*

Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ của thiên đường | Passage Eden | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả sáng tác | Giới thiệu | Góc Sài gòn | Góc Hà nội | Góc Thảo Trường
 Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn/ Viết


Thơ Mỗi Ngày

*

Gió Hà Nội trong hồn người xa xứ

Note: LMH có thể nói, là do GCC khám phá ra, trong khi chính những kẻ ra đi từ Miền Bắc, thì lại dè bỉu, “cái Hà mà viết cái gì”, như 1 tay viết mail riêng cho GCC nhận xét, hay như em Y Bọt gì đó, 1 nhà văn trong nước được dịp ra hải ngoại, “viết thua cả học trò của tui”, hình như bà này đã từng phát biểu.

Tuy nhiên, khi GCC nhận xét LMH, hồi mới đọc bà, là từ 1 viễn ảnh của tương lai, của 1 miền đất, cùng với nó là thứ văn chương, như con phượng hoàng tái sinh từ tro than, như của lũ Ngụy, sau 1975, không phải thứ văn chương hoài niệm - như cách đọc LMH ở đây - cũng như cách mà đám VC đọc văn chương trước 1975 của Miền Nam, khi cho in lại một số tác phẩm của họ, bằng cách cắt xén, sao cho vừa cái nhìn kiểm duyệt của chúng.
Đây là 1 cách đọc thất bại, với cả hai, những tác phẩm như của LMH, và của Miền Nam trước 1975, theo GCC.
Nhưng, tác giả thất bại, hay tác phẩm, như Phố Vẫn Gió, thất bại?

NQT

Khi đọc cái tít, Phố Vẫn Gió, Gấu nghĩ, liệu nó trong dòng “Gió từ thời khuất mặt?”
 Từ “khuất mặt” này, Gấu cũng đã giải thích bằng dòng thơ của Akhmatova, và nó liên quan cái thời VC, đếch còn mặt, theo nghĩa người ẩn mặt, Ẩn trong Phạm Xuân Ẩn PXA, cứ mỗi lần chàng vô Bưng gặp Sếp VC là phải chùm mặt lại.
Dòng văn chương của LMH, là dòng văn chương của hồi nhớ, nhưng ở cuốn đầu nó có tính tố cáo, như ý nghĩa của những dòng sau đây của Susan Sontag nói về cõi thơ của AZ

The human face disappeared and also its divine image. In the classical world a slave was called aprosopos, 'faceless'; litteraly, one who cannot to be seen. The Bolsheviks gloried in facelessness.
[Mặt người biến mất và hình ảnh thánh thiện của nó cũng mất theo. Cổ xưa, kẻ nô lệ bị gọi là aprosopos, 'không mặt'; kẻ không thể bị nhìn thấy. Người CS hãnh diện trong "không mặt".]
Nói cho cùng, đó là thời "không mặt". Như một hình ảnh khủng khiếp của Anna Akhmatova, về Cách Mạng:

As though, in night's terrible mirror
Man, raving, denied his image
And tried to disappear

[Như thể, trong tấm gương kinh hoàng của đêm đen
Con người, rồ dại, chối bỏ hình ảnh của mình
Và ráng sức biến mất]


D.M. Thomas: Alexander Solzhenitsyn, Một thế kỷ ở trong ta.

****

.... All writing is a species of remembering. If there is anything triumphalist about Another Beauty it is that the acts of remembering the book contains seem so frictionless. Imagining-that is, bringing the past to mental life-is there as needed; it never falters; it is by definition a success. The recovery of memory, of course, is an ethical obligation: the obligation to persist in the effort to apprehend the truth. This seems less apparent in America, where the work of memory has been exuberantly identified with the creation of useful or therapeutic fictions, than in Zagajewski's lacerated corner of the world. To recover a memory-to secure a truth-is a supreme touch-stone of value in Another Beauty.

"I didn't witness the extermination of the Jews," he writes:
I was born too late. I bore witness, though, to the gradual process by which Europe recovered its memory. This memory moved slowly, more like a lazy, lowland river than a mountain stream, but it finally, unambiguously condemned the evil of the Holocaust and the Nazis, and the evil of Soviet civilization as well (though in this it was less successful, as if reluctant to admit that two such monstrosities might simultaneously coexist). That memories are recovered-that is, that the suppressed truths do reemerge-is the basis of whatever hope one can have for justice and a modicum of sanity in the ongoing life of communities. Once recovered, though, even truth may become complacent and self-flattering. Thus, rather than provide yet one more denunciation of the iniquities and oppressiveness of the regime that was shut down in 1989, Zagajewski chooses to stress the benefits of the struggle against evil that flowed to the idealistic young in his portrayal of the flawed beginnings of his vocation, as a "political poet," and his activities in dissident student and literary circles in the Krakow of the late 1960s and 1970s. (In 1968, Zagajewski was twenty-three years old.) In those heady days, poetry and activism rhymed. Both elevated, heightened; engagement in a just cause, like service to poetry, made you feel larger.

That every generation fears, misunderstands, and condescends to its successor-this, too, is a function of the equivalence of history and memory (history being what it is agreed on, collectively, to remember). Each generation has its distinctive memories, and the elapsing of time, which brings with it a steady accumulation of loss, confers on those memories a normativeness which cannot possibly be honored by the young, who are busy compiling their memories, their benchmarks. One of Zagajewski's most moving portraits of elders is of Stefan Szuman, an illustrious member of the interwar Polish intelligentsia (he had known Stanislaw Witkiewicz and Bruno Schulz) and now a retired professor at the university living in isolation and penury. Its point is Zagajewski's realization, thinking back, that he and his literary friends could only have seemed like fools and savages, "shaped by a postwar education, by new schools, new papers, new radio, new TV;" to the defeated, homely, embittered Szuman and his wife. The rule seems to be: each generation looks upon its successor generation as barbarians. Zagajewski, himself no longer young and now a teacher of American students, is committed to not eplicating, in his turn, that kind of despair and incomprehension. Nor is he content to write off an entire older Polish generation of intellectuals and artists, his generation's "enemy"-the true believers and those who just sold out-for turpitude and cowardice: they weren't simply devils, any more than he and his friends were angels. As for those "who began by serving Stalin's civilization" but then changed, Zagajewski writes: "I don't condemn them for their early, youthful intoxication. I'm more inclined to marvel at the generosity of human nature, which offers gifted young people a second chance, the opportunity for a moral comeback." At the heart of this assessment is the wisdom of the novelist, a professional of empathy, rather than that of a lyric poet. (Zagajewski has written four novels, none as yet translated into English.) The dramatic monologue "Betrayal" in Two Cities begins: Why did I do that? Why did I do what? Why was I who I was?

And who was I? I am already beginning to regret that I agreed to grant you this interview. For years I refused; you must have asked me at a weak moment or in a moment of anxiety .... What did that world look like? The one you were too late to get to know. The same as this one. Completely different. That everything is always different ... and the same: a poet's wisdom. Actually, wisdom tout court. Of course, history should never be thought of with a capital H. The governing sense of Zagajewski's memory-work is his aware- ness of having lived through several historical periods, in the course of which things eventually got better. Modestly, imperfectly-not utopianly-better. The young Zagajewski and his comrades in dissidence had assumed that communism would last another hundred, two hundred years, when, in fact, it had less than two decades to go. Lesson: evil is not immutable. The reality is, everyone outlives an old self, often more than one, in the course of a reasonably long life.

Susan Sontag: The Wisdom Project

Tớ đếch chứng kiến Lò Thiêu, làm cỏ Do Thái. Tớ sinh trễ quá. Tớ sinh ra và chứng kiến tiến trình qua đó Âu Châu tìm đường nhớ chính nó.
Hồi ức chậm như sên, nhưng cuối cùng nó cĩng làm được chuyện tố cáo Cái Ác Nazi.

Hồi nhớ Bắc Kít, ngay từ bây giờ, đã vờ mấy cú: Quên mẹ cái “ơn trời biển” của Thiên Triều
Quên mẹ Cái Ác Bắc Kít, qua thành quả “làm cỏ Lũ Ngụy”
Toan tính ve vãn anh Yankee Mũi Lõ, quên mẹ nó đã từng “dầy xéo xứ Mít”!

Trong "Trò Chuyện với Brodsky", của Volkov, chương chót, "St. Petersburg: Memories of the Future", Hồi Nhớ Tương Lai, đọc thú lắm, và áp dụng vô Hà Nội thật là tuyệt.
Từ từ, Gấu lèm bèm tiếp.
Thí dụ câu này, của Brodsky mà chẳng thú sao:
Tất cả chúng ta thì đều phóng chiếu chúng ta trên cái nền là thành phố cổ đó.
Mỗi thời, lũ Hà Nội có 1 ấn bản của riêng nó, về Hà Nội.

GCC đọc LMH, để kiếm cái ấn bản của riêng Gấu, về nó.
Hoặc, của nó, về Gấu!
Thí dụ, cái khúc này, H/A thật  mê:

*

Người đàn ông làm tôi nhớ tới người Tầu già bán lạc rang ở bờ hồ Hà Nội. Tôi có nhiều kỷ niệm về thành phố nhỏ bé và cũ kỹ đó. Nhà tôi ở Bạch Mai, gần ngay bên đường xe điện. Tôi thường tinh nghịch để những viên sỏi nhỏ lên trên đường sắt, rồi hồi hộp chờ chuyến xe chạy qua. Suốt thời thơ ấu, tôi bị chiếc xe điện mê hoặc. Một lần trốn vé xe, tôi cùng một thằng bé đánh giầy ngồi ở cuối tầu, nơi dùng để nối hai toa xe lại với nhau. Thằng bé đánh giầy nói, nó thường ngồi như vậy, ngay cả khi có tiền mua vé. Hôm đó trời lạnh, tôi đội một chiếc béret dạ đen, một tay nắm vào thanh sắt, một tay cầm cặp sách vở. Thằng bé đánh giầy đầu tóc bù xù, tay cầm hộp đồ nghề, tay cầm khúc bánh mì nhai ngồm ngoàm. Những người đi đường nhìn chúng tôi với vẻ buồn cười, ngạc nhiên. Lúc đầu tôi rất sợ, nhưng dần dần cảm thấy thích thú. Bỗng nhiên, không hiểu sao, tôi nhớ lại được một đoạn nhạc tôi đã quên từ lâu, và tôi hát nho nhỏ, đầu lắc lư theo điệu nhạc. Thằng bé đánh giầy nhìn tôi cười ngặt nghẽo. Tôi tức giận, hát thật lớn, vừa hát vừa đập vào thành xe ầm ầm. Bỗng tôi cảm thấy đầu lành lạnh. Tôi ngửng lên, và thấy người soát vé đang giận dữ nhìn tôi, tay cầm chiếc mũ dạ. Thằng bé đánh giầy vẫn tiếp tục cười, tôi ngưng hát, và ngưng đập vào thành xe. Cuối cùng không biết nghĩ sao, người soát vé vứt chiếc dạ xuống đường. Xe lúc đó đang chạy nhanh. Tôi cúi nhìn xuống con đường nhựa chạy vùn vụt, tôi sợ hãi không dám nhảy xuống. Tôi chợt nghĩ tới đến cha tôi. Tôi nhìn thằng bé đánh giầy ra vẻ cầu cứu. Nó nhẩy xuống, nhặt chiếc mũ dạ, đội lên đầu, rồi nhìn tôi nhe răng cười, tỏ vẻ chế nhạo. Sau đó, tôi thỉnh thoảng gặp thằng bé đánh giầy quanh quẩn tại khu tôi ở, đầu đội chiếc mũ dạ của tôi. Mỗi lần thoáng thấy nó, là tôi vội vã lẩn tránh, chỉ sợ nó nhận ra tôi.

Note: Hình dưới đây, "cũng" Phố Cổ Hà Nội!

*

Source
*

Gió Hà Nội trong hồn người xa xứ

Note: LMH có thể nói, là do GCC khám phá ra, trong khi chính những kẻ ra đi từ Miền Bắc, thì lại dè bỉu, “cái Hà mà viết cái gì”, như 1 tay viết mail riêng cho GCC nhận xét, hay như em Y Bọt gì đó, 1 nhà văn trong nước được dịp ra hải ngoại, “viết thua cả học trò của tui”, hình như bà này đã từng phát biểu.

Tuy nhiên, khi GCC nhận xét LMH, hồi mới đọc bà, là từ 1 viễn ảnh của tương lai, của 1 miền đất, cùng với nó là thứ văn chương, như con phượng hoàng tái sinh từ tro than, như của lũ Ngụy, sau 1975, không phải thứ văn chương hoài niệm - như cách đọc LMH ở đây - cũng như cách mà đám VC đọc văn chương trước 1975 của Miền Nam, khi cho in lại một số tác phẩm của họ, bằng cách cắt xén, sao cho vừa cái nhìn kiểm duyệt của chúng.
Đây là 1 cách đọc thất bại, với cả hai, những tác phẩm như của LMH, và của Miền Nam trước 1975, theo GCC.
Nhưng, tác giả thất bại, hay tác phẩm, như Phố Vẫn Gió, thất bại?

NQT

Khi đọc cái tít, Phố Vẫn Gió, Gấu nghĩ, liệu nó trong dòng “Gió từ thời khuất mặt?”
 Từ “khuất mặt” này, Gấu cũng đã giải thích bằng dòng thơ của Akhmatova, và nó liên quan cái thời VC, đếch còn mặt, theo nghĩa người ẩn mặt, Ẩn trong Phạm Xuân Ẩn PXA, cứ mỗi lần chàng vô Bưng gặp Sếp VC là phải chùm mặt lại.
Dòng văn chương của LMH, là dòng văn chương của hồi nhớ, nhưng ở cuốn đầu nó có tính tố cáo, như ý nghĩa của những dòng sau đây của Susan Sontag nói về cõi thơ của AZ

The human face disappeared and also its divine image. In the classical world a slave was called aprosopos, 'faceless'; litteraly, one who cannot to be seen. The Bolsheviks gloried in facelessness.
[Mặt người biến mất và hình ảnh thánh thiện của nó cũng mất theo. Cổ xưa, kẻ nô lệ bị gọi là aprosopos, 'không mặt'; kẻ không thể bị nhìn thấy. Người CS hãnh diện trong "không mặt".]
Nói cho cùng, đó là thời "không mặt". Như một hình ảnh khủng khiếp của Anna Akhmatova, về Cách Mạng:As though, in night's terrible mirror
Man, raving, denied his image
And tried to disappear

[Như thể, trong tấm gương kinh hoàng của đêm đen
Con người, rồ dại, chối bỏ hình ảnh của mình
Và ráng sức biến mất]


D.M. Thomas: Alexander Solzhenitsyn, Một thế kỷ ở trong ta.

****

.... All writing is a species of remembering. If there is anything triumphalist about Another Beauty it is that the acts of remembering the book contains seem so frictionless. Imagining-that is, bringing the past to mental life-is there as needed; it never falters; it is by definition a success. The recovery of memory, of course, is an ethical obligation: the obligation to persist in the effort to apprehend the truth. This seems less apparent in America, where the work of memory has been exuberantly identified with the creation of useful or therapeutic fictions, than in Zagajewski's lacerated corner of the world. To recover a memory-to secure a truth-is a supreme touch-stone of value in Another Beauty.

"I didn't witness the extermination of the Jews," he writes:
I was born too late. I bore witness, though, to the gradual process by which Europe recovered its memory. This memory moved slowly, more like a lazy, lowland river than a mountain stream, but it finally, unambiguously condemned the evil of the Holocaust and the Nazis, and the evil of Soviet civilization as well (though in this it was less successful, as if reluctant to admit that two such monstrosities might simultaneously coexist). That memories are recovered-that is, that the suppressed truths do reemerge-is the basis of whatever hope one can have for justice and a modicum of sanity in the ongoing life of communities. Once recovered, though, even truth may become complacent and self-flattering. Thus, rather than provide yet one more denunciation of the iniquities and oppressiveness of the regime that was shut down in 1989, Zagajewski chooses to stress the benefits of the struggle against evil that flowed to the idealistic young in his portrayal of the flawed beginnings of his vocation, as a "political poet," and his activities in dissident student and literary circles in the Krakow of the late 1960s and 1970s. (In 1968, Zagajewski was twenty-three years old.) In those heady days, poetry and activism rhymed. Both elevated, heightened; engagement in a just cause, like service to poetry, made you feel larger.

That every generation fears, misunderstands, and condescends to its successor-this, too, is a function of the equivalence of history and memory (history being what it is agreed on, collectively, to remember). Each generation has its distinctive memories, and the elapsing of time, which brings with it a steady accumulation of loss, confers on those memories a normativeness which cannot possibly be honored by the young, who are busy compiling their memories, their benchmarks. One of Zagajewski's most moving portraits of elders is of Stefan Szuman, an illustrious member of the interwar Polish intelligentsia (he had known Stanislaw Witkiewicz and Bruno Schulz) and now a retired professor at the university living in isolation and penury. Its point is Zagajewski's realization, thinking back, that he and his literary friends could only have seemed like fools and savages, "shaped by a postwar education, by new schools, new papers, new radio, new TV;" to the defeated, homely, embittered Szuman and his wife. The rule seems to be: each generation looks upon its successor generation as barbarians. Zagajewski, himself no longer young and now a teacher of American students, is committed to not eplicating, in his turn, that kind of despair and incomprehension. Nor is he content to write off an entire older Polish generation of intellectuals and artists, his generation's "enemy"-the true believers and those who just sold out-for turpitude and cowardice: they weren't simply devils, any more than he and his friends were angels. As for those "who began by serving Stalin's civilization" but then changed, Zagajewski writes: "I don't condemn them for their early, youthful intoxication. I'm more inclined to marvel at the generosity of human nature, which offers gifted young people a second chance, the opportunity for a moral comeback." At the heart of this assessment is the wisdom of the novelist, a professional of empathy, rather than that of a lyric poet. (Zagajewski has written four novels, none as yet translated into English.) The dramatic monologue "Betrayal" in Two Cities begins: Why did I do that? Why did I do what? Why was I who I was?

And who was I? I am already beginning to regret that I agreed to grant you this interview. For years I refused; you must have asked me at a weak moment or in a moment of anxiety .... What did that world look like? The one you were too late to get to know. The same as this one. Completely different. That everything is always different ... and the same: a poet's wisdom. Actually, wisdom tout court. Of course, history should never be thought of with a capital H. The governing sense of Zagajewski's memory-work is his aware- ness of having lived through several historical periods, in the course of which things eventually got better. Modestly, imperfectly-not utopianly-better. The young Zagajewski and his comrades in dissidence had assumed that communism would last another hundred, two hundred years, when, in fact, it had less than two decades to go. Lesson: evil is not immutable. The reality is, everyone outlives an old self, often more than one, in the course of a reasonably long life.

Susan Sontag: The Wisdom Project

Tớ đếch chứng kiến Lò Thiêu, làm cỏ Do Thái. Tớ sinh trễ quá. Tớ sinh ra và chứng kiến tiến trình qua đó Âu Châu tìm đường nhớ chính nó.
Hồi ức chậm như sên, nhưng cuối cùng nó cĩng làm được chuyện tố cáo Cái Ác Nazi.

Hồi nhớ Bắc Kít, ngay từ bây giờ, đã vờ mấy cú: Quên mẹ cái “ơn trời biển” của Thiên Triều
Quên mẹ Cái Ác Bắc Kít, qua thành quả “làm cỏ Lũ Ngụy”
Toan tính ve vãn anh Yankee Mũi Lõ, quên mẹ nó đã từng “dầy xéo xứ Mít”!

 

SONG ABOUT SONGS

It will burn you at the start,
As if to breezes you were bare,
Then drop deep into your heart
Like a single salty tear.

And a heart full of spite
Will come to know regret.
And this sorrow, although light,
It will not forget.

Others will reap. I only sow.
Of course! When the triumphant horde
Of scythers lays the grain low,
Bless them, O Lord!
And so that I may lift
My eyes in thanks to You above,
Let me give the world a gift
More incorruptible than love.

                                            1916

Akhmatova


Writing

when I mount a chair
to capture the table
and raise a finger
to arrest the sun
when I take the skin off my face
and the house off my shoulders
and clutching
my metaphor
a goose quill
my teeth sunk into the air
I try to create
anew
vowel-

in the table's wilderness
lie paper flowers
the wall's frock coat fastens
with a button of small space
enough enough
the ascension
failed

for a little while longer
my pen trips over a page
from an evil yellow sky
a trickle
of sand
descends

FURNISHED ROOM

In this room there are three suitcases
a bed not mine
a wardrobe with a mildewed mirror

when I open the door
the furniture freezes
I'm met by a familiar smell
sweat insomnia and sheets

one picture on the wall
represents Vesuvius
with its crest of smoke

I never saw Vesuvius
I don't believe in living volcanoes

the other picture
is a Dutch interior

out of the shadow
a woman's hands
are tipping a jug
from which a braid of milk trickles

on the table a knife a napkin
bread fish a bunch of onions

following a golden light
we come to three steps
the open doors reveal
the square of a garden

the leaves breathe in the light
birds sustain the day's sweetness    

an untrue world
warm as bread
gold as an apple 

flaking wallpaper
unfamiliar furniture
leucoma of mirrors
these are true interiors 

In my room
and in three suitcases
the day dissolves
in the pool of a dream

Zbigniew Herbert: The Collected Poems 1956-1998

 

NINA ZIVANCEVC
[1957-] 

Zivancevic was born in Belgrade. She is a literary critic, journalist, and translator as well as a poet. She lived for several years in New York, where she wrote in English, and now resides in Paris. New Rivers Press published a book of her poems, More or Less Urgent, in 1980. The poems in this anthology come from her books The Spirit of Renaissance (1989) and At the End of the Century (2006).

Ode to Western Wind

O, great great Western wind,
lift me up and take me back
to people and places I loved,
save me from this neoclassical order
and its stupidities,
take me as far as you can from Gard du Nord
from which they took
200,000 Jews to camps,
so that not a single one came back,
carry me away from Europe
poisoned with wars and plagues,
as far as possible from the United States
where people die in hunger and ignorance,
take me back to Serinda where to breathe is more important
than sublime thought and moving about,
take me to the make-believe land of poetry
and keen spirit
where women don't speak of equality
and where men dance the tango all day
and all night,
lift me high, wind
and make me forget
this terrible ever-present reality,
since, if the spring has indeed come
why am I trotting
so far behind it?

Charles Simic: The Horse Has Six Legs, an anthology of Serbian Poetry.



That one remaining, barely moving leaf
The wind couldn't get to fall
All winter long from a bare tree -
That's me! Thinks the old fellow, 

The one they roll out in a wheelchair
So that he can watch the children
Play in the park, their mothers
Gossip all day about their neighbours

While pigeons take turns landing
And taking off from a newly arrived hearse
Parked in front of the parish church,
Dragging his gaze along as they do.

Charles Simic 

LRB [London Review of Books] May 9 2013

Trong thời gian ngọt ngào của riêng nó

Cái lá còn lại, lâu lâu khẽ run 1 phát
Từ cái cây trần-trụi-thùi-lụi
Suốt mùa đông dài
Là Gấu đấy
Gió đếch làm sao làm rụng được, ít ra là vào lúc này

Thằng chả ngồi xe lăn
Được đẩy ra công viên
Nhìn lũ trẻ nô đùa
Mẹ của chúng thì buôn chuyện tối ngày
Về lối xóm của họ

Khi bồ câu xếp hàng
Chờ tới lượt xà xuống
Hay cất cánh từ một cái xe tang mới tới
Đậu ngay đằng trước nhà thờ giáo khu
Cũng lết lết cái nhìn, từ con mắt lé của nó
Như lũ chim.



ON THE BROOKLYN BRIDGE

Perhaps you're one of the many dots at sunset
I see moving slowly or standing motionless,
Watching either the gulls in the sky or the barge
With a load of trash passing on the river below.

The one, whose family doesn't want to hear from,
On his way to a night class in acting, passing
An old Chinese waiter going in the opposite direction,
And a bodybuilder and a nurse holding hands.

And what about the one I'm always hoping to run into?
Though I barely remember what she looked like?
She could be one of the few that have lingered on,
Or the one that vanished since I last glanced that way.

Trên cầu Brooklyn Bridge

Có lẽ em là một cái chấm nhỏ trong rất nhiều chấm chấm vào lúc mặt trời lặn
Mà anh nhìn thấy đang chuyển động
Hay đang đứng bất động
Nhìn những con hải âu trên bầu trời
Hay con thuyền chở rác trên dòng sông bên dưới

Hay là một cái chấm mà gia đình không thèm muốn nghe nói tới
Đang loay hoay, len lỏi
Trên con đường tới lớp đêm
Hay tên bồi người Tàu đi ngược lại
Và một tên lực sĩ và một cô y tá, tay trong tay.

Nhưng mà này, còn cái người mà anh luôn luôn mong muốn chạy tới ôm chầm lấy?
Tuy nhiên chán làm sao anh không làm sao nhớ ra nổi khuôn mặt em
Ở tiệm cà phê Starbucks buổi sáng bữa đó
Em có thể là một trong vài người lần lữa,
Hay cái người mà đã biến mất từ MCNK [một chủ nhật khác] không hề có?
Cái người mà anh lần cuối nhìn lại
Như nhìn lại Xề Gòn
Đã mất?

Anticipation of love

Neither the intimacy of your look, your brow fair as
    a feast day,
nor the favor of your body, still mysterious, reserved,
    and childlike,
nor what comes to me of your life, settling in words
    or silence,
will be so mysterious a gift
as the sight of your sleep, enfolded
in the vigil of my arms.
Virgin again, miraculously, by the absolving power of
    sleep,
quiet and luminous like some happy thing recovered
    by memory,
you will give me that shore of your life that you
    yourself do not own.
Cast up into silence
I shall discern that ultimate beach of your being
and see you for the first time, perhaps,
as God must see you-
the fiction of Time destroyed,
free from love, from me.

                                        [Robert Fitzgerald]

J.L. Borges: Selected Poems 1923-1967
A Bilingual ed by Norman Thomas Di Giovanni 

Đường vào tình yêu

Không phải vẻ thân mật, riêng tư của cái nhìn, cặp lông mi ngày hội của em
Không phải mùi cơ thể của em, tuy vưỡn bí hiểm, vưỡn dành riêng cho anh, và vưỡn muôn đời trẻ thơ
Không phải điều đến với anh, từ em, bằng lời, hay bằng im lặng
Sẽ cực kỳ bí ẩn, như một món quà
Khi nhìn thấy em ngủ,
Cuộn tròn, thánh thiện, như thiên thần, như thánh nữ trong tay anh
Thánh nữ, again, như lời kinh, bằng cái quyền uy thấm nhập của giấc ngủ
lặng lẽ, long lanh, như một điều “gọi là” hạnh phúc, được tìm thấy lại, từ hồi nhớ
Em sẽ cho anh bến bờ đó của đời em, mà em, chính em, không sở hữu.
Nhập vào im lặng
Anh sẽ nhận ra bãi biển tối hậu của sự hiện hữu là em
Và sẽ nhìn thấy em lần đầu, có lẽ,
Như Ông Giời phải, bắt buộc phải, chiêm ngưỡng em, như thế -
Giả tưởng của Thời Gian bị hủy diệt
Vô tư thoát ra khỏi tình yêu
Thoát ra khỏi anh.

Poems June 22, 2015 Issue

Poem in the Manner of William Wordsworth

By David Lehman     

I ran with the wind like a boy
 in the journey of my solitude
when joy surrounded me like an ocean
I could not stand in but could drown in.

And thus was born my theory of joy
alloyed with fear and more subdued
than a breeze lifting a lone leaf
to a hill of high altitude.

If such a thought were vain,
to me it yet remains the breath
of life itself, greater than grief
and lonelier than a cloudless sky.

Not even—my sister, my life—not
even if death should be thy lot,
would I lose faith that I,

in body bruised but with dignity high,
with visage grim to meet the pains
of sleep, will yet sustain
the never-ending poem of my brain.

Bài thơ ăn theo William Wordsworth

Tôi chạy cùng với gió như một đứa bé
Trong cuộc lữ, là nỗi cô đơn của mình
Khi nỗi vui bao quanh tôi như biển cả
Tôi không thể đứng trong vui, nhưng có thể chìm vô nó 

Và như thế bèn sinh ra lý thuyết của tôi về vui
Trộn với sợ,
Dịu hơn nhiều,
So với một làn gió
Nâng chiếc lá cô đơn, độc nhất lên thật cao
Tới tận đỉnh đồi

Giả như một tư tưởng như thế chỉ là vô ích, nhảm nhí đối với tôi
Thì vưỡn còn cái hơi thở của đời sống, chính nó
Lớn hơn nhiều so với đau khổ
Và cô đơn hơn nhiều so với một bầu trời đếch có mây

Ngay cả - chị tôi, đời tôi -
Ngay cả nếu cái chết là nhiều lắm, là tất cả
Thì tôi cũng không mất đi niềm tin đó

Trong cái thân xác bầm tím nhưng với phẩm giá cao
Với bộ mặt nhăn nhó đón nhận những cú đau ngủ
Nhưng sẽ chịu đựng
Bài thơ chẳng bao giờ chấm dứt của bộ não của tôi.

 

Charity

The off-white hairpiece on the hedge
Is slipping.
The eaves of houses and the skirts of cars
Are dripping.

The snowman prisoner down the road
Holds out thin arms
Through someone's resurrected railings
And begs for alms.

His head fell off last night and we
Wedge it back on for him,
And leave a sandwich for the birds
On his translucent palm.

Lòng từ thiện

Mớ tóc giả màu ngà ở bờ rào
Đang tuột ra
Những mái chìa của những căn nhà và những rìa xe
Đang tuột ra

Người tù tuyết nhân ở cuối đường
Chìa những cánh tay khẳng khiu
Qua những hàng rào được phục hồi của một người nào đó
Và hỏi xin của bố thí

Cái đầu rớt ra tối hôm qua
Và chúng tôi phải nêm lại
Và để cái bánh xăng uých cho mấy con chim
Ở trên lòng bàn tay đùng đục của anh ta

ALISTAIR ELLIOT

TLS June 5 2015

Anticipation of Love

Neither the intimacy of your look, your brow fair as a feast day,
nor the favor of your body, still mysterious, reserved, and childlike,
nor what comes to me of your life, settling in words or silence,
will be so mysterious a gift
as the sight of your sleep, enfolded
in the vigil of my arms.
Virgin again, miraculously, by the absolving power of sleep,
quiet and luminous like some happy thing recovered by memory,
you will give me that shore of your life that you yourself do not own.
Cast up into silence
I shall discern that ultimate beach of your being
and see you for the first time, perhaps,
as God must see you-
the fiction of Time destroyed,
free from love, from me.

                                            -R.F.

J.L. Borges

*

Extrait

J'ai appris à parler dans une région brouillée
où le silence tenait lieu de langue.
Les premiers mots, je les ai déchiffrés
sur les lèvres de mon père et de ma mère
au point de confondre parler et trembler
et d'installer en moi cette confusion pour toujours.

Scène tournante, Alain Veinstein 

Gấu học nói trong 1 vùng lù tà mù
Nơi im lặng tóm lấy tiếng nói
Những từ “tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời”,
Gấu đoán ra trên môi ông cụ, bà cụ
Và đoán lầm, thay vì “nói”, thì thành “run rẩy”
Thành ra suốt đời Gấu cứ lù tà mù,
Đếch biết “êu” nước Mít là cái đéo gì!

Hà, hà!

You Are My Silent Brethren

You are my silent brethren,
the dead.
I won't forget you.

In old letters I find traces of your writing,
creeping to the page's top
like a snail on the wall of a psychiatric ward.

Your addresses and phone numbers pitch camp
in my notebooks, waiting, dozing.

I was in Paris yesterday, I saw hundreds of tourists,
tired and cold. I thought, they look
like you, they can't get settled, they circle restlessly.

You'd think it would be easy, living.
All you need is a fistful of earth, a boat, a nest, a jail,
a little breath, some drops of blood, and longing.

You are my masters,
the dead.
Don't forget me.

Adam Zagajewski: Mysticism for Beginners

Đồng bào

Các bạn là đồng bào im lặng của tớ
Những người chết
Tớ không quên các bạn

Trong những lá thư cũ tớ kiếm thấy những nét chữ của các bạn,
Tườn vào đầu trang giấy
Như con ốc sên ở trên tường nhà thương điên

Địa chỉ và số phôn của các bạn thì cắm trại
Trong cuốn sổ tay của tớ,
Chờ đợi, ngủ gà ngủ gật.

Bữa hôm qua, tớ ở Paris, và tớ thấy hàng trăm du khách, mệt mỏi, rét run.
Tớ nghĩ, họ giống như các bạn, họ không thể có 1 nơi chốn để ở, cứ lòng vòng không ngừng.

Các bạn nghĩ, sống thì cũng dễ dàng thôi
Tất cả những gì các bạn cần, thì là một dúm đất,
Một cái thuyền, một cái lưới, một nhà tù,
Một tí hơi thở, vài giọt máu, và mong mỏi.

Các bạn là sư phụ của tớ,
Những người chết

Đừng quên tớ.


*

Canvas

I stood in silence before a dark picture,
before a canvas that might have been
coat, shirt, flag,
but had turned instead into the world.

I stood in silence before the dark canvas,
charged with delight and revolt and I thought
of the arts of painting and living,
of so many blank, bitter days,

of moments of helplessness
and my chilly imagination
that's the tongue of a bell,
alive only when swaying,

striking what it loves,
loving what it strikes,
and it came to me that this canvas
could have become a winding-sheet, too.

Canvas

Tôi đứng im lặng trước bức hình tối thui
Trước tấm vải bố
Có thể là
Áo khoác, áo sơ mi, cờ quạt
Nhưng thay vì vậy thì biến thành
Thế giới

Tôi đứng in lặng trước tấm vải bố tối thui
Tẩm trong nó là thích thú, đam mê và nổi loạn và tôi nghĩ
Tới nghệ thuật vẽ và sống
Tới những ngày trống rỗng, cay đắng

Tới những khoảnh khắc vô vọng
Và trí tưởng tượng lạnh lẽo của mình
Cái lưỡi chuông
Chỉ sống khi lắc lư

Thoi, cái yêu
Yêu, cái đấm
Và bất chợt tôi ngộ ra rằng thì là
Tấm vải bố này, cũng, có thể trở thành tấm vải liệm.

FRUIT

For Czeslaw Milosz

How unattainable life is, it only reveals
its features in memory,
in nonexistence. How unattainable
afternoons, ripe, tumultuous, leaves
bursting with sap; swollen fruit, the rustling
silks of women who pass on the other
side of the street, and the shouts of boys
leaving school. Unattainable. The simplest
apple inscrutable, round.
The crowns of trees shake in warm
currents of air. Unattainably distant mountains.
Intangible rainbows. Huge cliffs of clouds
flowing slowly through the sky. The sumptuous,
unattainable afternoon. My life,
swirling, unattainable, free.

Adam Zagajewski: Canvas

Trái

Làm sao mà tó được cuộc đời
Nó chỉ ló ra ở trong hồi ức
Trong cái không có, không hiện hữu
Làm sao tó được những xế trưa chín mũm, xốn xang,
Những chiếc lá cây nổ đánh đùng một phát, ứa nhựa ra;
Những trái cây căng phồng
Những tiếng xột xoạt của những cánh áo lụa mềm lưng phố,
Ở bên kia đường
Những tiếng la hét của đám học trò rời trường lớp.
Thua. Không tó được.
Trái táo giản dị nhất, bí hiểm, tròn vo.
Những chiếc vương miện, là những chòm lá cây
Ấm áp trong lòng gió
Những ngọn núi xa xa, làm sao tóm?
Những chiếc cầu vồng làm sao sờ được?
Những thành, vách mây bay lừ đừ trên trời
Buổi xế trưa, ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung, sao mà lộng lẫy, sao mà tó?
Cái cuộc đời của tớ, phơi phới, tự do, làm sao tóm?
 

THE GREAT POET HAS GONE
THINKING OF C.M.

Of course nothing changes
in the ordinary light of day,
when the great poet has gone.
Gray sparrows and dapper starlings
still squabble heatedly
in the tops of ancient elms. 

When the great poet has gone,
the city doesn't miss a beat, the metro
and the trams still seek a modern Grail
In the library a lovely girl
looks in vain for a poem that could explain it all

 At noon the same noise surges,
while quiet concentration reigns at night,
among the stars-eternal agitation.
Soon the discotheques will open,
indifference will open-
although the great poet has died.

 When we part for a long while
or forever from someone we love,
we suddenly sense there are no words,
we must speak for ourselves now,
 there's no one to do it for us
-since the great poet is gone.

Adam Zagajewski

Nhà thơ lớn đã ra đi
Nghĩ về C.M.

 

Lẽ dĩ nhiên chẳng có gì thay đổi
Trong ánh dương bình thường của ngày,
Khi nhà thơ lớn đã ra đi
Bầy sẻ xám, đám sáo đá lanh lẹn
Vưỡn cãi nhau loạn sạ trên những ngọn cây đu 

Khi nhà thơ lớn ra đi
Thành phố đếch thèm hụt 1 nhịp, xe điện ngầm, xe điện,
vưỡn tìm kiếm một Grail hiện đại
Trong thư viện, một em xinh ơi là xinh, đáng yêu cực đáng yêu
Kiếm đỏ con mắt một bài thơ giải thích mọi chuyện cà chớn đó 

Tới trưa, vẫn thứ tiếng ồn đó nổi lên,
Trong khi một sự chú tâm lặng lẽ ngự trị đêm
giữa những vì sao - một lay động thiên thu
Chẳng mấy chốc, quán nhạc mở cửa
sự lạnh lùng, dửng dưng cũng sẽ mở cửa –
mặc dù nhà thơ lớn đã chết,

Khi chúng ta bỏ đi, một chuyến đi dài
Hay mãi mãi, xa một người nào đó mà chúng ta yêu
Chúng ta bất thình lình cảm thấy đếch kiếm ra lời.
Đếch có lời.
Chúng ta phải nói cho chúng ta, bây giờ.
Đếch có ai làm chuyện này cho chúng ta nữa-
Kể từ khi mà nhà thơ lớn đã ra đi.

Le poète intraitable

Il ne peut toutefois adhérer au marxisme: la lecture de Simone Weil (qu'il traduit en polonais) a joué à cet égard un rôle capital dans son évolution intellectuelle. Elle aura été la première à dévoiler la contradiction dans les termes que représente le « matérialisme dialectique ». Pour une pensée intégralement matérialiste (comme celle d'Engels), l'histoire est le produit de forces entièrement étrangères à l'individu, et l'avènement de la société communiste, une conséquence logique de l'histoire; la liberté n'y a aucune place. En y introduisant la « dialectique ", Marx réaffirme que l'action des individus est malgré tout nécessaire pour qu'advienne la société idéale: mais cette notion amène avec elle l'idéalisme hégélien et contredit à elle seule le matélialisme. C'est cette contradiction qui va conduire les sociétés « socialistes" à tenir l'individu pour quantité négligeable tout en exigeant de lui qu'il adhère au sens supposé inéluctable de l'histoire. Mais la philosophie de Simone Weil apporte plus encore à Milosz que cette critique: elle lui livre les clés d'une anthropologie chrétienne qui, prolongeant Pascal, décrit l'homme comme écartelé entre la « pesanteur" et la « grâce ".

Nhà thơ không làm sao “xử lý” được.

Tuy nhiên, ông không thể vô Mác Xít: Việc ông đọc Simone Weil [mà ông dịch qua tiếng Ba Lan] đã đóng 1 vai trò chủ yếu trong sự tiến hóa trí thức của ông. Bà là người đầu tiên vén màn cho thấy sự mâu thuẫn trong những thuật ngữ mà chủ nghĩa duy vật biện chứng đề ra. Ðối với một tư tưởng toàn-duy vật [như của Engels], lịch sử là sản phẩm của những sức mạnh hoàn toàn xa lạ với 1 cá nhân con người, và cùng với sự lên ngôi của xã hội Cộng Sản, một hậu quả hữu lý của lịch sử; tự do chẳng hề có chỗ ở trong đó. Khi đưa ra cái từ “biện chứng”, Marx tái khẳng định hành động của những cá nhân dù bất cứ thế nào thì đều cần thiết để đi đến xã hội lý tưởng: nhưng quan niệm này kéo theo cùng với nó, chủ nghĩa lý tưởng của Hegel, và chỉ nội nó đã chửi bố chủ nghĩa duy vật. Chính mâu thuẫn này dẫn tới sự kiện, những xã hội “xã hội chủ nghĩa” coi cá nhân như là thành phần chẳng đáng kể, bọt bèo của lịch sử, [như thực tế cho thấy], trong khi đòi hỏi ở cá nhân, phải tất yếu bọt bèo như thế. Nhưng triết học của Simone Weil đem đến cho Milosz quá cả nền phê bình đó: Bà đem đến cho ông những chiếc chìa khoá của một nhân bản học Ky Tô, mà, kéo dài Pascal, diễn tả con người như bị chia xé giữa “trọng lực” và “ân sủng”.

Chúng ta phải coi cái đẹp như là trung gian giữa cái cần và cái tốt (mediation between necessity and the good), giữa trầm trọng và ân sủng (gravity and grace). Milosz cố triển khai tư tưởng này [của Weil],  trong tác phẩm “Sự Nắm Bắt Quyền Lực”, tiếp theo “Cầm Tưởng”. Đây là một cuốn tiểu thuyết viết hối hả, với ý định cho tham dự một cuộc thi văn chương, nghĩa là vì tiền, và cuối cùng đã đoạt giải! Viết hối hả, vậy mà chiếm giải, nhưng thật khó mà coi đây là một tuyệt phẩm. Ngay chính tác giả cũng vờ nó đi, khi viết Lịch Sử Văn Học Ba Lan. Tuy nhiên, đây là câu chuyện của thế kỷ. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết tìm cách vượt biên giới Nga, để sống dưới chế độ Nazi, như Milosz đã từng làm như vậy.


THE IMPORTANCE OF SIMONE WElL

FRANCE offered a rare gift to the contemporary world in the person of Simone Weil. The appearance of such a writer in the twentieth century was against all the rules of probability, yet improbable things do happen.

The life of Simone Weil was short. Born in 1909 in Paris, she died in England in 1943 at the age of thirty-four. None of her books appeared during her own lifetime. Since the end of the war her scattered articles and her manuscripts-diaries, essays-have been published and translated into many languages. Her work has found admirers all over the world, yet because of its austerity it attracts only a limited number of readers in every country. I hope my presentation will be useful to those who have never heard of her.

[suite]

Czeslaw Milosz

*

Trong số báo về Lòng Từ Thiện, có bài của Simone Weil, trích từ The Need for Roots. Trong tiểu sử của bà, có trích dẫn một câu, của Susan Sontag, viết về Weil:

[From The Need for Roots]. Born in Paris in 1909, Weil dedicated her lift to advocating for the poor and disenfranchised. She worked as a teacher, trained with an anarchist unit during the Spanish Civil War, and once debated Leon Trotsky in her parents' apartment after arranging for him to hold a clandestine meeting there. Weil's uncompromising asceticism led Susan Sontag to declare, "No one who loves life would wish to imitate her dedication to martyrdom." The bulk of Weil's writing was published only after her death from tuberculosis in 1943.

Gấu không nghĩ là cái tay “viết lại” Kẻ Xa Lạ và được Goncourt năm nay, hiểu được Camus. Tư tưởng của Camus, là từ Weil mà ra, (b) và Weil, như Susan Sontag, viết ở trên, cho rằng, chẳng ai dám bắt chước Weil, nếu kẻ đó còn yêu cuộc đời này!

Bất giác lại nhớ tới lời phẩm bình của vị thân hữu của TV. Vị này giải thích, Camus đẹp trai quá, “gái” nhiều quá, làm sao bắt chước cái khổ hạnh ghê gớm như của Weil!
Bài viết của Milosz về Weil, đúng như ông ao ước, rất quan trọng cho chúng ta, trong việc tìm hiểu Weil.

Có 1 cái gì cực kỳ ngược ngạo, và hình như lại bổ túc cho nhau, giữa câu của Weil, khi nhìn những đoàn quân Nazi tiến vào Paris, và của TTT, khi nhìn VC Bắc Kít vô Saigon.

(b)

Violent in her judgments and uncompromising, Simone Weil was, at least by temperament, an Albigensian, a Cathar; this is the key to her thought. She drew extreme conclusions from the Platonic current in Christianity. Here we touch perhaps upon hidden ties between her and Albert Camus. The first work by Camus was his university dissertation on Saint Augustine. Camus, in my opinion, was also a Cathar, a pure one, and if he rejected God it was out of love for God because he was not able to justify Him. The last novel written by Camus, The Fall, is nothing else but a treatise on Grace-absent grace-though it is also a satire: the talkative hero, Jean-Baptiste Clamence, who reverses the words of Jesus and instead of "Judge not and ye shall not be judged" gives the advice "Judge, and ye shall not be judged," could be, I have reasons to suspect, Jean-Paul Sartre.

Milosz: The Importance of Weil
*

Susan Sontag

Note: Bài viết cách đây 50 năm, nhân kỷ niệm 50 năm NYRB, bèn cho đăng lại. Susan Sontag không đọc được Simone Weil. Cách nhìn của bà thua cả Gấu, đó là sự thực.

Steiner, Milosz, đọc Simone Weil, "đốn ngộ" hơn nhiều.

Trên TV đã dịch bài của Steiner. Gấu sẽ đi tiếp bài của Milosz, "Sự quan trọng của Simone Weil", in trong “To Begin Where I Am”. Trong cuốn này, có mấy bài thật là tuyệt. Bài essay, sau đây, chỉ cái tít không thôi, đã chửi bố mấy đấng VC đứng về phe nước mắt:
Essay in which the author confesses that he is on the side of man, for lack of anything better: Tớ đứng về phía con người, vì đếch kiếm thấy cái gì khá hơn.
Cực phách lối, kiêu ngạo, hà, hà!

Sontag chỉ chịu nổi cuốn sau đây của Simone Weil:

*

The principal value of the collection is simply that anything from Simone Weil’s pen is worth reading. It is perhaps not the book to start one’s acquaintance with this writer—Waiting for God, I think, is the best for that. The originality of her psychological insight, the passion and subtlety of her theological imagination, the fecundity of her exegetical talents are unevenly displayed here. Yet the person of Simone Weil is here as surely as in any of her other books—the person who is excruciatingly identical with her ideas, the person who is rightly regarded as one of the most uncompromising and troubling witnesses to the modern travail of the spirit.
Susan Sontag


Co ai "noi nang" chi may bai cua Weil khg vay?
Khg biet co ai kien nhan doc?

Phúc đáp:
Cần gì ai đọc!
Tks. Take care. NQT
*
Date: Tuesday, March 31, 2009, 5:05 PM
Bac viet phach loi nhu the nay - ky qua...
*
Thi phai phach loi nhu vay, gia roi.
*
Gia roi phai hien ma chet!

Đa tạ.
Nhưng, phách lối, còn thua xa thầy S: Ta là bọ chét!

Phỏng Vấn Steiner

Tuy cũng thuộc băng đảng thực dân [mới, so với cũ, là Tẩy],  nhưng quả là Sontag không đọc ra, chỉ  ý này, của Steiner, trong Bad Friday:

For Weil, the "crimes" of colonialism related immediately, in both religious and political symmetry, to the degradation of the homeland.  

Với Weil, những “tội ác” của chủ nghĩa thực dân có hồi đáp liền tù tì theo kiểu đối xứng, cả về tôn giáo và chính trị, với sự thoái hóa ở nơi quê nhà, tức “mẫu quốc”.

Nhưng Bắc Kít, giả như có đọc Weil, thì cũng thua thôi, ngay cả ở những đấng cực tinh anh, là vì nửa bộ óc của chúng bị liệt, đây là sự thực hiển nhiên, đừng nghĩ là Gấu cường điệu. Chúng làm sao nghĩ chúng cũng chỉ 1 thứ thực dân, khi ăn cướp Miền Nam, vì chúng biểu là nhà của chúng, vì cũng vẫn nước Mít, tại làm sao mà nói là chúng ông ăn cướp được.

Chúng còn nhơ bẩn hơn cả tụi Tẩy mũi lõ, tụi Yankee mũi lõ.

Steiner còn bài “Thánh Simone-Simone Weil”, trên TV cũng đã giới thiệu.

For Weil, the "crimes" of colonialism related immediately, in both religious and political symmetry, to the degradation of the homeland. Time and again, a Weil aphorism, a marginalium to a classical or scriptural passage, cuts to the heart of a dilemma too often masked by cant or taboo. She did not flinch from contradiction, from the insoluble. She believed that contradiction "experienced right to the depths of one's being means spiritual laceration, it means the Cross." Without which "cruciality" theological debates and philosophic postulates are academic gossip. To take seriously, existentially, the question of the significance of human life and death on a bestialized, wasted planet, to inquire into the worth or futility of political action and social design is not merely to risk personal health or the solace of common love: it is to endanger reason itself. The two individuals who have in our time not only taught or written or generated conceptually philosophic summonses of the very first rank but lived them, in pain, in self-punishment, in rejection of their Judaism, are Ludwig Wittgenstein and Simone Weil. At how very many points they walked in the same lit shadows.

Đối với Simone Weil, những “tội ác” của chủ nghĩa thực dân thì liền lập tức mắc míu tới băng hoại, thoái hóa, cả về mặt tôn giáo lẫn chính trị ở nơi quê nhà. Nhiều lần, một Weil lập ngôn – những lập ngôn này dù được trích ra từ văn chương cổ điển hay kinh thánh, thì đều như mũi dao - cắt tới tim vấn nạn, thứ thường xuyên che đậy bằng đạo đức giả, cấm kỵ. Bà không chùn bước trước mâu thuẫn, điều không sao giải quyết. Bà tin rằng, mâu thuẫn là ‘kinh nghiệm những khoảng sâu thăm thẳm của kiếp người, và, kiếp người là một cõi xé lòng, và, đây là Thập Giá”. Nếu không ‘rốt ráo’ đến như thế, thì, những cuộc thảo luận thần học, những định đề triết học chỉ là ba trò tầm phào giữa đám khoa bảng. Nghiêm túc mà nói, sống chết mà bàn, câu hỏi về ý nghĩa đời người và cái chết trên hành tinh thú vật hóa, huỷ hoại hoá, đòi hỏi về đáng hay không đáng, một hành động chính trị hay một phác thảo xã hội, những tra vấn đòi hỏi như vậy không chỉ gây rủi ro cho sức khoẻ cá nhân, cho sự khuây khoả của một tình yêu chung, mà nó còn gây họa cho chính cái gọi là lý lẽ.
Chỉ có hai người trong thời đại chúng ta, hai người này không chỉ nói, viết, hay đề ra những thảo luận triết học mang tính khái niệm ở đẳng cấp số 1, nhưng đều sống chúng, trong đau đớn, tự trừng phạt chính họ, trong sự từ bỏ niềm tin Do Thái giáo của họ, đó là Ludwig Wittgenstein và Simone Weil. Đó là vì sao, ở rất nhiều điểm, họ cùng bước trong những khoảng tối tù mù như nhau.