*

Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ của thiên đường | Passage Eden | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả sáng tác | Giới thiệu | Góc Sài gòn | Góc Hà nội | Góc Thảo Trường
 Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn/ Viết


Thơ Mỗi Ngày

Thơ Mỗi Ngày
Tribute to NCT: Vietnam's Solzhenitsyn

Thấm thoát, hôm nay 2/10 là giỗ ba năm Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện. Trích hai câu thơ của ông: "Để thắng được kẻ thù / Tôi không thể hèn ngu..."

Tưởng nhớ Nguyễn Chí Thiện nhân giỗ 100 ngày * Một số hình ảnh tài liệu về thi sĩ Nguyễn Chí Thiện Nguyễn Chí Thiện đọc thơ, trả lời phỏng vấn * Một số đoạn phim video quay trong buổi nói chuyện, đ...
buivanphu.wordpress.com



                                                         He would
vacation in a mountain boardinghouse, he would
come down for lunch, from his
table by the window he would
scan the four spruces, branch to branch,
without shaking off the freshly fallen snow. 

Goateed, balding,
gray-haired, in glasses,
with coarsened, weary features,
with a wart on his cheek and a furrowed forehead,
as if clay had covered up the angelic marble - he wouldn't
know himself when it all happened.
The price, after all, for not having died already
goes up not in leaps but step by step, and he would
pay that price, too.
About his ear, just grazed by the bullet
when he ducked at the last minute, he would
say: "I was damned lucky:' 

While waiting to be served his noodle soup, he would
read a paper with the current date,
giant headlines, the tiny print of ads,
or drum his fingers on the white tablecloth, and his hands would
have been used a long time now,
with their chapped skin and swollen veins. 

Sometimes someone would
yell from the doorway: "Mr. Baczynski," phone call for you" -
and there'd be nothing strange about that
being him, about him standing up, straightening his sweater,
and slowly moving toward the door. 

At this sight no one would
stop talking, no one would
freeze in midgesture, midbreath,
because this commonplace event would
be treated - such a pity-
as a commonplace event. 

• Krzysztof Kamil Baczynski, an enormously gifted poet of the "war generation” was killed as a Home Army fighter in the Warsaw Uprising of 1944 at the age of twenty three (Translators' note) 

Szymborska: Map

Note: Bài thơ này, về 1 nhà thơ nổi tiếng của thế hệ "đường ra trận mùa này đẹp lắm", như Phạm Tiến Duật, thí dụ, nhưng không may, được hy sinh, và may mắn thay, bị sống lại, qua bài thơ của Szymborska.
Adam Zagajewski đi 1 bài về trường hợp này. Nhà thơ may mắn thoát chết, được nhà nước ban cho nhà, trong khu nhà tập thể của Hội Nhà Văn:

Baczynski is a legendary figure in Poland. He belongs to the pantheon of heroes who died young. His poems are published in enormous editions; in Szymborska's poem the dead youth changes into a sixty-year-old writer, a little gray, a little bald, and altogether ordinary. The only thing out of the ordinary is that the writer is alive. And it is precisely the fact that living does not amaze us that strikes us in Szymborska's poem.

SHADOW
Here you are close to me again
Memories of my companions killed in the war
The olive of time
Memories that make just one
As a hundred pelts make just one fur coat
As these thousands of wounds make just one newspaper article
Somber impalpable appearance that has taken on
The changing shape of my shadow
An Indian crouching in ambush for eternity
Shadow you creep up close to me
But you don't hear me anymore
You will no longer know the heavenly poems I sing
But I hear you I still see you
Destinies
Multiple shadow may the sun watch over you
You love me enough to never leave me
You who dance in the sun without raising any dust
Shadow ink of the sun
Handwriting of my light
Caisson of regrets
A god who humbles himself

-Guillaume Apollinaire

(Translated from the French by Ron Padgett)

NYRB Oct 8, 2015

GUILLAUME APOLLINAIRE

The Seasons
It was a blessed time we were at the beach
Go out early in the morning no shoes no hats no ties
And quick as a toad's tongue can reach
Love wounded the hearts of the mad and the wise

Did you know Guy when he galloped along
When he was a military man
Did you know Guy when he galloped along
When he was an artiman
In the war

It was a blessed time At mail call
We are squeezed in tighter than on a bus
And the stars passing by were mimicked by the shells
In the night when the cannons came rolling up

Did you know Guy when he galloped along
When he was a military man
Did you know Guy when he galloped along
When he was an artiman
In the war

It was a blessed time Days and nights blending
The stew-pot shells gave our trench dugout
Aluminum shrapnel that you set about
Smoothing all day into an unlikely ring
Did you know Guy when he galloped along
When he was a military man
Did you know Guy when he galloped along
When he was an artiman
In the war

It was a blessed time The war goes on
The Gunners have filed for part of a year
Safe in the woods the Driver can hear
An unknown star repeating a song

Did you know Guy when he galloped along
When he was a military man
Did you know Guy when he galloped along
When he was an artiman
In the war

It was a blessed time The war goes on
The Gunners have filed for part of a year
Safe in the woods the Driver can hear
An unknown star repeating a song
Did you know Guy when he galloped along
When he was a military man
Did you know Guy when he galloped along
When he was an artiman
In the war

GUILLAUME APOLLINAIRE (1880-1918) is one of the greatest French poets of all time. Zone: Selected Poems of Guillaume Apollinaire, translated by Ron Padgett, is forthcoming from NYRB Poets next month.
Poetry Magazine, Oct 2015

Trong "Akhmatova, thi sĩ, nhà tiên tri”, có 1 chương dành cho Brodsky. Cái từ "dưới hầm", “samizdat” - tức thứ văn chương lén lút trao tay -xuất hiện, cùng với thơ của Brodsky, “Kinh Cầu” của Akhmatova.
Đám thi sĩ đàn em, dưới trướng bà chị, có cái nick là "những đứa trẻ mồ côi của Akhmatova", “Akhmatova’s orphans”.
Chương sách kể, trường hợp nào “nữ thần sầu muộn” thi ca Nga, từ này của Brodsky, the “Kneeling Muse”, quen biết đám nhà thơ đàn em.
TV sẽ đi chương này, cũng là 1 cách dạy cho những nhà phê bình VC như Vương Viên Ngoại, biết, thế nào là văn chương Nga, không phải thứ mà đám này thường tự hào rất rành.
Chương sách về Pat [Pasternak] cũng thật tuyệt.
Hình như Vương Đại Gia cũng chưa từng đọc Pat?



Strong Words
O, some spoken words need stay unspoken!
Some writers should bite their tongues;
Only the blue dome of the sky and God
In His infinite mercy are inexhaustible.

Nặng lời
Ôi, vài lời nặng đừng nên nói
Vài nhà văn nên cắn lưỡi của họ
Chỉ vòm trời xanh và Ông Trời
Với lòng từ bi vô cùng của Người
Là không bao giờ mệt mỏi

August (an excerpt)
And now, you are my new sorrow,
A snake, suffocating as in ages long ago ...
Rattle of the Black Sea undertow
Slyly coiling on my hard pillow.
Tháng Tám
[trích đoạn]
Và bây giờ, em là nỗi u sầu mới của tôi
Một con rắn, nghẹt thở từ bao đời
Lách cách sóng Biển Đen dội từ bờ
Len lén cuộn mình trên gối cứng của tôi

Tôi chỉ muốn nói trong phạm vi giới cầm bút. Cách đây 15, 20 năm, một số anh em yêu mến và “thuộc“ văn học Nga biết rõ Moskva có mấy tờ báo hay tạp chí văn học quan trọng, khuynh hướng từng tờ ra sao, hiện do ai nắm, nội tình nó như thế nào? Còn bây giờ có ai thạo văn học Mỹ, văn học Pháp như thế không, tôi có cảm tưởng là không, hoặc chỉ có rất ít.
VTN

http://phamcaohoang.blogspot.ca/2015/09/2004-vuong-tri-nhan-doi-song-ra-sao-thi.html

Cái văn học Nga mà Vương Viên Ngoại khoe thời của ông rất rành, chính nó, góp phần vào cái việc xây dựng nên địa ngục Mít bây giờ, khi những nhà văn Bắc Kít đánh đồng cuộc chiến vệ quốc của Liên Xô với cuộc chiến làm thịt Ngụy.
Bắc Kít, theo GCC chẳng biết gì về văn học Nga, thứ “dưới hầm” của họ. Gần như mù tịt về Akhmatova, Osip Mandelstam, thí dụ.
Nhất với đám này, là Maya, mà ông này, sau tự tử, có thể một phần, là do sám hối vì thứ thơ “đường ra trận mùa này đẹp lắm” của ông. Thứ thơ mà Bùi Ngọc Tấn bị nhà nước VC tống vô tù, vẫn cố mang theo.
Bài viết của VTN có rất nhiều điều nhảm. Thí dụ, ông viết về Claude Simon, nhà văn Nobel Pháp, đẻ ra lý thuyết rồi sau đó viết tiểu thuyết để minh họa nó, kinh thế! (1)
Bữa trước, Gấu nhớ có đọc loáng thoáng, bài ông viết về hai nhà văn Nobel, Jelinek, và Herta Muller, không rành, phán ẩu, và không hề đưa ra sự kiện chứng minh điều ông nói.
Đám phê bình trong nước, càng ngày càng cho thấy, thiếu đọc. Và cũng như đám sáng tác, vẫn cố ôm lấy hào quang cuộc chiến.
Ngay tên Bọ Lập, thí dụ, cũng có phần đóng góp trong việc tạo dựng ra thế hệ con em, sau này tống ông ta vô tù.
Phải có 1 quyết tâm làm 1 cú xóa sạch, làm lại từ đầu, “table rase” mới được.
Phải có 1 tên tay đầy máu Ngụy, thí dụ tên già NN, ra nghĩa trang Ngụy quỳ lạy, sám hối, thì mới mong có sự thay đổi.

(1)
Văn chương cũng thế. Có người như Claude Simon (giải thưởng Nobel 1985) chẳng hạn, là loại có lý thuyết trước, sau đó ông ấy mới dùng văn chương để minh hoạ cho lý thuyết của mình.

L'écrivain Claude Simon, Prix Nobel de littérature 1985, est décédé le 5 juillet à Paris, à l'âge de 91 ans
Nhà văn Pháp Claude Simon, Nobel văn chương 1985, đã từ trần, 6 July, 2005 thọ 91 tuổi.
Trong bài viết trên tờ Thế Giới, ông được coi như là đệ tử của Proust, cũng một ông Tây. Nhưng theo Hai Lúa, ông là đệ tử của Faulkner, đúng hơn, với những câu văn dài ngoằng, gồm những mạch ngầm, những tuyệt lộ, [cul-se-sac].
Ông còn được coi như là nhà văn thuộc trường phái "tiểu thuyết mới". Cuốn nổi tiếng nhất của ông: Đường Flandres, La Route des Flandres.

Nhật Ký Tin Văn
*

Claude Simon: Nobel vô danh, bà con của Faulkner & Proust

Bạn không thể không Thầy mà thành nhà văn được. Bài học TTT dạy Gấu, càng về già càng thấm. Ông nói, nhà văn thì hằng hà sa số, nhưng dòng văn thì đếm trên đầu ngón tay. Mày cứ đọc búa xua, vớ được ông nào cũng đọc, và tới 1 lúc nào đó, mày tìm ra ông Thầy của mày. Ðúng như thế. Vừa đọc mấy dòng đầu mở ra Absalon, Absalon!, của Faulkner, là Gấu biết ngay, đây là Thầy của mình!

Quái nhất, là nếu Gấu vớ phải 1 cuốn khác của Faulkner, thì chưa chắc đã nhận ra Thầy.
Bởi vì cái đoạn mở ra đó, ứng đúng vào thằng Gấu cà chớn!
Sau này, đọc Cô Tư, còn nhận ra toàn bộ tác phẩm của cô cũng bước ra từ cái bóng của Faulkner, từ cái khúc dạo đầu mở ra Absalon, Absalon!

Khủng thực!

Ðòn Trình Giảo Kim trên, TTT truyền lại cho Gấu, Gấu áp dụng đúng vào bài viết Ðọc Bếp Lửa của TTT, đăng trên Tập San Văn Chương, sau đăng lại trên Văn: Học trò khám phá ra Thầy, không phải ngược lại.
Phải đến khi ra được hải ngoại thì mới biết đây là ý của Borges, trong bài viết về Kafka.
Chắc TTT khi đó chưa đọc Borges, chí lớn gặp nhau là vậy.

   
*

*

by A.G. Tyshler. courtesy Moscow collection

Cái tít cuốn sách của GCC, “Nơi người chết mỉm cười” là từ “Kinh Cầu” của Akhmatova. Trong “Akhmatova, nhà thơ, nhà tiên tri”, tác giả, Roberta Reeder cho biết, chính Akhmatova cũng sợ, không dám viết ra giấy, và nhờ người học thuộc lòng, rồi đốt bỏ. Bài thơ sau đây, của Akhmatova, nhan đề “Mayakovsky vào năm 1913”. Akhmatova nói với một người quen [Anatoly Naiman], vào đầu thế kỷ, bà thực sự, genuinely, thích thơ của Mayakovsky, mặc dù thơ của Maya khác hẳn thơ của bà, và, giả như Maya ngưng làm thơ trước Cách Mạng, thì ông sẽ là nhà thơ lớn lao nhất so với bất cứ người nào ở Nga. Sau Cách Mạng, ông ta viết những dòng như “My militia cares for me” [du kích lo cho tôi], thì hết thuốc chữa [just going too far]. “Bạn có thể tưởng tượng Tyutchev - một nhà thơ lớn thế kỷ 19 - viết, “Cớm lo cho tôi” [“My police force cares for me”]? Bà tin rằng Maya thực sự hiểu chuyện gì đang xẩy ra, không như bà và bạn của bà.
Bài thơ của Akhmatova miêu tả 1 con người có tài, sáng tạo và huỷ diệt, who both created and destroyed, ám chỉ, referring, ao ước của nhóm Vị Lai, the Futurist desire, vứt hết gia tài của Mẹ, của quá khứ, để xây dựng những thành quả lớn lao của tương lai.

I didn't know you in your glory,
I only remember your stormy dawn.
But perhaps today I have the right
To recall a day from those far-off years.
How in your poems sounds hardened,
New voices swarmed ...
Your youthful hands were not lying idle,
You were constructing formidable scaffolding.
Everything you touched no longer seemed
The same as it had been before.
What you destroyed-was destroyed,
A verdict beat in every word.
Lonely and often dissatisfied,
You rushed your fate impatiently,
You knew that soon, joyful and free,
You would begin your great battle.
And the hum of the rising tide of response
Was audible as you read to us.
Rain slanted its eyes wrathfully,
You quarreled violently with the city.
And your still unheralded name
Flew like lightning around the stuffy hall,
So that today, treasured throughout the land,
It might ring out like a battle cry.
I didn't know you in your glory,
I only remember your stormy dawn.
But perhaps today I have the right
To recall a day from those far-off years.
How in your poems sounds hardened,
New voices swarmed ...
Your youthful hands were not lying idle,
You were constructing formidable scaffolding.
Everything you touched no longer seemed
The same as it had been before.
What you destroyed-was destroyed,
A verdict beat in every word.
Lonely and often dissatisfied,
You rushed your fate impatiently,
You knew that soon, joyful and free,
You would begin your great battle.
And the hum of the rising tide of response
Was audible as you read to us.
Rain slanted its eyes wrathfully,
You quarreled violently with the city.
And your still unheralded name
Flew like lightning around the stuffy hall,
So that today, treasured throughout the land,
It might ring out like a battle cry.
(II, p. 131)

Thơ làm khi đi nuôi cá

Gánh cỏ trên vai thơ trong đầu
Trời chớm thu hạ muờng tượng hồng au
Tung hê cỏ vụn trên hồ vắng
Băm nát tình si đều nhịp dao.

[Yên Báy. Bắc Việt]
Thanh Tâm Tuyền


*

Comme la vie est lente
Et comme l'Espérance est violente (1)

How violently flowers fade.
How awfully slow life is.

Lá thu vàng mới hung bạo làm sao
Đời lừng khừng mới chán chường thế nào!


*


Strong Words
O, some spoken words need stay unspoken!
Some writers should bite their tongues;
Only the blue dome of the sky and God
In His infinite mercy are inexhaustible.


The Guest
Anna Akhmatova, translated by Stanley Kunitz and Max Hayward
March 22, 1973 Issue
http://www.nybooks.com/articles/archives/1973/mar/22/the-guest/

Nothing is changed: against the dining-room windows
hard grains of whirling snow still beat.
I am what I was,
but a man came to me.

“What do you want?” I asked.
“To be with you in hell,” he said.
I laughed. “It’s plain you mean
to have us both destroyed.”

He lifted his thin hand
and lightly stroked the flowers:
“Tell me how men kiss you,
tell me how you kiss.”

His torpid eyes were fixed
unblinking on my ring.
Not a single muscle stirred
in his clear, sardonic face.

Oh, I see: his game is that he knows
intimately, ardently,
there’s nothing from me he wants,
I have nothing to refuse.
THE GUEST
Everything's just as it was: fine hard snow
beats against the dining room windows,
    and I myself have not changed:     .
even so, a man came to call.
I asked him: "What do you want?"
He said, "To be with you in hell."
I laughed: "It seems you see
plenty of trouble ahead for us both."
But lifting his dry hand
he lightly touched the flowers.
"Tell me how they kiss you,.
tell me how you kiss."
And his half-closed eyes
remained on my ring.
Not even the smallest muscle moved
in his serenely angry face.
Oh, I know it fills him with joy-
this hard and passionate certainty
that there is nothing he needs,
and nothing I can keep from him.

1 January 1914
ANNA AKHMATOVA
translated by Jane Kenyan and Vera Dunham

I wrung my hands under my dark veil. . .
http://www.poemhunter.com/poem/i-wrung-my-hands/
"Why are you pale, what makes you reckless?"
- Because I have made my loved one drunk
with an astringent sadness.

I'll never forget. He went out, reeling;
his mouth was twisted, desolate. . .
I ran downstairs, not touching the banisters,
and followed him as far as the gate.

And shouted, choking: "I meant it all
in fun. Don't leave me, or I'll die of pain."
He smiled at me - oh so calmly, terribly --
and said: "Why don't you get out of the rain?"

Anna Akhmatova

*

Anna Akhmatova with Boris Pasternak just after he began writing Doctor Zhivago, 1946

I WRUNG MY HANDS
UNDER MY DARK VEIL

I wrung my hands under my dark veil ...
"Why are you pale, what makes you reckless?"
- Because I have made my loved one drunk
with an astringent sadness .

I'll never forget. He went out, reeling;
his mouth was twisted, desolate ...
I ran downstairs, not touching the banisters,
and followed him as far as the gate.

And shouted, choking: "I meant it all
in fun. Don't leave me, or I'll die of pain."
He smiled at me-oh so calmly, terribly-
and said: "Why don't you get out of the rain?"

ANNA AKHMATOVA

translated by Max Hayward and Stanley Kunitz

Tôi vặn tay tôi,
dưới chiếc khăn choàng màu tối

Tôi vặn tay tôi, dưới chiếc khăn choàng màu tối…
“Sao anh xanh lét, điều gì làm anh bất cần như thế?
- Bởi là vì anh đã để cho người yêu uống với nỗi buồn se sắt
Tôi sẽ chẳng thể nào quên được. Anh bỏ đi, loạng choạng
Miệng méo xệch, hoang tàn, đổ nát….
Tôi chạy xuống cầu thang không đụng vô lan can,
Và theo anh tới tận cổng
Và la lớn, nghẹn ngào:
Em chỉ tính chọc quê anh một tí thôi. Đừng bỏ đi. Đừng bỏ em. Em sẽ chết vì đau buồn .
Anh nhìn tôi – ôi mới lạnh lùng, câm nín làm sao –
Và nói:
“Người đẹp của anh ơi, đừng ra mưa, kẻo lạnh!”


   

Happy birthday to William Faulkner

Celebrate by reading E.L. Doctorow's essay on ‘As I Lay Dying’: “It is possible that the way writers live can find its equivalent in their sense of composition, as if the technical daring of Faulkner’s greatest work has behind it the overreaching desire to hold together in one place the multifarious energies of real, unstoried life.”

Talking to a class at the University of Mississippi one day late in his life, William Faulkner remarked that his cogenerationist Ernest Hemingway lacked courage as a writer, that he had always been too careful, never taking risks beyond what he...
nybooks.com

như một lần

chiều lồng. vào đêm. buông
những tiếng gầm. trong gió
trời buông. ngàn thiên thâu
phúc âm xưa. xa. vắng
mong em về. chải tóc
kẻ lại. một nụ hôn
hong êm. đèo nắng. cũ
ủ dậy. một mùi hương
*
đêm lồng. vào điệu. ru
ơ. à ca dao. mớ
trả lại buồn. mông lung
ngày mai. không. ngày xưa
ngọn đèn. vàng u u
lần khan. trong tiếng gõ
bia mộ mình. chưa tên
giọt thiên thâu. một bóng

Đài Sử
Love
I sharpened knives
All night.
To welcome you
In the brilliance of their blades,
And among them,
My love sparkles
For your eyes only.
Tình

Ta mài dao
Suốt đêm
Để chờ mi
Trong cái sáng ngời của những lưỡi dao
Và giữa chúng
Tình ta lấp lánh
For your eyes only

Radmila Lazić
[from The Paris Review]

Xin lỗi, Chúa

Con chẳng có một xu, Chúa ơi
Tim rỗng tuếch
Bướm rỗng tuếch
Những túi linh hồn con, bên trong lộn ra, thành bên ngoài.
Trong đầu con có cái gì leng keng, leng keng
Như trong cái hộp Hồng Thập Tự
Xin Chúa tuồn một cái gì vào cái bóp của con

Con thì rỗng, và nói như tụi Mẽo, broke.
Tim con réo như cái bình nấu nước sôi pha trà Tầu
Đâu đâu, nơi nơi thì phong cảnh cũng nở tung ra bằng cái đẹp
Chỉ ở đây u ám đè lên mi con

Con phung phá đời con như cái em gì ở trong Lỗi Buồn Chiến Tranh
Như thể - mà như thể khỉ gì nữa - chẳng có ngày mai
Bây giờ tới phiên Chúa, Bụt, Phật cái con khỉ gì cũng được
Hãy ban cho con một điều gì đó
Hãy nuôi con, hãy làm lành con
Trước khi Người viết cái chó gì xuống Kinh Thánh, Kinh Phật của Người
Hãy cho con, 1 con chuột nhũi, 1 đồng xu teng
Hãy cho đứa con gái, người đàn bà tội lỗi này, một khẩu súng bự tổ trảng!
*

Map by Szymborska

Hand

Twenty-seven bones,
thirty-five muscles,
around two thousand nerve cells
in every tip of all five fingers.
It's more than enough
to write Mein Kampf
or Pooh Corner.

Tay

Hai mươi bảy cái xương
Ba mươi lăm cái bắp thịt
Cỡ chừng hai ngàn tế bào thần kinh
Ở đầu, của mọi đầu, của cả năm ngón tay
Vậy là quá, quá đủ
Để ngồi hang Hắc Búa
Hay Hác Bó cái con mẹ gì đó
Dịch Sử Đảng!

To My Own Poem
Best case scenario -
you'll be, my poem, read attentively,
discussed, remembered.

Worst comes to worst,
only read.

A third option -
actually written,
but tossed into the trash a moment later.

The fourth and final possibility-
you slip away unwritten,
happily humming something to yourself.

Gửi bài thơ của chính GCC

Bảnh nhất, thì sẽ như vầy:
Mi sẽ được đọc, tới chỉ, được lèm bèm điếc con ráy, và được đời đời truyền tụng
[“Biển”, “cô bạn” của mi, mà chẳng được như thế sao, hà, hà!]

Đọc 1 phát là thúi tới tận Trời rùi!

Giải pháp thứ ba –
Vừa viết xong, là quăng sọt rác liền tù tì!

Giải pháp thứ tư, mới tuyệt cú mèo làm sao:
Mi trượt khỏi tay ta, như… con đỉa

[Kiếp trước của mi đúng là con đỉa,
Một em đã từng mắng “êu” mi, nhớ không?]

Trước khi mi được viết xong, hoặc, chưa có lấy 1 dòng
Và huýt sáo nhè nhẹ, chân nhảy sáo,
Có vẻ như hài lòng về một điều gì đó,

Về chính mi.

Once we had the world backwards and forwards:
- it was so small it fit in two clasped hands,
so simple that a smile did to describe it,
so common, like old truths echoing in prayers. 

History didn't greet us with triumphal fanfares:
- it flung dirty sand into our eyes.
Ahead of us lay long roads leading nowhere,
poisoned wells and bitter bread. 

Our wartime loot is knowledge of the world,
- it is so large it fits in two clasped hands,
so hard that a smile does to describe it,
so strange, like old truths echoing in prayers.

From Unpublished Collection 1944-1948

Đã có thời chúng ta có thế giới, đi và về:
Gọn, lọt trong hai vòng tay
Giản dị, một nụ cuời có thể diễn tả
Thân quen, như kinh cầu, vang vọng những sự thực cổ xưa

Lịch sử đếch đón chào chúng ta bằng những phô trương chiến thắng
Nó ném kít vào mặt chúng ta
Quá nữa, nó ị vào mặt “chúng ta”, như 1 bà DTH đã từng làm, với lũ Bắc Kít.
Trước mắt chúng ta là những con đường dài thòng dẫn tới hư vô, huỷ diệt
Giếng nước độc, và bánh mì cay đắng

Nam Kít nhận họ Bắc Kít nhận hàng
Là chiến lợi phẩm của lũ Mít chúng ta
Và cũng là sự hiểu biết về thế giới
Nó, rộng đến nỗi lọt vô vòng tay
Cái gì gì, nối vòng tay nhớn
Cay đắng, nặng nề, đến nỗi chỉ 1 nụ cười vào ngày 30 Tháng Tư là có thể diễn tả được.
Cái gì gì, vui sao nước mắt lại trào
Lạ lùng, như những sự thực cổ xưa từ thời dựng nước
Cái gì gì, mẹ Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng nở ra lũ Mít.


8

Tháng Năm, 1998

*


A white stone

An aching sadness has settled in me
Like a white stone at the bottom of a well.
A sweet sadness too bitter for words.

A bitter sadness too sweet for words.
If you look me straight in the eye
You'll know the weight of this stone,
And feel even more desultory
Than if you'd read some mournful story.

The gods changed men to a bestiary,
But held them battened to their hearts.
I've changed you to this reliquary
That contains the constant ache in my heart.

Anna Akhmatova
Hòn đá trắng
Một nỗi buồn đau ơi là đau chiếm lấy tôi
Như một hòn đá trắng ở đáy giếng
Một nỗi buồn ngọt ngào quá cay đắng cho lời

Một nỗi buồn quá ngọt ngào cho lời
Nếu anh nhìn thẳng vào mắt tôi
Anh sẽ biết hòn đá nặng ra sao
Và anh sẽ cảm thấy mới rời rạc làm sao
Rời rạc hơn nhiều, so với câu chuyện thê lương nào đó
Mà anh đã từng đọc

Thần thánh biến đàn ông thành thú vật
Nhưng bắt chúng mập như heo, mất/lấp mẹ luôn trái tim!
Tôi biến anh thành thứ hòm này
Chứa trong nó cơn đau nhức hoài hoài trong tim tôi.

The muse

My life, it seems, hangs by a thread,
As I await her coming, I am mute.
And neither honours, youth, nor holy bread
Are centre stage when she plays the flute.

And now she is here. Lifting her veil,
She holds me with her glittering eye.
I ask: "Did you dictate that hellfire tale
To Dante?" "Yes, I did"-she replies.

Anna Akhmatova
Modigliani

With Modigliani following me
Through a blue Parisian fog
Looking like a dispirited and
Dispiriting shadow of himself,
I've been shaken even in my sleep
By a deep yearning remorse.

Yet for me-his Egyptian woman ...
An old grinder's organ moans
A Paris music that intones underfoot
Like the groaning sea,
He'd imbibed in his shame,
Drunk his fill of grief and hard times.

In St. Petersburg's National Library there is an Akhmatova manuscript, "Poem Without A Hero." In its margins, Akhmatova has written lines to Amedeo Modigliani. Akhmatova never did include this poem among her works. It was not published until 1980.

Modigliani

Với Modigliani theo tôi,
Qua sương mù xanh Paris,
Như bóng ma vất vưởng của chính chàng
Trong đêm khuya,
Tôi rụng rời bị dựng dậy
Bởi chính nỗi niềm ân hận miên man của mình  

Tuy nhiên với tôi, người đàn bà Ai Cập của chàng….
Cây đàn organ của một tay thợ mài già rên rỉ
Một khúc nhạc Paris ngân ngư dưới chân
Như biển lầm bầm
Thấm đậm nỗi tủi hổ
Chàng uống đầy nỗi đau, và cực nhọc.
THE MUSE
When at night I await the beloved guest,
Life seems to hang by a thread. "What is youth?" I demand
Of the room. "What is honor, freedom, the rest,
In the presence of her who holds the flute in her hand?"
But now she is here. Tossing aside her veil,
She considers me. "Are you the one who came
To Dante, who dictated the pages of Hell
To him?" I ask her. She replies, "I am."

1924
Nữ Thần Thi Ca
 
Ðêm, ta đợi vị khách quí
Ðời như treo sợi chỉ
"Tuổi trẻ là cái chi chi"?",
Ta hỏi căn phòng
“Danh dự, tự do, cái còn lại,
Thì là cái gì, trước nàng, người cầm cây sáo ở trong tay?
Nhưng bây giờ, nàng ở đây. Kéo cái mạng che mặt qua một bên,
nàng nhìn ta ra ý dò hỏi. “Bà có phải là người đọc từng trang Ðịa Ngục
cho Dante chép, phải không?” Ta hỏi nàng.
“Không phải ta, thì là ai?”


Note: Bài diễn văn này, Gấu nhớ là, dịch cũng từ thời Diễm Xưa, cái thời bắt đầu mê...  nữ thi sĩ, và nhân đó, bèn mê thơ.
Nội dung của nó, thì đúng như là cái tít, thi sĩ và thế giới.
Chẳng có “trong”, mà cũng chẳng có “hôm nay”. 

Viết Mỗi Ngày

http://www.gio-o.com/LyOcBR/LyOcBrWisTom2baitho.htm

The Nobel Prize in Literature 1996 was awarded to Wislawa Szymborska "for poetry that with ironic precision allows the historical and biological context to come to light in fragments of human reality".
Giải Thưởng Nobel Văn Chương 1996 dành cho Wislawa Szymborska "vì nền thi ca trào phúng chính xác cho phép văn cảnh thuộc lịch sử và sinh học trong những mảnh đời nhân thế được soi sáng".

Lý Ốc dịch

Theo GCC, dịch giả không thèm để ý đến “phân tích loại từ”, analyse grammaticale.
Trong cụm từ trên, precison là danh từ, ironic là tĩnh từ, bổ nghĩa [modify] cho precison. Khi dịch ra tiếng Mít, ironic biến thành danh từ.
Đúng ra phải dịch, đại khái, S được Nobel vì thơ của bà, với sự chính xác có tính hài hước, [nó] cho phép cái nội dung mang tính lịch sử và sinh học, phơi ra trước ánh sáng, trong những mẩu đoạn của thực tại con người.
Tiếng Việt không phân biệt rõ ràng về tự loại, nhưng người dịch phải biết, nếu không, độc giả không biết đuờng nào mà lần!
Hơn nữa 1 vòng hoa Nobel là cả 1 kỳ công của Viện Hàn Lâm. Làm sao chỉ vài chữ, mà nói lên được cả hai, một, cõi văn của người được, và một, cái tôn chỉ của giải Nobel.

Going Home
He came home. Said nothing.
It was clear, though, that something had gone wrong.
He lay down fully dressed.
Pulled the blanket over his head.
Tucked up his knees.
He's nearly forty, but not at the moment.
He exists just as he did inside his mother's womb,
clad in seven walls of skin, in sheltered darkness.
Tomorrow he'll give a lecture
on homeostasis in metagalactic cosmonautics.
For now, though, he has curled up and gone to sleep.

Wislawa Szymborska

Về Nhà
Chàng về nhà. Nín thinh không nói.
Rõ ràng, dù sao, đã có chuyện gì trắc trở.
Chàng nằm dài để nguyên bộ cánh.
Kéo mền trùm kín mít.
Co quắp hai gối chèo queo.
Chàng gần tứ thập, nhưng lắm lúc như em thơ.
Chàng hiện hữu như là bào thai trong bụng mẹ,
gói giữa bảy lớp thành da, ẩn trú trong cõi huyền thiên sâu thẳm.
Ngày mai chàng sẽ đọc một diễn văn
về sự cân bằng trong những chuyến du hành ngoài vũ trụ.
Còn bây giờ, dù sao, chàng cũng đã cuộn  mình trôi vào giấc ngủ.

Lý Ốc dịch

Vv “chính xác tiếu lâm”.
Nếu đúng như thế, thì “not at the moment” không thể dịch là “lắm lúc như trẻ thơ được”, mà phải dịch “không, vào lúc này”, vì tác giả giải thích, lúc này, chàng như con sâu nằm trong bụng mẹ, và đây là ý nghĩa của từ “về nhà”!

*
BOOKS

NOTES ON A VOICE
Sylvia Plath

Tragic, yes, but full of life.
Madeleine Kruhly tunes in
"Queen of Sorrows, the spokeswoman for our most private, most helpless nightmares." This is Sylvia Plath, as seen by Joyce Carol Oates. Of nightmares and sorrows, Plath was too well learned. Born in Boston in 1932, she published her first poem at the age of eight, soon after her father's death. Her collections 'The Colossus" and "Ariel" still attract new readers, as does her only novel, "The Bell Jar", which follows a whip- smart woman's spiral into depression. Her work has never gone away: in 2017 the Smithsonian will devote an exhibition to her at the National Portrait Gallery.
    At 30, Plath took her own life, setting herself up to be seen through the lens of tragedy, but there is tremendous spark in her poems. She did not always deal in despair, and if she did, it was with supreme, and silver-tongued, awareness. "If neurotic is wanting two mutually exclusive things at one and the same time," she said, "then I'm neurotic as hell."
KEY DECISIONS
Two educational, one existential. (1) Going to Smith, a private women's college where Plath was thrilled to be surrounded by "free-thinkers". (2) Moving on to Cambridge on a Fulbright scholarship. There she met Ted Hughes; four months later, they were married. (3) Taking a leaf out of William Ernest Henley's book. Plath wrote in high school, "I am the one who creates part of my fate, and I'll fight destiny all the way. So!"
STRONG POINTS
(1) A dry wit, lending itself to the morbid. "Dying/ Is an art, like everything else./I do it exceptionally well" ("Lady Lazarus"). (2) Subverting the tender, and reclaiming it, against her own intentions. "The moon is my mother. She is not sweet like Mary./Her blue garments unloose small bats and owls./How I would like to believe in tenderness" ("The Moon and the Yew Tree"). (3) The direct address. No other poet uses the second person as well as Plath does - the "you" is dynamic and unresolved. (4) A rhythm of repetition. Echoes become an obsession: "I shall not be accused, I shall not be accused./The clock shall not find me wanting, nor these stars" ("Three Women"). (5) Spotting double standards, and calling them out. Plath could not allow for men "to have a double life, one pure and one not" ("The Bell Jar").
GOLDEN RULE
Never be perfect, never be predictable. Not that she found it easy: she doubted her abilities, striving to be faultless. And she often felt a stranger, saying in an early diary entry, "I still do not know myself. Perhaps I never will." But Plath did recognize she could be more than others expected, imperfect or otherwise: "I am too pure for you or anyone./Your body/Hurts me as the world hurts God. I am a lantern -" ("Fever 103").
FAVOURITE TRICKS
(1) Rhetorical questions, to which she even replied, scathingly. "Is it a penny, a pearl-/Your soul, your soul? /1'11 carry it off like a rich pretty girl" ("Stopped Dead"). (2) Unnerving similes. "He hands her the cut-out heart like a cracked heirloom" ("Two Views of a Cadaver Room"). (3) Going from a shriek to a hush, and back. Plath sears and burns, but she falls quiet in the briefest, and most poignant, of moments. See "Nick and the Candlestick" for a striking balance.
ROLE MODELS
Emily Dickinson, for a strong first-person persona and a love of paradox. Anne Sexton, for sheer guts and a weakness for anaphora. Fyodor Dostoyevsky, for fervour and streaks of the macabre.
STARTER PACK
"Ariel" (1965) is a sure-fire introduction. Once you've devoured it, try "Three Women: A Poem for Three Voices", a haunting radio play set in a maternity ward.
TYPICAL LINES
These, from "The Colossus", for their wave-like rhythms and unapologetic tone. "The sun rises under the pillar of your tongue./My hours are married to shadow./No longer do I listen for the scrape of a keel/On the black stones of the landing".
Mỗi đàn bà lấy một tay phát xít.
[Chaque femme épouse un fasciste].
Sylvia Plath: Chuông Tuyệt Vọng [Cloche de détresse. Nhà xb Denoel].  
"Pauvre Sylvia Plath", nàng Sylvia Plath đáng thương, bài viết trên tờ Lire, số tháng 11, 2004, mở đầu.
Sylvia Plath [1932-1963]: Một thứ Virginia Woolf của thập niên 1960, và cũng tự huỷ mình như Woolf, nhưng chán đời theo một kiểu hoang dại, sauvage, hơn nhiều.
Ngôi sao băng trên nền trời thi ca Mẽo, tuy thoáng hiện rồi mất tích, nhưng để lại dấu ấn trên rất nhiều nhà văn, rất ư là khác biệt trong số họ, như: Adrienne Rich, Erica Jong, hay Philip Roth.
Tên miền của bà [Son territoire]: Sự tự thú [la confession].
Khí giới của bà: Sự hung bạo bất thần [la violence pulsionnelle]
Chuông Tuyệt Vọng: Một thứ tiểu thuyết nửa nhật ký riêng tư, nửa giả tự thuật về mình [mi-journal intime, mi-autofiction], một cuốn sách thờ, và câu văn nổi tiếng kể trên, đã trở thành tuyên ngôn của phong trào giải phóng phụ nữ.
&
 
Đó là cách thế giới đi đong
Không "đoàng" 1 phát
Nhưng mà là xụt xùi

Time present and time past
Are both perhaps present in time future,
And time future contained in time past.
If all time is eternally present
All time is unredeemable.

The Moon
for Maria Kodama

There is such loneliness in that gold.
The moon of the nights is not the moon
Whom the first Adam saw. The long centuries
Of human vigil have filled her
With ancient lament. Look at her. She is your mirror.

                                                                            -W.B.

Trăng

Có cái cô đơn khủng khiếp như thế đó ở trong mảnh trăng vàng.
Trăng của đêm không phải trăng Adam đầu tiên nhìn thấy
Những thế kỷ dài của những lời khẩn cầu của con người
Đã tẩm vào nàng lời than van xưa, cũ.
Hãy nhìn nàng kìa.
Nàng là tấm gương của em đó.


VASKOPOPA
[1922-1991]

The most widely translated and best-known postwar Yugoslav poet. He was born in Grebenac near the Rumanian border and died in Belgrade. Popa was educated in Bucharest, Vienna, and Belgrade. During the Second World War he was imprisoned by the Nazis. Influenced by French surrealism, his bestknown books are Crust (1953), Restless Field (1954), and Wolf Salt (1975). He was the editor of three influential anthologies of folk material, Serbian humor, and poets' dreams.

Charles Simic: The Horse Has Six Legs, an anthology of Serbian Poetry

Rose Thieves
Someone is a rose bush
The others are wind's daughters
The others are rose thieves

The rose thieves sneak up to the rose
One of them steals it
Hides it in his heart

The wind's daughters appear
See the picked beauty
And run after the thieves

They open their hearts one by one
In one they find a heart
In another so-help-me nothing

They open and open their chests
Until they find a heart
And in that heart a stolen rose

RADE DRAINAC
[1899-1943]

Drainac was a famous Belgrade bohemian who spent his life in the taverns of the city, often playing the violin. He served in the Serbian army in the First World War. His first book, Purple Laughter, was published in 1920. He wrote three more collections of poetry, plus a novel and a war diary. He was influenced by Apollinaire, Cendrars, and Esenin. He died of consumption.

Leaf
I've changed stations: autumn remained behind and my bags.
The sky now is doubtful like an awkward lie.
In the first tavern I'll need to forget
the melancholy letter that woke me from my sleep.
Idle, I stagger down the street past offices.
The swallows have flown and the typewriters have stayed.
One the horizon there is a huge trumpet of smoke.
A plane has just been invented as small as a butterfly.
Bravo! That's a good Sign.
The first autumn leaf falls on my hat.

LET'S GO
           for L

Let's go-
Fallen leaves blow into deep valleys
But the song has no home to return to.

Let's go-
Moonlight on the ice
Has spilled beyond the river bed.

Let's go-
Eyes gaze at the same patch of sky
Hearts strike the twilight drum.

Let's go-
We have not lost our memories
We shall search for life's pool.

Let's go-
The road, the road
Is covered with a drift of scarlet poppies.
Hãy đi
     Gửi L

Hãy đi –
Lá khô xào xạo lũng sâu
Nhưng bài hát không có nhà để mà trở về

Hãy đi –
Ánh trăng trên mặt băng
Tràn quá lòng sông

Hãy đi –
Mắt nhìn vẫn đường trời
Tim đập trống hoàng hôn

Hãy đi –
Chúng ta chưa mất hồi ức
Sẽ tìm được ao đời 

Hãy đi –
Con đường, con đường
Phủ bụi nha phiến đỏ

Bắc Đảo Bei Dao

Note: Coi lại, hóa ra dịch rồi:

Đi thôi
            Gửi L

Đi thôi-
Lá rụng dạt xuống thung lũng sâu
Nhưng bài hát không có nhà để trở về

Đi thôi-
Trăng sáng trên mặt băng,
Tràn quá lòng sông

Đi thôi-
Mắt, vẫn mảnh trời
Tim, nhịp hoàng hôn

Đi thôi-
Đôi ta chưa mất kỷ niệm
Sẽ tìm ao đời

Đi thôi-
Con đường, con đường
Lều bều anh túc đỏ

My Letter to the World


Destination

As we rode into the village we came upon
a convergence of old customs: there was
an empty house and the door stood wide open.

The men from the village lugged a cupboard into the house.
The men from the village hauled a table into the house.
The men from the village heaved a bed into the house.

And the women of the village bore
dishes and plates and glasses and something to
make the bed habitable into the house.

Then the men pushed a son inside.
Learn to light a fire, they said,
learn to put out a fire, they said,
we’re latching the shutters.

Then the women pushed a daughter inside.
Learn to be hot, they said,
learn to be cold, they said,
we’re barricading the door.

(Translated, from the Dutch, by Jacquelyn Pope.)

Nơi tới

Khi vô làng, chúng tôi tới khu cổ tục:
Một căn nhà trống, cửa mở toang

Những người đàn ông trong làng kéo một cái tủ vô đó
Những người đàn ông trong làng lôi một cái bàn vô căn nhà
Những người đàn ông trong làng nhấc một cái giường vô nhà

Và những người đàn bà trong làng
Mang chén dĩa ly và một cái gì đó,
Làm cho cái giường trở thành một nơi ăn ngủ được, ở trong căn nhà

Và rồi thì những người đàn ông đẩy 1 đứa con trai vào trong
Hãy học đốt một ngọn lửa, họ nói
Chúng ta đang đóng những cánh cửa sổ

Rồi thì những người đàn bà đẩy một đứa con gái vô
Hãy học nóng, họ nói
Hãy học lạnh, họ nói
Chúng ta đang cài then cửa.
*  



*

Because I could not stop for Death -
He kindly stopped for me -
The Carriage held but just Ourselves -
And Immortality.

Em không thể ghé thăm Thần Chết
Nên dịu dàng Người đến đưa Em
Cỗ xe lăn bánh êm đềm
Người, và Bất Tử cùng Em lên đường

K dịch

Note: “Mùa gặt chót” là tuyển từ toàn tập, gồm 567 bài, rút ra từ 1,775 bài. Bài Intro, thật là tuyệt. Gấu thú thực, không làm sao đọc được thơ của bà này. Đây là cú thử chót!
A Word that breathes distinctly
Has not the power to die
Một Từ mà thở một cách rành mạch
Không có sức mạnh để chết

1 YEAR AGO TODAY
Fri, Sep 12, 2014

In Praise of Worms

I only have faith in you, Mr. Worm.
You are efficient and dependable
As you go about your grim business...

See More
1 Like

In Praise of Worms

I only have faith in you, Mr. Worm.
You are efficient and dependable
As you go about your grim business
There's a carcass of a dead cat
Waiting for you in a roadside ditch
And cries from an outdoor birthday party
As one young girl spins and falls
With a blindfold over her eyes
Underneath some trees festooned
With pennants and Chinese lanterns.

A stroke of lightning and a few raindrops
Is all it took to make them 'run indoors
And restore the peace in their yard,
So you could take cover under a leaf
And go over your appointment book,

Cross out a name here and there,
Ponder an address or two and set out
In your slow way to pay someone a visit
Among the rich scents of summer night
And the sky brimming with stars.

Charles Simic: New and selected poems

Bài ngợi ca Giun

Tớ chỉ có niềm tin ở nơi mi, Mr. Tin Văn, ấy chết xin lỗi, Mr. Giun
Mi thì hữu hiệu, và tin cậy được
Khi chăm lo cái bi-zi-nét chẳng thích thú chi của mi
Có xác con mèo chết
Đang đợi mi ở cái rãnh bên con lộ
Và những tiếng than khóc từ một bữa tiệc sinh nhật ngoài trời
Một cô gái trẻ lảo đảo và té
Với miếng vải bịt mẹ cặp mắt của cổ
Ở bên dưới đám cây kết thành tràng hoa
Với những cái dây có móc, như thòng lọng, và những cái đèn lồng của Tẫu

Một cú sấm sét và vài giọt mưa
Tất cả ba cái lẩm cẩm đó khiến tớ bỏ vô trong
Và trả lại hòa bường cho khu vườn của họ
Mi có thể núp dưới cái lá
Và đi 1 đường kiểm tra cuốn sổ hẹn của mi

Gạch bỏ một cái tên, chỗ này, chỗ nọ
Cân nhắc 1, hay 2, cái địa chỉ, và lên đường
Thì vưỡn theo cái cách nhẩn nha của mi
Làm 1 cú viếng thăm ai đó
Giữa những mùi đậm đặc, giầu có của một đêm hè
Và bầu trời đầy sao.



In Praise of Feeling Bad about Yourself

The buzzard never says it is to blame.
The panther wouldn't know what scruples mean.
When the piranha strikes, it feels no shame.
If snakes had hands, they'd claim their hands were clean.

A jackal doesn't understand remorse.
Lions and lice don't waver in their course.
Why should they, when they know they're right?

Though hearts of killer whales may weigh a ton,
in every other way they're light.

On this third planet of the sun
among the signs of bestiality
a clear conscience is number one.
Szymborska: Map

Tự Xoa Đầu Mình, là, Bad Gấu.

Gửi HPNT, of course.
GCC
Con ó không bao giờ phán, bậy quá, bậy quá, tớ có mặt ở Huế bữa đó,
(chẳng bao giờ kêu rằng lỗi tại tôi)
Con báo làm sao biết, đắn đo nghĩa là gì.
Khi con cá ăn thịt người piranha tấn công, nó chẳng thấy xấu hổ
Nếu rắn có tay, nó sẽ nói, sạch như tay HPNT!

Một con chó rừng không hiểu hối hận là gì
Sư tử và chấy rận không lưỡng lự trong cuộc săn của chúng
Tại sao lưỡng lự, khi chúng biết, chúng có lý?

Mặc dù trái tim của những con cá voi giết người nặng cả tấn
Nhìn theo cách khác, chúng nhẹ tênh

Trên hành tinh thứ ba này của mặt trời
Trong những biểu hiện của thú tánh
Lương tâm sáng choang là số 1.

Note: Biết đâu đấy, nhờ bài thơ này, đao phủ Mậu Thân “đi” được
Cũng là 1 cách về chầu Người, như bạn Cà của Gấu, hay như thi sĩ dởm NDT!

Người xưa, đốt Đền Thiêng để được nổi tiếng, đời nay, dựa hơi đao phủ chắc cũng rứa, nhất là thời mà như Kun phán:

« Ce n'était pas seulement le temps de l'horreur, c'était aussi le temps du lyrisme! Le poète régnait avec le bourreau ".

Đâu chỉ là thời của ghê rợn, của CCRD, của Đấu Tố, của Nhân Văn Giai Phẩm, mà còn là thời của thơ ca trữ tình, Mặt Trời Chân Lý Chói Qua Tim, Đường Ra Trận Mùa Này Đẹp Lắm.
Thời Của Văn Cao: Thi sĩ lên ngôi trị vì cùng với đao phủ.
Amen!

Anh Gấu lúc nào cũng là anh Gấu ! Thế nào cũng phải chen vào vài từ trong những bài viết, không có không được .
Bài thơ hay quá .
K

Dịch là phản, mà!
Tks
GCC


Poems September 14, 2015 Issue


As we rode into the village we came upon
a convergence of old customs: there was
an empty house and the door stood wide open.

The men from the village lugged a cupboard into the house.
The men from the village hauled a table into the house.
The men from the village heaved a bed into the house.

And the women of the village bore
dishes and plates and glasses and something to
make the bed habitable into the house.

Then the men pushed a son inside.
Learn to light a fire, they said,
learn to put out a fire, they said,
we’re latching the shutters.

Then the women pushed a daughter inside.
Learn to be hot, they said,
learn to be cold, they said,
we’re barricading the door.

(Translated, from the Dutch, by Jacquelyn Pope.)

*

BITTER LEMONS

In an island of bitter lemons
Where the moon's cool fevers burn
From the dark globes of the fruit,

And the dry grass underfoot
Tortures memory and revises
Habits half a lifetime dead

Better leave the rest unsaid,
Beauty, darkness, vehemence
Let the old sea-nurses keep

Their memorials of sleep
And the Greek sea's curly head
Keep its calms like tears unshed
Keep its calms like tears unshed.

LAWRENCE DURRELL



Father in Heaven

I had not thought there were so many
Whose sole delight in life
Was to bring misery to others.
How the crowds adore them!
How they cheer their endless wars!
It makes me lose my faith.

Braving this January wind and snow,
After a night of bad dreams
And spells of anger at him
For dying young and leaving me here
To beat with raw fists
Against the padlocked cemetery gate,
Begging man or god to let me in.

Charles Simic: Master in disguises

Cha ở trên Trời

Tớ không nghĩ có nhiều kẻ đến như thế
Niềm thống khoái độc nhất của chúng
Là mang đau khổ tới cho người khác
Làm sao mà quần chúng – dân Mít, lũ VC nằm vùng… tất nhiên –
Lại mê chúng đến như thế!
Điều này làm Gấu mất mẹ niềm tin

Coi thường Tháng Giêng, với gió và tuyết
Sau 1 đêm đầy mộng dữ
Và giận dữ, chửi um lên
Tại làm sao Mi chết trẻ và để mặc ta 1 mình ở đây
Uýnh lộn, với đôi tay trần
Với cái cổng nghĩa địa
Năn nỉ, Trời hoặc Người
Làm ơn cho thằng cha GCC vô!

Carrying On Like a Crow

Are you authorized to speak
For these trees without leaves?
Are you able to explain
What the wind intends to do
With a man's shirt and a woman's nightgown
Left on the laundry line?
What do you know about dark clouds?
Ponds full of fallen leaves?
Old-model cars rusting in a driveway?
Who gave you the permission
To look at the beer can in a ditch?
The white cross by the side of the road?
The swing set in the widow's yard?
Ask yourself, if words are enough,
Or if you'd be better off
Flapping your wings from tree to tree
And carrying on like a crow.

Charles Simic: Master in disguises

Khệ nệ như con quệ

Mi được phép nói
Nhân danh những cái cây trụi lá?
Mi có thể giải thích
Gió tính làm gì
Với cái sơ mi của người đàn ông
Và cái áo ngủ của người đàn bà
Bỏ lại trên sợi dây phơi đồ?
Mi biết gì về những đám mây đen?
Con hồ đầy lá rụng?
Xế hoang gỉ bỏ mặc trên lối đi?
Ai cho phép mi
Nhìn 1 phát như thế
Cái lon bia ở cái mương?
Cái thập tự trắng bên vệ đường?
Cái đu cho trẻ con chơi ở vườn bà góa?
Hãy hỏi chính mi, nếu từ không đủ
Hay, bỏ đi
Đập đập cánh,
Từ cây này tới cây kia
Khệ nệ như con quệ.

The Invisible


A rusty key from a cigar box full of keys
In a roadside junk shop.
The one I held on to a long time
Before I let it slip
Through my fingers.

Most likely, when it was still in use,
The reclusive author
Of "The Minister's Black Veil"
Was still cooped up
In his mother's house in Salem.

 It opened a small drawer
With a stack of yellowed letters
In a dresser with a mirror
That gave back a pale face
With a pair of feverish eyes
In a room with a view
Of black, leafless trees
And red clouds hurrying at sunset,
Where soon tears fell
Causing the key to go rusty.

8

Một cái chìa khoá gỉ sét từ cái hộp xì gà đầy những chìa
Ở một tiệm chạp phô bên đường
Gấu giữ nó, từ lâu lắm rồi
Tới cái bữa, để nó tuồn qua kẽ tay

Mới nhất là, khi nó còn OK
Thì cái tay sống ẩn cư,
Tác giả cuốn “Cái Mạng Đen Che Mặt của Ngài Bộ Trưởng”
Vưỡn còn tá túc
Tại căn nhà của bà cụ anh ta, ở Salem

Nó mở ngăn kéo nhỏ
Với cả một đống thư ố vàng
Trong cái trạn có cái gương
Nó ném trả lại một khuôn mặt lợt lạt
Với cặp mắt đỏ mọng vì sốt

Trong căn phòng với cái nhìn
Những cái cây đen, trụi lá
Và những đám mây đỏ vội vã như ma đuổi
Không phải, hoàng hôn, mặt trời sắp lặn.
Nơi chẳng mấy chốc, nước mắt bèn ràn rụa
Khiến cái chìa gỉ, sét.

BITTER LEMONS


& *

http://www.griffinpoetryprize.com/awards-and-poets/shortlists/2005-shortlist/charles-simic/

Số cũ, có Simic. Số mới, có mấy bài thật là thần sầu. Câu thơ, bìa sau, của Seamus Heanley, cũng tuyệt & lạ: Thơ là ngôn ngữ trên quỹ đạo, Poetry is language in orbit.
The Griffin Poetry Prize, của Canada, được coi là 1 trong những giải thưởng thơ bảnh nhất trên thế giới. Quả thế thực.
Bèn chứng tỏ, bằng 1 bài thơ của 1 em Tẫu, kèm lời giới thiệu của 1 em mũi lõ.

WANG XIAONI
ELEANOR GOODMAN

Something Crosses My Mind

What is so attractive about Wang Xiaoni's poems as translated into English by Eleanor Goodman is her quiet, loving, meditative distance to the mostly anonymous and lonely heroes she clearly knows well. And her attitude to time, which she keeps dragging out of its anchored localities (and barely marked history) to extend and connect, or fuse with specific spaces that she also enlarges in size and scope. Moments prolong into a century or a life, imaginary beasts meld with real animals, description becomes an act of meditation. In a few lines, a village can take on the dimension of a vast landscape - and yet still remain that particular village. And while Xiaoni's characters may not speak, they seem to have a real insight into our experience and lives. In a way nothing much happens in her magic lyricism: the wind blows, the ocean rises, people work or move from one place to another, or wait, or just leave some place, and they have souls (which behave like shadows). Reading her, I found myself repeating Auden's phrase ''About suffering they were never wrong, / The old Masters." Wang Xiaoni is a terrific contemporary poet gracefully extending the great classical Chinese tradition.

Seeing the Ocean from a Night Flight

Everything becomes small
only the ocean makes the night's leather clothes
open up the further out it spreads.

Flying north
to the right is Tianjin
to the left is Beijing
two clusters of moths flinging themselves at fire.

Then the East China Sea suddenly moves
the wind brings silver bits that can't be more shattered
and many thick wrinkles whip up

I see the face of the ocean
I see the aged seashore
trembling and hugging the world too tightly.

I have seen death
but never seen death come back to life like that.



Sách BáoFeedom Force

Note: Bài điểm sách trên Người Kinh Tế.  Bài này thật tuyệt. Nó cho thấy 1 số điều, về kháng chiến Pháp, thời bị Nazi đô hộ.
Số này còn có bài ai điếu, một vật lý gia, được coi là 1 Newton của môn chơi thể thao tennis, cũng thật là tuyệt.
Bạn còn nhớ định luật vật lý, nếu 1 vật, không có lực nào tác động vô nó, và nếu nó đứng yên, thì đứng yên hoài, và nếu nó chuyển động, thì chuyển động hoài, vận tốc không đổi....


Howard Brody, Vật lý học về môn tennis

Poetry
Remembering life in Romania under communist rule
http://www.economist.com/blogs/prospero/2015/09/poetry

1

It was always here.
Its vast terrors concealed
By this costume party
Of flowers and birds
And children playing in the garden.

Only the leaves tell the truth.
They rustle darkly,
Then fall silent as if listening
To a dragonfly
Who may know a lot more of the invisible,

Or why else would its wings be
So translucent in the light,
So swift to take flight,
One barely notices
It's been here and gone.
Những Người Vô Hình

1

Nó luôn luôn ở đó.
Những nỗi ghê rợn rộng lớn của nó thì được giấu kín
Bằng bữa tiệc đại tiệc bận đồ lớn này:
Ba muơi năm mới có ngày hôm nay, vui sao nước mắt lại trào?
Nào hoa, nào chim
Và những đứa trẻ chơi ở công viên Lê Văn Tám

Chỉ những chiếc lá nói sự thực
Chúng rì rào âm u
Rồi buông mình xuống
Như lắng nghe, một con chuồn chuồn
Có thể biết khá nhiều về những kẻ vô hình,

Hay là tại sao cánh của nó lại trong mờ như thế, dưới ánh sáng
Nhanh như thế, mỗi khi cất cánh
Vừa mới thấy nó, mà đã bay đi mất rồi:

Chuồn chuồn có cánh thì bay
Có thằng VC đang rình mày đây nè!

2

Don't the shadows know something about it?
The way they, too, come and go
As if paying a visit to that other world
Where they do what they do
Before hurrying back to us.

Just today I was admiring the one I cast
As I walked alone in the street
And was about to engage it in conversation
On this very topic
When it took leave of me suddenly.

Shadow, I said, what message
Will you bring back to me,
And will it be full of dark ambiguities
I can't even begin to imagine
As I make my slow way in the midday sun?

2

Liệu những bóng đen biết gì về nó?
Cái cách mà chúng, cũng thế, tới và đi
Như làm 1 cú viếng thăm vương quốc của những người đã chết
Nơi chúng làm điều chúng làm
Trước khi vội vã trở lại với chúng ta.

Đúng ngày hôm nay Gấu trầm trồ chiêm ngưỡng một cái bóng đen mà Gấu tóm được
Trong khi đi một mình trên con phố Nguyễn Du tưởng tượng
Và Gấu vừa mới mon men gạ chuyện
Thì bóng đen này đã bất thình lình rời bỏ Gấu

BHD đó ư, Gấu gọi theo?
Thông điệp nào em mang về cho anh cu Gấu?
Liệu nó thì đầy những hàm hồ u tối
Gấu không thể nào mà biết được, dù tưởng tượng cách mấy,
Trong khi lừ đà lừ đừ giữa trưa, một ngày nắng ấm Sài Gòn?


4

The moment you shut off the lamp,
Here they are again,
The two dead people
You called your parents.

You'd hoped you'd see tonight
The girl you loved once,
And that other one who let you
Slip a hand under her skirt.

Instead, here's that key in a saucer of small change
That wouldn't open any lock,
The used condom you found in church,
The lame crow your neighbor kept.

Here's the fly you once tortured,
A rock you threw at your best friend,
The pig that let out a scream
As the knife touched its throat.

4

Đúng vào lúc bạn tắt đèn
Họ trở lại
Hai người đã mất
Bạn gọi họ là hai đấng sinh thành.

Bạn sẽ mơ đêm nay
Bạn gặp lại cô bạn gái ngày nào
Cô gái đã từng yêu bạn
Và một cô khác nữa
Đã từng cho phép
Bàn tay của bạn lùa bên dưới
Chiếc áo bà ba của cô.

Thay vì vậy, thì đây là chiếc chìa khóa,
trên cái dĩa đựng ba thứ lặt vặt,
chẳng thể mở bất cứ 1 cái cửa
Cái áo mưa đã xài rồi bạn kiếm thấy ở nhà thờ
[và ở blog của hòa thượng THT],
Con quạ què mà người hàng xóm của bạn giữ
Đây là con ruồi mà bạn đã tra tấn
Cục đá bạn ném vào người bạn tốt nhất của bạn
Con heo ré lên một tiếng rùng rợn
Khi mũi dao thọc vô cổ của nó


5

People here still tell stories
About a blind old man
Who rolled dice on the sidewalk
And paid children
In the neighborhood
To tell him what number came up.

When they were away in school,
He'd ask anyone
Whose steps he heard,
The mailman making his rounds,
The undertakers loading a coffin in their black wagon,
And you, too, mister,
Should you happen to come along.

5

Người ở đó vẫn truyền tụng
Về một ông già mù
Thẩy xúc xắc bên lề đường
Và giúi tiền cho mấy đứa con nít
Để chúng cho ông biết
Con lục, hay con nhất.

Khi chúng ở lớp học
Ông hỏi bất cứ một người
Khi nghe tiếng chân
Anh đưa thư đi lòng dzòng
Đám nhà hòm đưa hòm lên xe tang
Hay chính ông, Thưa Ngài
Nếu ông lớ ngớ mò tới đó.


7

Dear Miss Russell:
Nights, you took me on a private tour
Of the empty town library.
I could hardly keep up
As you darted along the rows of books,
Whispering their names,
Pointing out the ones I ought to read,

Then forgetting all about me,
Pulling the light cord
And leaving me in the dark
To grope for a book
Among the shelves,
Surely the wrong one,

As I was soon to learn
At the checkout desk
Under your pitying gaze
That followed me into the street
Where I dared not stop
To see what I held in my hand
Until I had rounded the corner.

7

Cô Russell thân mến:

Ðêm, cô dẫn một mình em,
Tới thư viện trống rỗng của thành phố.
Em không làm sao theo kịp,
Khi cô dảo nhanh qua những dẫy sách,
Thì thầm những cái tên
Giơ ngón tay chỉ những cuốn em cần đọc,

Rồi thì hoàn toàn quên đứa học trò,
Cô giựt sợi dây đèn,
Và để mặc em trong bóng tối,
Sờ soạng tìm một cuốn,
Giữa những giá sách,
Hẳn nhiên rồi, không phải cuốn đó

Chẳng mấy chốc em hiểu liền sau đó,
Khi tới bàn của cô thủ thư,
Dưới cái nhìn thương hại của cô giáo của mình,
Cái nhìn theo em ra tận đường phố,
Nơi em sợ không dám dừng lại,
Ðể coi cái cuốn cầm trong tay là cuốn chi chi
Cho tới khúc ngoặt ở một góc phố.

6

Dark evening, gray old tenement,
A white cat in one window,
An old man eating his dinner in another.
Everyone else hidden from view,

Like the one who waits for the tub
To fill up with hot water
While she undresses before a mirror
Already beginning to steam over.

Imagination, devil's helper,
Made me glimpse her two breasts
 As I hurried by with my face tucked in my collar,
Because the wind was raw.

6

Chiều âm u, nhà cũ, xám
Một con mèo trắng ở 1 cửa sổ
Một ông già ăn, ở 1 cái khác
Mọi người khác thì đều tránh né cái nhìn

Như 1 kẻ đợi nước nóng vô đầy bồn tắm
Nàng bèn cởi đồ, trước 1 tấm gương đã mờ hơi nước

Tưởng tượng, như tên hầu của con quỉ dâm đãng
Bèn giúp Gấu đưa 1 cái nhìn len lén bộ ngực của nàng

Trong lúc kéo cao cổ áo
Ấy là vì ngọn gió thì mới căm căm làm sao!


Wildflowers

There were wildflowers along the road to hell.
The wind blew and the flowers
Danced in the ditches, alone or in pairs,
In that cheerful way flowers have.
You had to be there to see them
And the guard towers coming into view.

I wasn't. Still, one hot summer afternoon
As I lay resting, their bright colors came to me,
And that dusty road and that long ditch
Where the wind played with them
Carrying their scent past the barbed wire,
Or so I thought, too scared to imagine the rest.


Hoa Dại
Có hoa dại dọc con đường đi tới địa ngục
Gió thổi, và hoa đong đưa ở những mương, rãnh
Hoặc, một mình, hoặc có đôi.
Vui vui, nhí nhảnh, như hoa vẫn thường
Bạn phải tới đó, để chiêm ngưỡng
Mấy người canh tháp, mà cũng mò tới coi

Gấu, không.
Tuy nhiên, vào một buổi chiều mùa hạ,
Trong lúc Gấu nằm nghỉ, mùi & màu hoa bèn đến thăm Gấu
Và con đường bụi, và con mương dài thòng
Nơi gió đùa với chúng,
Bèn mang mùi hương của hoa, quá mấy hàng rào kẽm gai
Gấu nghĩ vậy,
Và bèn sợ quá, đếch có dám nghĩ tiếp!


Dogs Pity Their Masters

They sit at their feet after the dinner is over
And watch their expressions darken
As they read the papers or listen to their wives
Speak of troubles greater than their own,
After which, only the silence of the peaceful countryside
Can be heard; the trees full of leaves
Busy with their own worries; the one lit lamp
Not strong enough to keep the shadows at bay.

Charles Simic: Master of Disguises

Chó thương hại Chủ

Chúng ngồi lên chân của chúng, sau bữa ăn
Và ngắm nghiá mặt chủ
Cứ tối sầm mãi ra
Khi ngồi đọc báo
Hay khi nghe mấy bà vợ ca cẩm,
Ông đâu khổ bằng tui!

Sau đó, chỉ còn nghe được
Là cái im lặng hiền hòa của miền quê
Cây nặng lá
Bận bịu với những nổi khổ đau ngàn đời, riêng tư của chúng
Ngọn đèn độc nhất
Không đủ sáng để cấm những cái bóng,
Hãy ở bãi
Không được bén mảng tới chốn này.


1

It was always here.
Its vast terrors concealed
By this costume party
Of flowers and birds
And children playing in the garden.

Only the leaves tell the truth.
They rustle darkly,
Then fall silent as if listening
To a dragonfly
Who may know a lot more of the invisible,

Or why else would its wings be
So translucent in the light,
So swift to take flight,
One barely notices
It's been here and gone.
Những Người Vô Hình

1

Nó luôn luôn ở đó.
Những nỗi ghê rợn rộng lớn của nó thì được giấu kín
Bằng bữa tiệc đại tiệc bận đồ lớn này:
Ba muơi năm mới có ngày hôm nay, vui sao nước mắt lại trào?
Nào hoa, nào chim
Và những đứa trẻ chơi ở công viên Lê Văn Tám

Chỉ những chiếc lá nói sự thực
Chúng rì rào âm u
Rồi buông mình xuống
Như lắng nghe, một con chuồn chuồn
Có thể biết khá nhiều về những kẻ vô hình,

Hay là tại sao cánh của nó lại trong mờ như thế, dưới ánh sáng
Nhanh như thế, mỗi khi cất cánh
Vừa mới thấy nó, mà đã bay đi mất rồi:

Chuồn chuồn có cánh thì bay
Có thằng VC đang rình mày đây nè!

2

Don't the shadows know something about it?
The way they, too, come and go
As if paying a visit to that other world
Where they do what they do
Before hurrying back to us.

Just today I was admiring the one I cast
As I walked alone in the street
And was about to engage it in conversation
On this very topic
When it took leave of me suddenly.

Shadow, I said, what message
Will you bring back to me,
And will it be full of dark ambiguities
I can't even begin to imagine
As I make my slow way in the midday sun?

2

Liệu những bóng đen biết gì về nó?
Cái cách mà chúng, cũng thế, tới và đi
Như làm 1 cú viếng thăm vương quốc của những người đã chết
Nơi chúng làm điều chúng làm
Trước khi vội vã trở lại với chúng ta.

Đúng ngày hôm nay Gấu trầm trồ chiêm ngưỡng một cái bóng đen mà Gấu tóm được
Trong khi đi một mình trên con phố Nguyễn Du tưởng tượng
Và Gấu vừa mới mon men gạ chuyện
Thì bóng đen này đã bất thình lình rời bỏ Gấu

BHD đó ư, Gấu gọi theo?
Thông điệp nào em mang về cho anh cu Gấu?
Liệu nó thì đầy những hàm hồ u tối
Gấu không thể nào mà biết được, dù tưởng tượng cách mấy,
Trong khi lừ đà lừ đừ giữa trưa, một ngày nắng ấm Sài Gòn?