*



và. dốc. phố. lạ

tay tìm tay. giữacon phố gạch. lót
lộc cộc tiếng. chân ngựa
buổi trưa. hộc nắng nghe. hiu quạnh
về. trong cơn gió. thoảng
mùi hương lạ. lẫn trong
tiếng chuông nhà. thờ
tay. người con gái. da chưa kịp sậm. màu nắng
mùa đông. đã về
cũng những con dốc. chúi đầu
những dáng núi. xa xăm
thành phố khác. ùn về kỹ niệm. cũ
níu vào. giấc ngủ. muộn
tiếng nói mềm. lang thang
những tên đường. lạ hoắc
thất lạc. giữa những tòa nhà. cổ kín
đường phố vòng. quanh
mùa hè. chưa bao giờ. trở lại
những bông hoa. nở vội
trong bức tranh. sơn dầu
em hỏi. nếu tuyết đổ. kín thành phố
chúng ta. sẽ ra sao
tuyết muộn. vào mùa. hè
có thể nào. như thế
rồi. chúng ta sẽ. lạ nhau
trong bức tranh. sơn dầu đó
có khác. giữa những. con người
của hai thành phố. một lạ
một quen. tuyết. vẫn rơi
dẫn một vệt. trắng. đi thật xa

Đài Sử

By Larry Levis

I told no one, but the snows came, anyway.
 They weren’t even serious about it, at first.
 Then, they seemed to say, if nothing happened,
 Snow could say that, & almost perfectly.

 The village slept in the gunmetal of its evening.
 And there, through a thin dress once, I touched
 A body so alive & eager I thought it must be
 Someone else’s soul. And though I was mistaken,

 And though we parted, & the roads kept thawing between snows
 In the first spring sun, & it was all, like spring,
 Irrevocable, irony has made me thinner. Someday, weeks
 From now, I will wake alone. My fate, I will think,
 Will be to have no fate. I will feel suddenly hungry.

The morning will be bright, & wrong.

Charles Simic

You’ll see cows grazing in a field
And perhaps a chicken or a turtle
Crossing the road in their sweet time,
And a small lake where a boy once
Threw a girl in who couldn’t swim,

And many large maple and oak trees
Offering ample shade to lie in,
Their branches to hang yourself from,
Should you so desire,
Some lazy afternoon or evening 

 When something tells the birds to hush,
 And the one streetlight in the village
 To keep a few moths company
 And the large old house put up for sale
 With some of its windows broken.


Bạn sẽ thấy bò gặm cỏ trên đồng
Và có lẽ, một chú gà con, hay một con rùa
Băng qua đường trong cái khoảng thời gian
Ui chao thật là ngọt ngào của chúng
Và một hồ nhỏ, nơi có lần một đấng con trai
Ném cô gái của mình xuống đó
Cô gái, tất nhiên, đếch biết bơi!
Hà, hà!

Và rất nhiều cây phong to tổ bố, và sồi
Xoè cái váy của chúng ra,
Là cái bóng dâm rộng lùng thùng là những tầng lá
Để bạn nằm lên đó
Còn những cành cây, là để bạn treo tòng teng bạn lên
Thì cứ giả như bạn đang thèm
Một buổi xế trưa lười biếng hay,
Quá tí nữa, 1 buổi chiều.

Khi một điều gì đó nói, bầy chim, im đi
Và ngọn đèn đường độc nhất ở trong làng,
Giữ mấy con bướm đêm làm bạn đường
Và ngôi nhà thật rộng, cũ mèm, để biển bán
Với mấy cửa sổ bể, gãy, tan hoang.
 
Bài thơ có bề ngoài giống y chang 1 bài ca dao, thí dụ bài “Trèo lên cây bưởi hái hoa”, ở đây, là lên đồi ngắm cảnh. Những “tỉ” những “hứng” có đủ cả…
Nói theo Kim Dung, thì chúng là những đòn gió, chỉ để bất thình lình ra đòn sau cùng, đòn chí tử, là khổ thơ chót.

Đọc, sao mà thê lương chi đâu:

When something tells the birds to hush,
And the one streetlight in the village
To keep a few moths company
And the large old house put up for sale
With some of its windows broken.

Quái làm sao, câu thơ đầu, “khi một điều gì đó nói lũ chim câm đi”, làm Gấu nhớ đến cái mail chót, của 1 nữ thi sĩ, “mi làm phiền ta quá”… “kiếp trưóc mi đúng là con đỉa”….

Hà hà!

Nhưng cái mail kế chót thì thật là tuyệt vời.
Em quả có tí thương [hại] Gấu!

Finding the Words

In a book-length elegy, the poet Edward Hirsch confronts the loss of his son.

Trong 1 bi khúc dài bằng cả 1 cuốn sách, bố thi sĩ khóc ông con trai của mình

 I did not know the work of mourning
Is like carrying a bag of cement
Up a mountain at night
The mountaintop is not in sight
Because there is no mountaintop
Poor Sisyphus grief 

I did not know I would struggle
Through a ragged underbrush
Without an upward path
 

And ends: 

Look closely and you will see
Almost everyone carrying bags
Of cement on their shoulders
That’s why it takes courage
To get out of bed in the morning
And climb into the day.

Tôi không biết cái việc khóc lóc, tưởng niệm thì
Giống như vác bao xi măng lên núi
Vào ban đêm
Đâu nhìn thấy đỉnh núi
Bởi là vì làm đếch gì có đỉnh núi
Tội nghiệp chàng Sisyphus [của Camus]
Phải tưởng tượng chàng hạnh phúc!

Tôi không biết là tôi sẽ phải chiến đấu
Với đám bụi gai dưới chân
Bởi vì làm đếch gì có lối đi lên núi

Nhìn thật gần, thì mọi người đều thế cả
Hầu như ai cũng vác bao xi măng lên núi
Nhờ thế mà họ có đủ can đảm
Rời cái giường vào buổi sáng
Để bò vô ngày



Autumn Day

Robert Hass

SEPTEMBER 19

Rainer Maria Rilke: Herbsttag

Rainer Maria Rilke is one of the great poets of the twentieth century. He's also one of the most popular. He's been translated again and again, as if some ideal English version of his German poems haunted so many minds that writers have had to keep trying to find it. Here, for the time of year, are some translations of a poem about the fall. He wrote it in Paris on September 21, 1902.

Rilke là 1 trong những nhà thơ lớn của thế kỷ 20. Ông cũng là 1 nhà thơ phổ thông. Ông được dịch đi dịch lại, như thể, những bài thơ tiếng Đức của ông ám ảnh rất nhiều cái đầu, và những nhà văn phải cố tìm cho thấy nó. Đây là bài thơ cho mùa thu năm nay, với cả 1 lố bản dịch.

Ngày Thu

Chúa ơi: Đúng là lúc này rồi. Hè mới bao la làm sao
Hãy trải cái bóng của mi xuống sundials
Và cho gió tung tăng trên cánh đồng.

Hãy biểu những trái cây sau cùng, hãy chín mọng, cho kịp những chầu rượu;
Cho chúng thêm hai ngày hè
Để có được cái tuyệt hảo - như da thịt ngọt ngào của em - trộn hơi rượu nồng

Kẻ nào đếch có nhà lúc này, thì đếch cần dựng nhà nữa
Kẻ nào sống mình ên, thì xin cứ tiếp tục sống một mình
Vươn vai đứng dậy, đọc, viết những lá thư dài, cho Hải Âu, thí dụ vậy
Lang thang, lên xuống, những con phố
Đếch thèm nghỉ ngơi cái con mẹ gì, giữa lá bay đầy trời, trong gió loạn.

THE FIRST ELEGY

Who, if I cried out, would hear me among the Angels?
Orders? and even if one of them pressed me
suddenly to his heart: I'd be consumed
in his more potent being. For beauty is nothing
but the beginning of terror, which we can still barely endure,
and while we stand in wonder it coolly disdains
to destroy us. Every Angel is terrifying.

Ai, nếu tôi kêu lớn, sẽ nghe, giữa những Thiên Thần?
Những Thiên Sứ? và ngay cả nếu một vị trong họ ôm chặt tôi vào tận tim:
Tôi sẽ bị đốt cháy trong hiện hữu dữ dằn của Người.
Bởi là vì, cái đẹp chẳng là gì, mà chỉ là khởi đầu của ghê rợn,
chúng ta vẫn có thể chịu đựng, và trong khi chúng ta đứng ngẩn ngơ,
thì nó bèn khinh khi hủy diệt chúng ta.
Mọi Thiên Thần thì đều đáng sợ.

Với tôi người sở hữu hạnh phúc, cuốn sách thanh nhã, mỏng manh, mua từ lâu, “Bi Khúc” tượng trưng cho một khởi đầu của con đường dài đưa tới một quen biết tốt đẹp hơn, với toàn bộ tác phẩm của Rilke. “Bi Khúc thứ nhất” - một lần nữa ở đây: “Ai, nếu tôi la lớn - trở thành một chứng cớ hiển nhiên, sống động, thơ ca chẳng hề mất quyền uy khủng khiếp của nó. Vào lúc đó, tôi chưa biết thơ của Czeslaw Milosz, bị “VC Ba Lan”, thành công trong việc tuyệt cấm, ở trường học, nhà sách, thư viện, - và tất nhiên, tuyệt cấm với tôi. Một trong những nhà thơ cùng thời đầu tiên mà tôi đọc và cố hiểu, là Tadeusz Rozewicz, cùng sống trong thành phố mà tôi sinh trưởng, (Gliwice), và, có thể chứng kiến, thì cứ giả dụ như vậy, cái giây phút thần tiên liền theo sau, khi tôi mua được Duino Elegies, bản dịch của Jastrun - chứng kiến hình ảnh một đứa bé đứng chết sững trên hè đường, nơi con phố trung tâm thành phố, vào giờ cư dân của nó thường đi dạo chơi, khi mặt trời xuống thấp, và cái thành phố kỹ nghệ xám trở thành 1 bông hồng rực đỏ trong chừng 15 phút, cỡ đó – ui chao cũng chẳng khác gì giây phút thần tiên Gấu đọc cọp cuốn “Bếp Lửa”, khi nó được nhà xb đem ra bán xon trên lề đường Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn – Thơ của Rozewicz như sinh ra từ tro than của một cuộc chiến khác, Đệ Nhị Chiến, và chính chúng, những bài thơ, thì như là một thành phố của tro than. Rozewicz tránh sử dụng ẩn dụ trong thơ của mình, coi bất cứ thặng dư của tưởng tượng là 1 sỉ nhục hồi ức những nạn nhân của cuộc chiến sau chót, một đe dọa tính xác thực về mặt đạo đức của thơ ông: Chúng được coi như là những bản báo cáo, kéo, dứt, giựt ra từ cơn kinh hoàng, tai họa lớn. Những bài thơ đầu của ông, viết trước khi Adorno phang ra đòn chí tử, “thật là ghê tởm, man rợ khi còn làm thơ sau Lò Thiêu”, thì đã hàm ngụ trong chúng, câu của Adorno rồi.
Adam Zagajewski


Note: Có 1 sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng thật ly kỳ thú vị, không chỉ về cái cảnh Gấu chết sững trong nắng Sài Gòn, khi đọc cọp – khám phá ra - Bếp Lửa, khi cuốn sách được nhà xb Nguyễn Đình Vượng cho đem bán xon trên hè đường Phạm Ngũ Lão, nhưng còn ở điều này: Cuốn sách Bếp Lửa đã sống lại, từ tro than, bụi đường Xề Gòn.

Gấu đã viết như thế, về Bếp Lửa, từ năm 1972
Giả như nó không được đem bán xon, liệu có tái sinh?
Quá tí nữa, giả như không có cuộc phần thư 1975, liệu văn học Miền Nam vưỡn còn, và được cả nước nâng niu, trân trọng như bây giờ?

Một nền văn học bảnh tỏng như thế, mà có thằng ngu gọi nó là... bất hạnh!

*

NYRB August 14, 2014

Bài thơ mới nhất của Adam Zagajewski, trên số báo, trước SN/GCC 2 ngày!

Món quà SN thật bất ngờ!

Thêm bài này nữa, cùng số báo: Simic viết về Simic, tên tù của Lịch sử!

*

*

Bài thơ của AZ, và bài viết của Simic, thì đều “not free”. Bài viết của Simic cực tuyệt, vì nó rất gần với chúng ta.
Sáu tuổi, ở Belgrade, Đồng Minh dội bom giết Nazi, nhưng bom cứ giết hụt Nazi, và nhè đúng con nít như ông, hay bà già:
Những con người vô tội là những nạn nhân lớn lao nhất của chiến tranh và cách mạng.

Trong khi chờ bản tiếng Mít, mời độc giả "ăn tráng miệng", một bài thơ của Simic, trong bài viết. Một trong những bài thơ đầu, đa số được hủy bỏ, ông viết cách đây hơn 50 chục năm tại New York City

Cockroach

When I see a cockroach
I don’t grow violent like you
I stop as if a friendly greeting
Had passed between us.

This roach is familiar to me.
We met here and there,
In the kitchen at midnight,
And now on my pillow.

I can see it has a couple
Of my black hairs
Sticking out of its head,
And who knows what else?

It carries a false passport-
Don't ask me how I know.
A false passport, yes,
With my baby picture.

Con Dán

Khi nhìn thấy một con dán
Tôi không sửng cồ như bạn đâu
Tôi ngưng lại, như thể có 1 cú “Hi, bồ tèo”,
Giữa hai chúng tôi.

Con dán này trông thật quen, không lẽ nói, bạn quí của tôi.
Chúng tôi gặp, đâu đó
Trong nhà bếp, vào ban đêm
Và bây giờ, dưới gối. 

Tôi có thể nhìn thấy mấy sợi tóc đen của tôi
Thò ra khỏi đầu con dán
Nào ai biết, còn cái gì nữa?

Nó mang căn cước giả -
Đừng hỏi, làm sao tôi biết
Căn cước giả, đúng như thế
Với bức hình con nít của tôi.


Robert Melancon

French, born 1947

AUGUST

I wander beneath the serenity
of the moon as it withdraws
 its stars from the night. A shadow
goes with me in which I do not
know myself. Only these trees
nearest to me, the grass, the washed darkness
exist. A cry
of a night jar, the murmur of leaves.
Summer consents absently to the night.

Tháng Tám

Tớ lang thang dưới vừng trăng thanh thản
Nó rút những vì sao của nó ra khỏi đêm.
Một cái bóng cùng đi với tớ, và tớ không làm sao phân biệt, tớ là bóng, hay bóng là tớ.
Chỉ cây cối cận sát tớ, cỏ, và bóng tối được rửa sạch, hiện hữu
Đêm, như cái bình, kêu 1 phát,
Lá thì thầm
Mùa hè, bèn bằng lòng, tự vắng mình trong đêm.

BLIND PAINTER [XI] 

January can give this grove
the appearance of a colonnade.
The fall of the leaves creates
a felicitous labyrinth, an architecture
to which only the light comes.
But you should not linger
in this metaphorical palace
old as language. Here are trees
all waiting to be named.
None looks like any other.
They will not consent to be reduced
To the mere concept of a forest

 

Họa sĩ mù

Tháng giêng có thể cho cái bụi, bề ngoài của một hàng cây
Lá rụng, thành mê lộ thần tình,
một cấu trúc mà chỉ có ánh sáng tới được.
Nhưng bạn không nên nấn ná
Trong cái cung điện ẩn dụ,
Già như ngôn ngữ này
Ở đây, cây, tất cả bọn chúng, thì đều đợi để được đặt tên.
Chẳng cây nào giống cây nào
Chúng đếch hài lòng bị giản lược
Về cái ý niệm nghèo nàn, nhảm nhí, chúng tớ là một khu rừng.  

The Necessity of Loneliness


Son of Man and Son of God

Tuesday, July 29, 2014 4:11 PM

Thưa ông Gấu,
Xin góp ý với ông Gấu về một đoạn thơ đã post trên trang Tinvan.

Nguyên tác:

Christ speaks to her in turn:
“Whether dead or alive
woman, it’s all the same –
son or God, I am thine 

Theo tôi, nên dịch như sau:

Christ bèn trả lời:
Chết hay là sống,
Thưa bà, thì đều như nhau –
Con, hay Chúa, ta là của bà 

Best regards,

DHQ
 

Phúc đáp:
Đa tạ. Đúng là Gấu dịch trật, mà đúng là 1 câu quá quan trọng.
Tks again.
Best Regards

NQT


Nature Morte

Joseph Brodsky


Tưởng niệm Quỳnh Giao
Thơ Mỗi Ngày

Đọc Blog NL, thấy có nhắc tới bản dịch thơ của Szymborska, của Tạ Minh Châu. Gấu chưa từng biết tới ông này. Bèn tò mò gõ Google, ra bài này (1)
Đọc, thì thấy, mấy đấng Mít đều tránh né, đếch dám viết thẳng về Bà, vì đụng tới nỗi đau Mít.

Trên TV đã từng giới thiệu Szymborska. Bà là người làm bài thơ thần sầu về xứ Mít, "Vietnam", bài thơ chửi bố bài "Bà Mẹ Gio Linh" của PD, bài hát mà mỗi lần Thái Thanh hát, là không chỉ Thái Thanh, mà cả nước, khóc, về 1 bà mẹ Mít, đẻ đứa con nào là biếu VC đứa đó, để xây dựng lên cái địa ngục Mít bi giờ!

Tribute to Szymborska

Thơ Mít sau 30 Tháng Tư, thay vì vinh danh, thì phải là tưởng niệm những người đã chết, ở cả hai bên, ở cả thường dân lẫn những người cầm súng may mắn sống sót.

Cả 1 cõi thơ Mít, không làm sao có nổi 1 bài thơ như bài “Việt Nam” của Szymborska. Không có ai khóc, mà chỉ những tên khốn kiếp ăn mừng chiến thắng, ăn mừng nhận hàng [Miền Nam nhận họ, Miền Bắc nhận hàng].
Nhận hết hàng Miền Nam, thì biến cả thế giới thành bãi đánh hàng!

Sở dĩ trên TV, chỉ có thơ của Simic, Zagajewski, Milosz, Szymborska, vì thơ của họ đều là những bài tưởng niệm cả 1 thời kỳ vừa qua.

Theo tinh thần đó, Helen Vendler viết: Chẳng có bài học trực tiếp nào mà những nhà thơ Mẽo học được từ Milosz. Họ có bao giờ nhìn bằng cặp mắt của chính họ, chiến tranh, trên đất nước, xứ sở của chính họ. Chính vì thế mà họ không làm sao nhập vào được giọng thơ của Milosz.

Chúng ta, Mít, chẳng những chứng kiến, đau khổ vì cuộc chiến đến như thế, vậy mà đâu có đẻ ra được 1 thứ thơ như của Milosz, của Szymborksa.
Chính vì thế mà phải dịch, cho mọi người cùng đọc, để làm thay đổi hẳn cõi thơ Mít.

Vietnam (Wistawa Szymborska)

Szymborska thường viết, như thể, về 1 đề tài được chỉ định - một hạt cát, hay là bức hình đầu tiên của Hitler, hay một điều gì có tính suy đoán hơn, thí dụ, sự hiện hữu của linh hồn của chúng ta, hay là sự im lặng của cây cối quanh chúng ta. Rồi, tiếp đó, bà nghiên cứu, xem xét đề tài một cách gần gụi hơn. Trước tiên, bà miêu tả cái bà nhìn thấy, rồi bà nhớ lại những gì bà và những người khác biết về nó, và, yên chí lớn, độc giả theo kịp bà, cùng với bà đi tới mọi khúc rẽ, mọi bước ngoặt của cái đầu của bà, khi bà lần theo tư tưởng của mình, trên đường đi tới một kết luận ngỡ ngàng cho bài thơ, hoặc dí dỏm, hoặc tàn nhẫn, dã man, ác liệt.
Thơ như thế, có vẻ như là 1 cuộc triển khai, viết. Thì nó thế, thực.
Hơn hết thẩy những nhà thơ mà tôi biết, hay nghĩ tới, Szymborska không chỉ sáng tạo ra 1 tình trạng, một trạng thái [a state] thơ, ở nơi những độc giả của bà, nhưng còn nói cho họ biết, những điều họ chưa biết trước đó, và chẳng bao giờ nghĩ về những điều đó.

Charles Simic

*

Wislawa Szymborska's "Vermeer"

A poem against the apocalypse
Một bài thơ chống lại Tận Thế

Aug 27th 2010, 16:53 by More Intelligent Life, A.R. | NEW YORK

I HAPPENED upon this poem on the New York Review of Books's website, and was startled by how beautifully Wislawa Szymborska captures the dance between motion and stillness in Vermeer's "The Milkmaid"—a moment frozen yet continually happening.

Vermeer

So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn’t earned
the world’s end.

I love the shape of the poem—it thins like a stream of milk, pouring itself out. I also love the tension she sets up between the "W" and the "w", which appears hierarchical but is also slippery.

"Vermeer", Wislawa Szymborska, translated from the Polish by Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak

Note: Bài thơ này, TV đã post, nay chỉ post thêm lời bình của tay Prospero.
Bản tiếng Việt, của TV, cũng phân biệt ra hai từ "W", và "w".
GNV cũng đọc nó trên tờ NYRB, như Prospero.
Thế mới thú chứ!

Một khi mà người đàn bà ở trong bức tranh ở viện bảo tàng Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và chú tâm
rót sữa mỗi ngày từ cái bình ra cái bát,
thì Thế Giới vưỡn chưa có được cái sự tận cùng của thế giới.
Source

I love the shape of the poem—it thins like a stream of milk, pouring itself out. I also love the tension she sets up between the "W" and the "w", which appears hierarchical but is also slippery.
Tôi mê cái dáng của bài thơ - mỏng như sợi sữa, tự nó đổ nó ra, chẳng cần tới ai. Tôi cũng mê sức căng mà thi sĩ tạo ra, giữa W và w, nó làm lộ ra đẳng cấp nhưng cũng còn làm lộ ra sự trơn trượt.

Wislawa Szymborska 1
Late-night Whispers from Poland
Szymborska by Adam Gopnik

EXAMPLE

A gale
stripped all the leaves from the trees last night
except for one leaf
left
to sway solo on a naked branch.

With this example
Violence demonstrates
that yes of course-
it likes its little joke from time to time.

Wislawa Symborska: Here

Thí dụ

Một trận gió lạnh
Vặt trụ lá cây, tối hôm qua
Trừ 1 cái
Trơ cu lơ trên cành cây trần trụi 

Với thí dụ này
Lịch sử Mít những ngày 1945
Bèn chứng tỏ rằng thì là,
Thì tất nhiên, đúng như thế rồi
Lâu lâu, thi thoảng, ta cũng khoái chuyện tiếu lâm của ta! 

Ui chao, VC quả đã làm thịt ông bố, nhưng chừa ông con
Để sau này làm nhạc chào mừng ngày 30 Tháng Tư 1975:

Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng!

Bạn có thể áp dụng bài thơ trên, cho rất nhiều trường hợp,
Với những kẻ lịch sử tha chết để sau đó, làm 1 công việc, như trên! 

Nào họ Trịnh hầu đờn Hồ Tôn Hiến
Nào người tri kỷ của ông, hầu đờn Bắc Bộ Phủ.

Virtue, after all, is far from being synonymous with survival;
duplicity is.
J. Brodsky: "Collector's Item"
(Sống sót, nói cho cùng, là do nhập nhằng, không phải bởi đạo hạnh).

Đành phải cám ơn VC 1 phát!


Tựa hồn những năm xưa

Bông Hồng của Coleridge

Khoảng 1938, Paul Valery viết, lịch sử văn học đúng ra không nên là lịch sử của những tác giả và những tai nạn nghề nghiệp của họ, hay của tác phẩm của họ, nhưng nên là lịch sử Cái Tinh Anh, the history of the Spirit, như là kẻ sản xuất hay tiêu thụ văn chương. Ông viết thêm, một lịch sử như thế có thể được viết ra mà không cần nhắc tới một nhà văn đơn độc, a single writer. Không phải đây là lần đầu tiên mà Cái Tinh Anh phán như thế. Vào năm 1944, một trong những viên thư ký của nó trong Concord ghi nhận: Ta thì thật là khoái cái ý này, về văn học, đó là [chỉ] một người viết tất cả những cuốn sách… cái phẩm chất như thế, cái căn cước như thế, cả về phán đoán và quan điểm, trong tự sự, cho thấy, đây là tác phẩm của một cái nhìn-tất cả, nghe-tất cả, the work of all-seeing, all-hearing, của một vì phong nhã (Emerson, Essays: Second Series, “Nominalists and Realist,” 1844).
Hai chục năm sau Shelley diễn tả quan điểm, rằng tất cả những bài thơ của quá khứ, hiện tại, và tương lai thì là những chương, hồi (episode), hay những mẩu đoạn, của một bài thơ độc nhất, vô cùng, a single infinite poem, được viết bởi tất cả những nhà thơ trên thế gian.
Những nhận xét (consideration) như thế thì làm dấy lên biết bao là lèm bèm, không thể nào dứt được. Tôi lôi chúng ra, như là 1 cái cớ, để trình bày 1 dự án khiêm tốn của mình: vẽ lại cái cuộc tiến hóa của 1 ý nghĩ, qua những bản văn hỗn tạp của ba tác giả.
Tác giả đầu tiên, là Coleridge. Tôi không chắc chắn, ông ta viết khi nào, vào cuối thế kỷ 18, hay đầu thế kỷ 19:

“Nếu một người đàn ông có thể ghé Thiên Đàng, trong giấc mơ, và, thay vì hai trái đào tiên mà bướm thiên đàng dâng cho anh ta, thì là 1 bông hồng, như bằng chứng linh hồn của thằng chả quả thực đã ghé nhà thổ ở đó, và nếu, khi tỉnh giấc, thằng chả thấy trong tay mình cầm bông hồng, thì… sao nhỉ”

[Borges giải thích], đằng sau ý tưởng của Coleridge, là một ý tưởng phổ thông, xa xưa, của hàng hàng thế hệ những kẻ yêu nhau, cầu một…  BHD, như là bằng chứng đời đời, muôn đời….  của tình yêu của họ.

Hà, hà!

Lolita vs BHD

We never grow up - only older, then old-
Chúng ta chẳng bao giờ trưởng thành, nhưng cứ thêm tuổi mãi ra, già mãi ra, rồi già.

In one of Nabokov's works - this is another of my lost trouvailles - a character tells of someone losing something, a ring, I think it was, in a rock pool somewhere on the Riviera and returning a year later to the day and finding it again in exactly the spot where it was lost, but that kind of thing only happens in the Russian enchanter's magical version of our sullenly acquisitive world.

Trong 1 trong những tác phẩm của Nabokov - thì cũng lại là 1 trong những mất đi tìm lại được của tớ - một nhân vật kể về 1 tay nào đó, đánh mất một cái gì đó - một cái nhẫn. Hình như tại một cái ao, bên dưới 1 hòn đá, ở một nơi nào đó, ở Riviera, và một năm sau trở lại, vào ngày đó, và kiếm lại được cái nhẫn đúng tại nơi đã mất, nhưng cái thứ này chỉ xẩy ra trong 1 ấn bản thần tiên của một tay phù thuỷ Nga.... 

Ui chao, đúng là cái tình cảnh của GCC:

Như người xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn thuyền, chàng trở lại chốn xưa, tìm vết giầy trên lớp bụi thời gian, và tiếng cười của nàng vẫn còn văng vẳng đâu đây!
Ôi chao, giờ đọc lại vưỡn còn bùi ngùi!

Nhưng tại làm sao mà em ngộ ra rằng thì là, GCC chẳng bao giờ trưởng thành, cứ yêu mãi 1 đứa con nít... là nàng, từ đời thuở nào?

Thơ Mỗi Ngày

*

Louis de Bernières: Imagining Alexandria

Nhà khác

Bạn phán, ta sẽ tới một cái nhà khác, một chỗ khác
Cái này đếch nhà ta. Ta bị chôn vùi trong bốn bức tường của nó.
Ta không thể ở đây, ta đếch nhìn thấy cái mà ta chọn
Chẳng có cái gì làm tươi rói mắt ta trở lại
Chẳng có cái người mà ta mong ở với ta mọi ngày, mọi đời
Thời gian thì cứ con lươn, con đỉa đúng hơn, tuồn ra khỏi kẽ tay của ta
Uổng cả đời ta, hư cả đời ta, tàn tạ cả đời ta
Đếch phải nhà của ta!

Làm đếch gì có nhà khác, Gấu ngu ơi là ngu!
Những bức tường sẽ theo mi. Vuỡn như Cẩn.

*

Bài “Ode” viết năm 1966

Chẳng ai là quê hương, đất mẹ, quê cha.
Ngay cả cái tên kỵ mã
Sừng sững trong rạng đông, trong cái ô vuông trống rỗng
Kẻ dẫn dắt con chiến mã đồng qua thời gian
Cũng không, là những kẻ từ mớ cẩm thạch, hoa cương nhìn ra
Cũng không, là những kẻ hoang phí tro than chiến trận của họ
Trên những cánh đồng Mỹ Châu
Hay để lại một câu thơ, hay một kỳ công
Hay hồi ức của một đời được hoàn tất
Bằng 1 thực thi kỹ lưỡng, những bổn phận của họ
Chẳng ai là quê nhà. Những biểu tượng cũng không.

Không ai là quê nhà. Ngay cả thời gian
Chất đầy những trận đánh, gươm đao, lưu vong tiếp theo lưu vong,
Và với những con người, trải dần qua những vùng, miền
Vươn tới rạng đông, vươn vào hoàng hôn
Và với những bộ mặt cằn cỗi dần, già dần
Trong những tấm gương tối dần
Và với những cơn hấp hối vô danh  kéo dài
Và với lưới mưa đan
Trên những khu vườn đen

Quê nhà, bạn ơi, là một hành động liên tục
Như thế giới liên tục ( Giả như Tên Khán Giả Vĩnh Viễn ngưng 1 khoảnh khắc
Để mơ tưởng chúng ta, thì cái tia sáng bất thình lình trắng
Của niềm lãng quên của hắn ta, sẽ đốt cháy bùng chúng ta.)
Chẳng ai là nhà, nhưng tất cả chúng ta sẽ thật xứng đáng với lời thề xa xưa
Mà những tên phong lưu, tài tử phong nhã, đã từng thề -
Trở thành một điều gì chúng không biết, Trở thành Ác hen ti na;
Trở thành điều họ sẽ là, bằng đạo hạnh
Lời Thề Thốt đã được thốt ra trong căn nhà cũ này.
Chúng là tương lai của những con người đó.
Sự chứng thực của những kẻ đã chết đó.
Nhiệm vụ chúng ta là 1 gánh nặng vinh quang
Để lại cho cái bóng của chúng ta, nhờ những cái bóng đó;
Đó là của chúng ta, để mà gìn giữ
Chẳng ai là nhà – đó là cả chúng ta
Cầu sao cho ngọn lửa sáng ngời, bí ẩn cháy
Không ngừng, trong lồng ngực của ta và của bạn

J.L. Borges

Death will come and will find a body
whose silent peace will reflect death's approach
like any woman's face
(Chết sẽ tới và sẽ thấy một xác thân
mà sự bình an lặng lẽ sẽ phản chiếu cái chết tới gần
như gương mặt của một người đàn bà nào đó).

[Ai cho phép anh là thi sĩ?]

Mấy dòng thơ trên, của Brodsky, là ở trong bài thơ Tĩnh Vật, Nature Morte. Ông là nhà thơ Ky Tô. Joseph, ở đây, là tên thánh, như Joseph Huỳnh Văn, thí dụ.
Vậy mà 1 nhà thơ Mít cho rằng, thơ của ông có tính tôn giáo, nhưng là nói chung chung vậy thôi, không phải Ky Tô giáo!

Ở ý này, tôi rất tâm đắc với những điều mà Giáo sư Sture Allen đã thay mặt Viện Hàn Lâm Thụy Điển đọc diễn từ Tuyên dương Joseph Brodsky, nhà thơ Nga có quốc tịch Mỹ, tại lễ trao giải Nobel văn chương năm 1987: “…Chiều kích tôn giáo mà ta nhất định có thể tìm thấy trong tác phẩm của ông (J. Brodsky) không gắn liền với một tín điều cụ thể nào…”
Võ Chân Cửu (1)

Nhưng mấy dòng sau, trong cùng 1 bài thơ, mới lạ:

Mary nói với Christ:
Mi là con ta? - hay là Chúa Trời?
Mi bị đóng đinh thập tự.
Đâu là con đường trở về quê hương của ta?

Mary now speaks to Christ:
"Are you my son-or God?
You are nailed to the cross
Where lies my homeward road?

Can I pass throught my gate
not having understood:
Are you dead ? - or alive?
Are you my son - or God?

Christ bèn trả lời:
Chết hay là sống,
Đàn bà, thì đều như nhau –
Con, hay Chúa, ta là thine

Christ speaks to her in turn:
“Whether dead or alive
woman, it’s all the same –
son or God, I am thine


Son of Man and Son of God

Tuesday, July 29, 2014 4:11 PM

Thưa ông Gấu,
Xin góp ý với ông Gấu về một đoạn thơ đã post trên trang Tinvan.

Nguyên tác:

Christ speaks to her in turn:
“Whether dead or alive
woman, it’s all the same –
son or God, I am thine 

Theo tôi, nên dịch như sau:

Christ bèn trả lời:
Chết hay là sống,
Thưa bà, thì đều như nhau –
Con, hay Chúa, ta là của bà 

Best regards,

DHQ
 

Phúc đáp:
Đa tạ. Đúng là Gấu dịch trật, mà đúng là 1 câu quá quan trọng.
Tks again.
Best Regards

NQT


Nature Morte

Joseph Brodsky

Khuya nức nở những cõi lòng không ngủ
Đợi vì sao dậy sớm tiễn người đi

Không hiểu sao hai câu thơ của Joseph Huỳnh Văn trích dẫn trên lại cứ lởn vởn trong đầu óc  Nguyễn tôi những ngày gần đây. Có phải giờ này gió mùa đang thổi trên khắp quê nhà, gợi lại những chuyến đi? Hay ngọn gió Santa Ana đang thổi suốt dọc giải đất Cali, làm dậy lên tiếng những chiếc phong linh bằng đất nung khua chạm vào nhau? Le vent se lève… Gió đã lên… Gió đã lên rồi… hãy thử sống xem sao?...

    Vậy đó, hai câu thơ gợi những âm vang. Kẻ viết những dòng này đã đọc khá nhiều thơ của Joseph Huỳnh Văn -những bài thơ nửa tượng trưng nửa siêu thực, những bài cầm dương xanh sầu quý phái- nhưng không hiểu sao hai câu thơ bình dị nói trên bỗng dưng lại có mê lực đưa lòng mình vào tưởng nhớ mông lung. Hai câu thơ thật giản dị nhưng khơi gợi nhiều quá. Phải chăng nó đã động phải những tầng sâu thẳm nào đó tận dưới đáy hồn -và đáy thời gian.

    Nhưng thôi hãy gượm. Trước khi nói về thơ, xin hãy nói về người. Con người đó là Joseph Huỳnh Văn. Nguyễn được đọc và nghe tên anh từ hồi tạp chí Thời Tập của Viên Linh. Joseph Huỳnh Văn. Cái tên lạ, nửa Tây nửa Ta, nhưng rồi cũng trở nên quen thuộc.

Blog NXP

Hai câu thơ của Joseph Huỳnh Văn [nửa Ta nửa Tây], “Khuya nức nở…”, Gấu nhớ thơ bạn, rồi viết ra, trong lần nghe tin bạn mất, (1) chắc là từ tiềm thức bật ra, chưa từng đăng báo.
Thơ của Joseph HV như Gấu nhớ được, cũng chưa từng đăng báo nào khác, ngoài tờ Tập San Văn Chương, do anh làm tổng thư ký.

Tất nhiên, có thể là Gấu nhớ lộn, nhưng JHV "kỹ" lắm, ít khi đăng báo thơ của anh, cho đến khi làm tờ TSVC.
Nguyễn Đạt chắc là rành hơn Gấu, về những kỷ niệm này.

Mấy câu thơ sau đây, của TTT, cũng là do Gấu đọc ở trên tường, kế bàn viết của ông, trong phòng riêng của ông, một lần Gấu lén vô:

Khi anh đi, anh đi vào sương đen
Sương rất độc tẩm vào người nỗi chết.

Nhớ, bài thơ dán trên tường, khi ông sắp sửa trình diện nhập ngũ.

NQT

(1)

Ai chỉ định anh là thi sĩ? 

Thứ Sáu, ngày 8 tháng 3 năm 1996, vào lúc 5 giờ chiều, buổi tưởng niệm thi sĩ Joseph Brodsky (tháng Năm 24, 1940 - tháng Giêng 28, 1996), Nobel văn chương 1987, tại nhà thờ St. John the Divine, New York, có lẽ đã đúng như ý nguyện của ông. Thay vì cuộc sống vị kỷ, những người bạn của ông đã nhắc nhở nhau về những chu toàn, the achievements, ngôn ngữ - the language - của người quá cố:
Death will come and will find a body
whose silent peace will reflect death's approach
like any woman's face
(Chết sẽ tới và sẽ thấy một xác thân
mà sự bình an lặng lẽ sẽ phản chiếu cái chết tới gần
như gương mặt của một người đàn bà nào đó). 

Tuy sống lưu vong gần như suốt đời, ông được coi là nhà thơ vĩ đại của cả nửa thế kỷ, và chỉ cầu mong ông sống thêm 4 năm nữa là "thế kỷ của chúng ta" có được sự tận cùng vẹn toàn. Ông rời Nga-xô đã hai chục năm, cái chết của ông khiến cho căn nhà Nga bây giờ mới thực sự trống rỗng.

Ông sang Mỹ, nhập tịch Mỹ, yêu nước Mỹ, làm thơ, viết khảo luận bằng tiếng Anh. Nhưng nước Nga là một xứ đáo để (Chắc đáo để cũng chẳng thua gì quê hương của mi...): Anh càng rẫy ra, nó càng bám chặt lấy anh cho tới hơi thở chót.

-Bao giờ ông về?.
-Có thể, tôi không biết. Có lẽ. Nhưng năm nay thì không. Tôi nên về. Tôi sẽ không về. Đâu có ai cần tôi ở đó.
-Đừng nói bậy, họ sẽ không để ông một mình đâu. Họ sẽ công kênh ông trên đường phố... tới tận Moscow... Tới Petersburg... Ông sẽ cưỡi ngựa trắng, nếu ông muốn.
-Đó là điều khiến tôi không muốn về. Tôi đâu cần ai ở đó. 

Theo Tatyana Tolstaya, nhà văn nữ người Nga hiện đang giảng dạy môn văn chương Nga và viết văn, creative writing, tại Skidmore College, thoạt đầu, ông rất muốn về, ít nhất cũng như vậy. Ông đã từng nổi giận về những lời trách cứ. "Họ không cho phép tôi về dự đám tang ông già. Bà già chết không có tôi ở bên. Tôi hỏi xin nhưng họ từ chối". Cho dù vậy, lý do, theo Tolstaya, là ông không thể về. Ông sợ quá khứ, kỷ niệm, hồi nhớ, những ngôi mộ bị đào bới. Sợ sự yếu đuối của ông. Sợ hủy diệt những gì ông đã làm được, với quá khứ của ông, trong thi ca của ông. Ông sợ mất nó như Orpheus đã từng vĩnh viễn mất Eurydice, khi ngoái cổ nhìn lại.

Mỗi lần từ Nga trở về, hành trang của Tolstaya chật cứng những bản thảo của những thi sĩ, văn sĩ trẻ. "Cũng không nặng gì lắm đâu. Xin trao tận tay thi sĩ. Nói ông ta đọc. Tôi chỉ cần ông ta đọc". Ông đã đọc, đã nhớ và đã nói, thơ của họ tốt... Và ca ngợi điều may mắn. Và những nhà thơ trẻ của chúng ta đã hất hất cái đầu, ra vẻ: "Thực sự, chỉ có hai nhà thơ thứ thiệt tại Nga, Brodsky và chính tôi". Ông tạo nên một cảm tưởng giả, ông là một thứ ‘Bố già văn nghệ’. Nhưng chỉ một số ít ỏi thi sĩ trẻ đã từng nghe ông rên rỉ: Sau cái thứ này, tôi biết anh ta vẫn tiếp tục viết, nhưng làm sao anh ta tiếp tục sống!
Ông không tới với nước Nga, nhưng nước Nga đến với ông. Nhà thơ Nga kỳ cục không muốn bám rễ vào đất Nga.
Kỳ cục thật, bởi vì đã từ lâu, thế hệ lạc loài được Hemingway mô tả trong Mặt Trời Vẫn Mọc, The Sun Also Rises vẫn luôn luôn là một ám ảnh đối với những kẻ bị bứng ra khỏi đất. Nếu không trở nên điên điên, khùng khùng thì cũng bị thương tật, (bất lực như nhân vật chính trong Mặt Trời Vẫn Mọc), bị bệnh kín (La Mort dans l'Âme: Chết trong Tâm hồn), và chỉ là những kẻ thất bại. Đám Cộng sản trong nước chẳng vẫn thường dè bỉu một nền văn chương hải ngoại? 

Nhưng Brodsky là một ngoại lệ. Nước Nga đã đến với ông. Thơ ông được xuất bản, đăng tải trên hầu hết các báo chí tại Nga. Trong một cuộc thăm dò dư luận tại đường phố Moscow: "Ông có mong ước, hy vọng gì liên quan đến cuộc bầu cử?", một người thợ mộc đã trả lời: "Tôi chỉ mong sống một cuộc đời riêng tư. Như Joseph Brodsky".

-Ai chỉ định anh là thi sĩ?

Đám Cộng sản Liên-xô đã từng hét vào mặt ông như vậy tại phiên tòa. Họ chẳng thèm để ý đến những tài liệu, giấy tờ chứng minh từng đồng kopech ông có được qua việc sáng tác, dịch thuật thi ca.
-Tôi nghĩ có lẽ ông Trời.
Được thôi. Và tù đầy, lưu vong.

Neither country nor churchyard will I choose
I'll come to Vasilevsky Island to die
(Xứ sở làm chi, phần mộ làm gì
Ta sẽ tới đảo kia để chết) 

In the dark I won't find your deep blue facade
I'll fall on the asphalt between the crossed lines.
(Trong đêm tối thấy đâu, gương mặt em thăm thẳm xanh, xưa
Ta gục xuống nhựa đường đen, giữa những lằn đan chéo).
Những lằn đan chéo, the crossed lines, hay rõ hơn, bờ ranh Nga Mỹ phân biệt số phận hai mặt của một kẻ ăn đậu ở nhờ.

-Này thi sĩ, nếu ông muốn về không ngựa trắng mà cũng chẳng cần đám đông reo hò, ngưỡng mộ, tại sao ông không về theo kiểu giấu mặt?
-Giấu mặt?
Đột nhiên thi sĩ hết tức giận, và cũng bỏ lối nói chuyện khôi hài. Ông chăm chú nghe.
-Thì cứ dán lên một bộ râu, một hàng ria mép, đại khái như vậy. Cần nhất, đừng nói cho bất cứ một người nào. Và rồi ông sẽ dạo chơi giữa phố, giữa người, thảnh thơi và chẳng ai nhận ra ông. Nếu thích thú, ông có thể gọi điện thoại cho một người bạn từ một trạm công cộng, như thể ông từ Mỹ gọi về. Hoặc gõ cửa nhà bạn: "Tớ đây này, nhớ cậu quá!"
Giấu mặt, tuyệt vời thật!

 
****

 Joseph Huỳnh Văn là một thi sĩ. Chúng tôi quen nhau những ngày làm Tập san Văn chương. Có Nguyễn Tử Lộc, đã chết vì bệnh tại Sài-gòn ít lâu sau 75. Phạm Hoán, Phạm Kiều Tùng, Nguyễn Đạt, Nguyễn Tường Giang... Huỳnh Văn là Thư ký Tòa soạn. Không có Phạm Kiều Tùng, tập san không có một ấn loát tuyệt hảo. Nguyễn Đông Ngạc khi còn sống vẫn tự hào về cuốn Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta (Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam) do anh xuất bản, Phạm Kiều Tùng, Phạm Hoán lo in ấn, trình bày. Bạn lấy đầu một cây kim chấm một đầu trang. Dấu chấm đó sẽ xuyên suốt mọi đầu trang thường của cuốn sách. Không có Nguyễn Tường Giang thì không đào đâu ra tiền và mối thiện cảm, độc giả, thân hữu quảng cáo dành cho tập san. Những bài khảo luận của Nguyễn Tử Lộc và sở học của anh chiết ra từ những dòng thác ngầm của nhân loại - dòng văn chương Anglo-Saxon - làm ngỡ ngàng đám chúng tôi, những đứa chỉ mê đọc sách Tây, một căn bệnh ấu trĩ nhằm tỏ sự khó chịu vì sự có mặt của những quân nhân Hoa-kỳ tại Miền Nam. 

Huỳnh Văn với lối nói mi mi tau tau là chất keo mà một người Thư ký Tòa soạn cần để kết hợp anh em. Bây giờ nghĩ lại chính thơ anh mới là tinh thần Tập San Văn Chương. Đó là nơi xuất hiện Cầm Dương Xanh , những bài thơ đầu mà có lẽ cũng là cuối của anh. Bởi vì sau đó, anh không đăng thơ nữa, tuy chắc chắn vẫn làm thơ, hoặc tìm thấy thơ trên những vân gỗ, khi anh làm nghề thợ mộc, những ngày sau 75, thay cho nghề bán cháo phổi, những ngày trước đó. 

"Mỗi thời đại, con người tự chọn mình khi đứng trước tha nhân, tình yêu, và cái chết." (Sartre, Situations). Trong thơ Nguyễn Bắc Sơn, tha nhân là những người ở bên kia bờ địa ngục, và chiến tranh chỉ là một cuộc rong chơi. Nguyễn Đức Sơn tìm thấy Cửa Thiền ở một nơi khác, ở Đêm Nguyệt Động chẳng hạn. Thanh Tâm Tuyền muốn trút cơn đau của thơ vào thiên nhiên:

Mùa này gió biển thổi điên lên lục địa...

Còn Huỳnh Văn, có vẻ như anh chẳng màng chi đến cuộc chiến, hoặc cuộc chiến tránh né anh. Tinh thần mắt bão của thiên nhiên thời tiết, hay tinh thần mắt nghe, l'oeil qui écoute, của Maurice Blanchot? 

Ôi khúc Cầm Dương sầu quí phái
Đàn ai xanh ngát Trời Tây Phương.

Thơ anh là một ngạc nhiên, hồi đó.
Và tôi vẫn còn ngạc nhiên, bây giờ, khi được tin anh mất. (2)

Khi liên tưởng đến câu thơ của một người bạn:
Hồn Đông Phương thất lạc buồn Phương Tây
(thơ TKA)

Tôi không biết có phải Trời Tây Phương của anh lấy từ ý thơ cổ:
Vọng Mỹ Nhân hề, thiên nhất phương

(Có thể mượn ý niệm "con người hoàn toàn" (l'homme total), hay giấc đại mộng của Marx, làm nhịp cầu liên tưởng, để thấy rằng những Mỹ Nhân, Đấng Quân Vương, Thánh Chúa... trong thi ca Đông Phương không hẳn chỉ là những giấc mộng điên cuồng của thi sĩ):

Vọng Mỹ nhân hề, thiên nhất phương
Vọng Mỹ nhân hề, vị lai

Đọc trong nước, có vẻ như Thơ đang trên đường đi tìm một Mỹ nhân cho cả ngôn ngữ lẫn cuộc đời.

Và Buồn Phương Tây, có thể từ ý thơ Quang Dũng:

Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
(Tây Phương trong thơ Quang Dũng là Tây Phương Cực Lạc của một cõi Chùa Thầy, Sơn Tây, và cũng còn là vẻ đẹp của các cô thiếu nữ vùng này).

Hay Tây Phương là cõi lưu đầy của lũ chúng tôi mà Joseph Huỳnh Văn đã nhìn thấy từ bao năm trước:

Khuya nức nở những cõi lòng không ngủ
Đợi vì sao dậy sớm tiễn người đi. 

-Tau đây này. Nhớ mi quá!

Nguyễn Quốc Trụ

(2) Joseph Huỳnh Văn Hiến mất ngày 20/2/1995 tại Sài Gòn.

Kỷ niệm với nhà thơ.

*

Hai bạn Nga & Chất


Having sampled two oceans as well as continents,
 I feel that I know what the globe itself must feel: there's no where to go.
 Elsewhere is nothing more than a far-flung strew  of stars, burning away.

Đã nếm trải hai đại dương cũng như hai lục địa
 Tôi cảm thấy rằng, tôi biết được, chính trái đất này phải cảm nhận như thế nào:
 Không có nơi nào để mà thoát cả.  
Bất kỳ đâu đâu, có khác gì một chùm sao xa xăm tắt lịm dần.

Khi được hỏi ông nghĩ gì về những năm tháng tù đầy, Brodsky nói cuối cùng ông đã vui với nó. Ông vui với việc đi giầy ủng và làm việc trong một nông trại tập thể, vui với chuyện đào xới. Biết rằng mọi người suốt nước Nga hiện cũng đang đào xới "cứt đái", ông cảm thấy cái gọi là tình tự dân tộc, tình máu mủ.
Brodsky

Thơ làm khi đi nuôi cá


Gánh cỏ trên vai thơ trong đầu
Trời chớm thu hạ muờng tượng hồng au
Tung hê cỏ vụn trên hồ vắng
Băm nát tình si đều nhịp dao.

[Yên Báy. Bắc Việt]

Thanh Tâm Tuyền

Thu 2014

*

Comme la vie est lente
Et comme l'Espérance est violente (1)

How violently flowers fade.
How awfully slow life is.

Lá thu vàng mới hung bạo làm sao
Đời lừng khừng mới chán chường thế nào!

Robert Melancon

French, born 1947

AUGUST

I wander beneath the serenity
of the moon as it withdraws
its stars from the night. A shadow
goes with me in which I do not
know myself. Only these trees
nearest to me, the grass, the washed darkness
exist. A cry
of a night jar, the murmur of leaves.
Summer consents absently to the night.

BLIND PAINTER [XI]

January can give this grove
the appearance of a colonnade.
The fall of the leaves creates
a felicitous labyrinth, an architecture
to which only the light comes.
But you should not linger
in this metaphorical palace
old as language. Here are trees
all waiting to be named.
None looks like any other.
They will not consent to be reduced
To the mere concept of a forest

THE LOVER [IX]

As long as the snow lights the winter
as long as the day alternates
with the night that pursues and flees it
as long as the streets fill with sounds
and as long as the Saint Lawrence flows between
its banks without waiting for anything
with Montreal passing upside down in
its mists I will be yours.
But we will pass like the snow
like the light and the darkness
with this city and its river
which will flow long after us
as though we had never been.

1990s

Translated by W.S. Merwin
Thơ Mỗi Ngày

ODE WRITTEN IN 1966  

No one is the homeland. Not even the rider
High in the dawn in the empty square,
Who guides a bronze steed through time,
Nor those others who look out from marble,
Nor those who squandered their martial ash
Over the plains of America
Or left a verse or an exploit
Or the memory of a life fulfilled
In the careful exercise of their duties.
No one is the homeland. Nor are the symbols.

No one is the homeland. Not even time
Laden with battles, swords, exile after exile,
And with the slow peopling of regions
Stretching into the dawn and the sunset,
And with faces growing older
In the darkening mirrors,
And with anonymous agonies endured
All night until daybreak,
And with the cobweb of rain
Over black gardens. 

The homeland, friends, is a continuous act
As the world is continuous. (If the Eternal
Spectator were to cease for one instant
To dream us, the white sudden lightning
Of his oblivion would burn us up.)
No one is the homeland, but we should all
Be worthy of that ancient oath
Which those gentlemen swore-
To be something they didn't know, to be Argentines;
To be what they would be by virtue
Of the oath taken in that old house.
We are the future of those men,
The justification of those dead.
Our duty is the glorious burden
Bequeathed to our shadow by those shadows;
It is ours to save.

No one is the homeland-it is all of us.
May that clear, mysterious fire burn
Without ceasing, in my breast and yours.

J.L. Borges

[Translated by W. S. Merwin]

Bài “Ode” viết năm 1966

Chẳng ai là quê hương, đất mẹ, quê cha.
Ngay cả cái tên kỵ mã
Sừng sững trong rạng đông, trong cái ô vuông trống rỗng
Kẻ dẫn dắt con chiến mã đồng qua thời gian
Cũng không, là những kẻ từ mớ cẩm thạch, hoa cương nhìn ra
Cũng không, là những kẻ hoang phí tro than chiến trận của họ
Trên những cánh đồng Mỹ Châu
Hay để lại một câu thơ, hay một kỳ công
Hay hồi ức của một đời được hoàn tất
Bằng 1 thực thi kỹ lưỡng, những bổn phận của họ
Chẳng ai là quê nhà. Những biểu tượng cũng không.

Không ai là quê nhà. Ngay cả thời gian
Chất đầy những trận đánh, gươm đao, lưu vong tiếp theo lưu vong,
Và với những con người, trải dần qua những vùng, miền
Vươn tới rạng đông, vươn vào hoàng hôn
Và với những bộ mặt cằn cỗi dần, già dần
Trong những tấm gương tối dần
Và với những cơn hấp hối vô danh  kéo dài
Và với lưới mưa đan
Trên những khu vườn đen

Quê nhà, bạn ơi, là một hành động liên tục
Như thế giới liên tục ( Giả như Tên Khán Giả Vĩnh Viễn ngưng 1 khoảnh khắc
Để mơ tưởng chúng ta, thì cái tia sáng bất thình lình trắng
Của niềm lãng quên của hắn ta, sẽ đốt cháy bùng chúng ta.)
Chẳng ai là nhà, nhưng tất cả chúng ta sẽ thật xứng đáng với lời thề xa xưa
Mà những tên phong lưu, tài tử phong nhã, đã từng thề -
Trở thành một điều gì chúng không biết, Trở thành… Ác hen ti na.

THE ORTHODOX LITURGY

Deep voices beg insistently for mercy
and have no self-defense
beyond their own glorious singing-though no one
is here, just a disc spinning
swiftly and invisibly.

One soloist recalls the voice
of Joseph Brodsky reciting his poems
before Americans, unconvinced
by any sort of resurrection,
but glad that somebody believed.

It's enough-or so we think-
that someone believes for us.

Low voices still sing.
Have mercy on us.
Have mercy on me too,
unseen Lord.

Adam Zagajewski: Eternal Enemy

Liturgy chính thống giáo

Những giọng sâu, không tự vệ, cầu nài khoan dung
Quá tiếng hát chiến thắng của chính họ - Mặc dù,
Chẳng có ai ở đây
Chỉ là cái dĩa quay nhẹ nhàng, vô hình.

Một giọng đơn, làm nhớ giọng nhà thơ Joseph Brodsky
Đọc thơ của ông
Trước đám Mẽo, đếch tin tưởng
Bất cứ thứ gì được gọi là tái sinh
Nhưng hài lòng, khi có một ai đó, tin.
Vậy là OK rồi – thì chúng ta cứ nghĩ như thế cho tiện việc sổ sách
Rằng có kẻ nào đó tin giùm cho chúng ta 

Những giọng thấp vưỡn hát
Hãy rủ lòng khoan dung lên chúng tớ

Hãy rủ lòng khoan dung
Lên cả Gấu Cà Chớn nữa nhé,
Ui, những bạn bè Ky Tô của Gấu!

Ui, Chúa Ky Tô chẳng ai nhìn thấy!


IMPROVISATION

First you take the world's whole weight on yourself
and make it light, bearable.
Toss it on your shoulders
like a backpack and take to the road.
Best at evening, in the spring, when
trees breathe peacefully and the night promises
to be fine, in the garden elm branches crackle.
The whole weight? Blood and ugliness? Can't be done.
A taste of bitterness always stays in the mouth
and the contagious despair of the old woman
you saw yesterday in the tram.
Why lie? Rapture, after all,
lives only in imagination and quickly vanishes.
Improvisation-always just improvisation,
we know nothing else, small or large-
in music, when the jazz trumpet weeps gaily,
or when you look at a white sheet of paper
or also when you flee
from sorrow and open a favorite book of poems,
the telephone usually rings right then
and someone asks, would you consider, sir or ma'am,
our latest models? No, thank you.
Grayness and monotony remain; mourning
that the finest elegy can't heal.
Perhaps, though, there are hidden things before us
and in them sorrow blends with enthusiasm,
always, daily, like the birth of dawn
on the seashore, or no, hold on,
like the happy laughter of the two little altar boys
in white surplices, on the corner of Jan and Mark,
remember?

Adam Zagajewski: Unseen Hand

Ứng Tác

Trước hết, bạn để trọn sức nặng của thế giới lên chính bạn
Và làm cho nó nhẹ, chịu đựng được
Quẳng nó lên vai bạn
Như cái túi và lên đường
Tốt nhất là vào buổi chiều, mùa xuân, khi
Cây thở bình an và đêm hứa hẹn rằng thì là
OK, có thể hơn OK nữa đấy, ở ngoài vườn, cành lá lách tách, lách tách.
Trọn sức nặng? Máu và sự xấu xí? Hơi bị khó đấy, không nổi đâu.
Một tí mùi vị của cay đắng luôn đọng ở miệng
Và cái nỗi chán ngán gây lây, làm nhiễm
Của bà già bạn gặp hôm qua, trên xe điện
Tại sao phải nói dối cơ chứ? Nỗi mê ly, sảng khoái, cái cực bảnh, nói cho cùng
Thì chuồn nhanh lắm
Và luôn cư ngụ ở miền tưởng tượng.
Ứng tác – Luôn luôn chỉ là ứng tác
Chúng ta đâu biết gì hơn, nhỏ hay lớn –
Trong âm nhạc, khi cây kèn Jazz khóc vui,
Hay là khi bạn nhìn tờ giấy trắng
Hay là khi bạn bỏ chạy
Khỏi nỗi buồn và mở ra 1 tập thơ
Điện thoại bèn reo, đúng vào lúc đó
Và một người nào đó nói, nè, có kiểu xịp mới tinh nè, có tính coi không?
Không, cám ơn bà!
Xám xịt và buồn tênh dài dài 1 điệu, cứ còn hoài,
Than thở rằng
Bi khúc bảnh nhất thì cũng không thể nào chữa lành.
Có lẽ, tuy nhiên có những điều ẩn giấu trước chúng ta
Và trong chúng, nỗi buồn dính lẹo với hào hứng
Luôn luôn, hàng ngày, như rạng đông nở ra
Ở bờ biển, hay là, không, chờ chút, giữ máy
Như tiếng cười hạnh phúc của hai chú bé giúp lễ
Trong áo tế thụng, trắng, ở góc Jan và Mark,
Nhớ chứ?

22/01/2010

Tôi được đọc bài thơ "Biển" của ông trong Tin Văn, nó làm cho tôi thấy buồn quá.
Xin gởi tặng ông hình của "tôi" bên bờ biển, như một lời chào.
Trang Tin Văn của ông thật bổ ích và thú vị. Chỉ có điều tôi không biết cái index, map của website Tin Văn như thế nào, vì trong "Nhật Ký" chỉ lưu từ 2003 đến 2007, mong ông chỉ cho. Tôi nhiều khi bị lạc vì các ngã ba ngã tư trong bài, nhưng lại bắt gặp thêm nhiều kỳ thú.
Chân thành cảm ơn ông.

H/A

*

Mới đó mà 4 niên rồi!
Take Care
 

Bin

Bui chiu đng trên bãi Wasaga
Nhìn h
Georgian
C
nghĩ thm bên kia là quê nhà. 

Sóng đy bin lên cao, khi xung kéo theo mt tri
Không gian b
ng đ rc ri đêm ti trùm lên tt c

Cát đây được con người ch t đâu ti
Còn ta b
quê hương rung b nên phi đng chn này

S phn còn thua ht cát. 

Hàng cây trong công viên bên đường nh rng
Cùng thi nhau v
ươn cao như mun trút hết ni bun lên tri 

Ch còn ta cô đơn ln vào đêm
Như con hi âu già
Giu chút tình su
Vào li thì thm ca bin...

Thơ Mỗi Ngày

ODE WRITTEN IN 1966  

No one is the homeland. Not even the rider
High in the dawn in the empty square,
Who guides a bronze steed through time,
Nor those others who look out from marble,
Nor those who squandered their martial ash
Over the plains of America
Or left a verse or an exploit
Or the memory of a life fulfilled
In the careful exercise of their duties.
No one is the homeland. Nor are the symbols.

No one is the homeland. Not even time
Laden with battles, swords, exile after exile,
And with the slow peopling of regions
Stretching into the dawn and the sunset,
And with faces growing older
In the darkening mirrors,
And with anonymous agonies endured
All night until daybreak,
And with the cobweb of rain
Over black gardens. 

The homeland, friends, is a continuous act
As the world is continuous. (If the Eternal
Spectator were to cease for one instant
To dream us, the white sudden lightning
Of his oblivion would burn us up.)
No one is the homeland, but we should all
Be worthy of that ancient oath
Which those gentlemen swore-
To be something they didn't know, to be Argentines;
To be what they would be by virtue
Of the oath taken in that old house.
We are the future of those men,
The justification of those dead.
Our duty is the glorious burden
Bequeathed to our shadow by those shadows;
It is ours to save.

No one is the homeland-it is all of us.
May that clear, mysterious fire burn
Without ceasing, in my breast and yours.

J.L. Borges

[Translated by W. S. Merwin]

THE ORTHODOX LITURGY

Deep voices beg insistently for mercy
and have no self-defense
beyond their own glorious singing-though no one
is here, just a disc spinning
swiftly and invisibly.

One soloist recalls the voice
of Joseph Brodsky reciting his poems
before Americans, unconvinced
by any sort of resurrection,
but glad that somebody believed.

It's enough-or so we think-
that someone believes for us.

Low voices still sing.
Have mercy on us.
Have mercy on me too,
unseen Lord.

Adam Zagajewski: Eternal Enemy

Note: Lâu lắm mới vớ được 1 bài của Adam Zagajewski, hình như chưa dịch. 

Tuyệt!

WAR

Old age in the towns.
The heart without an owner.
Love without any object.
Grass, dust, crow.
And the young ones?

In the coffins.

The tree alone and dry.
Women like a stick
of widowhood across the bed.
Hatred there is no cure for.
And the young ones?

In the coffins.

MIGUEL HERNANDEZ

translated by Hardie St. Martin

The Rag and Bone Shop of the Heart: A Poetry Anthology

Robert Bly, James Hillman, and Michael Meade Editors

Chiến Tranh

Tuổi già trong thành phố
Trái tim không có chủ
Êu không đối tượng
Cỏ, bụi, quạ
Thanh niên đâu rồi?

Ở trong hòm

Cây trơ, khô
Đờn bà như cây gậy
Của góa phụ, bên kia giường
Thù hận làm gì có thuốc trị
Thanh niên đâu?

Trong quan tài.

 

FAITH

The word Faith means when someone sees
A dew-drop or a floating leaf, and knows
That they are, because they have to be.
And even if you dreamed, or closed your eyes
And wished, the world would still be what it was,
And the leaf would still be carried down the river.

It means that when someone's foot is hurt
By a sharp rock, he also knows that rocks
Are here so they can hurt our feet.
Look, see the long shadow cast by the tree;
And flowers and people throw shadows on the earth:
What has no shadow has no strength to live.

CZESLAW MILOSZ

translated by Robert Hass
and Robert Pinsky with Renata Gorczynski

Niềm tin

Cái từ Niềm Tin này thì có nghĩa
Khi kẻ nào đó nhìn thấy một hạt sương rơi hay một cái lá bay la đà
Thì bèn phán rằng, chúng thế đó, bởi là vì chúng phải như thế đó.
Và ngay cả nếu bạn nằm mơ, hay nhắm mắt
Và ước muốn, thế này, thế nọ, thì thế giới sẽ vưỡn cứ là thế giới
Và cái lá sẽ trôi theo giòng nước, về nơi cuối trời!

Nó có nghĩa,
Khi chân bạn bị đau,
Bởi một hòn đá,
Bạn biết liền tù tì là hòn đá có đó là để chơi cho bạn 1 phát!
Coi kìa, cây đổ xuống thành cái bóng dài
Hoa & Em thả bóng xuống mặt đường
Cái gì không có bóng thì đếch có sức lực để mà sống. 

Gấu đọc bài thơ trên, thì bèn nhớ ra bài viết dưới đây:

Người Về

Câu thơ "Muời năm còn quen ngồi một mình trong bóng tối" làm nhớ một chi tiết về một nhà thơ trong nhóm Nhân Văn, [không nhớ là ai, NMG có nhắc tới trong một số Văn Học], ông quen ngồi một mình đến nỗi bóng in lên tường, thành một cái vệt, thời gian không làm sao xóa mờ.
Nếu như thế, một người quen ngồi một mình trong bóng tối, cái bóng của người đó in lên tường mới khủng khiếp làm sao.

FAITH

The word Faith means when someone sees
A dew-drop or a floating leaf, and knows
That they are, because they have to be.
And even if you dreamed, or closed your eyes
And wished, the world would still be what it was,
And the leaf would still be carried down the river.

It means that when someone's foot is hurt
By a sharp rock, he also knows that rocks
Are here so they can hurt our feet.
Look, see the long shadow cast by the tree;
And flowers and people throw shadows on the earth:
What has no shadow has no strength to live.

CZESLAW MILOSZ

translated by Robert Hass
and Robert Pinsky with Renata Gorczynski

Gấu đọc bài thơ trên, thì bèn nhớ ra bài viết dưới đây:

Người Về

Người về từ cõi ấy
Vợ khóc một đêm con lạ một ngày

Người về từ cõi ấy
Bước vào cửa người quen tái mặt 

Người về từ cõi ấy
Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy

Một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui
Hai năm còn mộng toát mồ hôi

Ba năm còn nhớ một con thạch thùng
Mười năm còn quen ngồi một mình trong tối 

Một hôm có kẻ nhìn trân trối
Một đêm có tiếng bâng quơ hỏi 

Giật mình,
một cái vỗ vai

Hoàng Hưng

Gấu nhớ, trong Gulag, có một đoạn Solz tả, về cái cảm giác giữa những người đã từng ở Gulag, và sau đó, được trả về đời. Họ nhận ra nhau ngay, giữa phố đông người. Chỉ ánh mắt gặp nhau, là biết liền đằng ấy và tớ đã từng ở trong đó.
Gấu mê nhất, câu "Một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui".
Nhưng cũng lạ nhất, tò mò nhất, là cái thời gian "một năm sau".
*
Bài thơ của Hoàng Hưng, như được biết, là một trong 100 bài thơ hay. Không hiểu thi sĩ có tiên tri ra được cái sự bí nhiệm của con số hay không, nhưng có vẻ như ông rất quan tâm đến nó, chỉ để "đếm" thời gian: vợ khóc 'một' đêm. con lạ 'một' ngày. Một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui, hai năm sau còn toát mồ hôi. Năm năm, muời năm... một hôm, một đêm...
Liệu tất cả những cân đo đong đếm đó, là để qui chiếu về câu: Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại?
Câu này, lại trở thành một ẩn dụ, nếu so cảnh tại ngoại của ông, như được miêu tả trong bài thơ:
Có vẻ như cái cảnh trở về đời kia, vẫn chỉ là, tù trong tù.

Tuy nhiên, khi đọc như thế, có vẻ như hạ thấp bài thơ.

Bài thơ Hoàng Hưng bảnh hơn cách đọc đó nhiều. Có cái vẻ thanh thoát, vượt lên trên tất cả của nhà thơ. Đây cũng là điều nhân loại tìm đọc Gulag của Solz: Cái thái độ đạo đức, nhân bản của tác phẩm và của tác giả, mới bảnh làm sao. (1)

(1)

The book was also written as a treatise on the subject of survival. The tone had been set in Solzhenitsyn's first published masterpiece, One Day in the Life of Ivan Denisovich (not included in The Solzhenitsyn Reader). Unlike another genius writing in this genre, Varlam Shalamov  (a kind of Russian Primo Levi), who had exposed the prison camp as an unmitigated hell where man is stripped of any vestige of humanity, Solzhenitsyn's narrative is a moral fable of  the condemned soul seeking, in the grueling  experience of prison life, the light of spiritual rejuvenation. It gave hope. This was another reason why his writing was such a huge success in the West.
Giọng kể của Solz là một thứ đạo đức kinh của một linh hồn bị đọa đầy tìm mong sự cứu cuộc, mặc khải, tái sinh, "trẻ mãi không già".(1)
Nó đem đến hy vọng.


(1) Đọc văn chưa thấy già, cho dù, nghe nói, sắp xuống lỗ.
[Đa tạ. NQT]

The Solz. Reader

Câu thơ "Muời năm còn quen ngồi một mình trong bóng tối" làm nhớ một chi tiết về một nhà thơ trong nhóm Nhân Văn, [không nhớ là ai, NMG có nhắc tới trong một số Văn Học], ông quen ngồi một mình đến nỗi bóng in lên tường, thành một cái vệt, thời gian không làm sao xóa mờ.

Nếu như thế, một người quen ngồi một mình trong bóng tối, cái bóng của người đó in lên tường mới khủng khiếp làm sao. Không ai có thể nhìn thấy nó, để mà hỏi thử, thời gian, khi nào xoá mờ!


THE GUEST

Everything's just as it was: fine hard snow
beats against the dining room windows,
and I myself have not changed:
even so, a man came to call.

I asked him: "What do you want?"
He said, "To be with you in hell."
I laughed: "It seems you see
plenty of trouble ahead for us both."

But lifting his dry hand
he lightly touched the flowers.
"Tell me how they kiss you,
tell me how you kiss."

And his half-closed eyes
remained on my ring.
Not even the smallest muscle moved
in his serenely angry face.

Oh, I know it fills him with joy-
this hard and passionate certainty
that there is nothing he needs,
and nothing I can keep from him.

1 January 1914

ANNA AKHMATOVA

translated by Jane Kenyan and Vera Dunham

Người khách

Mọi thứ vũ như cẩn: Tuyết nặng đẹp
Đập lên cửa sổ phòng ăn
Và tôi, chính tôi, chẳng thay đổi
Ngay cả thế, chàng tới

Tôi hỏi: Chàng muốn gì?
Ta muốn cùng với em, ở địa ngục
Tôi cười: Có vẻ như chàng nhìn ra
Đầy tai ương trước đôi ta

Nâng bàn tay khô
Chàng chạm nhẹ những bông hoa,
Hãy nói cho ta biết, chúng hôn em như thế nào
Và như thế nào, em hôn

Và mắt chàng, nhắm một nửa
Đọng trên nhẫn của tôi
Không một thớ thịt, dù nhỏ nhặt đến cỡ nào, cử động
Trên khuôn mặt thanh thoát giận dữ

Ôi chao tôi biết, nó làm chàng tràn đầy niềm vui –
Điều chân xác đam mê, gay gắt
Rằng, chẳng có gì, chàng cần
Và, chẳng có gì tôi giữ được cho riêng mình, đối với chàng.

 
An ủi

Ví thử luân hồi là có thật
Ta về soi lại vạn kiếp xưa
Xem thử kiếp nào ta gây tội
Mà đeo nhau mãi đến bây giờ 

Biết đâu ta từng là bọ ngựa
Cắn cổ người tình lúc giao hoan
Kiếp này tạ tội ngàn đêm lẻ
Trả từ ngọn tóc đến bàn chân 

Hay trước ta là tù giữ ngục
Hành nhau đến ma dại thân tàn
Kiếp này tha mãi từng sợi cỏ
Tự kết cho mình chiếc lồng son

Thản hoặc trước ta là con nhện
Chiều chiều sau ngõ cứ giăng tơ
Kiếp này gom hết bao mầu sắc
Dệt cho người hạnh phúc như mơ

Hoặc giả ta là sam thuở trước
Thảo nào thấy trông trống trên lưng
Nhìn quanh cả biển người trùng điệp
Chỉ lụy một người, có lạ không

Thôi thế kiếp này ta tu nhé
Không hờn, không oán, chỉ cười vui
Đừng trách, đừng buồn, đừng kể lể
Mai sau làm mây trắng ven trời

Đặng Lệ Khánh

Nancy Jane

Grandma laughing on her deathbed.
Eternity, the quiet one, listening in.

Like moths around an oil lamp we were.
Like rag dolls tucked away in the attic.

In walked a cat with a mouthful of feathers.
(How about that?)

A dark little country store full of gravediggers' children
    buying candy.
(That's how we looked that night.)

The young man pumping gas spoke of his friends: the clouds
It was such a sad story, it made everyone laugh.

A bird called out of a tree, but received no answer.

The beauty of that last moment
Like a red sail on the bay at sunset,

Or like a wheel breaking off a car
And roaming the world on its own.

Charles Simic

 

Nancy Jane

Người bà cười khằng khặc trên giường chết
Vĩnh cửu, thứ trầm lặng, xin nhập vô, cùng lắng nghe

Lũ chúng ta
Như bướm đêm xúm quanh cây đèn dầu
Như búp bế rách bị thẩy vô căn gác xép

Dạo với chú mèo mồm đầy lông
[Thế là thế lào?]

Tiệm nhỏ, miền quê, tối thui, đầy đám con nít của những người đào mồ
Mua kẹo
(Đêm đó, chúng ta giống như lũ con nít đó)

Chàng thanh niên cây xăng tán gẫu với bạn: Những đám mây
Một câu chuyện buồn, như thế đó, và nó làm mọi người cười

Chim ới cây
Cây đếch trả lời

Cái đẹp của khoảnh khắc sau cùng đó
Như cánh buồm đỏ ra khơi vào lúc mặt trời lặn

Hay như cái bánh xe vuột ra khỏi cái xe
Và dong chơi thế giới, mình ên.


NHÀ THƠ

Không nên trách các nhà thơ là ngây thơ. Không ngây thơ, khó có ai có thể làm thơ vào thời buổi bây giờ, khi mọi người, nói chung, đều rất ít ngây thơ. Chức năng của thơ là để cứu rỗi, phần nào, sự ngây thơ ấy. Để tâm hồn con người, có thêm chút hoa và chút hương, đẹp hơn. — with Tuan Nguyen

FB Thầy Kuốc

Cần phải phân biệt, theo GCC, giữa thơ và sự ngây thơ. Gấu nghi là Thầy Kuốc coi giống nhau. Và có thể cũng nghĩ như thế, cho nên Mít rất ghét thứ thơ gọi là thơ trí tuệ. Ngây thơ mà…  trí tuệ sao được, hà hà!

Đọc thêm bài viết của THQ, gửi Thầy Kuốc thì rõ ra vấn đề, cả hai ông đều chưa từng làm thơ. Viết về thơ, dịch về thơ, có thể, nhưng chưa từng làm thơ.
Bạn phải làm thơ, thì mới hiểu được chức năng của nó, không phải để cứu rỗi, dù phần nào, sự ngây thơ. Làm thơ theo GCC là để thoả mãn cơn thèm làm thơ đến phát….  khóc lên được, sự tình có lẽ chỉ giản dị như thế!

Gấu xuống phố, trả phim, ghé sạp báo Tẩy, hoá ra là ngày cuối, mai dẹp. Thế là bèn bị mấy anh phóng viên & bộ sậu, đi một đường phỏng vấn… bằng tiếng Tẩy, tất nhiên, mi có thèm, có nhớ tiếng Tây không, một khi sạp dẹp!
Buồn, làm sao không. Bèn chơi hai tờ chót, và bèn ghé tiệm sách Hồng Mao, Indigo, chơi thêm hai cuốn thơ.
Về.
Đọc lại cái status của Thầy Kuốc, thấy Thầy delete bài của THQ [Trương Hồng Quang, một tay hay viết cho talawas ngày nào] mất rùi!
Chán thế.

Cái sự thèm làm thơ đến phát khóc, một nữ thi sĩ đã diễn tả bằng những dòng, “trong túi luôn có 1 bài thơ đang làm dở”, và nếu như thế, là để giải đáp liền tức thời, hứng thơ bất thình lình vọt ra!

Trong bài tưởng niệm Mai Thảo, TTT đã lấy ý câu của Holderlin, “Tại sao thi sĩ, trong thời điêu linh khốn khổ”, để vinh danh bạn mình, và mình nữa tất nhiên [trong thơ tôi có thơ anh], điều này cho thấy, đây là 1 đề tài lớn – “tôi như người chợt tỉnh sau giấc hôn thuỵ” - không phải chuyện đùa.
Viết về thơ vào thời điểm này, là bắt buộc phải viện tới hai câu khủng nhất về nó. Một, "Tại sao thi sĩ trong thời khốn kiếp", của Holderlin, mà Heidegger dùng làm tựa đề cho bài viết thần sầu của ông về thơ và về Rilke, mà ông coi là thi sĩ của Đêm Đen [Đêm Thiêng]. Và câu của Adorno, Làm thơ sau Lò Thiêu thì thật là Man Rợ.
Tin Văn sẽ đi bài này, để…  ăn mừng SN của GCC!

Hà, hà!

Trong Đất Trời Nhau....

Trong nhiều năm anh viết văn, bằng lòng làm nhà văn, không làm thơ. Trên Sáng Tạo chỉ một lần anh đăng hai bài thơ ngắn – Nghe Đất, Ý Thức – cũng ký tên Nhị. Cả ba bài thơ của thời trẻ này được giữ lại trong tập Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền gồm những bài thơ anh làm sau ngày anh bắt buộc phải lìa bỏ Sàigòn. Chẳng rõ anh Khánh có tìm thấy những trang thảo để lại trên bàn viết của Anh bài thơ nào sót không? Câu thơ trích làm nhan cho bài viết này lấy từ một bài thơ anh gửi tôi khi tôi còn ở nhà sau chuyến đi Bắc.
Người Việt rồi Sáng Tạo, anh viết truyện ngắn, tùy bút, lý luận… Những bài tùy bút như Phương Sao, Tiếng Còi Trên Sông Hồng đánh dấu một bước mới mẻ của câu văn Việt. Tuy nhiên, đối với tôi, anh lúc nào cũng là một thi sĩ cho dù anh không làm thơ.
Đầu năm 78, ở Lao Kay lần đầu tiên nhận được thơ nhà, biết tin anh đi xa. (Vợ tôi viết: “Bố nuôi của Thái về quê ngoại sống, không ở Sàigòn nữa”) tôi như người chợt tỉnh sau giấc hôn thuỵ. Bài Nhớ Thi  Sĩ viết vào lúc ấy đề tặng một thi sĩ đã mất và gửi Anh, một thi sĩ lưu lạc khi chúng tôi nghĩ chắc không còn ngày gặp lại. Trong những lời thơ vẳng trong tôi bấy giờ có cả lời thơ của anh.
*

Như mọi thi sĩ của một thời điêu đứng, anh chạy trốn thơ cho đến lúc không thể trốn được nữa...

5 năm TTT ra đi

(22.3.2006-22.3.2010)

*

What are poets for?
Thi sĩ để làm cái quái gì cơ chứ?
Pourquoi des poètes en temps de détresse?
Tại sao thi sĩ trong thời điêu đứng?
Heidegger

Bài viết này, bạn NXH chọn đúng ngày 22, Tháng Ba, 2010,
là ngày cách đây 5 năm nhà thơ từ giã chúng ta,
để đăng trên VOA, như là một tưởng nhớ của tất cả chúng ta,
trong lúc cùng tưởng nhớ sự ra đi của nhà thơ Hữu Loan, ở trong nước.

*

Ngày 22 tháng 3 năm nay, 2010, là đúng 5 năm nhà thơ từ giã chúng ta. Trong những nhận xét về thơ của ông, có của Quỳnh Giao, theo người viết, thật độc đáo:
“Thơ Thanh Tâm Tuyền phải được đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến tranh' của một thành phố mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay khung cảnh ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của ông.”
Và, nhận xét của D.M. Thomas, trong cuốn tiểu sử nhà văn Solzhenitsyn, ["Alexander Solzhenitsyn: A Century in his Life" By D. M. Thomas, St. Martin's Press], về sự ra đi của nhà thơ Pasternak, có thể áp dụng vào trường hợp nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, nếu chúng ta nhớ lại, tình cảm sửng sốt, bàng hoàng của đồng bào hải ngoại, khi được tin ông mất:
“Nỗi đau của dân Nga khi nhà thơ Pasternak qua đời vào năm 1960 đánh dấu bước ngoặt của lịch sử Xô Viết.”
The explosion of grief and celebration at Pasternak's funeral in 1960 marked a turning point in Soviet history.
*
Nhân dịp tưởng nhớ nhà thơ năm nay, chúng ta tìm hỏi ý nghĩa của sự chọn lựa, “Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn”, của ông, sau khi ra khỏi trại tù.
Liệu đây có nghĩa là, từ chối viết? (1)
Như rất nhiều tác giả khác, cũng như ông, thí dụ như một Melville, nhà văn nổi tiếng Mỹ, qua nhân vật nổi tiếng của ông, Bartleby, với câu nói nổi tiếng: I would prefer not to: Tôi chọn đừng.

Báo Văn học Pháp, Le Magazine Littéraire, số đặc biệt về Văn chương và những trại tù [La littérature et les camps], trong bài viết mở đầu, Thư gửi độc giả, Lettre aux lecteur, dưới nhan đề Hội chứng Bartleby, Jean-Louis Hue viết:
Nghĩ đến chuyện từ bỏ viết, Melville tưởng tượng ra nhân vật Bartleby, thách đố câm lặng và hư vô, đã chọn lựa một giải pháp là tự nhốt mình trong văn phòng, vắng mặt trước những kẻ khác, và trước chính mình. “Tôi chọn lựa đừng” [I would prefer not to, khi được dịch sang tiếng Pháp, là, “Je préférais ne pas le faire”, và mới nhất, “Je préférais pas”].
Trong số những nhà văn “Tôi chọn lựa đừng” này, có, kể sơ sơ, Rimbaud, Robert Walser, J.D. Salinger… và nhà thơ Celan, sống sót Lò Thiêu, sau tự sát.
Liệu thái độ “Tôi chọn lựa đừng” này, là cũng của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, sau trại tù cải tạo?

(1)
Après ma libération, sur le chemin du retour, la première chose que j'ai faite, a été de me replier et écrire mes poèmes mémorisés tout au long de ma détention.
Je suis un survivant, mais je ne veux plus être écrivain, comme je l'ai pourtant souhaité depuis toujours.
J'ai écrit dans ma mémoire au camp: «II faut que j'arrive à écrire comme si rien ne s'était passe, comme si rien n'était modifié.»
Et maintenant je me dis: «Quand serai-je capable d'une telle chose?» Pour re-écrire.
THANH TAM TUYEN
La poésie entre la guerre et le camp
Thơ giữa chiến tranh và trại tù
Propos recueillis et traduits par Le Huu Khoa

Khi ra khỏi trại tù, trên đường về, điều đầu tiên tôi làm, là cúi gập mình viết ra những bài thơ lưu giữ trong trí nhớ suốt thời gian tù đầy.
Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn.
Tôi đã từng lưu vào trí nhớ, khi ở trong trại tù, điều này: "Phải làm sao viết như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi."
Và bây giờ tôi tự hỏi: "Khi nào thì tôi có thể làm được như vậy? Để lại viết?”
Thanh Tâm Tuyền
*
La poésie entre la guerre et le camp
Thơ giữa chiến tranh và trại tù

Văn chương và những trại tù
La litérature et les camps

Trại Cải Tạo vs Lò Thiêu
Hai cái tít nói lên tất cả!
[NQT]
*
Bài viết thực ra, chỉ là một cái dàn bài, bạn NXH cần bài gấp quá, cho đúng dịp tưởng nhớ ngày nhà thơ từ giã chúng ta; tuy nhiên “luận điểm” (1) của bài viết thì đã đưa ra được rồi.
Rằng, cái sự từ chối không làm nhà văn nữa của TTT, nó liên can đến Lò Cải Tạo. Nó liên can đến câu phán của Adorno:
Sau Lò Thiêu mà còn làm thơ thì thật là dã man.
Nói một cách khác, sau 30 Tháng Tư 1975, giả như còn văn học Mít, thì nó bắt buộc phải trả lời cho được câu hỏi: Tại sao Lò Cải Tạo?

(1)

Phạm Gia Thanh (Việt Nam)
Ở bài này ông Nguyễn Quốc Trụ chỉ góp nhặt linh tinh rồi chép lại chứ không có một luận điểm gì cả. Dàn bài cũng tùy tiện. Tôi không hiểu tại sao nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng lại chọn đăng và VOA lại đồng ý cho đăng. Nản quá ạ.
Độc giả VOA

Cám ơn đã góp ý.

Bài này tôi định viết ngay sau khi nhà thơ TTT mất, nhưng ngại, sẽ có người cho rằng dựa hơi cái chết của nhà thơ đế đánh bóng mình.
Bây giờ, 5 năm qua đi, viết, thoải mái hơn.

NQT

On Poetry

Thơ Mỗi Ngày

Strange Feast

It makes my heart glad to hear one of these
Chirpy little birds just back from Mexico-
Or wherever it is they spend their winters-
Come and sit in a tree outside my window.

I want to stay in bed all morning
Listening to the returning ones greet the friends
They left behind, since in their rapture
At being together, I find my own joy.

As if a festive table was being set in the garden
By two composed and somber women
Clad in dresses too light for this time of year,
Mindful every glass and fork is in its proper place,

Leaving me uncertain whether to close my eyes,
Or to hurry in shorts over the old snow
And make sure the dishes they've laid out
Are truly there to be savored by one like me. 

Tiệc lạ

Nó làm tim Gấu vui
Khi nghe một trong những chú chim nhỏ chip chip, khi vừa từ Mexico -
Hay là từ chốn viễn du nào đó,
Nơi chúng trải qua mùa đông –
Trở về và đậu trên 1 cái cây ở bên ngoài cửa sổ
Sáng nay Gấu muốn ngủ nướng, nằm ì trên giường
Nghe lũ chim ríu rít
Những con mới trở về hàn huyên với đám chim ở lại
Gấu bèn tìm thấy nguồn vui của riêng mình

Như thể bàn tiệc được đặt để ở ngoài vườn
Bởi hai người đàn bà, điềm tĩnh và buồn rười rượi
Ăn mặc hơi bị nhẹ quá, vào cái thời gian này của năm
Săm soi từng cái ly, muỗng, nĩa, ở vào đúng chỗ của chúng, trên bàn tiệc

Ba thứ lẩm cẩm như thế đó khiến Gấu
Không biết nên
Nhắm mắt lại
Hay là, mặc xà lỏn chạy băng qua tuyết cũ (1)
Chắc, một điều,
Những dĩa ăn được bầy ra đấy,
Là thực sự dành cho
Một tên như Gấu thưởng thức.

(1) Tuyết cũ: Neige d'antan?

K diễn tả khúc trên, qua thơ xuôi, thật tuyệt, và làm bật ra cái ý “tuyết xưa”:
Thời gian trong bài thơ này rõ ràng là vào đầu xuân, khi đàn chim di trốn mùa đông, trở về ríu rít gọi bạn, trời còn lạnh, nhưng tuyết đã không còn mới.
Còn làm rõ ra cái hình ảnh "mặc nhẹ", ở khúc sau.

Tks. Many Tks
NQT

 


Thơ Mỗi Ngày

Ventriloquist Convention

For those troubled in mind
Afraid to remain alone
With their own thoughts,
Who quiz every sound
The night makes around them,

A discreet tap on the door,
A whispered invitation
To where they have all gathered
In a room down the hall
Ready to entertain you

In a voice of your parents,
The pretty girl you knew once,
One or two dead friends
All pressing close to you
As if wishing to share a secret,

The one with slick black hair
Leaning into your face,
Eyes popping out of his head,
His mouth hanging down
Like a butcher's bloody scale.

Charles Simic: New Poems

Đại Hội Nói Bằng Bụng

Dành cho những kẻ cái đầu loạng quạng
Sợ chẳng có ai ở kế bên
Ngoài mớ ý nghĩ của riêng họ
Những kẻ chỉ nội nghe bất cứ một tiếng động trong đêm
Là đã vãi linh hồn

Một tiếng gõ kín đáo ở cửa
Một lời mời thì thầm
Tới một nơi tất cả bọn tụ tập
Một căn phòng ở cuối hành lang
Sẵn sàng giải trí bạn

Trong giọng ông via bà via bạn
Một cô gái xinh đẹp có lần bạn quen,
Một hay hai người bạn đã ngỏm
Tất cả áp sát bạn
Như thể muốn san sẻ một bí mật

Một kẻ, tóc đen, bóng mượt
Ghé vô tận mặt anh
Hai con mắt như muốn bật ra khỏi hai cái lỗ
Miệng trễ xuống
Như cái dĩa cân máu me của tên đồ tể.

Lingering Ghosts

Give me a long dark night and no sleep,
And I'll visit every place I have ever lived,
Starting with the house where I was born.
I'll sit in my parents' dimmed bedroom
Straining to hear the tick of their clock.

I'll roam the old neighborhood hunting for friends,
Enter junk-filled backyards where trees
Look like war cripples on crutches,
Stop by a tree stump where Grandma
Made roosters and hens walk around headless.

A black cat will slip out of the shadows
And rub herself against my leg
To let me know she'll be my guide tonight
On this street with its missing buildings,
Missing faces and few lingering ghosts.

Charles Simic: New Poems

Những hồn ma dai dẳng.

Cho tớ 1 đêm đen dài và đếch làm sao ngủ được
Và tớ sẽ về thăm mọi chỗ tớ đã từng sống
Bắt đầu bằng ngôi nhà tớ sinh ra
Tớ sẽ ngồi trong căn phòng lù mù của ông bà già
Cố nghe cho được tiếng tích tắc của cái đồng hồ ngày nào của họ

Tớ sẽ đảo qua đảo lại khu lối xóm
Săn tìm lũ bạn cũ
Đi vô những sân sau tạp nhạp
Cây, như những thương binh què quặt
Đi ngang một gốc cây
Nơi Bà tớ thường dẫn đàn gà,
Không đầu đi dạo

Một con mèo đen từ trong những bóng đêm vọt ra
Cọ cọ vào chân tớ
Như muốn nói, ta sẽ là kẻ dẫn đường cho mi
Về thăm lại quê hương cũ đêm nay

Trên con phố với những tòa nhà thèm nhớ,
Những khuôn mặt thèm nhớ
Và những hồn ma dai dẳng.
*

….. Nói đến thơ, có nhiều bài anh dịch đang hay, tự nhiên chêm thêm vài chữ hoặc một câu THNM, làm người đọc là K đây đang bay bon bon bỗng nhiên bị hẫng . Ví dụ : 

Lửa

Có lẽ tôi là 1 con người bình thường, trung lưu,
Tin vào quyền cá nhân của con người,
Cái từ “tự do” thì đơn giản đối với tôi,
Nó không có nghĩa tự do của giai cấp đặc biệt nào đó.

Ngây thơ về mặt chính trị, với chút học vấn tàm tạm
(những khoảnh khắc ngắn ngủi của một cái nhìn sáng suốt là thức ăn chính của nó),
Tôi nhớ lại ngọn lửa hung bạo, cháy bừng bừng trên môi đám đông, đốt sách chất thành đống,
Truy sát tới tận da thành phố, tôi vốn đã từng hát những bài ca vào thời kỳ
này, Và biết được, lớn lao làm sao, vĩ đại như thế nào được chạy cùng những người khác; 

Sau đó, với vị tro than trong miệng tôi nghe ra giọng tiếu lâm, báng nhạo của lời nói dối,
Và bài đồng ca cả nước than khóc, cái gì gì nối vòng tay nhớn
Và khi tôi sờ vô đầu của mình, tôi cảm cái đau của cả xứ sở tôi,
Cái mép bờ huỷ diệt của nó.

Tks

Khúc chót, quả là THNM!
Đang dịch ngon trớn, bỗng nhớ bữa 30 tháng Tư, nghe “Nối Vòng Tay Lớn” trên Đài Phát Thanh Sài Gòn....
Long Time No Mail from both of U
Take Care

NQT

Thơ Mỗi Ngày

Fire

Probably I am an ordinary middle-class
believer in individual rights, the word
"freedom" is simple to me, it doesn't mean
the freedom of any class in particular.
Politically naive, with an average
education (brief moments of clear vision
are its main nourishment), I remember
the blazing appeal of that fire which parches
the lips of the thirsty crowd and burns
books and chars the skin of cities. I used to sing
those songs and I know how great it is
to run with others; later, by myself,
with the taste of ashes in my mouth, I heard
the lie's ironic voice and the choir screaming
and when I touched my head I could feel
the arched skull of my country, its hard edge.

Adam Zagajewski

Translated by Renata Gorczynski

*

Adam Zagajewski was born in Lvov, Poland, in 1945; as an infant he was relocated with his family to western Poland. He lived in Berlin for a couple of years, moved to France in 1982, and has taught at universities in the United States, including the University of Houston and the University of Chicago. Zagajewski writes in Polish; many of his books of poetry and essays have been translated into English.
Zagajewski was considered one of the "Generation of '68" or "New Wave" writers in Poland; his early work was protest poetry, though he has moved away from that emphasis in his later work. The reviewer Joachim T. Baer noted in World Literature Today that Zagajewski's themes "are the night, dreams, history and time, infinity and eternity, silence and death." The titles of his collections of poetry suggest some of these concerns: Tremor (1985), Mysticism for Beginners (1997), and World Without End: New and Selected Poems (2002).
Writing of Zagajewski's 1991 collection of poems, Canvas, poet and reviewer Robert Pinsky commented that the poems are "about the presence of the past in ordinary life: history not as chronicle of the dead, or an anima to be illuminated by some doctrine, but as an immense, sometimes subtle force inhering in what people see and feel every day-and in the ways we see and feel."

AZ sinh tại Lvov, Ba Lan, năm 1945; khi còn còn nhỏ đã cùng gia đình dời tới vùng Ba Lan phía Tây. Sống tại Bá Linh vài năm, dời qua Pháp, năm 1982, và dạy tại Đại học Mẽo. Viết bằng tiếng Ba Lan, nhiều sách của ông được dịch qua tiếng Anh.

Được coi thuộcThế hệ 68” hay “Làn Sóng Mới”, thơ đầu tay của ông được coi là thơ phản đối, tuy nhiên, sau đó né cái tên có tính cường điệu này. Tay điểm sách Joachim T. Baer, trong World Literature Today, nhận xét, đề tài của Az là “đêm, mơ, lịch sử, thời gian, vô cùng và vĩnh viễn, im lặng và cái chết”. Tên 1 số tác phẩm của ông cũng gợi ra những đề  tài này.

Nhà thơ Robert Pinsky phán, những bài thơ của ông là về “sự có mặt của quá khứ trong ngày thường, đời thường: lịch sử không như là ký sự của những người chết… nhưng là 1 sức mạnh bao la, đôi khi tế vi, gắn vào cái mà chúng nhìn và cảm mỗi ngày – và trong những đường hướng chúng ta nhìn và cảm.”

Lửa

Có lẽ tôi là 1 con người bình thường, trung lưu,
Tin vào quyền cá nhân của con người,
Cái từ “tự do” thì đơn giản đối với tôi,
Nó không có nghĩa tự do của giai cấp đặc biệt nào đó.

Ngây thơ về mặt chính trị, với chút học vấn tàm tạm
(những khoảnh khắc ngắn ngủi của một cái nhìn sáng suốt là thức ăn chính của nó),
Tôi nhớ lại ngọn lửa hung bạo, cháy bừng bừng trên môi đám đông, đốt sách chất thành đống,
Truy sát tới tận da thành phố, tôi vốn đã từng hát những bài ca vào thời kỳ này,
Và biết được, lớn lao làm sao, vĩ đại như thế nào được chạy cùng những người khác;

Sau đó, với vị tro than trong miệng tôi nghe ra giọng tiếu lâm, báng nhạo của lời nói dối,
Và bài đồng ca cả nước than khóc, cái gì gì nối vòng tay nhớn

Và khi tôi sờ vô đầu của mình, tôi cảm cái đau của cả xứ sở tôi,
Cái mép bờ huỷ diệt của nó.

Writing in Polish

Viết bằng tiếng Ba Lan

People sometimes ask me: "Why don't you write in English?" Or - if I'm in France- why not in French? They clearly assume that I'd benefit, that I'd do better using some universal language instead of my provincial Polish. And I agree in principle; it would certainly be easier to write in some more important language (if I could pull it off!). It reminds me of a story about George Bernard Shaw, who supposedly confessed in a letter to Henryk Sienkiewicz that he couldn't understand why the Poles didn't simply switch to Russian. The Irish had, after all, mastered English and were managing beautifully! Really. Writing in Polish-in the nineteenth century, after the partitions-was an act of patriotism. The Polish language was in grave danger, especially in the Russian sector. Today it's no longer a question. Even if he remembers his city's past-and such remembrance is in fashion these days-a young poet born in Gdansk won't hesitate in choosing which language to use. He only knows one, after all. Only someone like myself, who's lived abroad for years, meets up with the-naive?-question of picking his language.....

Two Cities AZ

Vài thằng ngu hỏi Gấu, tại làm sao mi không viết “luận văn” bằng tiếng Anh?
Thi lấy cái bằng tiến sĩ của tụi mũi lõ?
Mi không biết tiếng Anh, thì muớn 1 thằng, rồi ký tên, là của mi?
Hà, hà!
Ui chao, 1 câu tiếng Anh đếch dịch được, bèn phịa ra nó, vậy mà có tác phẩm triết học viết bằng tiếng Hồng Mao!


Simic's Poems 2

The Future

It must have a reason for concealing
Its many surprises from us,
And that reason must have something to do
With either compassion or malice.

I know that most of us fear it,
And that surely is the explanation
We've never been properly introduced,
Though we are neighbors

Who run into each other often
By accident and then stand there
Speechless and embarrassed,
Before pretending to be distracted

By some children walking to school,
A pigeon pecking at a pizza crust
Next to a hearse filled with flowers
Parked in front of a small, gray church.

Charles Simic: New Poems [in New and Selected Poems]

Tương lai

Hẳn phải có lý do giấu chúng ta nhiều ngạc nhiên của nó
Và lý do này phải mắc mớ tới
Hoặc, cảm thông [giao lưu, hòa giải, quên hết hận thù… ]
Hoặc, láu cá chó

Gấu biết hầu như hết đám Mít chúng ta sợ nó
Và rõ ràng đây là lời giải thích, rằng,
Chúng ta chưa từng được giới thiệu cho ra hồn mí nhau
Dù là hàng xóm lá tỏi

Ra vào, tối lửa tắt đèn, đụng nhau
Tình cờ, như lúc này
Thế là bèn ná thở, câm như thóc, quê ơi là quê
Trước khi giả đò lơ đãng nhìn

Mấy đứa học trò đi bộ tới trường
Hay con bồ câu túc túc mẩu bánh mì
Kế bên cái xe nhà đòn chất hoa, cườm
Đằng trước ngôi nhà thờ nhỏ, màu xám


For the Very Soul of Me

At the close of a sweltering night,
I found him at the entrance
Of a bank building made of blue glass,
Crumpled on his side, naked,
Shielding his crotch with both hands,

The missing one, missed by no one,
As all the truly destitute are,
His rags rolled up into a pillow,
His mouth open as if he were dead,
Or recalling some debauchery.

Insomnia and the heat drove me out early,
Made me turn down one street
Instead of another and saw him
Stretched there, crusted with dirt,
His feet bruised and swollen.

The lone yellow cab idled at the light
With windows down, the sleepy driver
Threw him a glance, shook his head
And drove down the deserted avenue
The rising sun had made beautiful.

Charles Simic [from Night Pinic]

Cho linh hồn rất linh hồn của GCC

Vào một đêm ngột ngạt, cận sáng
Gấu kiếm thấy nó ở lối vô
Một tòa nhà ngân hàng làm bằng kiếng màu xanh
Méo mó, trần truồng
Hai tay che cái chạc

Kẻ thiếu nhớ chẳng ai thèm thiếu nhớ
Như mọi điều đáng thiếu nhớ
Mớ rẻ rách quần áo, xoắn lại làm cái gối
Miệng toác hoác như chết rồi
Hay nhớ lại một sa đọa, trụy lạc nào đó

Mất ngủ và cái nóng khiến Gấu mò ra đường sớm
Thay vì chọn con phố này, thì con phố kia
Và thế là, Gấu nhìn thấy nó, cái rất linh hồn tội nghiệp của Gấu Cà Chớn
Nằm 1 đống, bụi đường nghẹt họng
Chân thâm tím, sưng phồng

Cái tắc xi màu vàng, đơn độc, ngồi rồi, dưới ánh đèn
Cửa kính kéo xuống, anh tài xế buồn ngủ
Ném 1 cái nhìn, lắc 1 cái đầu
Rồi chạy xuống con phố hoang
Mặt trời lên, con phố mới đẹp làm sao.

Thơ Mỗi Ngày

Pedro Salinas
Spanish
1892-1951

THE DEAD

The first thing I forgot was your voice.
Now if you were to
speak here at my side
I would ask, "Who is that?"

After that I forgot your footstep.
If a shadow were to gutter
in the wind of flesh
I would not be sure it was you.

One by one all your leaves fell
before a winter: the smile,
the glance, the color of your clothes, the size
of your shoes.

Even then your leaves went on falling:
your flesh fell from you, your body.
I was left with your name, seven letters of you.
And you living,
desperately dying
in them, body and soul.
Your skeleton, its shape,
your voice, your laugh, seven letters, those letters.
And repeating them was your only life, your body.
I forgot your name.
The seven letters move about, unconnected,
unknown to each other.
They form advertisements in streetcars; letters
burn at night in colors,
they travel in envelopes shaping
other names.
There, everywhere, you go too,
all in pieces by now, dismantled, impossible.
There goes your name everywhere, which was you,
risen
toward various stupid heavens
in an abstract alphabetical glory.

1966

W.S. Merwin [translated]


Những người đã chết

Anh quên đầu tiên, là giọng nói
Và giả như bi giờ, em có thì thầm bên tai
Thì anh cũng bèn hỏi, giọng ai đấy?

Liền sau đó, là bước chân của em
Nếu có cái bóng nào
Rung rinh trong gió, vương mùi thịt ấm ngày nào
[Cái gì gì bàn chân em rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa]
Anh cũng đếch tin là, tiếng chân em!

Từng chiếc lá [lá tre, lá cỏ, lá khô vì đợi chờ… ]
Tất cả những chiếc lá của em rớt xuống
Trước mùa đông: nụ cười,
Cú liếc, màu quần, màu áo,
Khổ giầy em mang.

Ngay cả khi đó, lá của em vưỡn tiếp tục rớt lả tả:
Thịt, thơm như múi mít, rớt ra khỏi em, cơ thể của em
Em chỉ còn lại ở nơi em một cái tên với bảy con chữ
Và em, sống,
Tuyệt vọng chết
Trong chúng, cơ thể và linh hồn
Bộ xương của em, cái bộ vó của nó
Giọng nói của em, cái cười của em, bẩy con chữ, những con chữ này.
Và lập lại chúng, là cuộc đời độc nhất của em, cơ thể của em.
Anh quên tên của em
Mấy con chữ đi lòng vòng, không dính vào nhau, không quen biết  nhau
Chúng tạo thành biển quảng cáo ở xe điện; những con chữ màu sắc cháy sáng ban đêm.
Chúng du lịch trong những chiếc phong bì tạo thành những cái tên khác
Chúng ở khắp nơi, em cũng thế,
Tất cả biến thành những mảnh, mẩu, rã rời, bất khả.
Tên của em như thế là ở mọi nơi
Nó là em
Vươn cao mãi lên, tới những thiên đàng ngu si này nọ,
Trong cái vinh quang abc trừu tượng.

Solitude in Hotels

Where you went to hide from everyone
In a city people visit for other reasons,
In a room with a Don't Disturb sign
Left on the door day and night,
While you sat around in your underwear
Staring at the dead TV screen for hours, 

Waiting for after midnight to sneak
Past the desk clerk in the lobby and visit
Some ill-lit dive in the neighborhood
For a beer or two and a bite to eat
Then a walk along dark, deserted streets
In no hurry and no direction in mind, 

Slipping back into bed toward daybreak
To lie awake listening to the rain,
While the leaves outside the window
Turn the color of fire, the one you read
Was started by some boy in church
To impress his pale and silent girlfriend.

Charles Simic: New Poems [in New and Selected Poems]

Cô đơn ở Khách sạn

Nơi bạn tới để trốn mọi người
Trong một thành phố người ta thăm viếng vì những lý do khác
Trong 1 căn phòng với tấm biển nhỏ, “Đừng quấy rầy”
Ở cửa phòng, ngày và đêm,
Trong lúc bạn mặc quần xà lỏn
Ngồi coi TV
Màn hình chết
Hàng giờ đồng hồ

Đợi quá nửa đêm, bèn bò ra
Qua tên ngồi ở cái bàn ở hành lang
Thăm một nơi chốn tối đèn ở lối xóm
Để chơi một, hay hai chai bia, và đợp một cái gì đó
Rồi lang thang trên những con phố âm u, hoang phế
Chẳng có tí hối hả, hay phương này hướng nọ

Trở lại cái giường vào lúc gần sáng
Nằm, mắt thô lố, nghe mưa rơi
Trong lúc những chiếc lá bên ngoài cửa sổ
Đổi thành màu lửa, thứ anh đọc
Do một cậu ở nhà thờ châm lên
Để gây ấn tượng nơi cô bạn gái,
Mặt mày lợt lạt, câm như hến.

Roque Dalton

Spanish

1935-1975

THE CONCEITED

I'd be wonderful at being dead.

Then my vices would shine like ancient jewels
with those delicious colors of poison.

There'd be flowers of every scent on my tomb
and the adolescents would imitate my expressions of joy,
my occult words of anguish.

Maybe somebody'd say I was loyal and good.
But you'd be the only one who'd remember
the way I looked into eyes.

1971

W.S Merwin [translated]

 

Gấu Cà Chớn, Tên Phách Lối

Gấu sẽ tuyệt vời, vào lúc ngỏm

Vào lúc đó, bao nhiêu cái xấu, cái cà chớn, cái phách lối....  của Gấu sẽ biến thành… Đỉnh Cao Thời Đại,
The Zenith, hay cái con mẹ gì gì đó
Giống nữ trang xưa, quí
Với những màu sắc tuyệt vời của thuốc độc

Sẽ có hoa với mọi mùi vị, hương thơm… ở mồ Gấu
Và đám trẻ, hậu huệ, đệ tử, cái con mẹ gì đó, của Gấu
Sẽ bắt chước biểu hiện vui mừng của Gấu, cái gì gì, cười như….  Phật,
Hay như thằng ngố, thằng cù lần!
Hay những từ ngữ thần bí của nỗi đau thương, cũng của Gấu

Có thể có một nguời nào đó, nói, thằng khốn đó “nhân hậu và cảm động”!
Nhưng chính kẻ nói như thế, sẽ nhớ hoài, cách mà Gấu nhìn vô mắt,
Lần gặp độc nhất, ở Tiểu Sài Gòn!

Ấy là bởi vì sau đó, Gấu tính đi xa thật!

Hà, hà!

*

16.8.2009 SN/GCC

*

AMERICAN POETRY

Whatever it is, it must have
A stomach that can digest
Rubber, coal, uranium, moons, poems.
Like the shark, it contains a shoe.
It must swim for miles through the desert
Uttering cries that are almost human.

LOUIS SIMPSON

Thơ Mẽo

Là cái gì thì cũng được, nhưng phải có dạ dày thật là bảnh
Tiêu hóa nổi, nào…  áo mưa, nào than, nào uranium, nào mặt trăng, nào những bài thơ
Như cá mập, nó có một chiếc giầy
Phải bơi hàng ngàn dặm qua sa mạc
Hú lên như - hầu như- tiếng người

Charles Simic: 3 Poems
October 28, 2013 at 7:37am


If only I had a dog, these crows congregating
In my yard would not hear the end of it.
If only the mailman would stop by my mailbox,
I'd stand in the road reading a letter
So all you who went by could envy me. 

If only I had a car that ran well,
I'd drive out to the beach one winter day
And sit watching the waves
Trying to hurt the big rocks
Then scatter like mice after each try.  

If only I had a woman to cook for me
Some hot soup on cold nights
And maybe bake a chocolate cake
A slice of which we'd take to our bed
And share after we've done loving.  

If only these eyes of mine would see better,
I could read about birds migrating,
The vast oceans and deserts they cross
And their need to return to this shithole
After visiting many warm and exotic countries.

Bầy Chim Bỏ Xứ

Chỉ cần một chú chó
là đám quạ ở sân nhà tớ
sẽ hiểu liền tù tì,
tận thế là đây có nghĩa là gì!
Chỉ một ông đưa thư ngưng lại ở cái hộp thư của tớ
Là tớ sẽ đứng ngay giữa đường đọc thư
Và các bồ đi ngang thì sẽ khóc thét lên
vì ghen tức và thèm được như là Gấu.

Giả như là tớ có một cái xế thật bảnh, chạy thật ngon lành, nhỉ.
Tớ sẽ chạy ra bờ biển vào một ngày đông
Ngồi nhìn sóng
Cố đụng mấy cục đá lớn
Và sau đó, chạy tứ lung tung như lũ chuột, sau mỗi cú thử. 

Giả như tớ có một bà đầu bếp,
Nấu cho tớ tô cháo nóng vào những đêm lạnh lẽo
Hay nướng bánh xô cô la
Và một miếng bánh như thế, bà mang vô giường
Chia với Gấu, sau khi iêu Gấu. 

Giả như cặp mắt già của Gấu sáng ra lại một chút
Gấu sẽ đọc về những con chim di cư
Những biển rộng những sa mạc mà chúng vượt qua
Và cái sự chúng cần trở về cái hố kít này
Sau khi viếng thăm cả đống những xứ sở ấm áp, ướt át.
 

Eternities

A child lifted in his mother's arms to see a parade
And that old man throwing breadcrumbs
To the pigeons crowding around him in the park,
Could they be the same person?
The blind woman who may know the answer recalls
Seeing a ship as big as a city block
All lit up in the night sail past their kitchen window
On its way to the dark and stormy Atlantic.

Vĩnh cửu

Ðứa trẻ được mẹ nhấc bổng để nhìn cuộc diễn hành
Và ông già ném những mẩu bánh cho đàn bồ câu bâu quanh ông
Liệu có phải là cùng một người?
Người đàn bà mù có thể biết câu trả lời, nhớ lại
đã từng nhìn thấy một con tầu to bằng cả một dẫy phố
Cả con tầu, đèn đuốc sáng chưng, giương buồm vượt qua khung cửa sổ nhà bếp,
Trên đường đi tới Ðại Tây Dương tối đen, bão bùng. 

All Gone into the Dark 

Where's the blind old street preacher led by a little boy
Who said the world will end next Thursday at noon?
Where's the woman who walked down Madison Avenue
In the summer crowd, stark naked and proud of herself?
Where's the poet Delmore Schwartz I once saw sitting
In Washington Square Park gesturing theatrically to himself?
Where's the young man in a wheelchair pushed by his mother
Who kept shouting about wanting to kill more Vietnamese?  

Mr Undertaker, sitting in a window of a coffee shop
Chewing on a buttered roll, you probably have a hunch-
Or are you, like the rest of us, equally in the dark
As you busy yourself around the newly arrived dead?

Rồi tất cả cũng đi vào đêm tối

Ông linh mục mù già đường phố được một đứa bé dẫn dắt,
người rao giảng tận thế sẽ tới vào bữa trưa Thứ Năm,
ông ta đâu rồi nhỉ?
Ðâu rồi, người đàn bà đi xuống phố Madison Avenue
Giữa đám đông mùa hè, hoàn toàn khoả thân, và rất tự hào về mình?
Ðâu rồi, thi sĩ Delmore Schwartz, có lần tôi nhìn thấy ngồi ở
Washington Square Park, múa may quay cuồng về mình?
Ðâu rồi, anh thanh niên ngồi xe lăn, được mẹ đẩy
Miệng la bai bải hãy giết VC, giết nữa, giết nữa!

Tay nhà hòm, ngồi ở cửa sổ 1 tiệm cà phê
Nhai chả giò, bạn có thể có linh cảm –
Hay cũng như tất cả lũ chúng tôi, cùng trong bóng tối,
Bạn đang tự mình làm rộn mình, về những người chết mới tới? 

LONDON REVIEW OF BOOKS 9 SEPTEMBER 2010

Duong Thanh Liem likes this.


Young Poets, Please Read Everything

Hỡi thi sỡi trẻ, hãy đọc mọi thứ. Hãy đọc loạn cào cào!

Adam Zagajewski

I sense at least one danger here. By discussing ways of reading, or simply sketching a portrait of a "good reader," I may inadvertently give the impression that I am myself a perfect reader. Nothing could be further from the truth. I'm a chaotic reader, and the holes in my education are more breathtaking than the Swiss Alps. My remarks should thus be seen as belonging to the realm of dreams, a kind of a personal utopia, rather than as describing one of my very small platoon of virtues.


  Thơ Mỗi Ngày

Softly

Lay the knife and fork by your plate.
Here, where it's always wartime,
It's prudent to break bread unobserved,
Take small sips of wine or beer
Sneaking glances at your companions.

June evening, how your birds worry me.
I can hear them rejoicing in the trees
Oblivious of the troubles that lie ahead.
The fly on the table is more cautious
And so are my bare feet under the table.

Hundreds of bloody flags fleeing at sunset
Across the darkening plains.
Some general leading another army into defeat,
While you pour honey over the walnuts,
And I wait my turn to lick the spoon.

Charles Simic: New and selected Poems

Nhè nhẹ

Để con dao và cái nĩa kế bên cái dĩa của bạn
Ở đây, nơi luôn luôn là thời chiến
Nên thận trọng bẻ mẩu bánh mì, đừng để ai nhìn thấy
Uống những ngụm nho nhỏ, rượu chát, hay là bia
Lén đưa mắt nhìn bạn quí cùng ngồi
Buổi chiều 30 Tháng Tư,
Như thế nào mấy con chim của Cao Bồi làm Gấu tôi bừng bực
Chúng vui mừng ở trên cây
Rõ ràng là đếch thèm để ý đến những troubles của lũ Ngụy ở phía bên dưới
Con ruồi trên mặt bàn cũng thật là thận trọng
Và cũng thế, là đôi bàn chân của Gấu ở dưới mặt bàn
Hàng trăm lá cờ máu me, ba que, cà chớn…  bỏ chạy vào lúc hoàng hôn
Qua những cánh đồng thẫm tối
Vài ông tướng dẫn một binh đội khác vào thất trận
Trong lúc bạn quí tưới mật ong lên cái bánh bông lan
Và Gấu thì đợi đến lượt mình liếm cái muỗng!

                      

THE FEAST

Dine in style tonight
With your misery, Adele.
Put on your silver wig
And that black dress
With plenty of cleavage,
And haughtily offer it a seat
At the head of the table,
Leaving the intimacies
That are sure to follow
This feast of empty plates
To your neighbor's imagination.

Charles Simic: The Paris Review, Summer 2014

Bữa tiệc

Ăn tối, đúng điệu, tối nay
Với sự khốn cùng của em, Adele.
Hãy đội mớ tóc giả bạc
Mặc cái áo dài đen
Thiếu vải, khoe hàng
Và thật kiêu căng,
Ban cho nó chỗ ngồi
Ở đầu bàn.
Bỏ mặc những riêng tư
Thật dễ dàng theo dõi
Bữa tiệc với những cái dĩa không
Cho sự tưởng tượng của lối xóm.

 TO NOAH, FROM WIFE

Gửi Noé, from Bà Xã

Of course I was the one who drowned the old
world. I'd wanted it emptied-slash-
filled by an element essential to life but, whoa,
fatal in large quantity. I'd wanted less,
concentrated. But here was the math of it: 2 +
idea = the 10K things. Hence
the box built to float over what
I'd killed, and everyone got in. If
"everyone" = a representative sample of
the total zoo, which rides with us now
full time. Nights, the animals sleep and we
can grab a drink up on deck under
the tarp. It'll rain awhile yet.
The 2's turn in their beds and the black bird
and the white wait for their chance to bring a little
branched something--evidence of else-
back before never anymore coming home.

                                        -Jean Gallagher

The New Yorker June 30, 2014

Note: Đọc, thì bèn nghĩ tới….  Gấu Cái, đã từng được NTaV ban cho cái nick “Quỉ Kiến Sầu”!   Thơ Mỗi Ngày

  Thơ Mỗi Ngày

Alexander Blok
Russian
1880-1921  

Beyond the mountains beyond the forests
beyond the dust of the roads
beyond the grave mounds
under other skies you flower

Whiteness will spread on the mountain
but spring will come back to the valley
and I will recall with an older sadness
my past as though it were yesterday

In the grief of my dreams I will know you
and I will seize in my palms
your gentle hand that has borne miracles
and repeat the distance in your name

September 30, 1915

1968, translated with Olga Carlisle

W.S. Merwin

Quá núi, quá rừng
Quá bụi đường
Quá gò đống nặng nề
Dưới những bầu trời khác, em nở hoa

Màu trắng sẽ trải dài triền núi
Nhưng mùa xuân sẽ trở lại thung lũng
Và ta sẽ nhớ lại với nỗi buồn già cằn
Quá khứ của ta, như đó là ngày hôm qua

Trong nỗi mơ đau, ta sẽ biết em
Ta sẽ cầm trong lòng bàn tay
Bàn tay dịu dàng của em, nở ra những phép lạ
Và lập lại khoảng cách trong tên em

Sept 30, 1915

1968, dịch, với Olga Carlisle

You’ve been paying visits
To that hunchbacked tailor
In his long-torn-down shop,
Hoping to catch a glimpse
Of yourself in his mirror
As he sticks steel pins
And makes chalk marks
On a small child’s black suit
Last seen with its pants
Dangling from a high beam
In your grandmother’s attic.

Ôi, Hồi ức

Mi làm những cú viếng thăm
Tên thợ may gù
Ở cái tiệm may tàn tạ
Hy vọng tóm lại được cái bóng của mi
Trong tấm gương
Trong lúc anh thợ may gù đính mấy cái đinh
Đánh mấy cái dấu phấn
Lên bộ đồ màu đen của 1 đứa con nít
Được nhìn thấy lần cuối
Trong cái quần dài
Lắc lư, sáng ngời
Nơi căn gác xép
Của bà nội/ngoại của mi

THE ESCAPEE

The name of a girl I once loved
Flew off the tip of my tongue
In the street today,
Like a pet fly
Kept in a matchbox by a madman-
Gone!
Making my mouth fall open

Vĩnh Biệt

Tên cô gái Gấu từng yêu
Bật ra khỏi đầu lưỡi
Giữa con phố, bữa nay
Như một con ruồi thân thương
Bị nhốt trong hộp quẹt
Bởi 1 tên khùng
Nàng bỏ đi
Mi đâu có thương yêu gì ta…
Gấu, mặt chảy dài, cái miệng méo xệu, trễ xuống

Hà, hà!

je voudrais que mon amour meure
qu' il pleuve sur le cimetière
et les ruelles où je vais
pleuvant celle qui crut m'aimer

Samuel Beckett 

Gấu muốn tình Gấu chết,
Và mưa rơi trên nghĩa địa,
Trên đường phố Sài Gòn,
Gấu đã từng vừa đi vừa khóc,
Người G[D]ấu Yêu.

Le domicile est suspendu au cou de l'homme
Comme une punition
Alain
Quán, nơi tụ tập của những đứa con hoang đàng, dù có đi xa chân trời góc bể nào cũng nhớ hoài, giống như sự trừng phạt.
Quán, Mái Nhà Xưa. Sài-gòn, Sài-gòn...
 

Như người xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn thuyền,
chàng trở lại chốn xưa, tìm lại dấu giầy trên phấn bụi,
và tiếng cười của nàng vẫn còn văng vẳng đâu đây

The Improbable

There may be words left
On the blackboard
In that gray schoolhouse
Shut for the winter break.

Someone was called upon
To wipe them off
And then the bell rang,
The eraser stayed where it was

Next to the chalk.
None of them knew
You'd be passing by this morning
With your eyes raised
As if recollecting
With a thrill of appreciation

Something improbable
That alone makes us possible
As it makes you possible
In this fleeting moment
Before the lights change. 

Charles Simic 

Nghi Hoặc

Có thể trên một tấm bảng
Ở nơi trường Gia Long ngày nào
Vưỡn còn những chữ BHD đã từng viết
Khi ngôi trường lọt vô tay lũ VC

Một cô bạn của em được gọi lên để xóa bảng
Đúng lúc đó, có tiếng chuông hết giờ học
Chữ vưỡn còn, như cái giẻ lau bảng chưa kịp đụng tới

Đếch ai biết
Rằng thì là
Gấu đã từng mò tới nhìn tấm bảng
Có tí bùi ngùi, hài lòng

Một tí nghi, một tị hoặc
Như thế đó
Làm cho đời đôi ta trở nên có ý nghĩa
Đúng vào cái khoảnh khắc thiên thu bỏ chạy đó
[Bèn ghi dấu nơi mạn thuyền]
Trước khi đứt “phin”, đổi đời.

*

Mùa Hè 2014 ở Viên Chẳng
Hai đấng cháu nội, thằng anh, thằng em, của GCC

*

On Losing

Charles Simic

*

Chào Mừng World Cup

Giấc Mơ BHD

Tuổi thơ là một cơn mộng không biết là cơn mộng.

Trong nhiều năm nhiều năm, một giấc mơ trở đi trở lại hoài trong đầu tôi, giấc mơ này đưa tôi tới một cái sân lớn của con phố Rosellon, thành phố Barcelone, ở đó, đứa trẻ là tôi chơi đá banh một mình sau ngày học dài, trở về nhà, và trong khi chờ cơm, tôi bịa ra những trận banh. Cái sân đó, bao bọc chung quanh là những nhà cửa xám xịt, buồn thỉu buồn thiu, nét đặc biệt của thời kỳ đó, những năm dài cực nhọc tại Tây Ban Nha thời hậu chiến. Trong trí tưởng tượng của tôi, tôi là cả hai muơi hai cầu thủ cùng một lúc, một phần thân thể của tôi - gồm mười một cầu thủ - nhập vai tấn công, cứ như thể nó là Brésil tại Cúp Thế Giới ở Thụy Điển, trong khi phần còn lại, lo phản công. Tôi quên không tưởng tượng ra trọng tài, và mỗi một đội như thế - mỗi một phần của cơ thể của tôi như thế đó – có thể thắng, hay bại, tuỳ thuộc vào thiên tài mà mỗi đội phô ra, Được hỗ trợ bởi thiên tài tuổi thơ, tôi bịa ra những cú mơ mộng thần sầu, làm dựng tóc gáy cầu trường tưởng tượng, mà những khán giả của nó, là những cư dân ở trong những căn nhà xám xịt xỉn xìn xin, thỉnh thoảng họ còn thò đầu ra khỏi cửa sổ, chăm chú theo dõi một cách buồn bã, thằng nhỏ khốn khổ khốn nạn, một mình chơi với quả banh tồi tàn kết bằng rơm.
Trong giấc mơ trở đi trở lại đó, mọi chuyện y như nhau, tôi chơi đá banh một mình, cái sân vẫn cái sân, vẫn cái cảnh hoang tàn sau chiến tranh. Có một thay đổi: trong giấc mơ của tôi, những nhà cửa bao quanh tôi, là những ngôi nhà chọc trời ở Nữu Ước, và điều này cho tôi cảm tưởng, mình là trung tâm của thế giới, và lạ lùng thay, tuyệt vời thay, thần sầu thay, đại gia thay [cái này thì thuổng me-xừ TL], tôi cảm thấy thật là hạnh phúc, vô cùng hạnh phúc. Một thứ cảm giác thanh thản, viên mãn, tuyệt vời, siêu nhiên, như chưa từng có trên cõi đời này.
Ui chao, mơ mãi như thế, thì cũng có ngày tỉnh ra, ngộ ra được rằng, giá mà có ngày được đặt trên lên Nữu Ước, thì còn gì thú cho bằng, nhỉ!
Cứ nghĩ đến cái ngày mình tới Nữu Ước, giữa những tòa nhà chọc trời, giữa cuộc sống thực, cuộc đời thực, và đồng thời, giữa giấc đại mộng, thì cái cảm giác lúc đó mới ‘đại gia’ làm sao!
Một ngày, khi đó 41 tuổi, tôi được mời tới Nữu Ước để đọc diễn văn tại một cuộc họp. Tắc xi đưa tôi đến một khách sạn, và trong căn phòng tại Mã Nhật Tân, sau khi lấy đồ đạc ra khỏi va li, tôi bèn đi ra cửa sổ ngắm thành phố. Xung quanh tôi là những tòa nhà chọc trời tuyệt vời. Tôi điện thoại cho mấy vị giáo sư mời tôi, và hai bên ấn định sẽ gặp gỡ vào ngày hôm sau. Xong xuôi, tôi lại mò ra cửa sổ. Mình đang ở giữa giấc mơ của mình, tôi bảo tôi như vậy. Nhưng tôi nhận ra, mọi chuyện vưỡn vậy, vưỡn thế, vưỡn như cẩn, chẳng có gì khác xẩy ra. Tôi đang ở trong giấc mơ của tôi, và giấc mơ là thực. Nhưng, chỉ  có vậy. Chấm hết! Trong một khoảnh khắc tuyệt vời tôi thả mình vào trong không gian, vào trong khung cảnh, vào trong bức tranh, cố cảm thấy rằng là mình đang sướng mê tơi, nhưng vưỡn chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì đặc biệt xuất hiện. Tôi nhoài ra bên ngoài cửa sổ, nhìn thật gần những tòa nhà chọc trời của khu Manhattan… vưỡn thế là vưỡn thế!
Thấm mệt, tôi tự nhủ thầm, thôi để ngày mai, biết đâu phép lạ xẩy ra. Tôi lên giường, và chẳng mấy chốc đi vào giấc ngủ. Tôi nằm mơ mình là đứa trẻ ngày nào ở Barcelone, chơi đá banh tại một cái sân ở Nữu Ước. Tôi phải nói ngay tút xuỵt, đó là giấc mơ đẹp nhất trong đời tôi, hoàn hảo, tràn đầy, viên mãn, ấn tượng nhất. Và tôi khám phá ra rằng, ma thuật, huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ, thì không phải là Nữu Ước. Huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ chính là cái cơ sự, luôn luôn là một đứa trẻ chơi đá banh một mình, và kệ mẹ cho trí tưởng tượng bay bổng bát ngát chin phương trời mười phương đất, dẫn dắt nó. Và tôi nhớ ra rằng thì là Giorgio Agamben đã từng giải thích, với mỗi một thằng cu Gấu ở trong chúng ta, sẽ xẩy ra một cái ngày, mà vào ngày đó, Bông Hồng Đen từ bỏ nó.

“Y hệt như là, bất thình lình, trong đêm khuya, do tiếng động của một băng con nít đi qua cửa sổ của căn phòng của bạn, và bạn cảm thấy, chẳng hiểu tại ra làm sao, vì nguyên cớ nào, vị nữ thần, người nữ muôn đời của bạn, từ bỏ bạn”.

Và nàng nói, “Bây giờ H. hết lãng mạn rồi!”
Hình như, luôn luôn là, đối với Gấu tôi, khi đến cõi đời này, là để tìm kiếm trong giây lát, vị nữ thần của riêng Gấu tôi, vị nữ thần của một đứa con nít, một thằng bé nhà quê Bắc Kỳ, thằng bé đó chơi trò chơi phù thuỷ thứ thiệt của giấc mơ.

Theo Enrique Vila-Matas

“Y hệt như là, bất thình lình, trong đêm khuya, do tiếng động của một băng con nít đi qua cửa sổ của căn phòng của bạn, và bạn cảm thấy, chẳng hiểu tại ra làm sao, vì nguyên cớ nào, vị nữ thần, người nữ muôn đời của bạn, từ bỏ bạn”.

Note: Bài thơ trong số mới nhất của tờ The Paris Review, của Charles Simic, hay bài Đời tôi, của thi sĩ Tẩy, W.S dịch, và bài thơ của Gấu, cái gì gì, không phải tiếc cuộc đời đã sống, mà cuộc đời bỏ lỡ, nhớ hoài, cùng nói 1 chuyện.

THE ESCAPEE

The name of a girl I once loved
Flew off the tip of my tongue
In the street today,
Like a pet fly
Kept in a matchbox by a madman-
Gone!
Making my mouth fall open

Tên của cô gái mà tôi đã từng yêu
Bật ra khỏi đầu lưỡi của tôi
Giữa con phố, bữa nay
Như một con ruồi thân thương
Bị nhốt trong hộp quẹt
Bởi 1 tên khùng
Nàng bỏ đi
Mi đâu có thương yêu gì ta…
Gấu, mặt chảy dài, cái miệng méo xệu, trễ xuống

Hà, hà!


Gray Paris & Fall & French Open

  Thơ Mỗi Ngày

Four Poems by Charles Simic

Oh, Memory

You’ve been paying visits
To that hunchbacked tailor
In his long-torn-down shop,
Hoping to catch a glimpse
Of yourself in his mirror
As he sticks steel pins
And makes chalk marks
On a small child’s black suit
Last seen with its pants
Dangling from a high beam
In your grandmother’s attic.

THE ESCAPEE

The name of a girl I once loved
Flew off the tip of my tongue
In the street today,
Like a pet fly
Kept in a matchbox by a madman-
Gone!
Making my mouth fall open

THE FEAST

Dine in style tonight
With your misery, Adele.
Put on your silver wig
And that black dress
With plenty of cleavage,
And haughtily offer it a seat
At the head of the table,
Leaving the intimacies
That are sure to follow
This feast of empty plates
To your neighbor's imagination.

SCRIBBLED IN THE DARK

Sat up
Like a firecracker
In bed,

Startled
By the thought
Of my death.

*

Hotel of Bad Dreams.

The night clerk
Deaf as a shoe brush.

*

Body and soul
Dressed up
As shadow puppets,

Playing their farces
And tragedies
On the walls of your room.

*

Oh, laggard snowflake
Falling and melting
On my dark windowpane,

Eternity, the voiceless,
Wants to hear you
Make a sound tonight

*

Softly now, the fleas are awake.



Viết


*

*

… The magic in a poem is always accidental. No poet would labor intensively upon the intricate craft of poetry unless he hoped that, suddenly, the accident of magic would occur. He has to agree with Chesterton that the miraculous thing about miracles is that they do sometimes happen. And the best poem is that whose worked-upon unmagical passages come closest, in texture and intensity, to those moments of magical accident ....

Cái thần kỳ trong 1 bài thơ thì luôn luôn tình cờ, giống như 1 tai nạn. Chẳng nhà thơ nào, khi tập luyện làm thơ trên…  Facebook, như Thầy Kuốc, chẳng hạn- tập luyện viết văn để có được cái gân guốc, cái chan chát- mà không mong, bất thình lình, tai nạn xẩy ra, và cái thần kỳ xuất hiện!
Thì cũng đành thuổng Chesterton, mà phán rằng, mặc dù đời thì chó má - cũng lại thuổng Dylan Thomas, "Chân dung nghệ sĩ như con chó con" - lâu lâu, thi thoảng, tai nạn [phép lạ] xẩy ra.

Thí dụ, bữa xém chết ở Phước Lộc Thọ!

Đúng vào lúc xém chết, phép lạ xẩy ra thật, thoát chết, và gặp lại BHD, ở đời thứ nhì.

Em phán, “Don’t be sad.”

Và hứa, bữa nào, hai đứa vẫy cái tắc xi qua...  Chợ Lớn [Paris] như hồi còn học Gia Long, nhe!

    And there's this to be said, too. Poetry, to a poet, is the most rewarding work in the world. A good poem is a contribution to reality. The world is never the same once a good poem has been added to it. A good poem helps to change the shape and significance of the universe, helps to extend everyone's knowledge of himself and the world around him. . . .

Thơ là món quà thưởng bảnh nhất. Một bài thơ hay là 1 đóng góp cho thực tại.
Thế giới đếch như cũ nữa, khi một bài thơ bảnh – thí dụ “Biển” của GGC - xuất hiện!

Note: Nhân "thần kỳ, phép lạ", như….  “Biển” của GCC, mời độc giả TV đọc bài này:

Sir Isaac Newton
Magician’s brain
The real Sir Isaac Newton was not first king of reason, but last of the magicians:

Newton đếch phải người đầu tiên của lý lẽ - của "phản biện cái con khỉ gì đó" – mà là ảo thuật gia cuối cùng. (1)
  Thơ Mỗi Ngày

Je voudrais que mon amour meure
qu' il pleuve sur le cimetière
et les ruelles où je vais
pleuvant celle qui crut m'aimer

Samuel Beckett 

Gấu muốn tình Gấu chết,
Và mưa rơi trên nghĩa địa,
Trên đường phố Sài Gòn,
Gấu đã từng vừa đi vừa khóc,
Người G[D]ấu Yêu.

Le domicile est suspendu au cou de l'homme
Comme une punition
Alain
Quán, nơi tụ tập của những đứa con hoang đàng, dù có đi xa chân trời góc bể nào cũng nhớ hoài, giống như sự trừng phạt.
Quán, Mái Nhà Xưa. Sài-gòn, Sài-gòn...
 

Như người xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn thuyền,
chàng trở lại chốn xưa, tìm lại dấu giầy trên phấn bụi,
và tiếng cười của nàng vẫn còn văng vẳng đâu đây (1)

The Improbable

There may be words left
On the blackboard
In that gray schoolhouse
Shut for the winter break.

Someone was called upon
To wipe them off
And then the bell rang,
The eraser stayed where it was

Next to the chalk.
None of them knew
You'd be passing by this morning
With your eyes raised
As if recollecting
With a thrill of appreciation

Something improbable
That alone makes us possible
As it makes you possible
In this fleeting moment
Before the lights change. 

Charles Simic 

Nghi Hoặc

Có thể trên một tấm bảng
Ở nơi trường Gia Long ngày nào
Vưỡn còn những chữ BHD đã từng viết
Khi ngôi trường lọt vô tay lũ VC

Một cô bạn của em được gọi lên để xóa bảng
Đúng lúc đó, có tiếng chuông hết giờ học
Chữ vưỡn còn, như cái giẻ lau bảng chưa kịp đụng tới

Đếch ai biết
Rằng thì là
Gấu đã từng mò tới nhìn tấm bảng
Có tí bùi ngùi, hài lòng

Một tí nghi, một tị hoặc
Như thế đó
Làm cho đời đôi ta trở nên có ý nghĩa
Đúng vào cái khoảnh khắc thiên thu bỏ chạy đó
[Bèn ghi dấu nơi mạn thuyền]
Trước khi đứt “phin”, đổi đời 


Wisława Szymborska

July 10, 2014 Issue

Nothingness unseamed itself for me too.
It turned itself wrong side out.
How on earth did I end up here—
head to toe among the planets,
without a clue how I used not to be. 

O you, encountered here and loved here,
I can only guess, my arm on yours,
how much vacancy on that side went to make us,
how much silence there for one lone cricket here,
how much nonmeadow for a single sprig of sorrel,
and sun after darknesses in a drop of dew
as repayment—for what boundless droughts? 

Starry willy-nilly! Local in reverse!
Stretched out in curvatures, weights, roughnesses, and motions!
Time out from infinity for endless sky!
Relief from nonspace in a shivering birch tree’s shape! 

Now or never wind will stir a cloud,
since wind is exactly what won’t blow there.
And a beetle hits the trail in a witness’s dark suit,
testifying to the long wait for a short life. 

And it so happened that I’m here with you.
And I really see nothing
usual in that. 

Translated from the Polish by Clare Cavanagh

 

LA PLUIE

Brusquement s'éclaircit le ciel embarrassé :
II pleut enfin. Le flot minutieux arrose
Ma rue. Ou l'arrosa. La pluie est une chose
En quelque sorte qui survient dans le passé.

Je l'écoute; à sa voix, dans le soir remplacé,
Tout un temps bienheureux s'entrouvre et se propose:
Le temps qui m'enseigna le parfum de la rose
Et l'étrange couleur du rouge courroucé.

La rafale qui bat aux vitres aveuglées
Rejouira les noirs raisins et les allées
Poudreuses d'un jardin qui n'est plus, vers le bord

Indécis d'un faubourg. A travers la durée,
L'heure humide m'apporte une voix desirée :
Mon père est là, qui revient et qui n'est pas mort.

J.L. Borges

Ibarra

Mưa

Bất thình lình bầu trời luộm thuộm sáng lên
Mưa rơi.
Mưa đã rơi:
Mưa là một điều gì xẩy ra trong quá khứ

[Have you ever seen the rain?]

Bất cứ người nào nghe mưa rơi thì phải nhớ
Cái thời khắc mà, bằng một cơ may thần kỳ,
Một bông hoa có tên là BHD mở ra trước cái nhìn của mi
Mùi vị màu sắc mới lạ lùng làm sao

Mưa tối mù cửa sổ
Rộn rã lối xóm,
Làm sao kiếm thấy nó, vào lúc này? 

Hơi mưa ấm làm mi thèm nghe lại giọng nói BHD
Nàng đứng đó, nàng trở về, và chưa hề vĩnh biệt.

Jules Supervielle
French
1884-1960

 

THE TIP OF THE FLAME

All through his life
He had liked to read
By a candle
And often he passed
His hand over the flame
To convince himself
That he was alive,
That he was alive.

Since the day he died
He has kept beside him
A lighted candle
But he hides his hands.

1960

Ngọn lửa

Suốt cả một đời
Hắn thích đọc sách
Bằng đèn cầy
Và hắn thường đưa tay lên ngọn lửa
Để thuyết phục chính mình
Tớ vưỡn còn sống

Kể từ ngày hắn ngỏm
Hắn để kế bên
Một ngọn đèn cầy thắp sáng
Nhưng giấu biệt, tay.
 

Federico Garcia Lorca
Spanish
1898-1936

THE LITTLE MUTE BOY

   The little boy was looking for his voice.
(The king of the crickets had it.)
In a drop of water
The little boy was looking for his voice.

    I do not want it for speaking with;
I will make a ring of it
so that he can wear my silence
on his little finger.

    In a drop of water
The little boy was looking for his voice.
    (The captive voice, far away,
put on a cricket's clothes.)

1954

Đứa bé câm

      Thằng bé câm kiếm tiếng nói của nó
(Ông dzua dzế có tiếng nói đó)
Trong giọt nước
Thằng bé câm kiếm tiếng nói của nó

    Tớ không kiếm giọt nước để nói;
Tớ sẽ làm một cái cà rá
Và thằng bé có thể đeo ở ngón tay
Sự im lặng của tớ.

    Trong giọt nước
Thằng bé kiếm tiếng nói của nó
(Tiếng nói bị giam cầm, xa thật xa,
Mặc bộ cánh của con dzế)