|
16.8.2012
Bữa nay sinh nhật Gấu
Trang đặc biệt mừng SN/GCC
Chúc anh Trụ
một ngày SN thật thoải mái, không nghĩ chi về ai hết, không lo chi
chuyện tây,
chuyện ta gì hết , chỉ nghĩ tới mình và những bài thơ đã làm, đang làm,
và sẽ
làm thôi
K vừa đưa
bài Trong Căn Phòng Rưỡi, và
bài thơ Gởi Con Gái Tôi do
anh dịch của
Brodsky
lên a2a . Đồng thời K link vào bài phim Room and A Half, nói tiếng Nga,
xem cho
vui . Như một món quà SN .
K muốn gom mấy
bài thơ của Brodsky anh dịch vào một trang mà chưa làm xong .
K
Cám ơn K và
bạn của K
SN năm nay,
sao cảm khái quá, chắc là sắp đi xa cũng nên
Hà, hà!
Lời chúc của
K nhiều "thiện ý" lắm.
Tks again.
NQT
16.8.2012
LIMITES
II y a une
ligne de Verlaine don’t je ne dois plus me ressouvenir,
II y a une
rue toute proche qui est défendue à mes pas,
II y a un miroir
qui m'a vu pour la dernière fois,
II y a une
porte que j'ai fermée jusqu'à la fin du monde.
Parmi les
livres de ma bibliothèque (je les ai devant mes yeux)
II doit y en
avoir un que je n'ouvrirai jamais plus.
Cet éte
j'aurai cinquante ans ;
La mort me
rogne, incessante
JULIO PLATERO
HAEDO,
Inscripciones
(Montevideo,
1923).
Giới hạn
Có 1 dòng thơ của TTT, Gấu
không làm sao nhớ ra
Có 1 con phố ngay gần nhà, Gấu không được đặt chân tới.
Có 1 cái gương nhìn thấy Gấu lần chót
Có 1 cái cửa Gấu đóng lại cho đến Tận Thế
Trong số sách thư viện của Gấu (đang hiển hiện ra trước mắt Gấu)
Phải có 1 cuốn mà Gấu sẽ chẳng bao giờ mở ra nữa
Mùa Thu này Gấu tám bó
Cái chết gặm Gấu suốt ngày đêm

GCC &
Đặng
Phú Phong & Nguyễn Đình Thuần
@ DPP's, Cali, Little Saigon
16.8.2012
Happy
Birthday GCC
Somebody
gave me love
Somebody was
you (1)
Ngày Sinh
Của Gấu

Nguyễn Khắc
Quyết, Nguyễn Quốc Thái, [Trình Bày],
Phan Nhật Nam
Gấu không
quen NQT dù cùng đi suốt cuộc chiến ở Sài Gòn, trước 1975. Anh quen
thân với bạn
thân của Gấu, là Nguyễn Nhật Duật.
Anh kể, có lần
tới Bưu Ðiện Sài Gòn gửi thư cùng với NDD, và D. chỉ cho thấy GNV đang
ngồi vỉa hè, giữa vài bạn cùng nghề viết mướn, cùng đệ tử Cô Ba, và
phán, không có cách
chi cứu
được nó nữa rồi. Gặp làm chi cho đau lòng.
Thế mà gặp
nhau sau cuộc chiến. Ở Cali!
Gấu hỏi đùa,
chuyến đi này có mission gì không đấy?
-Có chứ!
-????
-Gặp Gấu Nhà Văn!
Chỉ để chụp những
tấm hình như thế này!
Tks. Many
Tks, U, and PNN.
NQT
To My Daughter

Give me another life, and I'll
be singing
in Caffè Rafaella. Or simply sitting
there. Or standing there, as furniture in the corner,
in case that life is a bit less generous than the former.
Yet partly because no century
from now on will ever manage
without caffeine or jazz, I’ll sustain this damage,
and through my cracks and pores, varnish and dust all over,
observe you, in twenry years, in your full flower.
On the whole, bear in mind that
I'll be around. Or rather,
that an inanimate object might be your father,
especially if the objects are older than you, or larger.
So keep an eye on them always, for they no doubt will judge you.
Love those things anyway,
encounter or no encounter.
Besides, you may still remember a silhouette, a contour,
while I'll lose even that, along with the other luggage.
Hence, these somewhat wooden lines in our common language.
1994
Joseph Brodsky

Gửi
Con Gái Tôi
Cho tôi một đời khác, và tôi
vẫn hát
ở Caffè Rafaella. Hay giản dị ngồi
ở đó. Hay đứng ở đó, như cái bàn cái ghế ở góc phòng,
trong trường hợp cuộc đời sau không rộng lượng bằng cuộc đời trước.
Mà có lẽ, một phần, là còn do điều này:
không một thế kỷ nào kể từ nay, mà lại có thể xoay sở, nếu thiếu
cà-phê-in và nhạc jazz,
bố sẽ cố chịu chuyện đó, như cái bàn cái ghế, với những vết nứt, nẻ,
véc ni, mớ bụi bặm trên mình,
ngắm con gái của bố, trong hai mươi năm, nở hết những cánh hoa, và trở
thành một đóa hoa rạng rỡ.
Thôi thì thôi, cũng thế thôi,
nhưng hãy nhớ điều này,
rằng bố vẫn quanh quẩn bên con,
cái bàn cái ghế vô hồn, bất động,
có thể là bố đó
nhất là khi chúng già nua, cồng kềnh, kịch cợm hơn con
Vậy thì hãy để mắt tới chúng
bởi vì, không nghi ngờ chi, chúng sẽ cân nhắc mọi chuyện giùm cho con,
[hoặc cau mày nhắc nhở con, một điều gì đó].
Yêu mọi điều, mọi chuyện ở trên
đời, dù gì đi chăng nữa, dù gặp hay không gặp.
Ngoài ra còn điều này:
Con vẫn còn nhớ một hình bóng, một dáng vẻ,
Trong khi bố mất tất cả, cùng với cả một hành lý khác.
Thí dụ như là những dòng đời khô héo,
của cái tiếng nói chung,
của cha con ta...
Joseph Brodsky
Nguyễn Quốc
Trụ dịch
Thư Nhà
Trong Căn Phòng Rưỡi
Khi
Gấu dịch cái thư này, tiếng Anh của Gấu tệ lắm.
Chắc là đầy sạn, nhưng mê quá, thế là cặm cụi dịch.
Ui chao đọc những đoạn ông thi sĩ viết về nước Nga của ông, sao Gấu nhớ
xứ Bắc
Kít quá.
Cũng nghèo, và cũng kiêu ngạo vì nghèo như nhau.
Khi Gấu về lại đất Bắc, là để tìm cả hai.
Một cách nào đó, mất cả hai.
Nghèo thì vẫn còn, nhưng mất cái nghèo làm Bắc Kít kiêu ngạo, hãnh diện
về
nó, như Brodsky hãnh diện về xứ Nga của ông:
Lẽ dĩ nhiên,
chúng tôi cùng dùng chung một nhà cầu, một phòng tắm, và một cái bếp.
Nhà bếp
nói chung cũng rộng rãi, nhà cầu thì rất ư tươm tất, thoải mái. Còn
phòng tắm,
thói quen của người Nga liên quan tới công việc vệ sinh là, mười một
mạng cũng
ít khi bị coi là chật chội, không đủ chỗ, khi cả một đống người như thế
dùng
chung một nhà tắm, hay làm luôn công việc giặt giũ cơ bản [hoặc cái xà
lỏn, hoặc
cái xú chiêng], cũng ở một nơi bé tí đó. Người đang chờ tới phiên mình
thì lăng
quăng ở hành lang nối phòng trên với nhà bếp, và người ta thuộc nằm
lòng, người
hàng xóm của mình có mấy cái xà lỏn, xì líp, hay xú chiêng!
Trong tất cả
những khốn khổ khốn nạn của cuộc sống tập thể đó, vẫn có một tí gì mang
tính cứu
rỗi. Nó đẩy cuộc đời về những cơ bản của nó. Nó xóa sạch mọi ảo tưởng
về bản chất
của con người. Nghe tiếng rắm ở trong nhà cầu, là bạn biết ngay, ai
đang ở
trong đó.
Những
nhận xét, mách
bảo thuốc thang hay cách nấu món này, món nọ, ở cửa hàng nào có món
khoai lang,
rau muống cọng vừa dài lại vừa xanh, non… những trao đổi như vậy thường
là ở
nhà bếp, khi mấy bà vợ đang lo bữa ăn chiều. Đây là nơi người ta học
những điều
thiết yếu, hệ trọng của cuộc sống: bằng một cái nhếch tai, một cái nháy
mắt. Bi
kịch nào đang diễn ra ở đây, khi một người nào đó đột nhiên đổi giọng,
với một
người nào khác! Học ở đâu cách ăn nói đó! Xúc động sâu xa tới mức nào
đã khiến
cho cột sống lưng cứng đờ vì giận dữ, khiến dáng đứng như trời trồng
thế kia!
Những mùi vị nào, hương thơm nào, uế khí nào bồng bềnh trong không khí,
quanh
ngọn đèn vàng một trăm oắt lửng lơ như một giọt nước mắt treo trên một
sợi dây
điện sặc sỡ rối tít mù. Có một cái gì hình như là bộ lạc ở đây, trong
căn hầm mờ
mờ sáng này, một cái gì nguyên thuỷ, hoặc nếu muốn, bạn có thể gọi nó
là tiến
hóa; và những nồi niêu xoong chảo treo lơ lửng trên bếp ga, chúng giống
như những
chiếc trống cơm của một thời tiền sử.
Note: Bản dịch
đã được sửa, bỏ đi những đoạn phóng tác, cà chớn.
NQT
Cám ơn anh
Trụ nhiều nhiều đã bỏ một ngày SN thoải mái để ngồi xem lại bản dịch Căn Phòng
Rưỡi. Bài này hay quá .
Chúc anh vui
khỏe, và ngày mai ăn SN bù.
K
Tks
Năm nay ăn
SN với gia đình, vì mấy đứa nhỏ sợ….
Hà, hà!
NQT
(1)
Lần đầu tiên
Gấu biết tới Kenny G, là từ cái dĩa có bản nhạc trên.
Một người
nào đó ban cho Gấu tình yêu
Một người nào
đó, là.... EM
Cái dĩa nhạc kia, là của
Yanni.
Và cái bản nhạc nghe nó, Gấu "sống lại cả 1 cuộc
chiến, cả 1 cuộc tình":
After the sunrise
Những ngày đầu tiên đến Xứ Lạnh.
Cũng là lần đầu, Gấu biết dĩa nhạc CD
Tôi viết thư
nhà này bằng tiếng Anh, bởi vì tôi mong cha mẹ tôi được hưởng một chút
tự do, một
chút tự do này, rộng hẹp ra sao, là còn tuỳ thuộc vào con số những
người muốn,
hoặc thích đọc thư nhà này. Tôi muốn ba má tôi, Maria Volpet và
Alexander
Brodsky, có được thực tại dưới “qui tắc ngoại về lương tâm” [a
“foreign code of conscience”]. Tôi muốn,
những động từ tiếng Anh, về sự chuyển động, diễn tả những chuyển động
của hai cụ.
Điều này không làm cho hai cụ sống lại, nhưng văn phạm tiếng Anh ít ra
cũng chứng
tỏ được một điều, đó là con đường giải thoát tốt đẹp hơn, từ những ống
khói lò
hỏa táng của nhà nước, so với văn phạm tiếng Nga. Viết về họ bằng tiếng
Nga chỉ
có nghĩa kéo dài thêm sự giam cầm của họ, đẩy họ vào sự vô nghĩa, vô
lý, do cái
việc hư vô hóa một cách máy móc kia. Tôi biết, không nên đánh đồng nhà
nước với
ngôn ngữ, nhưng chính là xuất phát từ thứ tiếng Nga đó, mà hai người
già cả, đã
mò mẫm hết cơ quan này tới cơ quan kia, hết ông cán này tới ông cán
khác, với
hy vọng có được tờ giấy phép đi ra nước ngoài để thăm đứa con trai độc
nhất của
họ, trước khi họ chết, và liên tiếp được trả lời, trong mười hai năm
trời ròng
rã, là nhà nước coi một tờ giấy phép như thế, là “không thích hợp,
không có mục
đích” [“unpurposeful”]. Chỉ nội chuyện đó không thôi, sự lập đi
lập lại một “lời phán” khốn nạn như thế, nó
chứng tỏ một sự quen thuộc nào đó, của nhà nước, với tiếng Nga. Ngoài
ra, ngay
cả chuyện, nếu tôi viết tất cả, bằng tiếng Nga, những từ này cũng chẳng
mong
chi có một ngày đẹp trời của nó, nhìn thấy ánh sáng mặt trời, dưới bầu
trời
Nga. Ai sẽ đọc chúng? Một dúm di dân Nga mà cha mẹ của họ, đã chết,
hoặc sẽ chết,
dưới những hoàn cảnh tương tự? Họ, chính họ, hiểu rõ chuyện này hơn ai
hết. Họ
hiểu, cái cảm tưởng đó là như thế nào, khi không được phép nhìn mẹ cha
của họ,
khi ông hay bà nằm trên giường chờ chết; sự im lặng tiếp theo yêu cầu
của họ, về
một giấy nhập cảnh khẩn cấp, để dự đám tang của người thân. Và rồi thì,
mọi
chuyện đều quá trễ, và người đàn ông, hoặc đàn bà đặt chiếc ống nghe
điện thoại
xuống, bước ra khỏi một cánh cửa, bước vào một buổi chiều ở nước ngoài,
cảm thấy
một điều mà chẳng ngôn ngữ nào có từ ngữ để diễn tả, và dù có la, rú,
hét, khóc
than cỡ nào cũng vô ích… Tôi sẽ phải nói với những người đó điều gì?
Bằng cách
chi, tôi có thể an ủi họ? Chẳng có một xứ sở nào đã luyện được cái tay
nghề tài
tình trong việc huỷ diệt linh hồn của dân mình như nước Nga. Và chẳng
có một
nhà văn nào lại có thể làm lành lặn linh hồn đó; không, chỉ có Trời,
Phật, Thần
Thánh mới có thể làm được điều này. Chính là vì lý do đó, mà Đấng
Thiêng Liêng
kia mới có mặt trong suốt Thời Gian Của Người. Xin cho tiếng Anh làm
cái nhà
cho những người thân quá cố của tôi. Trong tiếng Nga, tôi được sửa soạn
để đọc,
viết những dòng thơ, hay lá thư. Tuy nhiên, với mẹ cha tôi, bà Maria
Volpert và
ông Alexander Brodsky, tiếng Anh mới chính là thứ ngôn ngữ dâng cho họ
một cõi
sau xem ra tươm tất hơn và có thể đó là cõi duy nhất mà họ có được
ngoài cái
trí nhớ của bản thân tôi về họ ra. Còn về bản thân tôi, khi viết bằng
tiếng
này, thì cũng chỉ như là rửa chén dĩa mà thôi, rất tốt cho sức khỏe,
như mẹ tôi
đã mừng rỡ khi biết thằng con của bà vừa rửa một mớ chén dĩa xong, là
bèn gọi
điện thoại cho mẹ liền!
Brodsky
THE ESSAYS
OF JOSEPH
BRODSKY
In 1986
Joseph Brodsky published Less Than One,
a book of essays. Some of the essays
were translated from the Russian, others he wrote directly in English.
In two
cases the English matrix had a symbolic importance to him: in a
heartfelt
homage to W H. Auden, who did much to smooth his path for him when he
quit Russia
in 1972, and whom he regarded as the greatest poet in English of the
century;
and in his memoir of his parents, whom he had to leave behind in
Leningrad, and
who, despite repeated petitions to the Soviet-era authorities, were
never
granted permission to visit him. He chose English, he explained, to
honor them
in a language of freedom.
Coetzee
Joseph Brodsky:
To my daughter
Trong Căn
Phòng Rưỡi
Ông cụ tôi
thọ hơn bà cụ mười ba tháng. Bà cụ 78 tuổi trời, còn ông cụ tám mươi.
Tôi chỉ
được sống chung với cả hai, ba mươi hai năm. Tôi gần như chẳng biết một
tí gì,
về chuyện hai ông bà đã làm quen với nhau trong dịp nào, ra làm sao;
tôi còn chẳng
biết hai người lấy nhau vào năm nào. Chẳng biết cách họ sống, cách họ
xoay xở,
trong mười một hoặc mười hai năm sau cùng của cuộc đời của họ, những
năm không
có tôi. Kể từ khi chẳng hề biết như vậy, tôi đành nhủ thầm, rằng mọi
chuyện thì
cũng theo thường lệ, và, biết đâu, hai cụ còn cảm thấy dễ xoay sở hơn,
khi
không có tôi ở kế bên, cả về mặt tiền bạc chi dụng hàng ngày, lẫn việc,
hết còn
phải thấp thỏm, về chuyện tụi nó bắt bớ giam cầm thằng con.
Ngoại trừ
chuyện, tôi đã không được phụng dưỡng bố mẹ khi ông bà đã già yếu,
ngoại trừ
chuyện, hai cụ mất không có tôi ở kế bên. Tuy nhiên, tôi nói như vậy
không hoàn
toàn là do mặc cảm tội lỗi. Ao ước làm sao đi đúng con đường của bố mẹ,
theo
tôi, có thể là một ao ước ích kỷ, bởi vì, mọi đứa trẻ, cách này hay
cách khác,
đều lập lại thành công của bố mẹ chúng. Tôi chỉ có thể nói như thế này,
nói cho
cùng, con người muốn học, từ bố mẹ của mình, về tương lai của chính
mình, của
riêng mình, về tuổi già của riêng mình; con người muốn học, từ bố mẹ
của nó,
bài học tối hậu này: làm sao chết, chết thế nào. Ngay cả khi chẳng muốn
bất cứ
một điều gì vừa nêu trên, thì con người vẫn hiểu ra điều này, tuy không
cố tình
muốn hiểu, rằng, khi mình già, liệu có khác ông via bà via mình chút
nào không,
hay cũng rứa? Liệu những gì gì, giọt máu đào hơn ao nước lã, là như
vậy, liệu
cái bệnh đau tim này, là di truyền?”
Như vậy là
tôi không, và sẽ chẳng bao giờ biết, ông cụ bà cụ cảm thấy thế nào,
những năm
cuối cùng của cuộc đời của họ. Họ đã phải sợ hãi bao nhiêu lần? Bao
nhiêu lần họ
đã cảm thấy đã được sửa soạn, để chết, và sau đó, sau khi đã bình tâm,
liệu có
khi nào họ mong ước, cả ba chúng tôi sẽ có cơ hội lại đoàn tụ? “Con
trai của mẹ,”
bà cụ sẽ gọi điện thoại cho tôi, và nói, “điều độc nhất mà mẹ muốn từ
cuộc đời
này, là, lại được nhìn thấy con. Đó là điều khiến mẹ còn níu kéo cuộc
đời
này". Và một phút sau, “Con đang làm gì đó, mẹ muốn nói, năm phút,
trước
khi con gọi cho mẹ?” “Con đang rửa chén dĩa.” “Ô, vậy thì tốt quá. Đó
là điều
thật tốt để mà làm. Đôi khi nó còn làm cho con khoẻ mạnh, một cách trị
bịnh tuyệt
vời đấy, con trai của mẹ.”
*
Gấu, một
trong những lạc thú ở trên đời, là… rửa chén, trong khi Gấu Cái lại chỉ
thích làm
món ăn, ăn no xong, thì không thích làm gì cả!
Lạ, là trong
khi rửa chén, đầu óc của Gấu thảnh thơi nhất, “không nghĩ chi về ai
hết, không
lo chi chuyện tây, chuyện ta gì hết , chỉ nghĩ tới mình và những bài
thơ đã
làm, đang làm, và sẽ làm thôi .”!
NQT vu par TT
Sóng Văn
(SV): Trong cơ duyên nào bà đã đến với người bạn đời của mình ? Và
trong chiều
dài thăng trầm của cuộc sống, bà có thể giới thiệu một kỷ niệm buồn,
vui ?
Nguyễn Thị
Kim Hồng (NTKH): Chúng tôi quen nhau qua sự sắp đặt của số mệnh. Kỷ
niệm đáng
nhớ nhất là đám cưới phải dùng thuyền, vì năm đó nước lụt. Trên thuyền
có đủ hạnh
phúc và khổ đau của hai đứa chúng tôi.
SV: Nhiều
người thường quan niệm rằng: các ông bà tác giả, dù sinh hoạt ở bộ môn
nghệ thuật
nào, cũng thường có tính lơ là đối với những công việc gia đình. Theo
bà, nhận
xét này đúng được bao nhiêu phần trăm ? Và riêng ông
nhà thì sao ?
NTKH: Nhà
tôi thường giúp đỡ tôi trong việc làm bếp, dọn dẹp nhà cửa. Đó là những
lúc anh
cảm thấy đầu óc thảnh thơi nhất.
SV: Ngoài những
môn sở trường, xin cho biết ông nhà còn thích hoạt động giải trí thêm
với những
bộ môn nào khác ?
TKH: Nhà tôi
có nhiều đam mê. Không biết tôi là một trong số đó hay là tổng số những
đam mê
của anh.
SV: Xin cho
biết một ít thói quen của ông nhà trong lúc sáng tác?
NTKH: Nhà
tôi thích làm việc một mình, về đêm.
SV: Bà đã từng
có những đóng góp vào công việc sáng tác của ông nhà ?
NTKH: Truyện
ngắn nhà tôi viết đều thấp thoáng hình bóng những người đàn bà khác.
Một cách lạc
quan, tôi vẫn nghĩ, tôi là tổng số những người đó. Tất cả chỉ là tưởng
tượng hoặc
là những bản nháp của một tác phẩm chưa được viết ra.
SV: Bà có những
nhận xét tổng quát nào về toàn bộ tác phẩm của ông
nhà đã được giới thiệu rộng rãi trong quần
chúng ?
NTKH: Tôi
không xen vào việc viết lách của nhà tôi.
SV: Xuyên
qua việc phát hành, phổ biến các tác phẩm nghệ thuật của ông nhà, bà có
những
nhận định gì về tình hình sinh hoạt văn học nghệ thuật Việt Nam hiện
nay tại hải
ngoại ?
NTKH: Vấn đề
này ngoài tầm hiểu biết của tôi.
SV: Cá nhân
bà đã và đang sinh hoạt trong lãnh vực nào ? Những sinh hoạt đó có gây
trở ngại
hoặc hỗ tương trong việc sáng tác của ông nhà
?
NTKH: Tôi
làm ở một lãnh vực khác, nhưng đôi khi cũng viết lách để giải trí.
SV: Nếu có
thể được, xin bà vắn tắt cho đôi dòng tiểu sử của ông, những tác phẩm
của ông ấy,
và đôi dòng về cá nhân bà, đại khái quê quán, hoài bão...
NTKH: Tôi
quê ở Cai Lậy, Mỹ Tho. Nhà tôi người Bắc di cư. Chúng tôi được bốn
cháu, đã truởng
thành, nhưng chỉ có cháu út hiện đang sống với chúng tôi. Mấy cháu lớn
còn ở Vạn
Tượng (Lào). Hoài bão tôi không có, nhưng mơ ước một ngày nào được xum
họp với
tất cả bốn cháu. Trân trọng cảm ơn Sóng Văn và độc giả. Chúc báo Sóng
Văn sống
mãi để phục vụ cộng đồng người Việt hải ngoại.
Borges Page
Parable of
Cervantes and Don Quixote
Weary of his
Spanish homeland, an aging soldier of the king's army sought comfort in
Ariosto's vast geographies, in the lunar valley where lies the time
that dreams
squander away, and in the golden idol of Mohammed stolen by Montalban.
Gently
mocking himself, he thought up an impressionable man who, unbalanced
from
reading fantastic tales, went forth to find feats of arms and
enchantments in
ordinary places with names like El Toboso and Montiel.
Defeated by
reality-by Spain-Don Quixote died in his native village around 1614.
Miguel de
Cervantes briefly outlived him.
For both the
dreamer and the man he dreamed, the story was about the clash of
opposing
worlds: the unreal world of chivalric fiction and the average, everyday world of the seventeenth century.
Neither
imagined that with the passage of years the strife would diminish, nor
did they
imagine that La Mancha and Montiel and the knight's scrawny physique
would be
no less poetic in the future than the adventures of Sinbad or Ariosto's
vast
geographies.
Because myth
is at the beginning of literature, and also at its end.
-Devoto
Clinic, January 1955
-K.K.
Ngụ
ngôn về Cervantes và Don Quixote
Mệt mỏi,
chán ngấy quê nhà Tây Bán Nhà, một tên lính già của quân đội hoàng gia
tìm sự
thoải mái ở nơi núi đồi rộng lớn Ariosto, ở thung lũng trăng mờ, nơi
thời gian
trải dài, cùng những giấc mộng tan hoang, cùng bức thánh tượng bằng
vàng của
Mohamed bị Montalban đánh cắp.
Tự diễu
mình, nhè nhẹ, anh già nhớ lại đời mình, 1 tên đàn ông thật ấn tượng,
ngất ngư
con tầu đi, do đọc ba thứ chuyện kỳ quái, bèn lên đường tìm những cuộc
vui
chiến trận
và những trận cười đốt đuốc chơi đêm, nhất dạ đế vương, ở những nơi
chốn bình
thường với những cái tên như là El Toboso và Montiel.
Bị thực tại
– bị xứ Tây Bán Nhà - đánh bại, Don Quixote chết tại làng quê, nơi ông
chào đời
vào khoảng 1614. Miguel de Cervantes sống dai hơn ông 1 tị.
Đối với cả
hai, người nằm mơ, và người đàn ông mà anh ta mơ, câu chuyện là về sự
đụng độ
giữa những thế giới đếch chịu nhau, chống lại nhau: thế giới không thực
của thứ
giả tưởng nghĩa hiệp, hiệp sĩ, giang hồ, chưởng Kim Dung, và thế giới
mọi ngày,
làng nhàng từng ngày của thế kỷ 17.
Chẳng ai
nghĩ đến chuyện, với ngày tháng qua đi, sự xung đột yếu dần, hay
chuyện,
La
Mancha và Montiel và bộ vó khẳng khiu, cà tong cà teo của vị hiệp sĩ,
thì đếch
có tí thơ ca vãi linh hồn nào, so với những cuộc phiêu lưu của chàng
thủy thủ
Sinbad và không gian trời đất, địa lý bao la vô cùng Ariosto.
Bởi vì, huyền
thoại khởi đầu, và… chấm dứt, văn chương!
Elegy
Oh destiny
of Borges-
to have
traversed the various seas of the world
or the same
solitary sea under various names,
to have been
part of Edinburgh, Zurich, the two Cordobas,
Colombia,
and Texas,
to have gone
back across the generations
to the
ancient lands of forebears,
to
Andalucia, to Portugal, to those shires
where Saxon
fought with Dane, mingling bloods,
to have
wandered the red and peaceful maze of London,
to have
grown old in so many mirrors,
to have
tried in vain to catch the marble eyes of statues,
to have
studied lithographs, encyclopedias, atlases,
to have
witnessed the things that all men witness-
death, the
weight of dawn, the endless plain
and the'
intricacy of the stars,
and to have
seen nothing, or almost nothing
but the face
of a young girl in Buenos Aires,
a face that
does not want to be remembered.
Oh destiny
of Borges, perhaps no stranger than yours.
-A.R.
The Moon
for Maria Kodama
There is
such loneliness in that gold.
The moon of
the nights is not the moon
Whom the
first Adam saw. The long centuries
Of human
vigil have filled her
With ancient
lament. Look at her. She is your mirror.
-W.B.
Trăng
Có
cái cô đơn khủng khiếp như thế đó ở trong mảnh trăng vàng.
Trăng
của đêm không phải trăng Adam đầu tiên nhìn thấy
Những
thế kỷ dài của những lời khẩn cầu của con người
Đã tẩm vào nàng lời
than van xưa,
cũ.
Hãy
nhìn nàng kìa.
Nàng
là tấm gương của em đó.
Rain
Quite
suddenly the evening clears at last
as now
outside the soft small rain is falling.
Falling or
fallen. Rain itself is something
undoubtedly
which happens in the past.
Whoever
hears it falling has remembered
a time in
which a curious twist of fate
brought back
to him a flower whose name was "rose"
and the
perplexing redness of its red.
This rain
which spreads its blind across the pane
must also
brighten in forgotten suburbs
the black
grapes on a vine across a shrouded
patio now no
more. The evening's rain
brings me
the voice, the dear voice of my father,
who comes
back now, who never has been dead.
-A.R.
Mưa
Hoàn toàn bất
thình lình, sau cùng, buổi chiều sáng ra
Như là giờ đây,
bên ngoài mưa mềm, nhỏ, đang rơi.
Đang rơi hay
đã rơi?
Mưa, tự nó là
một cái gì chẳng nghi ngờ chi, xẩy ra trong quá khứ
Bất cứ ai
nghe mưa rơi thì đều nhớ tới cái lúc mà số mệnh, xoắn 1 phát,
Mang trả lại cho
anh ta một bông hoa, tên là.... BHD
Cơn
mưa trải dài sự mùa lòa của nó dọc theo ô kính hẳn cũng làm sáng lên,
nơi những
vùng ngoại vi thành phố bị bỏ quên,
những trái nho đen nơi hàng cây dọc
theo sân tẩm
liệm nay không
còn nữa.
Cơn mưa buổi chiều mang cho tôi giọng nói,
giọng nói yêu thương của
BHD,
bây giờ trở lại, chẳng hề đi xa.
To Whoever
Is Reading Me
You are
invulnerable. Have they not granted you,
those powers
that preordain your destiny,
the
certainty of dust? Is not your time
as
irreversible as that same river
where
Heraclitus, mirrored, saw the symbol
of fleeting
life? A marble slab awaits you
which you
will not read-on it, already written,
the date,
the city, and the epitaph.
Other men
too are only dreams of time,
not
indestructible bronze or burnished gold;
the universe
is, like you, a Proteus.
Dark, you
will enter the darkness that awaits you,
doomed to
the limits of your traveled time.
Know that in
some sense you are already dead.
-A.R.
Note: Mấy
bài thơ của Borges, GCC tính dịch, mừng sinh nhật Gấu!
Gửi bất cứ ai
đang đọc GCC
Bạn thì “đả
biến thiên hạ vô địch thủ, kim cương bất hoại..”
Hẳn là những
vị thần đã ban cho bạn quyền lực vô biên: Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi?
Hay là thời gian
của bạn,
Không phải thứ "bất phản hồi", mà thằng cha Gấu ngồi ở bờ sông Mekong
thấy xác của nó
trôi qua?
Hay
Heraclitus, nhìn qua gương, thấy hình ảnh cuộc đời bóng câu qua cửa sổ?
Một miếng đá
cẩm thạch đang đợi bạn.
Bạn sẽ không
đọc – trên miếng đá đã được viết ra, ngày tháng, thành phố, và mộ chí,
tức câu
văn ngắn nhất, gói trọn đời bạn.
Những con
người khác, cũng thế, chỉ là những giấc mơ của thời gian
Không phải đồng
không bị huỷ diệt, hay vàng bị đốt cháy
Vũ trụ thì cũng
như bạn, một Proteus.
Tối thui, bạn
sẽ đi vào bóng đen đang đợi bạn,
Thứ bóng đen
bị trầm luân bởi những giới hạn của thời gian viễn du của bạn
Biết, theo 1
nghĩa nào đó, bạn đã chết từ đời nào rồi.
Bi Khúc
Ôi số mệnh của
GCC -
Đã phiêu du nhiều
biển trên thế giới,
Hay, vẫn chỉ
một biển mang nhiều nick
Đã có phần ở
Edinburgh, Zurich, ở Bắc Kít & Nam Kít, Cordobas, Colombia, và Texas
Đã trở lại,
sau nhiều thế hệ,
Những vùng đất
xưa của ông cha,
Ở Andalucia,
Portugal, những quận huyện,
Nơi đám rợ
Saxon choảng nhau với Dane, trộn máu với nhau.
Đã lang
thang những mê cung đỏ, hiền hòa ở London
Đã trở nên già trong rất nhiều tấm gương
Đã cực kỳ cố gắng, nhưng vô ích, nắm bắt ánh mắt cẩm thạch
của những pho tượng
Đã nghiên cứu thạch bản, bách khoa toàn thư, bản đồ
Đã chứng kiến những điều mà tất cả những người đàn ông chứng kiến –
Cái chết, sức nặng của buổi bình minh, đồng bằng vô tận, sự phức tạp
của những
vì sao,
Đã nhìn chẳng cái gì, hầu như chẳng cái gì
Ngoại trừ khuôn mặt của BHD, bữa ở cổng trường Đại Học Khoa Học Sài
Gòn
Một khuôn mặt ra lệnh, ta cấm mi không được nhớ ta!
Ui chao tội cho số phận thằng cha Gấu
Nhưng mà, chắc của bạn cũng chẳng khác gì nó đâu!
Ta thấy hình
ta những miếu đền
Ta thấy tên
ta những bảng đường
Đời ta, sử
chép cả ngàn chương
Sao không, hạt
cát sông Hằng ấy
Còn chứa
trong lòng cả đại dương
Mai Thảo
THE POET
PROCLAIMS HIS RENOWN
The span of
heaven measures my glory.
Libraries in
the East vie for my works.
Emirs seek
me, to fill my mouth with gold.
The angels
know my latest lyrics by heart.
The tools I
work with are pain and humiliation...
Would that I
had been born dead.
-from The
Divan of Abulcasim el Hadrami (twelfth century)
LE POÈTE
PROCLAME SA RENOMMÉE
Le cercle du
Ciel est la mesure de ma gloire,
Les bibliothèques
de l'Orient se disputent mes vers,
Les emirs me
cherchent pour emplir ma bouche d'or,
Les anges
savent déjà par coeur jusqu' à mon dernier zejel,
Mes
instruments de travail sont l'humiliation et l'angoisse;
Plut à Dieu
que je fusse né mort.
GCC đòi vinh
danh là nhà văn của thế kỷ... 21
Bầu trời là
thước đo vinh quang của GCC
Thư Viện Đông
Phương cãi nhau ỏm tỏi
Vì những bài
Tạp Ghi thần kỳ của GNV
VC xin gặp Gấu
để mời về làm Trùm Văn Học xứ Mít
Những thiên
thần thuộc lòng thơ của Gấu
Dụng cụ viết
văn của Gấu là tủi nhục, và đau thương.
May quá, Gấu
không chết lần vượt biển ở Vũng Tầu!
LIMITES
II y a une
ligne de Verlaine don’t je ne dois plus me ressouvenir,
II y a une
rue toute proche qui est défendue à mes pas,
II y a un miroir
qui m'a vu pour la dernière fois,
II y a une
porte que j'ai fermée jusqu'à la fin du monde.
Parmi les
livres de ma bibliothèque (je les ai devant mes yeux)
II doit y en
avoir un que je n'ouvrirai jamais plus.
Cet éte
j'aurai cinquante ans ;
La mort me
rogne, incessante
JULIO PLATERO
HAEDO,
Inscripciones
(Montevideo,
1923).
Giới hạn
Có 1 dòng thơ của TTT, Gấu
không làm sao nhớ ra
Có 1 con phố ngay gần nhà, Gấu không được đặt chân tới.
Có 1 cái gương nhìn thấy Gấu lần chót
Có 1 cái cửa Gấu đóng lại cho đến Tận Thế
Trong số sách thư viện của Gấu (đang hiển hiện ra trước mắt Gấu)
Phải có 1 cuốn mà Gấu sẽ chẳng bao giờ mở ra nữa
Mùa Thu này Gấu gần tám bó
Cái chết gặm Gấu suốt ngày đêm
|
|