles Simic
Gấu Cà Chớn
GCC là 1 câu
Một câu với
1 khởi đầu và 1 kết thúc.
Câu, đơn hay
kép?
Cái đó còn tùy
thời tiết
Tùy mấy ngôi
sao ở trên đầu
Đề tài của câu
là cái gì?
Thì là thằng
cu Gấu thân thương của độc giả TV chứ là gì nữa?
Có bao nhiêu
động từ trong câu?
Ăn ngủ đụ ị…là
một vài động từ của nó
Túc từ của câu
văn?
Túc từ ư? Thì
cũng vài cái thân thương
Nhưng chưa lộ
rõ hẳn ra
Ai đang viết
câu văn cà chớn đó?
Một tên tống
tiền, một cô gái đang êu.
Và 1 kẻ đang
xin việc làm
Chúng sẽ chấm
dứt với dấu chấm hay dấu hỏi?
Chúng sẽ chấm
dứt bằng dấu than, và 1 giọt mực
Roque Dalton
Spanish
1935-1975
THE
CONCEITED
I'd be
wonderful at being dead.
Then my
vices would shine like ancient jewels
with those
delicious colors of poison.
There'd be
flowers of every scent on my tomb
and the
adolescents would imitate my expressions of joy,
my occult
words of anguish.
Maybe
somebody'd say I was loyal and good.
But you'd be
the only one who'd remember
the way I
looked into eyes.
1971
W.S. Merwin: Selected Translations
Tên phách lối,
láu cá chó
Hắn sẽ thần
sầu vào lúc hắn ngỏm
Khi đó, những
thói xấu của hắn sẽ sáng ngời như châu báu vạn niên
Với những màu
sắc tuyệt vời của thuốc độc
Sẽ có vạn thứ
hoa, đủ thứ mùi, trên mộ của hắn
Và đám hậu
duệ sẽ bắt chước những biểu hiện của niềm vui,
những lời tối
tăm khó hiểu của nỗi thống khổ của hắn.
Có thể, có kẻ nào đó sẽ
bênh vực hắn
Thằng chả thì... nhân hậu và cảm động!
Nhưng bạn là
người độc nhất nhớ
Cái cách mà
hắn nhìn vô mắt bạn.
Hắn là Gấu Cà
Chớn
Hà, hà!
Bài này đang Top. GCC đã dịch ra tiếng Mít. Post lại ở đây
Bài thơ này có trong From Russia
with Love, mà Tin Văn đang lai rai giới thiệu, và trong W.S.
Merwin, Selected Translations.
Những lời lèm bèm về nó, là của tác giả cuốn From Russia with Love.
The Jewish cemetery near
Leningrad.
A crooked fence of rotten plywood.
And behind it, lying side by side,
lawyers, merchants, musicians, revolutionaries.
They sang for themselves.
They accumulated money for themselves.
They died for others.
But in the first place
they paid their taxes, and
respected the law,
and in this hopelessly material world,
they interpreted the Talmud, remaining idealists.
Perhaps they saw more.
Perhaps they believed blindly.
But they taught their children to be patient
and to stick to things.
And they did not plant any seeds.
They never planted seeds.
They simply lay themselves down
in the cold earth, like grain.
And they fell asleep forever.
And after, they were covered with earth,
candles were lit for them,
and on the Day of Atonement
hungry old men with piping voices,
gasping with cold, wailed about peace.
And they got it.
As dissolution of matter.
Remembering nothing.
Forgetting nothing.
Behind the crooked fence of rotting plywood,
four miles from the tramway terminus.
Joseph Brodsky
Nghĩa địa Do Thái gần
Leningrad
Một hàng rào gỗ cong queo, mục nát
Và đằng sau nó, nằm, kế bên nhau
luật sư, thương nhân, nhạc sĩ, những nhà cách mạng
Họ hát cho họ
Họ tích tụ tiền bạc cho họ
Họ chết cho những người khác
Nhưng trước hết, trên hết, họ đóng thuế
Và tuân theo luật pháp
Và trong cái thế giới trần tục, vật chất, vô hy vọng
Họ giải thích Kinh Talmud, và luôn giữ mình,
như những con người lý tưởng
Có thể họ nhìn nhiều hơn
Có thể, họ mù lòa tin tưởng
Nhưng họ dậy con cái hãy kiên nhẫn
Và bám sát vào sự vật
Và họ không gieo mầm
Họ không hề gieo mầm
Họ giản dị nằm xuống
Trên đất lạnh như hạt
Và chìm vào giấc ngủ đời đời
Và sau đó, đất phủ họ
Những cây đèn cầy vì họ được đốt lên
Và vào cái Ngày Chuộc Lỗi, Đền Tội
Những ông già đói khát, với giọng như tiếng sáo,
Thở hổn hển vì lạnh
Rên rỉ về hòa bường, hòa bường
Và họ có nó
Như phân huỷ vật chất
Nhớ, chẳng nhớ gì
Quên, chẳng quên gì
Đằng sau hàng rào gỗ cong queo mục nát
Cách trạm xe điện cuối bốn dặm.
"Cemetery", as this poem
is called in the article, is uncharacteristic, not only on account of
the subject but prosodically as well. The first stanza is rhymed, but
thereafter the poem resolves itself into vers libre. I know of
no other poem like it in Joseph's published oeuvre. Indeed, were it not
that he never denied writing it, one might almost have thought it was
by someone else. In a sense, perhaps it was.
I never discussed it with Joseph, since we didn't
talk about our Jewishness, or even Judaism as such, though I may have
mentioned my own ambivalence. While it is sometimes suggested or
claimed that Joseph had rejected Judaism, as far as I know he neither
embraced it nor denied it. I think that his attitude did not really
change. He was a Jew of the assimilated, Russified kind, a "bad Jew",
as he put it, and not much interested in adopting or reclaiming the
tradition; in short, he was no "refusenik". On the other hand, for
instance, Anthony Rudolf, co-editor of the international anthology Voices Within the Ark: The Modern Jewish
Poets (1980) tells me that when asked if he would be willing to
be included in the book, Joseph replied that he wanted to be in it. And when, for
instance, he was asked at a press conference in Stockholm, in December
1987, at the Nobel ceremonies, how he would describe himself, he
answered: "I feel myself a Jew, although I never learnt Jewish
traditions." He added, however: "But as for my own language, I
undoubtedly regard myself as Russian."
Being a Jew, like being an exile, has certain
advantages, in that (anywhere other than in Israel, perhaps New York,
or wherever Jewish ghettos survive) it situates one on the margins,
rather than at the centre of society. Jews tend to take on the colour
of their surroundings. Jewish history, as a whole - and even "bad" Jews
are heirs to that history - gives the individual Jew a claim, however
tenuous, on a variety of cultural or linguistic territories. This is a
source of strength, but also of weakness, in that he may feel that he
truly belongs to none. Of course, Joseph did live in New York, but he
was frequently on the road, in the States or abroad, and had another
home in New England. Further- more, his exceptionally wide,
international circle of friends and acquaintances far transcended the
Jewish cultural world, assuming that there is such a thing.
"Nghĩa địa" như bài thơ
được gọi, trong bài viết, thì chẳng hay ho gì, không chỉ ở cái giọng kể
lể, mà còn cả ở cái chất thơ xuôi của nó. Khổ đầu thì còn có vần điệu,
nhưng sau biến thành thơ tự do. Ngoài nó ra, không còn bài nào
như thế, trong số tác phẩm của Joseph... nhưng khi được 1 tay xb hỏi,
có cho nó vô 1 tuyển tập Những tiếng
nói ở bên trong [chiếc thuyền] Noé: Những nhà thơ Do Thái Hiện Đại,
do anh ta xb, hay là không [Anthony Rudolf, co-editor of the
international anthology Voices Within the Ark: The Modern Jewish
Poets (1980) tells me that when asked if he would be willing to be
included in the book], Brodsky nghiêm giọng phán, ta "muốn" có nó,
trong đó!
Hay, thí dụ, trong lần trả lời báo chí Tháng Chạp, 1987, ở Stockholm,
khi tới đó lấy cái Nobel, “Tớ thấy tớ như 1 tên… Ngụy,
dù chưa từng biết truyền thống Ngụy nó ra làm sao”, và nói thêm, “Về
ngôn ngữ của riêng tớ, thì đúng là của 1 tên… Mít”!
Là 1 tên Ngụy, thì giống như 1 tên lưu vong, có tí lợi; nó đẩy tên đó
ra bên lề, thay vì ở trung tâm xã hội. Lũ Ngụy có thói quen choàng cho
chúng 1 màu của chung lũ chúng, ở loanh quanh chúng. Lịch sử Ngụy ban
cho từng cá nhân Ngụy 1 thứ văn hóa, và đây là nguồn sức mạnh của
chúng, nhưng vưỡn không làm sao giấu được nhược điểm, là ở bất cứ đâu,
bất cứ lúc nào, nó cảm thấy chẳng ra cái chó gì cả, hắn đếch thuộc về
ai, về đâu, đại khái thế!
The Word That Causes Death’s Defeat
Cái từ đuổi Thần
Chết chạy có cờ
Kinh Cầu đẻ ra từ một sự kiện, nỗi
đau cá nhân xé ruột xé gan, và cùng lúc, nó lại rất là của chung của cả
nước, một cách cực kỳ ghê rợn: cái sự bắt bớ khốn kiếp của nhà nước và
cái chết đe dọa người thân thương ruột thịt. Bởi thế mà nó có 1 kích
thước vừa rất đỗi riêng tư vừa rất ư mọi người, rất ư công chúng, một
bài thơ trữ tình và cùng lúc, sử thi. Nó là tác phẩm của ngôi thứ nhất,
thoát ra từ kinh nghiệm, cảm nhận cá nhân. Tuy nhiên, trong lúc chỉ là
1 cá nhân đau đớn rên rỉ như thế, thì nó lại là độc nhất: như sử thi,
bài thơ nói lên kinh nghiệm toàn quốc gia….
Đáp ứng, của Akhmatova,
khi Nikolai Gumuilyov, chồng bà, 35 tuổi, thi sĩ, nhà ngữ văn, trong
danh sách 61 người, bị xử bắn không cần bản án, vì tội âm mưu, phản
cách mạng, cho thấy quyết tâm của bà, vinh danh người chết và gìn giữ
hồi ức của họ giữa người sống, the determination to honor the dead, and
to preserve their memory among the living….
Trong 1 bài viết trên talawas, đại thi sĩ Kinh Bắc biện hộ cho cái sự
ông ngồi nắn nón viết tự kiểm theo lệnh Tố Hữu, để được tha về nhà tiếp
tục làm thơ, và tìm lá diêu bông, rằng, cái âm điệu thơ Kinh [quá] Bắc
[Kít] của ông, buồn rầu, bi thương, đủ chửi bố Cách Mạng của VC rồi.
Theo sự hiểu biết cá nhân
của Gấu, thì chỉ hai nhà thơ, sống thật đời của mình, không 1 vết nhơ,
không khi nào phải “edit” cái phẩm hạnh của mình, là Brodsky và ông anh
nhà thơ của GCC.
Chẳng thế mà Milosz rất thèm 1 cuộc đời như của Brodsky, hay nói như 1
người dân bình thường Nga, tớ rất thèm có 1 cuộc đời riêng tư như của
Brodsky, như trong bài viết của Tolstaya cho thấy.
Bảnh như Osip Mandelstam
mà cũng phải sống cuộc đời kép, trong thế giới khốn nạn đó. Để sống sót,
Mandelstam cũng đã từng phải làm thơ thổi Xì, như bà
vợ ông kể lại, và khi những người quen xúi bà, đừng bao giờ nhắc tới
nó, bà đã không làm như vậy:
Nadezhda Mandelstam
recalled how her husband Osip Mandelstam had done what was necessary to
survive:
To be sure, M. also, at
the very last moment, did what was required of him and wrote a hymn of
praise to Stalin, but the "Ode" did not achieve its purpose of saving
his life. It is possible, though, that without it I should not have
survived either. . . . By surviving I was able to save his poetry....
When we left Voronezh, M. asked Natasha to destroy the "Ode." Many
people now advise me not to speak of it at all, as thou it had never
existed. But I cannot agree to this, because the truth would then be
incomplete: leading a double life was an absolute fact of our age and
nobody was exempt. The only difference was that while others wrote
their odes in their apartments and country villas and were rewarded for
them, M wrote his with a rope around his neck. Akhmatova did the same,
as they drew-the noose tighter around the neck of her son. Who can
blame either her or M.
Roberta Reeder: Akhmatova, nhà thơ, nhà tiên tri
Trong khi lũ nhà văn nhà
thơ Liên Xô làm thơ ca ngợi Xì và được bổng lộc, thì M làm thơ ca ngợi
Xì với cái thòng lọng ở cổ, và bài thơ “Ode” đó cũng chẳng cứu được
mạng của ông. Người ta xúi tôi, đừng nhắc tới nó, nhưng tôi nghĩ không
được, vì như thế sự thực không đầy đủ: sống cuộc đời kép là sự thực
tuyệt đối của thời chúng ta.
Tuyệt.
Chỉ có hai nhà thơ sống sự
thực tuyệt đối của thời chúng ta, bằng cuộc đời “đơn” của họ, là
Brodsky và TTT!
Etkind relates how this
trial pitted two traditional foes against each other, the bureaucracy
and the intelligentsia. Brodsky represented Russian poetry.
Bosnia Tune
As you sip your brand of
scotch,
crush a roach, or scratch your crotch,
as your hand adjusts your tie,
people die.
In the towns with funny
names,
hit by bullets, caught in flames,
by and large not knowing why,
people die.
In small places you don't
know
of, yet big for having no
chance to scream or say goodbye,
people die.
People die as you elect
brand-new dudes who preach neglect,
self-restraint, etc.-whereby
people die.
Too far off to practice
love
for thy neighbor/brother Slav,
where your cherubs dread to fly,
people die.
While the statues disagree,
Cain's version, history
for its fuel tends to buy
those who die.
As you watch the athletes
score,
check your latest statement, or
sing your child a lullaby,
people die.
Time, whose sharp
bloodthirsty quill
parts the killed from those who kill,
will pronounce the latter band
as your brand.
[1992]
Joseph Brodsky: Collected Poems in English
Giai điệu Xề Gòn
Trong khi bạn nhâm nhi
ngụm cô nhắc
Chơi miếng cá, gãi tí háng
Hay sửa cái cà vạt
Người ta chết
Trong những thành phố với
những cái tên tức cười
Trúng bom, đạn hỏa tiễn, cháy hàng loạt
Chẳng hiểu tại sao
Người ta chết
Tại những nơi chốn nho
nhỏ, bạn chẳng biết đến, tuy nhiên thật lớn,
Bởi là vì bạn chẳng có cơ hội để mà than khóc, hay để vĩnh biệt,
Người ta chết
Người ta chết khi bạn bầu
lên một thằng chăn trâu, học lớp 1 làm thủ tướng
Để rao giảng về sự lơ là, tự kiềm chế, etc - ở đó
Người ta chết
Quá xa để mà thực tập tình
yêu
Cho người hàng xóm/người anh em Slav
Nơi chú bé thiên sứ của… Sến sợ hãi không dám bay
Người ta chết
Khi những pho tượng cãi
lộn om xòm
Về thằng anh Bắc Kít làm thịt thằng em Nam Kít
Lịch sử cần “bôi trơn”
Bằng ba triệu người chết trong cuộc chiến
Và, bằng hàng hà, sau đó.
Khi bạn coi Ký Ức Điện
Biên,
Hay đi 1 đường stt trên fb
Hay tôi ru em ngủ, ru mãi ngàn năm cái con khỉ gì đó
Người ta chết
Thời gian với cái ngòi bút
nhọn, lúc nào cũng thèm máu
Tách kẻ bị giết ra khỏi kẻ giết
Sẽ tuyên bố, lũ sát nhân
Như
là nhãn hiệu của bạn
Note: Bài thơ này, post
lại, là để mừng thôi nôi Văn Vịt!
GCC
NYRB Mar, 20
Cái Gối
Buổi sáng
Anh cô đơn, vững
vàng làm sao
Một tên khắc
kỷ trong tay áo vải bông
Anh có mơ bước
ra ngoài trời
Mưa hay nắng
Một cây nấm
cân bằng, chỉnh tranh trên cái xương ức
Bắt kịp em nơi
hè đường?
Đó là nụ cuời
của anh ư?
Bởi là vì
anh chẳng nói lên điều gì
Chẳng nói lên
anh ở đâu, thí dụ?
Lặng lẽ làm
sao anh vui với những dáng điệu, tính khí của em
Hẹn gặp anh đêm
nay
Nơi ngôi đền
tình ái tối thượng
Khi đó, anh
mới khác, làm sao
Note: Tính kiếm 1 bài thơ
cho ngày 8/3, nhưng, dịch thoáng, lấy ý, thì lại bật ra câu của Mít,
ban
ngày anh như... thần, ban đêm anh tần mần như... ma!
Đành thay bằng bài thơ sau
đây:
Last Dawn
Your hair
lost in the forest,
your feet
touching mine.
Asleep you
are bigger than the night,
but your
dream fits within this room.
How much we
are who are so little!
Outside a
taxi passes
with its
load of ghosts.
The river
that runs by
is
always
running
back.
Will
tomorrow be another day?
Octavio Paz
Bình
Minh Chót
Tóc em lạc trong rừng
Chân em đụng chân anh
Nửa thức nửa ngủ, em lớn hơn đêm
Nhưng giấc mơ của em thì gọn lỏn trong căn phòng
Đôi ta mới nhỏ bé làm sao!
Bên ngoài chiếc tắc xi chạy qua
Đong đầy hồn ma
Con sông chảy qua đi
Luôn luôn
Trở lại.
Liệu ngày mai sẽ là một
ngày khác?
THE WHITE
LABYRINTH
There is one
waiting for you,
On every
blank sheet of paper.
So, beware
of the monster
Guarding it
who'll be invisible
As he comes
charging at you,
Armed as you
are only with a pen.
And watch
out for that girl
Who'll come
to your aid
With her
quick mind and a ball of thread,
And lead you
by the nose
Out of one
maze into another.
-Charles
Simic
Mê cung trắng
Có một mê cung
như thế đấy
Nó đang chờ
bạn
Trên mọi tờ
giấy trắng
Vậy thì, hãy
coi chừng
Con quỷ vô hình
canh giữ nó
Nó sẽ quạt
cho bạn 1 trận
Yếu ớt như
bạn,
Trang bị bằng,
chỉ cây viết.
Và hãy trông
chừng
Luôn cả cô gái
Tới cứu bạn
Với cái đầu
lanh lẹn, với cuộn chỉ len
[Bằng 1 cuộn
chỉ như thế, 1 cô gái đã từng cứu được dũng sĩ Hercules
Ra khỏi mê
cung có quái thú Minotaur]
Cô gái sẽ xỏ
mũi bạn bằng sợi len
Kíu bạn ra
khỏi mê cung,
Và đẩy bạn vô
1 mê cung khác.
Thơ TTT
NYRB March
5, 2015.
Bài thơ thần sầu! Đúng vô
tâm trạng GCC. Nhất là khúc sau.
Nhà thơ như
biết, GCC rất ư đang cần, hà, hà!
Em nắm mũi GCC,
Dẫn ra khỏi mê cung [trắng, tức tờ giấy]
Tới một mê cung khác [đen thui ?]
Chắc hẳn!
Tiếng còi
trên sông Hồng
Tờ "Người Nữu
Ước", 9, Tháng Ba, 2015 tưởng niệm Mai Thảo!
Chắc là
nhân
đọc 1 tên cha căng chú kiết nào đó, thay vì đọc Gió O của Bà Huệ!
Thơ
Mỗi Ngày
Chị So
"cá
quẫy trong bụng cá, cá chết trong bụng cá, cá đẹp trong bụng cá
.....không một hạt máu cá, rơi ra ngoài miệng cá "
-Lãng Thanh-
Haiku Buson
Note:
Giang hồ vặt ghé net, đọc bài viết thì bèn nhớ đến dòng thơ TTT, “lệ
không rơi ngoài tim mình vs cá chết trong bụng cá]
Bèn bật ra dòng thơ waka, dưới đây, trong cuốn thơ bạn đường:
One
more year
The snow is piled up high
On Komachi Temple
[Chỉ
cần 1 năm thôi, là... NTN]
Komachi:
(Ono no Komachi): One of the six most admired waka poet in Kosinshu, the
ten-century Imperial anthology. Her verse “Soon faded are the
flowers/of the world/in the human heart” is often quoted to illustrate
transience in life.
Câu
thơ waka nói về tính ngắn ngủi của đời người, thì lại làm nhớ ra 1 câu
bạn K tặng GCC, nhưng ngại trích ở đây…
V/v
dòng thơ waka, GCC ưa dòng thơ sau đây, hơn, được trích dẫn nơi bìa sau:
Gấu
mang nỗi buồn của Gấu - như cục đá Sisyphus
Lên đỉnh đồi
Giữa những bông hoa dại
I
have brought the melancholy of my heart
Up the hill
To the wild roses in flower
[Thay
vì trích câu của K!]
HIGH TERRACES
Terraces high above the
brightness of the sea.
We were the first in the hotel to go down to breakfast.
Far off, on the horizon, huge ships maneuvered.
In King Sigismund
Augustus High School
We used to begin each day with a song about dawn.
I wake to light that
warms
My eye
And feel Almighty God
Nearby.
All my life I tried to
answer the question, where does evil come from?
Impossible that people should suffer so much, if God is in Heaven
Sân
thượng trên cao
Sân thượng cao hơn cả
vùng sáng của biển
Chúng tôi là những người khách đầu tiên của khách sạn
Đi xuống dùng điểm tâm
Xa tít xa, ở nơi đường chân trời, những con tầu lớn loay
hoay vận hành
Ở trường trung học King
Sigismund Augustus High School
Chúng tôi thường bắt đầu mỗi ngày bằng 1 bài hát về rạng đông
Tôi thức dậy sưởi ấm mắt
bằng ánh mặt trời
Và cảm thấy Thượng Đế Cao Cả
Ở ngay kế bên
Cả đời tôi, tôi cố trả
lời câu hỏi, cái ác, cái quỉ ma đến từ đâu
Thật không thể, nếu con người đau khổ như thế đó, mà lại có một đấng
Thượng Đế ở Thiên Đàng
Hay
Ngay kế bên
ORPHEUS
AND EURYDICE
He remembered her words:
"You are a good man."
He did not quite believe it. Lyric poets
Usually have-as he knew-cold hearts.
It is like a medical condition.
Perfection in art
Is given in exchange for such an affliction.
GNV nhớ
lời của BHD:
Mi là 1 thiện nhân
Hắn không tin.
Mi làm thơ, viết văn, tán gái giỏi.
Thì ta ban cho mi trái tim của 1 kẻ đại ác!
Milosz
If one saves a
butterfly, has one saved the world?
Nếu bạn kíu một em bướm,
bạn kíu thế giới ?
David Shapiro
RICCI
Rose
This young
rose,
it represents all of us here.
Careful!
It is the prettiest young rose
we
have: life needs love,
love
needs life.
Translated from the Spanish by Spencer Reece
BHD
Bông hồng trẻ này đại
diện cho tất cả chúng ta ở đây
Hãy cẩn thận
Đó là bông hồng nhỏ bé tuyệt đẹp mà chúng ta có:
Đời cần tình yêu
Tình yêu cần đời
Thơ
Mỗi Ngày
Mark
Strand Tribute
The Mailman
It is
midnight.
He comes up
the walk
and knocks
at the door.
I rush to
greet him.
He stands
there weeping,
shaking a
letter at me.
He tells me
it contains
terrible
personal news.
He falls to
his knees.
"Forgive
me! Forgive me!" he pleads.
I ask him
inside.
He wipes his
eyes.
His dark
blue suit
is like an
inkstain
on my
crimson couch.
Helpless,
nervous, small,
he curls up
like a ball
and sleeps
while I compose
more letters
to myself
in the same vein:
"You
shall live
by
inflicting pain.
You shall
forgive."
Người nhà giây
thép
Nửa đêm
Anh ta vội bước
và gõ cửa
Gấu chạy ra đón
Anh ta đứng đó,
khóc nức nở
Tay run lẩy bẩy
lá thư
Tin cá nhân,
tin dữ
Anh ta té quỵ
xuống
“Tha thứ cho
tôi! Tha thứ cho tôi!” anh ta năn nỉ
Gấu mời anh
vô nhà
Anh ta lau mắt
Bộ đồ màu xám
sậm
Như mực viết
Trên cái đi
văng màu đỏ của Gấu.
Bất lực, bối
rối, nhỏ bé
Anh ta cuộn
người như trái banh
Và ngủ,
trong khi Gấu thảo vài đường, cho chính Gấu
Theo cái dòng
suy nghĩ sau đây:
“Mi sẽ sống
bằng cách tẩm vào mi nỗi chết
Mi sẽ tha thứ”
The Rose
The sorrows
of the rose were mounting up.
Twisted in
a field of weeds, the helpless rose
felt the
breeze of paradise just once, then died.
The children
cried, "Oh rose, come back.
We love you,
rose." Then someone said that soon
they'd have
another rose. "Come, my darlings,
down to the
pond, lean over the edge, and look
at
yourselves looking up. Now do you see it,
its petals
open, rising to the surface, turning into you?"
"Oh
no," they said. "We are what we are - nothing else."
How perfect.
How ancient. How past repair.
Mark Strand: New Selected Poems
Poems
February 25, 2013 Issue
In Villages
God Does Not Live in Corners
By Joseph
Brodsky (1940-1996)
In villages
God does not live in corners
as skeptics
think. He’s everywhere.
He blesses
the roof, he blesses the dishes,
he holds his
half of the double doors.
He’s
plentiful. In the iron pot there.
Cooking the
lentils on Saturday.
He sleepily
jigs and bops in the fire,
he winks at
me, his witness. He
assembles a
fence, he marries some sweetheart
off to the
woodsman. Then for a joke
he makes the
warden’s every potshot
fall just
short of a passing duck.
The chance
to watch all this up close,
while
autumn’s whistling in the mist,
is the only
blessed gift there is
in villages,
for the atheist.
(Translated,
from the Russian, by Glyn Maxwell and Catherine Ciepiela.)
Ở trong làng Chúa không sống ở trong những
góc
Ở trong làng
Chúa không sống ở trong những góc
Như những người
bi quan nghĩ
Người ở khắp
mọi nơi
Người ban phước
cho cái mái nhà, mấy cái dĩa,
Người giữ một
nửa, những cánh cửa kép của Người
Người thì tràn
đầy. Ở trong cái nồi sắt đằng kia
Nấu món đậu
lăng cho ngày Thứ Bẩy.
Người nhẩy bebop,
ra vẻ ngái ngủ, trên ngọn lửa
Người nháy mắt
với Gấu, người chứng của Người.
Người sửa bờ
dậu
Người gả cô
gái đáng yêu
Cho một anh
thợ rừng
Rồi thì Người
biến mọi cú bắn của anh dân phòng thành một trò cười
Cơ may nhìn
Người dỡn chơi thì liền ngay ở đây
Trong lúc Mùa
Thu đang tỉ tê trong sương mù
Đó là lời chúc
phúc độc nhất cho mọi tên vô thần
Ở trong làng
Tôi chỉ tới
St Petersburg một lần, chừng 10 năm trước đây. Tôi quan tâm tới nó là
vì tôi đọc
những thi sĩ Mandelstam và Akhmatova, cả hai đã sống ở đó. Đó là 1
thành phố với
những viễn cảnh thật đẹp, với cảm quan, ý nghĩa lớn, về sự sống sót vây
hãm
[Leningrad, 1941-44], và lẽ dĩ nhiên, còn những kết hợp, móc nối văn
học liên can
đến từng bước ngoặt của nó. Có “vùng Dos”, chẳng hạn, hay “Triển vọng
Nevsky”.
Mandelstam viết 1 bài thơ về tòa nhà Admiralty Building, và Pushkin thì
viết về
bức tượng đồng của Đại Đế St Peter. Chúng tôi đi thăm căn phòng của
Brodsky. Chúng
tôi biết ông ở Mỹ, và ông có viết về “Căn phòng rưỡi” nơi ông lớn lên.
Chúng tôi gặp nhiếp ảnh viên đã chụp hình ông, ngày ông lưu vong.
Anh ta làm 1 cái bánh,
lôi ra 1 chai vodka, và chúng tôi có 1 bữa tiệc nho nhỏ tưởng nhớ tới
Brodsky.
Seamus
Heanys, thi sĩ, Nobel văn chương
Intel số Tháng
Giêng, Tháng Hai, 2013: Những Nơi
Chốn [Places]
Seasons in
Heaven
There is no
Winter
Save for recreational
Snow (which
melts by dawn).
Days are
boyhoods in
high Summer,
and there'll always
be a cricket
match
you could
join in on,
or it's
Autumn, and sixth-form
girls
playing hockey
on the next
pitch,
(gymslips
kirtled, cheeks and thighs
aglow, the
air champagne
as after
frost, and
elm leaves
heaped in yellow drifts).
At night,
though, it's Spring,
And each
boy, showered,
with his wet
hair combed, puts off
all
callowness but
not his
innocence,
as girls put
on mascara.
We meet in
soft dusk
singly, and
pair off
and go into
the cornfield,
mouths dry,
hand in hand.
DUNCAN BUSH
TLS Dec 12,
2014
Mùa màng ở
Thiên Đàng
Không có
Mùa
Đông
Dành cho Tuyết
tiêu khiển
[Cỡ rạng đông
thì bèn tan]
Ngày tháng
như trẻ thơ
Mùa hè lớn
Luôn có trận
chọi dế
Bạn có thể tham
dự
Hay là vào Mùa
Thu
Khi mấy cô nữ
sinh lớp Đệ Lục
Chơi bóng
chuyền
Trong cuộc
chơi ném bóng kế tiếp
(Áo váy đồng phục thể thao,
má háng đỏ rực, mùi sâm banh như sau sương giá, và lá cây du chất thành
đống mầu
vàng)
Vào ban đêm, đó là Mùa Xuân
Và mỗi cậu
con trai, tắm rửa
Đầu ướt, chải
chuốt, trút bỏ lông măng, ngoại trừ sự ngây thơ
Và những cô
gái bôi mi mắt
Chúng mình gặp
nhau buổi tối nhẹ nhàng,
Hát nhẹ nhàng
Từng đôi
Đi ra cánh đồng.
7:00 AM
Sunday 11.1.2015.
Toronto đang hứng trận
lạnh, từ Bắc Cực thổi về.
Poor North
It is cold,
the snow is deep,
the wind
beats around in its cage of trees,
clouds have
the look of rags torn and soiled with use,
and starlings
peck at the ice.
It is north,
poor north. Nothing goes right.
The man of
the house has gone to work,
selling chairs
and sofas in a failing store.
His wife
stays home and stares from the window into the trees,
trying to
recall the life she lost, though it wasn't much.
White flowers
of frost build up on the glass.
It is late
in the day. Brants and Canada geese are asleep
on the waters
of St. Margaret's Bay.
The man and
his wife are out for a walk; see how they lean
into the
wind; they turn up their collars
and the
small puffs of their breath are carried away.
Mark Strand: Collected Poems
Bắc tội nghiệp
Lạnh. Tuyết
sâu
Gió quần thảo
trong chuồng cây của nó
Mây,
như rẻ rách, tả tơi, dơ dáy
Do bị sử dụng
quá mức
và như những con
sáo đá, khoét trên mặt băng
Đó là Bắc, Bắc
đáng thương, tội nghiệp.
Chẳng có gì đúng,
ở đó.
Người đàn ông
trong nhà, đi làm
Bán ghế, xô
pha trong một cửa hàng sa sút
Bà vợ ở nhà,
từ cửa sổ, nhìn ra cây cối
Cố nhớ cuộc đời bà bỏ mất
Dù cuộc đời đó
chẳng có gì, cho lắm.
Sương kết thành
hoa trắng trên mặt đá
Ngày, muộn
Ngỗng Canada và Brants
Lừ khừ ngủ trên mặt nước ở Vịnh St. Margaret’s Bay
Người đàn ông
và vợ đi ra ngoài, làm 1 cú dạo
Nhìn kìa,
Họ tựa vào nhau, tựa vào gió
Kéo cao cổ áo
Và những đợt
khói, do hơi thở của họ, gầy dựng thành, bay theo gió.
Note: Mark Strand là nhà
thơ Mẽo, nhưng gốc Canada.
Bài thơ này, ông làm để.... tặng vợ chồng Gấu.
Tks. RIP
Đi trong gió
Nỗi nhớ Sài Gòn buốt trên đầu ngón tay
Thơ Gấu Cà Chớn
Thơ
Mỗi Ngày
Seasons in
Heaven
There is no
Winter
Save for recreational
Snow (which
melts by dawn).
Days are
boyhoods in
high Summer,
and there'll always
be a cricket
match
you could
join in on,
or it's
Autumn, and sixth-form
girls
playing hockey
on the next
pitch,
(gymslips
kirtled, cheeks and thighs
aglow, the
air champagne
as after
frost, and
elm leaves
heaped in yellow drifts).
At night,
though, it's Spring,
And each
boy, showered,
with his wet
hair combed, puts off
all
callowness but
not his
innocence,
as girls put
on mascara.
We meet in
soft dusk
singly, and
pair off
and go into
the cornfield,
mouths dry,
hand in hand.
DUNCAN BUSH
TLS Dec 12,
2014
Mark
Strand Tribute
A man is, after all, what he loves.
Brodsky
Nói cho cùng, một thằng đàn ông là "cái" [thay bằng "gái",
được không, nhỉ] hắn yêu.
"What", ở đây, nghĩa là gì?
Một loài chim biển, được chăng?
The world is ugly,
and the people are sad.
Đời thì xấu xí
Người thì buồn thế!
The Good
Life
You stand at
the window.
There is a
glass cloud in the shape of a heart.
The wind's
sighs are like caves in your speech.
You are the
ghost in the tree outside.
The street
is quiet.
The weather,
like tomorrow, like your life,
is partially
here, partially up in the air.
There is
nothing you can do.
The good
life gives no warning.
It weathers
the climates of despair
and appears,
on foot, unrecognized, offering nothing,
and you are
there.
Một đời OK
Mi đứng ở cửa
sổ
Mây thuỷ
tinh hình trái tim
Gió thở dài
sườn sượt, như hầm như hố, trong lèm bèm của mi
Mi là con ma
trong cây bên ngoài
Phố yên tĩnh
Thời tiết,
như ngày mai, như đời mi
Thì, một phần
ở đây, một phần ở mãi tít trên kia
Mi thì vô phương,
chẳng làm gì được với cái chuyện như thế đó
Một đời OK,
là một đời đếch đề ra, một cảnh báo cảnh biếc cái con mẹ gì cả.
Nó phì phào
cái khí hậu của sự chán chường
Và tỏ ra, trên
mặt đất, trong tiếng chân đi, không thể nhận ra, chẳng dâng hiến cái gì,
Và mi, có đó!
IN MEMORIAM
Give me six
lines written by the most honourable of men,
and I will
find a reason in them to hang him.
-Richelieu
We never
found the last lines he had written,
Or where he
was when they found him.
Of his
honor, people seem to know nothing.
And many
doubt that he ever lived.
It does not
matter. The fact that he died
Is reason
enough to believe there were reasons.
IN MEMORIAM
Cho ta sáu dòng
được viết bởi kẻ đáng kính trọng nhất trong những bực tu mi
Và ta sẽ tìm
ra một lý do trong đó để treo cổ hắn ta
-Richelieu
Chúng ta
không
kiếm ra những dòng cuối cùng hắn viết
Hay hắn ở đâu,
khi họ tìm thấy hắn
Về phẩm giá
của hắn, có vẻ như người ta chẳng biết gì
Và nhiều người
còn nghi ngờ, có thằng cha như thế ư
Nhưng cũng
chẳng sao, nói cho cùng
Sự kiện hắn
ngỏm là đủ lý do để mà tin rằng có những lý do.
Thơ
Mỗi Ngày
Haiku Buson
379
ochioute
oto naku
nareru
shimizu kana
Mountain
streams flow down
into each
other
out of their
sounds
380
zenigame ya
aoto mo
shiranu
yarna-shlmizu
Maruyama Ohkyo asked me to
write an
inscription for his
painting of a small tortoise. I'd rather
drag my tail through
mud than seek fame in government -
Maruyama
Ohkyo nhờ tôi phụ đề cho bức họa, 1 con rùa nhỏ. Tôi bèn lắc đầu, thà
quậy đuôi
vô bùn còn hơn cầu danh vọng nơi triều đình
A tortoise
the shape of a coin
in the clear
mountain stream
even Aoto
the coin hunter will not see it
The
foreword refers to the famous Chinese Taoist,
Zhuangzi, who refused to accept the King of Chu's
offer of a position as minister by saying he would
rather
drag his tail in the mud like a tortoise than have
his ashes
placed in a kingly mausoleum. [Shimizu]
381
futari shite
musubeba nigoru
shimizu kana
Two lovers
cup their hands
scoop clear
water from a spring
stirring up
mud
Yosa Buson
Translated
by W.S. Merwin & Takako Lento
Hai kẻ yêu
nhau
Ly trong
tay
Múc nước
suối
Quậy bùn
lên
On Mark
Strand (1934–2014)
Joseph
Brodsky and Charles Simic
January 8,
2015 Issue
The poet
Mark Strand, a contributor to these pages, died on November 29.
Note: Tin Văn sẽ
đi bài này, từ báo giấy, tất nhiên!
JOSEPH
BRODSKY
The
following was given by Joseph Brodsky as an introduction to a reading
by Mark
Strand at the American Academy of Poets in New York City on November 4,
1986.
It’s a tall
order to introduce Mark Strand because it requires estrangement from
what I
like very much, from something to which I owe many moments of almost
physical
happiness—or to its mental equivalent. I am talking about his poems—as
well as
about his prose, but poems first.
A man is,
after all, what he loves. But one always feels cornered when asked to
explain
why one loves this or that person, and what for. In order to explain
it—which
inevitably amounts to explaining oneself—one has to try to love the
object of
one’s attention a little bit less. I don’t think I am capable of this
feat of
objectivity, nor am I willing even to try. In short, I feel biased
about Mark
Strand’s poems, and judging by the way his work progresses, I expect to
stay
biased to the end of my days.
My romance
with Mr. Strand’s poems dates back to the end of the Sixties, or to the
beginning of the Seventies, when an anthology of contemporary American
poetry—a
large paperback brick (edited by, I think, among others, Mark Strand)
landed
one day on my lap. That was in Russia. If my memory serves me right,
Strand’s
entry in that anthology contained one of the best poems written in the
postwar
era, his “The Way It Is,” with that terrific epigraph from Wallace
Stevens that
I can’t resist reproducing here:
The world is ugly,
and the people
are sad.
What
impressed me there and then was a peculiar unassertiveness in depicting
fairly
dismal, in this poem’s case, aspects of the human condition. I was also
impressed by the almost effortless pace and grace of the poem’s
utterances. It
became apparent to me at once that I was dealing with a poet who
doesn’t put
his strength on display—quite the contrary, who displays a sort of
flabby
muscle, who puts you at ease rather than imposes himself on the reader.
This
impression has stayed with me for some eighteen years, and even now I
don’t see
that much reason for modifying it. Technically speaking, Strand is a
very
gentle poet: he never twists your arm, never forces you into a poem.
No, his
opening lines usually invite you in, with a genial, slightly elegiac
sweep of
intonation, and for a while you feel almost at home on the surface of
his
opaque, gray, swelling lines, until you realize—and not suddenly, with
a jolt,
but rather gradually and out of your own idle curiosity, the way one
sometimes
looks out a skyscraper’s window or overboard of …
*
A man is,
after all, what he loves.
Nói cho
cùng, một thằng đàn ông là "cái" [thay bằng "gái", được
không, nhỉ] hắn yêu.
"What",
ở đây, nghĩa là gì?
Một loài
chim biển, được chăng?
The world is
ugly,
and the
people are sad.
Đời thì xấu xí
Người thì buồn thế!
ELEVATOR
1.
The elevator
went to the base-
ment. The
doors opened.
A man
stepped in and asked if I
was going
up.
"I'm
going down," I said. "I won't
be going
up."
2.
The
elevator
went to the base-
ment. The
doors opened.
A man
stepped in and asked if
I was going
up.
"I'm
going down," I said. "I won't
be going
up."
Thơ
Mỗi Ngày
On the
Anniversary of Joseph
Brodsky’s Death
(January 2001)
Archangelsk,
the briny cold,
the frigid Baltics,
Children throwing snowballs
at Soviet statues.
The
Arctic chill of the moon
at midday,
The trees wrapped, the
pedestrians bundled.
How the
sun shivered behind
the smokestacks
Like a soldier frozen in
place.
At the
dimly lit Museum of
the Far North
The subject was the poet’s
internal exile,
Metaphysics
versus History,
and the fateful
Struggle between Poetry and
Time,
A Cold
War that will never
end.
Also, his love for watery
ports
And
stubborn cats, especially
the Russian
Blue that hailed from the White Sea.
Afterwards,
a slushy walk,
salty air,
Sleep in an overcoat in a
converted barracks.
All
night I heard the muffled
boots
Of an army marching through
the streets
Under
the thick cover of
darkness.
But in the morning,
anniversary mourning,
I woke
to a magisterial
silence.
Snow occupied the city.
-Edward
Hirsch.
NYRB, Feb 11, 2010
Tưởng niệm
Brodsky nhân ngày mất của ông
January 2001
Archangelsk,
cái lạnh mặn, những con người Baltic nhạt
Trẻ con ném
những trái banh tuyết vô những bức tượng Xô Viết
Cái ớn lạnh Bắc
Cực của mặt trăng vào giữa trưa
Cây bao, bộ
hành cuộn.
Mặt trời rùng
mình sau những ống khói
Như một tên
lính cứng lạnh ngay tại chỗ
Ở Viện Bảo Tàng
Viễn Bắc lù tù mù ánh đèn
Ðề tài là về
cuộc lưu vong nội xứ của nhà thơ
Siêu hình đấu
với Lịch sử, và
Cuộc chiến đấu
thê lương giữa Thơ và Thời gian
Một Cuộc Chiến
Lạnh chẳng hề chấm dứt.
Thì cũng y
chang tình yêu của nhà thơ với những bến cảng sũng nước
Và những con
mèo bướng bỉnh, đặc biệt giống Nga
Xanh, tới từ
Bạch Hải
Sau đó, là một
cuộc tản bộ lầy lội trong tuyết, trong không khí mặn mùi muối
Ngủ trong áo
choàng ở những trại lính đã được cải tạo
Suốt đêm tôi
nghe có những tiếng giầy nhà binh bị bóp nghẹn
Của một đội
quân diễn hành qua những con phố
Dưới cái vỏ
thật là dầy của đêm đen
Nhưng vào buổi
sáng, cái buổi sáng tưởng niệm,
Tôi thức giấc,
bổ choàng vào trong 1 sự yên lặng thật là quyền uy, hách xì xằng.
Tuyết chiếm
cứ thành phố.
Alexander Blok
Russian
1880-1921
TO ZINAIDA
GIPPIUS
Those born
in backwater years
forget their
own way. Russia
gave birth
to us in her years of anguish
and we can
forget nothing.
Years of
holocaust, do you
herald
madness, or the advent of hope?
Days of war,
days of freedom,
have stained
our faces with bloody light.
We are
speechless. The bells'
alarms
sealed our lips. Where there was
a burning in
our hearts once
there is
nothing now, fixed, like a death.
Over the bed
where we are dying
let the
hoarse ravens sail-
may others,
more worthy, O God, O God,
gaze on Thy
kingdom!
1968,
translated with Olga Carlisle
Những kẻ
sinh trong những năm bùn lầy nước đọng
Quên con đường
của chính chúng.
Gấu Mẹ Nga vĩ
đại sinh ra lũ chúng ta trong những năm thống khổ của Bà
Và chúng ta không
thể quên điều gì
Những năm của
Lò Thiêu,
Mi rao truyền
Khùng Điên
Hay Ngày Mai
Hi Vọng?
Những ngày
chiến tranh, những ngày tự do
Đã khắc lên mặt
chúng ta ánh sáng máu
Chúng ta nghẹn
lời
Tiếng chuông
báo động đóng khằn môi chúng ta
Nơi ngày nào
là nhà của chúng ta, với ngọn lửa trong trái tim của mình
Bây giờ chẳng
còn gì, cứng đơ, như cái chết
Trên cái
giường
nơi chúng ta nằm chết
Hãy để cho lũ
quạ khàn rong buồm –
Cầu cho những
kẻ khác, xứng đáng hơn, Ôi Chúa, Ôi Phật
Hãy nhìn về
Vương Quốc của tụi mi.
Alexander Blok
Russian
1880-1921
Beyond the
mountains beyond the forests
beyond the
dust of the roads
beyond the
grave mounds
under other
skies you flower
Whiteness
will spread on the mountain
but spring
will come back to the valley
and I will
recall with an older sadness
my past as
though it were yesterday
In the grief
of my dreams I will know you
and I will
seize in my palms
your gentle
hand that has borne miracles
and repeat
the distance in your name
September 30, 1915
1968,
translated with
Olga
Carlisle
W.S. Merwin
Quá núi quá
rừng
Quá bụi đường
Quá mồ mả
Dưới những bầu
trời khác em hoa
Trắng sẽ trải
trên núi
Nhưng Xuân sẽ
về thung lũng này
Và tôi sẽ nhớ
với một nỗi buồn xa xưa hơn
Quá khứ của
mình như ngày hôm qua
Trong nỗi
đau
của những giấc mơ tôi sẽ biết em
Và tôi sẽ
nắm
trong lòng tay
Bàn tay
dịu
dàng của em nơi phép lạ nở rộ
Và lập
lại
khoảng cách trong tên em.
TO ZINAIDA
GIPPIUS
Those born
in backwater years
forget their
own way. Russia
gave birth
to us in her years of anguish
and we can
forget nothing.
Years of
holocaust, do you
herald
madness, or the advent of hope?
Days of war,
days of freedom,
have stained
our faces with bloody light.
We are
speechless. The bells'
alarms
sealed our lips. Where there was
a burning in
our hearts once
there is
nothing now, fixed, like a death.
Over the bed
where we are dying
let the
hoarse ravens sail-
may others,
more worthy, O God, O God,
gaze on Thy
kingdom!
1968,
translated with Olga Carlisle
Những kẻ
sinh trong những năm bùn lầy nước đọng
Quên con đường
của chính chúng.
Gấu Mẹ Nga vĩ
đại sinh ra lũ chúng ta trong những năm thống khổ của Bà
Và chúng ta không
thể quên điều gì
Những năm của
Lò Thiêu,
Mi rao truyền
Khùng Điên
Hay Ngày Mai
Hi Vọng?
Những ngày
chiến tranh, những ngày tự do
Đã khắc lên mặt
chúng ta ánh sáng máu
Chúng ta nghẹn
lời
Tiếng chuông
báo động đóng khằn môi chúng ta
Nơi ngày nào
là nhà của chúng ta, với ngọn lửa trong trái tim của mình
Bây giờ chẳng
còn gì, cứng đơ, như cái chết
Trên cái
giường
nơi chúng ta nằm chết
Hãy để cho lũ
quạ khàn rong buồm –
Cầu cho những
kẻ khác, xứng đáng hơn, Ôi Chúa, Ôi Phật
Hãy nhìn về
Vương Quốc của tụi mi.
Note: 1969 Gấu
viết Cõi Khác, cũng là năm Borges chơi bài thơ này, mà đến bữa nay Gấu
mới vớ
được, khi lướt net - không phải trong những cuốn của Borges - nhiều lắm
- mà Gấu
có được:
You will
forget your father's tongue
and learn
the tongue of Paradise.
You shall be
an Israeli, a soldier,
You shall
build a country on wasteland,
making it
rise out of deserts.
Your
brother, whose face you've never seen,
will work by
your side.
One thing
only we promise you:
your place
in the battle.
Maire
Macrae's Song on the London Underground
For some
reason, this Poem on Underground reduced me to tears on my way to Bond
Street.
It seems to perfectly express an eternity as well as the inevitability
of
loss. By Kathleen Raine.
Maire Macrae's Song
The singer is old and has forgotten
Her girlhood's
grief for the young soldier
Who sailed away
across the ocean,
Love's brief joy
and lonely sorrow:
The song is older
than the singer.
The song is older than the singer
Shaped by the
love and the long waiting
Of women dead and
long forgotten
Who sang before
remembered time
To teach the
unbroken heart its sorrow.
The
girl who waits for her young soldier
Learns from the
cadence of a song
How deep her
love, how long the waiting.
Sorrow is older
than the heart,
Already old when
love is young,
The song is older
than the sorrow.
Note: Bài
thơ này, đã post trên TV, nhưng quên chưa dịch, nay kiếm hoài không ra,
bèn gõ
Google, thay vì scan lại: Bài thơ làm tớ khóc ròng trên đường tới Bond
Street.
Nó diễn tả thần sầu sự vĩnh cửu cũng như điều không thể tránh được, của
mất
mát.
Và sau đây
là bản tiếng Mít:
Bài hát
của Maire Macrae
Người ca sĩ thì già
và quên nỗi đau buồn thời con gái
Dành cho một
người lính trẻ
Vượt trùng dương
Tình yêu là
niềm vui ngắn ngủi và nỗi sầu cô đơn:
Bài hát thì
già hơn ca sĩ.
Bài hát già
hơn người hát
Được hình thành
bằng tình yêu và nỗi chờ đợi dài
Của những phụ
nữ đã chết và từ lâu chẳng còn ai nhớ
Họ đã từng hát
trước khi nhớ thời gian
Dạy những trái
tim cứng rắn nỗi sầu của nó
Người con gái
đợi người lính trẻ
Học từ nhịp
ca,
Tình yêu của
cô mới sâu đậm, và đợi chờ mới dài cỡ nào.
Nỗi sầu thì
già hơn trái tim
Đã trở nên
già cằn khi tình yêu còn trẻ:
Bài hát thì
già hơn nỗi sầu.
Số báo này, về dịch thuật.
Có mấy bài đã giới thiệu trên TV
MATTHEW
ROHRER
Poem Written with Basho
The sound of the water jar
empties in the open graves
where the refugees live.
Because it does not touch me
near my pillow
I can sleep and dream
of the clean lines
of summer. What I thought
were faces turn out
to be elaborate plates of sweets
not this human sadness.
One or two inches above
my head until the mosquito
sticks his snout
into my dream.
Bài thơ ăn theo Basho
Tiếng nước rội cạn
Vô những cái mả lộ thiên
Nơi những tên tị nạn sống
Do nó không làm ướt gối tôi,
Nằm ngay kế bên
Thế là tôi bèn ngủ và nằm mơ vài phát
Về những dòng [nước] sạch của mùa hè
Những cái mà tôi mơ - những bộ mặt -
Hoá ra đếch phải -
Mà là những dĩa kẹo,
Bốc hơi, cũng theo hư không mà đi
Không phải nỗi buồn nhân thế này.
Một hay hai phân ở bên trên
Cái đầu của tôi đụng con muỗi
Nó đợp tôi một phát
Vô tới tận giấc mớ của tôi.
GRIGORI DASHEVSKY
From "Ithaca"
The night approaches. Dusk
drafts on buildings
their future ruins. Dusk deepens windows
and apertures. It hollows stones
with shadows like with water. It foretells
the near death of a hundred clouds
to the shining host. A thin layer of dust,
the seer leaves his footprints on the roofs
as he walks home from the future
not his own, swallowing his voice-
in its rays, fat blood flows down
the golden armor. Wet
blue entrails. Large heads
have rolled down the shoulders.
Speech has grown silent in deep mouths.
.............................................................
The signs of a life
without past will emerge
like lies through the lines of an old page,
emptiness will turn into loss,
foreign sand into Ithaca.
Ithaca is the time
when there's nowhere to go. If it's night,
it means the night is the end of the voyage.
A sackcloth hiding the shoulders
of the stranger is truer than
speeches about past and future
he won't make. Nobody
will. On the streets rain readies
hollows for the funeral, already
overgrown with grass.
In a long puddle he sees:
a pauper, a random victim of the skies
hangs with his head down.
In height, he is a cloud, the size
of a lost faith
in returning home.
...........................................
So should I, a pauper
sitting
by a stranger's door, declare: I'm Odysseus,
and I'm back. Should I say:
I'm recognized. After the
mourning songs
tears are still rolling
down my face. I have been
summoned to clothe the
past
in the shining ice.
The twilight pushes a
heavy box of reflection
out of the windows
and thumbs through a pale face
as if it were a stack of letters lying in a vacuum,
written by an unfamiliar hand.
You are in Ithaca, but you are not yet home
The soul goes home the way
of flesh,
clothed in white rags,
so that to say
upon arrival: I recognize
and I am recognized.
Window water,
vapor of window
reflections
harden not in the shining
of the ice
that has come out of a
secret thought,
but from a permanent
neighboring frame,
which has embraced life
into its shores of death,
where my steps on the sand
are uneven and filled
with water.
Old rags are stronger than
old life.
Night, like dead water, sows together
the tattered contours of the past.
A stranger's death is a seed of your homeland,
sprouting from the graveyard statues,
from the clouds, forever still.
-Translated from the
Russian by Valzhyna Mort
Poetry, Nov 2014
Áo xưa dù nhàu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau
TCS
Giẻ cũ, áo cũ, tã cũ, cờ
cũ (a)... thì mạnh hơn là đời cũ
Đêm, như nước chết, cùng nhau gieo
những đường viền tơi tả của quá khứ
Cái chết của kẻ lạ thì là mầm hạt quê nhà của mi đó
Nẩy lên từ những pho tượng ở nghĩa trang
Từ những đám mây, vưỡn miên viễn, hoài hoài
Ở Xề Gòn
KO UN
Ear
Someone's coming
from the other world.
Hiss of night rain.
Someone's going there now.
The two are sure to meet.
Tai
Một người nào đó tới
Từ thế giới khác
Huýt mưa đêm
Một người
nào đó lúc này ở
bên ngoài đó rồi
Cả hai hẳn là đã gặp nhau
Thơ
Mỗi Ngày
Phạm Thiên Thư
Xin chân thành cảm ơn những
lời chúc mừng của tất cả các
bạn!
Quoc Tru Nguyen Happy Birthday to You
1 hr · Like
Note: Bữa nay SN PTT.
Hóa ra là Người bò ra đúng đầu năm.
Chúc Mừng. NQT
PTT là bạn của Joseph Huỳnh Văn. Anh có trong Ban biên tập Tập San Văn
Chương, nhưng phải đến sau 1975 Gấu mới có dịp gặp, tình cờ, ở 1 cà phê
hè đường, hình như Phan Đình Phùng, hình như gần công viên Con Rùa, với
Ngọc Minh.
'I saw a man pursuing the
horizon'
I saw a man
pursuing the horizon;
Round and round they sped.
I was disturbed at this;
I accosted the man.
'It is futile,' I said,
'You can never-'
'You lie,' he cried,
And ran on.
Stephen Crane
Poems on the Underground
"Tớ nhìn thấy 1 người rượt chân trời"
Tớ nhìn thấy
một người rượt chân trời
Cả hai chạy lòng dòng
Buồn cười quá, và bực quá,
Bèn tới gần người rượt
Ích chi đâu, sao mà khùng như thế hở?
Mi nói láo!
Và, rượt tiếp
A Tune
A foolish
rhythm turns in my idle head
As a
wind-mill turns in the wind on an empty sky.
Why is it
when love, which men call deathless, is dead,
That memory,
men call fugitive, will not die?
Is love not
dead? Yet I hear that tune if I lie
Dreaming
awake in the night on my lonely bed,
And an old
thought turns with the old tune in my head
As a
wind-mill turns in the wind on an empty sky.
Arthur
Symons
Điệu nhạc sến
Điệu nhạc khùng
quay quay trong cái đầu lừng khừng của tớ
Khi cái cối
xay gió quay quay trong bầu trời trống rỗng
Tại làm sao tình yêu - con người nói không chết - chết
Và kỷ niệm - con người gọi là phiêu lãng - không chết?
Tình yêu không
chết?
Tuy nhiên cứ
mỗi lần nằm mơ màng trong đêm
Trên chiếc
giường cô đơn
Là cái ý nghĩ
xa xưa
Quay quay
Cùng với điệu nhạc ngày nào trong đầu
Khi cái cối
xa gió quay mòng mòng trong không gian trống rỗng.
Maire
Macrae's Song
The singer is old and has forgotten
Her girlhood's grief for the young soldier
Who sailed away across the ocean,
Love's brief joy and lonely sorrow:
The song is older than the singer.
The song is older than the singer
Shaped by the love and the long waiting
Of women dead and long forgotten
Who sang before remembered time
To teach the unbroken heart its sorrow.
The girl who waits for her young
soldier
Learns from the cadence of a song
How deep her love, how long the waiting.
Sorrow is older than the heart,
Already old when love is young:
The song is older than the sorrow.
Kathleen Raine
Poems
on the Underground
Map of the
New World:
Archipelagoes
At the end
of this sentence, rain will begin.
At the
rain's edge, a sail.
Slowly the
sail will lose sight of islands;
into a mist
will go the belief in harbours
of an entire
race.
The
ten-years war is finished.
Helen's
hair, a grey cloud.
Troy, a
white ashpit
by the
drizzling sea.
The drizzle
tightens like the strings of a harp.
A man with
clouded eyes picks up the rain
and plucks
the first line of the Odyssey.
Derek
Walcott
[from Poems
on the Underground]
Bản Đồ Tân
Thế Giới:
Quần Đảo
Ở cuối câu
văn này, mưa sẽ bắt đầu
Ở bìa cơn
mưa, một cánh buồm
Dần dần,
cánh buồm sẽ mất cái nhìn những hòn đảo;
Lặn vô sương
mù, xuất hiện niềm tin vào những cảng
Của trọn một
nòi giống
Cuộc chiến
10 năm sẽ kết thúc
Tóc Helen, một
đám mây xám
Thành Troy,
một hố tro
Kế biển mưa
phùn
Mưa phùn kết
lại như những sợi dây đàn harp.
Một người
đàn ông tóc như mây
Nhặt lên cơn
mưa
Và lấy ra
dòng đầu tiên của Ô Đít Xê Mít!
Coda
Maybe we
knew each other better
When the
night was young and unrepeated
And the moon
stood still over Jericho.
So much for
the past; in the present
There are
moments caught between heart-beats
When maybe
we know each other better.
But what is
that clinking in the darkness?
Maybe we
shall know each other better
When the
tunnels meet beneath the mountain.
Louis Mac Neice
[from Poems
on the Underground]
Coda
[Đoạn đuôi]
Có lẽ chúng
ta sẽ hiểu nhau rõ hơn
Khi đêm còn
trẻ, và không lập lại
Và con trăng
thì đứng sững trên nền trời Xề Gòn
Quá khứ quá
quắt quắt quá
Hiện tại, có
những khoảnh khắc, tóm bắt giữa tiếng đập của con tim
Khi chúng ta
có lẽ hiểu nhau hơn
Nhưng cái gì
nghe như tiếng DM trong bóng tối?
Có lẽ chúng
ta sẽ hiểu rõ nhau hơn
Khi những đường
hầm Kủ Chi gặp nhau ở bên dưới rặng Trường Sơn.
LE POÈTE PROCLAME SA RENOMMÉE
Le cercle du Ciel est la
mesure de ma gloire,
Les bibliothèques de l'Orient se disputent mes vers,
Les emirs me cherchent pour emplir ma bouche d'or,
Les anges savent déjà par coeur jusqu' à mon dernier zejel,
Mes instruments de travail sont l'humiliation et l'angoisse;
Plut à Dieu que je fusse né mort.
Borges
GCC đòi vinh danh là nhà văn của thế kỷ...
21
Bầu trời là thước đo vinh
quang của GCC
Thư Viện Đông Phương cãi nhau ỏm tỏi
Vì những bài Tạp Ghi thần kỳ của GNV
VC xin gặp Gấu để mời về làm Trùm Văn Học xứ Mít
Những thiên thần thuộc lòng thơ của Gấu
Dụng cụ viết văn của Gấu là tủi nhục, và đau thương.
May quá, Gấu không chết lần vượt biển ở Vũng Tầu!
Ta thấy hình ta những miếu đền
Ta thấy tên ta những bảng
đường
Đời ta,
sử chép cả ngàn chương
Sao
không, hạt cát sông Hằng ấy
Còn chứa
trong lòng cả đại dương
Mai Thảo
The Moon
for
Maria Kodama
There is such loneliness
in that gold.
The moon of the nights is not the moon
Whom the first Adam saw. The long centuries
Of human vigil have filled her
With ancient lament. Look at her. She is your mirror.
-W.B.
Borges
Trăng
Có cái cô
đơn khủng khiếp như thế đó ở trong mảnh trăng vàng.
Trăng của đêm không phải trăng Adam đầu tiên nhìn thấy
Những thế kỷ dài của những lời khẩn cầu của con người
Đã tẩm vào nàng lời than van xưa, cũ.
Hãy nhìn nàng kìa.
Nàng là tấm gương của em đó.
|
|