|
Khi
nào bạn
bắt đầu làm thơ?
Những người
lính chuyên nghiệp kể cho Jennifer tôi một kinh nghiệm như thế này: sau
khi ăn
một quả pháo mà không chết, nói rõ hơn, ngay sau khi một quả pháo nổ kế
cận bên
họ, là nhẩy vào cái hố vừa mở ra, biết chắc chắn một điều, quả pháo kế
tiếp
không thể nào nhè chỗ đó mà nổ.
Những cư dân
của một thành phố Sài Gòn thời kỳ chiến tranh chắc còn nhớ kinh nghiệm
này: khi
nghe tiếng hoả tiễn réo xèo xèo ngang đầu, là biết rõ một điều, trái
hoả tiễn
đó không dành cho mình.
*
Richard
Murphy, trên tờ Granta số Mùa Thu 2001, đã tự hỏi, không hiểu mình bắt
đầu làm
thơ vào lúc nào, và ông nhớ ra là đúng vào thời kỳ ăn bom bay của Đức
quốc xã.
Ông viết: Trong trí nhớ của tôi, cái tham vọng mần thơ đã tóm lấy thằng
bé vào
đúng cái tuổi xốn xang vừa mới lớn, khi học thuộc lòng mấy vần thơ
Shakespeare
tại trường trung học Wellington College. Đó là năm 1944. Người Đức đang
trút
bom bay như mưa xuống Anh Quốc. Khi bạn nghe thấy tiếng, giống xe bình
bịch (xe
gắn máy) nổ, ở trên trời, là biết, bạn an toàn. Khi nó không nổ nữa, có
nghĩa hết
nhiên liệu, và “cái” thời gian bạn hết nghe tiếng xe gắn máy nổ, biết
trái bom
sắp rớt, biết đâu lại không ngay trên đầu mình, đó là lúc hứng thơ dâng
trào!
Ấy
là Jennifer tôi hơi “bị” cường điệu. Đúng ra,
tác giả nhớ lại là, vào lúc đó, ông mê một người bạn cùng một tuổi với
ông, một
tay điền kinh “mà số phận” (… who was destined) là phải vô Hải quân
Hoàng gia.
Sợ bom gần chết, lại thêm một ông quản gia vốn sống sót sau vụ “the
Somme” (địa
danh, nơi xẩy ra những vụ làm thịt người đầu tiên, vì tín ngưỡng) thúc
thêm vô,
thế là tôi tìm một chỗ ẩn núp, trong cái quan niệm về tái sinh, theo
đó, một
bài thơ, nếu được làm cho tới nơi tới chốn, nó sẽ thọ hơn người làm ra
nó, sẽ
đem lại đời sống sau cái chết, cho chính anh ta, và những người thân
thương, ở
trong trí tưởng của người đọc.
(Liệu
có phải đây là lý do, văn minh “nhân loại”
bắt đầu bằng những trận đánh, đầu tiên là giữa những vị thần, những
bán-thần, rồi
tới người trần mắt thịt. Bởi vì, hết chiến tranh thì lấy đâu hứng mà
bắt đầu
làm thơ! Tưởng chuyện đùa, nhưng hãy thử hỏi, tại sao văn học Tây
phương bắt đầu
bằng “Iliade”? Hãy “thử” đọc Simone Weil, “Chiến tranh hay là Bài thơ
của Sức Mạnh”,
viết về “Iliade”.)
Tác giả kể
tiếp, một năm sau đó, cỡ chừng vậy, khi là một sinh viên 17 tuổi ở
Oxford, đói
sex gần chết, ông lại quanh quẩn với ý nghĩ trở thành một thi sĩ. Kết
quả là,
ông trượt kỳ thi kiểm tra.
Murphy,
tác giả bài viết ‘Những cuộc gặp gỡ ngắn
ngủi” trên số Granta nói trên, sinh năm 1927 tại Tây Ireland. Cuốn tự
thuật của
ông, “The Kick”, sẽ được Granta Book xuất bản vào năm tới (2002).
“Tuyển tập
thơ” của ông đã được xuất bản ở Ireland và ở Mỹ. Hiện đang sống ở
Dublin,
Durban và Nam Phi. Trong bài viết, ông kể lại những kinh nghiệm đói
sex, đói
thơ, và những cuộc gặp gỡ những nhà thơ. Sau đây là trích đoạn, cuộc
gặp gỡ thi
sĩ W.H. Auden.
Barbara
Epstein, biên tập viên của tôi ở tờ Điểm Sách Nữu Ước, mời tôi ăn tối
tại căn
phòng của bà ở Nữu Ước, vào bữa 22 tháng 11, 1975. Người khách độc nhất
còn lại
kia, là W.H. Auden. Cách đó vài năm, tôi đã gặp ông, ở
Stratford-upon-Avon,
trong một buổi đọc thơ, và nó để dấu ấn ở trong tôi, bởi vì ông thuộc
lòng những
bài thơ của mình. Khi ông ngần ngừ ở một dòng, trong một bài thơ dài,
ông chẳng
thèm mò mẫn cuốn thơ của mình, mà lại nhắm mắt lại, ngẩng mặt lên, như
hỏi ông
Trời, hãy nhắc giùm ông điều gì ông muốn nói, khi mần thơ. Và một khi
trở lại với
bài nói chuyện, ông như được tạo hứng từ cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với ông
Trời như
thế đó, và cứ thế chuyển những ý tưởng của mình thành lời. Đó là điều
làm cho
bài thơ thật là thú vị.
Barbara
kể lại, một lần mời nhà thơ, ông lầm
phòng, bấm chuông, và được một cặp, chẳng phản đối phản điếc gì cả, mời
vô, ông
ngồi bệ vệ trong chiếc ghế bành, đòi một ly martini vodka. Tay cầm ly
rượu, ông
cứ thế độc thoại, và cặp vợ chồng ngớ người, không dám lên tiếng ngắt
cuộc độc
thoại, cho tới khi ly rượu cạn. Như nhận ra sự vắng mặt của chủ nhà,
Auden hỏi,
và được trả lời, vợ chồng Epsrein ở căn phòng tầng lầu bên trên.
Murphy kể lại, cuộc gặp gỡ chẳng thú vị gì,
vì bất cứ chuyện gì, hễ chủ nhà và ông vừa mới mở miệng là bị nhà thơ
ngắt lời.
Khi “bị gợi ý”, rằng nhà thơ là một tay lang chạ, Auden phản đối, “Các
bạn có vẻ
không hiểu, tôi luôn luôn tìm kiếm một người bạn thứ thiệt”. Và giải
thích
thêm: “Mọi lang chạ trên đời là để tìm kiếm một người bạn lý tưởng.”
[Ghi chú
thêm ở đây: Auden là một nhà thơ "gay"].
Sau
bữa ăn, ông nói: “Tôi hy vọng ông Trời
cho tôi đi ở tuổi bẩy mươi. Đừng sống quá khoảng đời tự nhiên của
mình.” Ông muốn
mọi thư từ của ông được đốt bỏ, khi ông chết, như ông đã từng đốt bỏ
thư của
người cha, mà không đọc, khi cha ông mất; ông muốn bạn bè đốt bỏ thư
của ông gửi
cho họ, và điều này được ghi trong di chúc. Bằng cách đốt bỏ mọi giấy
tờ như vậy,
ông hy vọng chẳng ai có thể viết về cuộc đời của ông. Như những y sĩ
của một thời
xa xưa, giấu kín mọi khám phá y học, ông hy vọng mọi bí mật về đời mình
sẽ cùng
đi với ông xuống mồ.
***
Và
câu chuyện nàng Hélène thành Troie liệu có giông
giống chuyện hai ông thần Sơn/Thủy tranh nhau một cô công chúa con vua
Hùng?
Nhưng
Hélène đâu còn đáng kể gì nữa, khi Troie
sẵn sàng quì mọp trước những người thắng trận:
Bây
giờ người ta chẳng thèm những của cải
Pâris
Kể cả Hélène; bằng ấy kẻ, dù là
tên ngu xuẩn
nhất, đều nhận ra,
Troie bây giờ đang bên bờ thất
thủ…
“Qu’on
n’accepte à présent ni les biens de
Pâris,
Ni Hélène;
chacun voit, même le plus ignorant,
Que Troie à
présent sur le bord de la perte.”
Như vậy là
chúng ta lại trở lại với nỗi chết không rời, những trái hoả tiễn, và
câu hỏi
khi nào bạn bắt đầu làm thơ.
Simone Weil
viết:
“Điều mà họ
muốn, phải là tất cả: Tất cả những của cải của Troie, như là chiến lợi
phẩm; tất
cả những dinh thự, đền đài, nhà cửa: tro bụi; tất cả những đàn bà, trẻ
em: nô lệ;
tất cả những người đàn ông: xác chết.”
Jennifer
Tran
Robert Hass
Né con phố Descartes
Né con phố Descartes
Tớ đi xuống phía sông Seine, lấm la lấm lét, gã du lịch trẻ,
tên mán, tên mọi,
vừa mới tới thủ đô thế giới
Bọn chúng tớ, đông lắm, từ
Jassy, và Koloshvar, Wilno,
Bucharest, Saigon và Marrakesh
Xấu hổ nhớ những thói quen, truyền thống, tập quán, cổ tục ở xứ sở quê
hương
nhà chúng tớ
Những thứ mà chẳng một ai ở đây, được nghe nói tới, hay nghe kể :
Vỗ tay 1 cái,
Và thế là mấy đứa người hầu gái chân trần chạy vội vô
Vừa chia đồ ăn vừa đọc thần chú
Đọc kinh cầu nguyện, cả nhà, cả chủ lẫn tớ.
Tớ để những vùng mây mù ở
phiá sau
Tớ tiến vô xứ phổ cập, ngỡ ngàng và ham muốn
Chẳng mấy chốc, rất nhiều
đứa, từ Jassy và Koloshvar, hay
Saigon hay Marrakesh,
Bị giết vì họ muốn huỷ bỏ những tập tục ở quê nhà của họ
Chẳng mấy chốc những đồng
chí của họ ‘nàm’ cách mạng, khởi
nghĩa, nổi dậy, cướp chính quyền..
Thế là chúng làm thịt, thủ tiêu, cho đi mò tôm đám Ngụy, Việt Gian....
Nhân danh những tư tưởng đẹp đẽ, phổ cập
Trong khi đó, thành phố
ứng xử thật thích hợp với bản chất tự
nhiên của nó
Rù rì với tiếng cười ở nơi cổ họng trong bóng tối
Nướng thứ bánh mì giống như những đôi đũa và rót rượu vang vô những cái
bình,
cái vại bằng xành, bằng gốm.
Dửng dưng, như nó vẫn, tới ba cái trò vinh dự hay nhục nhã, hay cao cả,
hay vinh
quang
Bởi vì ba cái trò này thì đã được thực hiện từ đời tám hoánh nào rồi,
và tự
biến thành những đài tưởng niệm thằng chó nào chẳng ai còn biết!
Hay biến thành những bài aria thật khó mà nghe ra
Hay những tiết lảm nhảm, lèm bèm.
Thế là tớ lại dựa vào bờ
tường bằng đá cẩm thạch cứng,
Như thể tớ vừa trở về, từ những chuyến du lịch xuyên qua những thế giới
ngầm,
thế giới bên kia, vương quốc của ma quỉ,
Và bất thình lình tớ nhìn thấy ánh sáng từ cái bánh xe thời gian vào
những lúc
giao mùa
Khi những đế quốc sụm xuống, và những con người đã có thời sống, thì
bây giờ,
ngỏm mẹ tất cả rồi
Làm đếch gì có thủ đô của thế giới, dù ở đây, hay bất cứ ở nơi nào,
dù Bắc Bộ Phủ của VC, hay là Bắc Kinh của Thiên Triều!
Và những cổ tục, hủ tục, tập tục nhỏ bé đã bị huỷ bỏ, triệt tiêu, đào
thải… thì lại bò về, trong tí hào quang nho nhỏ của chúng
Và tớ ngộ ra 1 điều, thời gian của những thế hệ con người, thì đếch
phải thời
gian của trái đất!
Về những tội lỗi nặng nề
của GNV, thì tớ nhớ ra 1 cái, thật
là sống động:
Như thế nào, một lần, đi trên một con đường, bên 1 con suối, trong 1
cánh rừng,
Tớ đẩy 1 hòn đá lên 1 con rắn nước nằm cuộn tròn trên cỏ,
Và những gì mà tớ gặp phải ở trên cõi đời ô trọc này thì đều là những
hình phạt
do tội lỗi đó mà ra!
Thứ hình phạt sẽ tới với bất cứ 1 ai, bất cứ kẻ nào dám bẻ gẫy một
ta-bu, 1
điều cấm kỵ!
Czeslaw Milosz/GNV
Milosz viết:
Mặc dù những tư tưởng phổ
cập thì không còn hứng thú cho lắm
đối với chúng tôi, từ Wilno, Warsaw, hay Budapest, điều này không có
nghĩa,
chúng mất mẹ hứng thú ở mọi nơi. Những tên ăn thịt người trẻ tuổi, nhân
danh
những nguyên lý cứng nhắc, làm thịt [M dùng chữ butcher], nhân dân của
chúng,
là dân chúng Cambodia, đám này đều đã từng du học Paris, học Sorbonne.
Chúng
giản dị trồng những tư tưởng triết học mà chúng học được, tại xứ sở của
chúng,
[giống như Bác H của Mít chúng ta, áp dụng 1 cách thông mình, thiên tài
vào xứ
Mít, trồng trẻ con Bắc Kít, bằng nọc độc hận thù!]
Ui chao, GNV này đã từng
viết y chang, như trên [lại tự thổi,
hà hà!], trong truyện ngắn "đầu tay", khi còn ở trại tị nạn Thái Lan:
Gặp lại những nhân vật của
Koestler, những nhân vật văn
chương còn mang nặng những nét đặc thù của nguyên mẫu ngoài đời, những
Roubachof suốt đời tắm bằng máu của kẻ khác, kể cả của người yêu, bạn
bè, đến
khi chết lại mong trở thành những Thánh Tử Đạo, đọc lại nhhững câu văn
mang sự
thực khủng khiếp còn hơn cả những lời nguyền rủa: "Bằng roi vọt chúng
ta
quất lên đám đông đang rên rỉ, bắt họ hướng về hạnh phúc chỉ có tính
tương lai
và hoàn toàn lý thuyết...", tôi bỗng nhận ra một điều thật giản dị: Nếu
những tác phẩm lớn đều cưu mang trong nó bóng dáng của những tác phẩm
lớn khác
- một cách nào đó Hemingway chú giải Joyce, Camus mô phỏng Kafka, rõ
ràng
Garcia Marquez viết lại Faulkner... - Cũng vậy, những bạo chúa chỉ là
những bản
sao của những bạo chúa khác. Staline bắt chước Néron, cả hai đều có
tham vọng
văn chương, một muốn làm thi sĩ, một muốn ngự sử văn đàn, kẻ ban phát
giải
thưởng văn học. Mao diễn lại tuồng đốt sách, chôn học trò. Molotov chỉ
mong
người đời coi là một Robespierre của Cách Mạng Nga. Người ra lệnh bắn
vào sinh
viên biểu tình tại Thiên An Môn là một học trò đắc ý của Chu Ân Lai,
ông này
lại là một học trò đắc ý nhất của Cách Mạng Pháp. Polpot đã từng du học
ở
Paris. Tất cả đều tâm đắc một điều: Không có một cuộc cách mạng nào mà
không có
quá độ. Một cuộc cách mạng không đổ máu thì rất đáng ngờ.
Lần Cuối Sài
Gòn
V/v Làm thịt con rắn nước.
Milosz giải thích, vấn đề
không phải làm thịt bất cứ 1 sinh
vật là tội lỗi, nhưng mà là, ở xứ Lithuania của chúng tôi, rắn nước
được coi là
linh thiêng [holy]. Người ta thường đặt những bình sữa ở trước thềm nhà
cho
chúng, và coi chúng tượng trưng cho sự màu mỡ, sự màu mỡ của đất đai,
và của gia
đình, và Mặt Trời yêu mấy chú rắn nước. Có 1 bài đồng dao Lithuania,
“Đừng để 1
chú zaltys chết trên mặt cỏ. Hãy chôn nó. Chỉ nội nhìn thấy 1 chú rắn
nước nằm
chết trên mặt cỏ là mặt trời bật khóc”
Czeslaw Milosz: The
Witness of Poetry
BYPASSING
RUE DESCARTES
Bypassing rue Descartes
I descended toward the Seine, shy, a traveler,
A young barbarian just come to the capital of the world.
We were many, from Jassy
and Koloshvar, Wilno and
Bucharest, Saigon and Marrakesh,
Ashamed to remember the customs of our homes,
About which nobody here should ever be told:
The clapping for servants, barefoot girls hurry in,
Dividing food with incantations,
Choral prayers recited by masters and household together.
I had left the cloudy
provinces behind,
I entered the universal, dazzled and desiring.
Soon enough, many from
Jassy and Koloshvar, or Saigon or
Marrakesh
Were killed because they wanted to abolish the customs of
their homes.
Soon enough, their peers
were seizing power
In order to kill in the name of the universal beautiful ideas.
Meanwhile, the city
behaved in accordance with its nature,
Rustling with throaty laughter in the dark,
Baking long breads and pouring wine into clay pitchers,
Buying fish, lemons and garlic at street markets,
Indifferent as it was to honor and shame and greatness and
glory,
Because that had been done
and transformed itself
Into monuments representing nobody knows whom,
Into arias hardly audible and into turns of speech.
Again I lean on the rough
granite of the embankment,
As if I had returned from travels through the underworlds
And suddenly saw in the
light the reeling wheel of the
seasons
Where empires have fallen
and those once living are now dead.
There is no capital of the world, neither here nor anywhere else,
And the abolished customs are restored to their small fame,
And I know the time of human generations is not like the time
of the earth.
As to my heavy sins, I
remember one most vividly:
How, one day, walking a forest path along a stream,
I pushed a rock down onto a water snake coiled in the grass.
And what I have met with
in life was the just punishment
Which reaches, sooner or later, everyone who breaks a taboo.
Czeslaw Milosz: The
Witness of Poetry. Starting from My
Europe
Note: Robert Hass "cũng"
chọn bài
thơ này, trong Now & Then.
Và tất nhiên, cũng đi 1 đường lèm bèm thật thú vị
về nó.
*
Note: "cúi"!
Không phải cuối!
Bài thơ thấy
post trên Blog DTL, cũng lâu rồi.
Gấu không dám lên tiếng, sợ bạn quí bực mình!
Hà, hà!
Cỏ
Em bao giờ là thiên nhiên
anh cúi đầu xuống ngực
dòng mưa sắc lá
đau môi
Cỏ của hoa và hoa của cỏ
những ngón tay những gót chân những nụ cười
nắng tháng ba mưa tháng bảy sương tháng chín
cho thơm đường hôm nay đến sớm mai
hôn từ những ngày dài tội lỗi
chưa quên
Gai trắng con ngươi mở mù loà
hơi đất nằm trong tóc
thèm muốn mỗi hàm răng
từng móng vuốt
đầy đồng xanh hoa nhiều màu một người
sống sót
Cỏ ơi cỏ kết thành lời
dàn nhạc huy hoàng
cô đơn
Giấc vụng về
tia nhọn sáng
đừng rơi hoàng hôn cánh rừng dầy
những ngực thương nhau
không áo
vì cỏ dại rối bời
Chúng ta ôm thời gian trong suốt
chẳng phân vân
như mặt trời chuyện trò cùng lũ cỏ
như lá cây thầm ngã phủ vai trần
như tiếng tim thốt cười ngoài dĩ vãng
TTT: Liên Đêm
Mặt Trời Tìm Thấy [talawas]
Ghi
chú
trong ngày
Akhmatova: Nửa Thế Kỷ Của Tôi
Life is for
others, not for you,
Cold in the snow you lie,
Bayonets made twenty-eight wounds,
Bullets-another five.
A garment of new grief I made,
I sewed it for my love.
Oh Russian earth, it loves the taste,
It loves the taste of blood.
Akhmatova
Đời dành cho
kẻ khác, đâu phải cho anh
Tuyết
lạnh
anh nằm
Lưỡi lê
anh
lãnh: hai mươi tám mũi
Cộng thêm
năm
vết đạn
Tấm áo,
nỗi đau
mới,
Tôi may
nó
cho tình tôi.
Ôi đất
Nga ơi,
mi yêu mùi vị,
Của máu
It
was not, however, as a research editor or a memoirist but as a poet
that
Akhmatova gave her most immediate, personal response to the deaths of
Gumilyov
and Blok and the destruction of the world of her youth. After the
virtual
silence of 1920, Akhmatova wrote some thirty-four poems in 1921,
eleven of
which are specifically dated August 1921. These poems are filled with
images of
bitter and irreversible separation, violence, and death. They reflect
not only
Akhmatova's personal agony, but the agony of her country. Thus in one
lyric of
eight simple and devastating lines she uses traditional folk diction
and
imagery to evoke the lament of a Russian peasant Everywoman.
The Word
That Causes Death’s Defeat: Poems of
Memory
Nancy K.
Anderson dịch, giới thiệu, chú giải…
Chẳng
phải biên tập viên nghiên cứu, hay tưởng niệm, hồi ức gia, nhưng,
như nhà
thơ, Akhmatova đã đưa ra một ứng đáp nóng hổi nhất, riêng tư nhất,
trước những
cái chết của Gumilyov và Blok và sự huỷ diệt thế giới
tuổi trẻ của bà. Sau sự im lặng giả đò,
ảo, của năm 1920, liền năm sau, 1921, bà cho ra lò 34 bài thơ, 11 bài
trong đó
cho biết
rõ thời điểm sáng tác: Tháng Tám 1921; chất chứa trong chúng là những
hình ảnh
cay đắng, chia ly bất phản hồi, hung bạo, và cái chết. Chúng phản ảnh
không chỉ
cơn hấp hối của cá nhân nhà thơ, mà còn của xứ sở của bà.
Đọc Bi Khúc
của Liu Xiaobo, GCC nhớ tới Akhamatova, nhớ tới “Cái Từ Đuổi Thần
Chết
Chạy Có Cờ”.
Anna
Akhmatova qua nét vẽ David Levine, NYRB
Được chụp
hình, được họa nhiều nhất, trong các thi sĩ.
Nhìn
nghiêng, chỉ cần nhìn cái mũi, là nhận ngay ra Bà.
Ở vào một
vài giai đoạn của lịch sử, chỉ có thơ mới có thể chơi ngang ngửa với
thực tại,
bằng cách nhét chặt nó vào một cái gì mà nhân loại có thể nâng niu,
hoặc giấu
diếm, ở trong lòng bàn tay, một khi cái đầu chịu thua không thể nắm bắt
được."
"Theo
nghĩa đó, cả thế giới nâng niu bút hiệu Anna Akhmatova."
Joseph
Brodsky
"Tôi
mang cái chết đến cho những người
thân của tôi
Hết người
này tới người kia gục xuống.
Ôi đau đớn
làm sao! Những nấm mồ
Đã được tôi
báo trước bằng lời."
"I
brought on death to my dear ones
And they
died one after another.
O my grief!
Those graves
Were
foretold by my word." (1)
Anna
Akhmatova
.
Boris
Pasternak
Pasternak's
poems are like the flash of a strobe light-for an instant they reveal a
corner
of the universe not visible to the naked eye. I fell in love with these
poems
as a child. They were magical, fragments of the natural world captured
in words
that I did not always understand. Pasternak was my father's favorite
poet. In
the evenings he often recited his poems aloud, as did Marina
Tsvetayeva, a
friend of the family who often came to our house in those years before
the war.
Long
afterwards, George Plimpton and Harold Humes brought the live Pasternak
into my
life. A year or so after the resounding success of Doctor Zhivago, when
the
dust had begun to settle on the scandal of his being forced to give up
the
Nobel Prize, they sent me on a mission to Moscow to interview the poet
for The
Paris Review.
I'll never
forget that sunny day at Peredelkino in the winter of 1959-1960, a few
months
before Pasternak died. The sparkling snow, the fir trees, the half torn
note
pinned to the door on the veranda at the side of the house: "I am
working
now. I cannot receive anybody. Please go away." On an impulse, thinking
of
the small gifts I was bringing the poet from admirers in the West, I
did knock.
The door opened.
Pasternak
stood there, wearing an astrakhan hat. When I introduced myself he
welcomed me
cordially as my father's daughter- they had met in Berlin in the
twenties.
Pasternak's intonations were those of his poems. In an instant the
warm,
slightly nasal singsong voice assured me that my parents' country still
existed
and that it had a future as real as that sunny day. Today, no matter
how harsh
life in Russia is, that flash of feeling is proven true. Russia has
survived,
and the natural world around us which Pasternak celebrated is as
wondrous as
ever.
- Olga
Carlisle
Thơ của
Pasternak thì như “strobe light” – nhoáng 1 phát, nó
vén lên một góc vũ trụ,
mắt thường, mắt trần không nhìn thấy. Tôi tương tư những bài thơ, ngay
từ
khi còn là 1 đứa trẻ. Chúng mới thần kỳ, ma mị làm sao, những
mảnh vụn của thế
giới tự nhiên, bình thường được tóm bắt vào những từ mà tôi luôn không
hiểu.
Pasternak là
nhà thơ “favorite” của ông già tôi. Vào những buổi chiều tối, ông
thường lớn giọng
đọc cho tôi nghe những bài thơ của Pasternak, hay của Marina
Tsvetayeva, một
nguời bạn trong gia đình, thường tới nhà tôi những năm trước chiến
tranh.
Mãi, mãi,
sau đó, George Plimpton and Harold Humes mang một Pạt sống vào trong
cuộc đời của
tôi. Một năm, hay cỡ đó, sau cái không khí sang sảng kêu như chuông,
của Dr. Zhivago, khi bụi đã bốc lên xóa mờ xì
căng đan - bị bắt buộc không được nhận giải - họ, hai đấng trên, trao
cho tôi mission,
tới Moscow, gặp nhà thơ, làm 1 cú phỏng vấn cho tờ The
Paris Review.
Tôi
không bao giờ quên được ngày nắng đó, ở Peredelkino, vào mùa đông
1959-1960, chỉ
vài tháng trước khi Pasternak mất. Tuyết long lanh, những cây linh sam,
một nửa
mẩu giấy găm trên cánh cửa hành lang bên phiá căn nhà: “Lúc này tôi
đang bận việc.
Tôi không tiếp ai. Làm ơn khi khác.” Nghĩ đến những gói quà nhỏ tôi
mang tới
cho nhà thơ từ những người mến mộ ông, từ Tây Phương, bất giác tôi giơ
tay gõ cửa.
Cửa mở.
Pasternak
đứng đó, đội 1 cái mũ astrakhan. Khi tôi tự giới thiệu, ông niềm nở đón
tiếp,
như là cô con gái của ba tôi - cả hai đã từng gặp nhau ở Berlin, vào
thập niên
1920. Giọng nói của ông như giọng thơ của ông. Trong một thoáng, cái
giọng nói ấm
áp, có tí giọng mũi, nghe như hát, bảo đảm cho tôi một điều, là xứ sở
của cha mẹ
tôi vẫn hiện hữu, và nó đã có 1 tương lai, thực, như ngày nắng này. Bây
giờ, dù
cuộc sống ở Nga cực nhọc cỡ nào, cái thoáng chốc của cảm giác đó, được
chứng thực.
Nga xô đã sống sót, và cái thế giới thiên nhiên chung quanh chúng tôi
mà
Pasternak ăn mừng, thì thần kỳ, tuyệt cú mèo, như vẫn là, như mãi mãi
vưỡn là.
*
Đọc bài viết 1 phát, thì
cái đầu óc bịnh hoạn của Gấu Cà Chớn
lại hiện ra cái cảnh 1 nhà thơ hải ngoại, đi cùng, cũng 1 nhà thơ hải
ngoại -
bạn của GCC, nhưng còn là cựu sĩ quan VNCH, bỏ chạy kịp trước 30 Tháng
Tư 1975,
không có lấy 1 ngày cải tạo làm thưốc chữa bịnh lưu vong - bèn bò về,
xin yết
kiến nhà thơ HC, và 1 ông châm cái đóm, hầu thuốc lào nhà thơ số 1 Đất
Bắc!
Và nhà thơ HC bèn an ủi
hai nhà thơ hải ngoại, quê hương của
chúng ta vưỡn còn!
Thơ Mít vưỡn còn!
Lá diêu bông cũng vưỡn còn, nhưng thuộc hàng chiến lược, hàng xuất khẩu
quan
trọng, qua xứ người nhiều rồi!
Thơ
Mỗi Ngày
NOVEMBER 21 [1999]
Thanksgiving:
Daniel Halpern
Anyone who
has had a newborn arrive in their life knows how powerful and hard to
describe
the emotions are. Twentieth-century poets have mostly stayed away from
them.
They are too frail. They are not mammal grief and rage, even though
they can
turn into grief and rage. (That's what King Lear is about.) And the
example of
the tradition of domestic and familial poetry in Victorian America has
not
encouraged us. It made the subject seem impossible to approach without
sentimentality. Language makes the distinction: we speak of anger and
desire as
"feeling," the tender and uneasy stuff around the helplessness of
infants, and the impulse to protect children we call "sentiment." And
it's probably well that we do. Because they are frail emotions, and
they are
capable of turning into something quite savage. Nevertheless it is a
deep
thing, the wonder (and fear) at the arrival of a newborn child, and the
process
of-hard to know how else to say it-falling in love that parents go
through with
this creature given into their care. How do you talk about it?
Daniel Halpern, in his new book Something Shining (Knopf),
takes the subject on. He's my editor, and an old friend, and a poet
I've been
reading for twenty years or more. I've always thought of him as a poet
on the model
of the Roman poet Horace, with a poised and immensely civilized mind
for the
life we live, its large and small panics and decorums, and a civilized
balance
in his verse, in which orderliness can sometimes seem sinister and wry,
and
sometimes seem a gift, the kind of gift social being can give to one
another,
like a well-set table. Reading him has, over the years, made for very
good
company, this intelligence that is reasonably disenchanted, keeps an
eye on the
decades as they pass, the telling particulars in the social habits of a
generation, its ardors, suavities, and defeats.
And now this book that requires another kind of
poise. How do
you write about the whole business of becoming a parent, and about the
way this
attachment, this profound and life-defining tenderness and wonder,
grows in us.
He goes straight to it, and succeeds, I think. Have a look:
After the
Vigil
They turn
up, no longer nameless,
their bodies
clear, so nearly pure
they appear
in morning light transparent.
They turn up
and one day look at you
for the
first time, their eyes sure now
you are one
of theirs, surely here to stay.
They turn up
wearing an expression of yours,
imitating
your mouth, the smile perfected
over years
of enduring amusing moments.
They turn up
without a past, their fingers,
inexact
instruments that examine what carpets
their turf,
what they inherit through blood.
They turn up
with your future, if not in mind
very much in
the explosive story of their genes,
in gesture
foreshadowing the what's-to-come.
They turn up
with your hair-albeit not much
of
it-something in the color, the curl of it
after the
bath, its bearing after sleep.
They turn up
already on their own, ideas
of their
own, settling on their own limits,
their
particular sense of things.
They turn up
and we have been waiting,
as they have
without knowing. They turn
into this
world, keeping their own counsel.
Note: Bài
thơ thật tuyệt, post, rồi quên, chưa dịch (1)
NOVEMBER 21 [1999]
Thanksgiving:
Daniel Halpern
Anyone who
has had a newborn arrive in their life knows how powerful and hard to
describe
the emotions are. Twentieth-century poets have mostly stayed away from
them.
They are too frail. They are not mammal grief and rage, even though
they can
turn into grief and rage. (That's what King Lear is about.) And the
example of
the tradition of domestic and familial poetry in Victorian America has
not
encouraged us. It made the subject seem impossible to approach without
sentimentality. Language makes the distinction: we speak of anger and
desire as
"feeling," the tender and uneasy stuff around the helplessness of
infants, and the impulse to protect children we call "sentiment." And
it's probably well that we do. Because they are frail emotions, and
they are
capable of turning into something quite savage. Nevertheless it is a
deep
thing, the wonder (and fear) at the arrival of a newborn child, and the
process
of-hard to know how else to say it-falling in love that parents go
through with
this creature given into their care. How do you talk about it?
Daniel Halpern, in his new book Something Shining (Knopf),
takes the subject on. He's my editor, and an old friend, and a poet
I've been
reading for twenty years or more. I've always thought of him as a poet
on the model
of the Roman poet Horace, with a poised and immensely civilized mind
for the
life we live, its large and small panics and decorums, and a civilized
balance
in his verse, in which orderliness can sometimes seem sinister and wry,
and
sometimes seem a gift, the kind of gift social being can give to one
another,
like a well-set table. Reading him has, over the years, made for very
good
company, this intelligence that is reasonably disenchanted, keeps an
eye on the
decades as they pass, the telling particulars in the social habits of a
generation, its ardors, suavities, and defeats.
And now this book that requires another kind of
poise. How do
you write about the whole business of becoming a parent, and about the
way this
attachment, this profound and life-defining tenderness and wonder,
grows in us.
He goes straight to it, and succeeds, I think. Have a look:
After the
Vigil
They turn
up, no longer nameless,
their bodies
clear, so nearly pure
they appear
in morning light transparent.
They turn up
and one day look at you
for the
first time, their eyes sure now
you are one
of theirs, surely here to stay.
They turn up
wearing an expression of yours,
imitating
your mouth, the smile perfected
over years
of enduring amusing moments.
They turn up
without a past, their fingers,
inexact
instruments that examine what carpets
their turf,
what they inherit through blood.
They turn up
with your future, if not in mind
very much in
the explosive story of their genes,
in gesture
foreshadowing the what's-to-come.
They turn up
with your hair-albeit not much
of
it-something in the color, the curl of it
after the
bath, its bearing after sleep.
They turn up
already on their own, ideas
of their
own, settling on their own limits,
their
particular sense of things.
They turn up
and we have been waiting,
as they have
without knowing. They turn
into this
world, keeping their own counsel.
FEBRUARY I [1998]
Một
nhà thơ Ba Lan: Adam
Zagajewski
Một trong những thơ đương thời
mà tôi mê, là Adam Zagajewski, một
nhà thơ Ba Lan, sống ở Paris, thành viên của thế hệ "Solidarity". Hai
tập thơ, và hai tập tiểu luận của ông, là những tác phẩm [đầy tính]
tưởng
tượng, và ngạc nhiên, về chính trị, và nghệ thuật. Mới đây, ông có nửa
năm làm
thầy ở Houston. Và ở đây, 1 bài thơ, từ cuốn mới ra lò của ông, Chủ
nghĩa
thần bí cho những người mới bắt đầu, là từ kinh nghiệm này. Một bài
thơ về
1 cái đầu lừ khừ, vào cái giờ chạng vạng, khi ý thức lập loè như ánh
đèn của
viên phi công:
Houston, 6
P.M.
Âu Châu đã
ngủ rồi, ở bên dưới cái khăn choàng xộc xệch, thô kệch
Của những
biên giới,
Và những hận
thù cũ, xưa: Pháp làm ổ tới Đức,
Bosnia trong
vòng tay của Serbia.
Lobely
Sicily trong biển xanh da trời
Mới đầu buổi
chiều, ở đây, đèn đã thắp,
Và mặt trời
u tối nhạt nhòa dần.
Tôi một
mình. Đọc tí tí, nghĩ tí ti.
Nghe ti ti
tí âm nhạc.
Tôi ở nơi,
có tình bạn,
Nhưng không
có một người bạn, nơi say mê,
Nở rộ không
cần sự thần kỳ
Nơi người chết
cười ha hả.
Tôi một mình
là bởi vì Âu Châu đang ngủ.
Tình yêu của
tôi ngủ trong một căn nhà cao ở ngoại vi Paris.
Ở Krakow và ở
Paris bạn bè của tôi,
Lội qua cùng
con sông lú, lấp, quên lãng.
Tôi đọc và
nghĩ; trong một bài thơ tôi thấy câu này,
“Có những cú
đánh thật khủng khiếp… Đừng hỏi!”
Tôi đếch hỏi,
tất nhiên.
Một chiếc trực
thăng làm vỡ mẹ buổi chiều êm ả.
Ở đây không
có những loài chim “nightingales” hay “blackbirds”.
Với tiếng
hót buồn, ngọt của chúng
Và bắt chước
mọi tiếng người.
Thơ vời
chúng ta tới với cuộc sống, với sự can đảm
Đối diện cái
bóng lớn mãi ra.
Bạn có thể
đưa mắt nhìn một cách bình thản Trái Đất
Như một phi
hành gia tuyệt hảo?
Dưng không,
Từ biếng
nhác vô hại,
Từ Hy Lạp của
những cuốn sách
Từ Jerusalem
của hồi tưởng;
Bất thình
lình xuất hiện
Một hòn đảo
của một bài thơ, không có người ở;
Một tên
[thuyền trưởng] Cook mới
Sẽ có một
ngày, khám phá ra nó.
Âu Châu thì
đã ngủ rồi.
Những con
thú của ban đêm,
Ảm đạm, và
tham lam
Dọn vô, mở
cuộc giết
Chẳng mấy chốc
Mẽo cũng ngủ.
Người dịch là
Clare Cavanagh. Một bài thơ không đơn giản. Rắc rối, phải nói thế - lưu
vong, mất
mát, ở 1 nơi mà anh ta chẳng cảm thấy chân của mình dính vào đất, hay,
như một mầm hạt, loay hoay tìm cách trổ rễ; cảm quan sắc bén về bạo
động của lịch sử, cái lừ đừ của nhịp sống của chúng ta, như 1 đáp ứng
[tương quan], với bạo
lực đó, "chuyện thường ngày ở huyện" liên quan đến “ngũ khoái” của
chúng
ta (ăn ngủ, đi đứng…). Cảm quan của
Zagajewski về quyền năng nghệ thuật - của những cuốn sách, âm nhạc,
thơ ca –
thì chẳng hề tiếu lâm khôi hài, hay mỉa mai châm biếm. Trong tác phẩm
của ông, Trái
đất thuộc về cái bóng, thơ, về can đảm và ánh sáng. Nhưng trong bài thơ
này,
thơ là 1 hòn đảo, không người ở, chờ được khám phá, và trong khúc thơ
chót, những
con vật của đêm bèn tiến vô. Quả là 1 bài “Ru mãi ngàn năm" khá khủng
khiếp!
“Có những cú
khủng khiếp… Đừng hỏi”, là dòng thơ thứ nhất, dùng làm tựa đề cho bài
thơ, từ tập
thơ đầu tiên của nhà thơ lớn, người Peru, César
Vallejo, mất năm 1938, nhan đề “Los
Heraldos Negros”, “Những
thiên sứ đen”. Cuốn thơ và bài thơ đều rất đáng tìm đọc. Còn chi tiết
này: Có
loài chim hét, blackbird, ở Texas, nhưng không phải Turdus
merula, the European blackbird, một loài chim hét
Âu Châu,
hót rất hay.
Tiểu luận và
thơ của Zagajewski thì thật đáng đọc. Cả hai thì đều sáng ngời, thông
minh một
cách sắc sảo, chất khôi hài ở trong đó thì được chắt ra từ cuộc gặp gỡ
của Đông
Âu với lịch sử, và cũng đầy niềm vui bất ngờ. “Chủ nghĩa thần bí dành
cho những
kẻ mới bắt đầu” có những phẩm chất đó, và, cũng còn có, một nỗi buồn
rầu liên lỉ,
như thể, khi lịch sử, qua một bước ngoặt đáng khuyến khích của nó, như
ở Ba
Lan, những cảnh sắc chán chường mà chúng ta cưu mang ở trong chúng ta,
và của
thế giới, tiếp tục “u u”, những âm vang, với bạo lực và nỗi khốn cùng,
ở đâu đó,
được làm mới, và trở nên sáng sủa hơn.
Tại sao những nhà cổ điển.
Tôi chọn bài thơ này sau tí
ngần ngừ. Tôi không coi dây là bài thơ
bảnh nhất của tôi, cũng không coi nó đại diện cho chương trình thơ tôi.
Tôi nghĩ,
nó có hai đức hạnh: giản dị, khô ráo, và “nói lên” vấn đề rất cận kề
trái tim tôi,
đếch cần hoa lá cành, hay văn vẻ.
….
Cái nhìn của chủ nghĩa lãng
mạn, nhà thơ phải phơi trần vết thương
của mình ra, kể lể về những bất hạnh, [về nỗi cô đơn của bầy ngựa
hoang, thân phận nhược tiểu da vàng... trong
cuộc chiến Mít, thí dụ]
vuỡn còn được nhiều người hưởng ứng vào những ngày này, mặc dù những
thay đổi về văn phong, và khiếu thưởng ngoạn.
Phổ cập mà nói, thì "nó" [chủ nghĩa vãi linh hồn] phán, nghệ sĩ có
quyền thiêng liêng với cái chủ quan, tao là bố
thiên hạ, tao số 1....
Ghi
chú
trong ngày
Dante
Chàng đếch thèm trở lại
Ngay cả sau khi mất
Thành phố Hà Lội của chàng
Rời bỏ, chàng đi thẳng một mách
Vì chàng mà tôi hát bài hát này
Đêm. Một bó đuốc. Nụ hôn sau cùng.
Bên ngoài, âm thanh số mệnh – Như gió hú
Từ Địa Ngục, chàng gửi cho nàng một lời trù ẻo.
Ở Thiên Đàng, nàng vẫn giữ chàng ở trong đầu
Chàng không bước chân trần, muộn trong đêm
Bị quyến rũ, như 1 tên tội đồ
Qua Hà Lội - phản bội, đầy hờn oán
Thành phố chàng chân thành ao ước.
Bài thơ trên, kỳ cục thay
- tuyệt vời thay - làm liên tưởng tới nhà thơ tội đồ gốc Bắc Kít, trong
bài thơ nhớ vợ; cũng cái giọng ngôi thứ nhất, cũng chỉ là riêng tư, mà
trở thành “sử thi” của lũ Ngụy.
Bài thơ thần sầu nhất của Thơ Ở Đâu Xa: Bài Nhớ Thi Sĩ
Đâu có phải tự nhiên mà
đám sĩ quan VNCH lại phổ thơ, và đi đường tụng ca, khi còn ở trong tù
VC.
Mỗi ông thì đều có 1 bà vợ
như vậy.
Thơ
Mỗi Ngày
BAMBOO
GARDEN
Bad luck, my
very own, sit down and listen to me:
You make
yourself scarce for months at the time
Making
preparations for some new calamity,
Then come to
shake me awake some dark night,
Wiping the
sweat off your face, asking
For a glass
of water, while mumbling something
About how a
mixed bag of misery and laughter
Is all that
I can expect from a life like mine,
While I
listen, none the wiser like a blind man
Holding a
fortune cookie in a Chinese restaurant
And waiting
for a waiter to come along
And read it
to him, but there isn't one coming,
'Cause it's
late and the Bamboo Garden is closed.
Vườn Tre
Vận rủi "rất"
rất riêng của ta, hãy ngồi xuống, và lắng nghe ta nói:
Mi làm mặt lạnh,
làm mặt khó mấy tháng nay,
Như thể mi đang
sửa soạn 1 cú tai ương mới nào đó
Rồi thì một đêm
âm u, mi tới đánh thức ta dậy
Lau mồ hôi trên
mặt
Hỏi xin ta ly
nước lạnh
Trong lúc lẩm
bẩm cái con mẹ gì đó,
Hình như là
về
Làm thế nào
trộn cái khốn cùng của dân Mít
Với tiếng cười sảng khoái của Lũ Quỉ, Đại Gia Đỏ?
Và, liệu đó, là tất cả những gì, một tên
Gấu Cà Chớn mong ước, trong cõi đời của nó?
Trong lúc Gấu
ngồi lắng nghe, chẳng khôn ngoan gì hơn 1 anh mù
Tay cầm cái
kẹo trong có câu thần chú may rủi ở 1 tiệm ăn Tầu
Đợi người bồi
đi ngang để đọc cho nghe.
Nhưng chẳng
có ma nào
Bởi là vì đã
quá khuya, và Vườn Tre đã đóng cửa.
Robert Hass: Now & Then
FEBRUARY I [1998]
A Polish
Poet: Adam Zagajewski
One of my
favorite contemporary poets is Adam Zagajewski, a Polish poet who lives
in
Paris. Zagajewski was a member of the generation of
Polish
writers who came of age during the Solidarity years. Two volumes of
translations of his poems have been published in English, Tremor
and Canvas, both from Farrar, Straus
&
Giroux, and two volumes of his essays, Solidarity,
Solitude (Ecco Press) and Two Cities
(Farrar, Straus & Giroux), imaginative and surprising books about
politics
and art. Lately, he has been teaching half the year in Houston. And
here, from
his new book, Mysticism for Beginners
(Farrar, Straus & Giroux), is a poem that comes out of that
experience.
It's a poem of the idling mind in that hour of dusk when consciousness
flickers
like a pilot light:
Một trong những
thơ đương thời mà tôi mê, là Adam Zagajewski, một nhà thơ Ba Lan, sống
ở Paris, thành viên của
thế hệ "Solidarity". Hai tập thơ, và hai tập tiểu luận của ông, là
những tác phẩm
[đầy tính] tưởng tượng, và ngạc nhiên, về chính trị, và nghệ thuật. Mới
đây, ông
có nửa năm làm thầy ở Houston. Và ở đây, 1 bài thơ, từ cuốn mới ra lò
của ông, Chủ nghĩa thần bí cho
những người mới bắt đầu, là từ kinh nghiệm này. Một bài
thơ về 1 cái đầu lừ khừ, vào cái giờ chạng vạng, khi ý thức lập loè như
ánh đèn
của viên phi công:
Houston, 6 P.M.
Europe
already sleeps beneath a coarse plaid of borders
and ancient
hatreds: France nestled
up to
Germany, Bosnia in Serbia's arms,
Lobely
Sicily in azure seas.
It's early
evening here, the lamp is lit
and the dark
sun swiftly fades.
I'm alone. I
read a little, think a little,
listen to a
little music.
I'm where
there's friendship,
but no
friends, where enchantment
grows
without magic,
where the
dead laugh.
I'm alone
because Europe is sleeping. My love
sleeps in a
tall house on the outskirts of Paris.
In Krakow
and Paris my friends
wade in the
same river of oblivion.
I read and
think; in one poem
I found the
phrase "There are blows so terrible ...
Don't
ask!" I don't. A helicopter
breaks the
evening quiet.
Poetry calls
us to a higher life,
but what's
low is just as eloquent,
more
plangent than Indo-European,
stronger
than my books and records.
There are no
nightingales or blackbirds here
with their
sad, sweet cantilenas,
and mimics
every living voice.
Poetry
summons us to life, to courage
in the face
of the growing shadow.
Can you gaze
calmly at the Earth
like the
perfect astronaut?
Out of
harmless indolence, the Greece of books,
and the
Jerusalem of memory there suddenly appears
the island
of a poem, unpeopled;
some new
Cook will discover it one day.
Europe is already
sleeping. Night's animals,
mournful and
rapacious,
move in for
the kill.
Soon America
will be sleeping, too.
The
translator is Clare Cavanagh. It's a complicated poem-the exile at a
loss in a
place where he cannot feel roots, or rather like some seed beginning
tentatively to send out roots; the acute sense of the violence of
history, the
oddness of the circadian rhythms of our lives in relation to that
violence, the
ordinariness of sleeping and waking. Zagajewski's sense of the power of
art-of
books, music, poetry-is never ironic. In his work Earth belongs to the
shadow,
poetry to courage and the light. But in this poem, anyway, poetry is an
island,
unpeopled, waiting to be discovered, and in the last stanza the night
animals
are moving in. A rather terrible lullaby.
There are
perhaps a couple of details to gloss. The line "There are blows so
terrible ... Don't ask" comes from the great Peruvian poet César
Vallejo
who died in 1938. This comes from the first line of the title poem of
his first
book, Los Heraldos Negros (The Black
Messengers). It is a book and a poem
very much worth looking up. And another detail: there are, of course,
blackbirds in Texas, but not Turdus
merula, the European blackbird, which is a species of thrush and
has a very
rich song.
Zagajewski's
essays and poems are worth getting to know. Both can be radiant,
sharply
intelligent, suffused with an irony bred of Eastern Europe’s encounter
with
history, but full also of unexpected joy. Mysticism
for Beginners has these qualities, also a restless melancholy, as
if, when
history takes an encouraging turn, as it has in Poland, the despairing
landscapes
that we carry inside us and that the world keeps echoing with renewed
violence
and misery elsewhere become more clear.
Note: Adam Zagajewski
continues to
spend time in Houston, but he has moved to Krakow from Paris, and a
volume if
selected poems in translation has appeared, Without End,
and
another collection of prose, In Defense of Ardor (both
published by Farrar, Straus & Giroux).
Lament for
the makers: Khóc người làm thơ
ROBERT
FROST
NEITHER OUT
FAR NOR IN DEEP
The people
along the sand
All
turn and
look one way
They
turn
their back on the land.
They
look at
the sea all day.
As long as
it takes to pass
A ship keeps
raising its hull;
The wetter
ground like glass
Reflects a
standing gull.
The land may
vary more;
But wherever
the truth may be-
The water
comes ashore,
And the
people look at the sea.
They cannot
look out far.
They cannot
look in deep.
But when was
that ever a bar
To any watch
they keep?
Không xa mà
cũng chẳng sâu
Ném mẩu thuốc
cuối cùng xuống dòng sông
Mà lòng mình
phơi trên kè đá
TTT
Đám người dọc
theo cát
Tất cả quay
và nhìn một phía.
Lưng xoay vô
đất
Mắt nhìn biển
cả ngày.
Con tàu dâng thân lên
Chừng nào
nó đi qua
Thân tầu, lóng
lánh như mặt gương,
Phản chiếu một hải âu đứng sững.
Đất có thể
tang thương như thế nào
Một khi sự
thực thì như thế nào đó –
Nước vẫn tạt
vô bờ
Và mọi người
nhìn ra biển
Họ không thể
nhìn xa
Họ không thể
nhìn sâu
Nhưng liệu có
1 cái kè đá nào
Cho bất cứ 1
cái nhìn mà họ giữ?
Bài thơ "Houston,
Sáu Giờ Chiều", Gấu tính dịch lâu rồi, nhưng lại nghĩ, để dành cho mấy
đấng thi sĩ Mít, cư
ngụ ở vùng này.
Nhưng ‘số phận” biểu, quà/quả đó, là của mi đấy!
Cung kính không
bằng tuân lệnh.
Bèn chơi luôn!
Houston, 6 P.M.
Âu Châu đã
ngủ rồi, ở bên dưới cái khăn choàng xộc xệch, thô kệch
của những biên giới,
và
những hận thù cổ lỗ: Pháp làm ổ tới Đức,
Bosnia trong vòng tay của
Serbia.
Lobely
Sicily trong biển xanh da trời
Mới đầu buổi
chiều ở đây, đèn đã thắp,
Và mặt trời u tối nhạt nhòa dần.
Tôi một mình.
Đọc tí tí, nghĩ tí ti.
Nghe ti ti tí
âm nhạc.
Tôi một mình
là bởi vì Âu Châu đang ngủ.
Tình yêu của tôi ngủ trong 1 căn nhà cao ở ngoại vi
Paris.
Ở Krakow và ở
Paris bạn bè của tôi,
Lội qua cùng
con sông lú, lấp, quên lãng.
Tôi đọc và
nghĩ; trong một bài thơ tôi thấy câu này,
“Có những cú đánh thật khủng khiếp… Đừng
hỏi!”
Tôi đếch hỏi, tất nhiên.
Một chiếc trực thăng làm vỡ mẹ buổi chiều êm ả.
Thơ gọi chúng
ta tới một cuộc đời cao hơn
Nhưng cái thấp,
lùn, lé kia thì cũng hoành tráng ra gì,
Lèm bèm nhiều
hơn
Năn nỉ, nuối
tiếc hơn Ấn Âu
Mạnh hơn những cuốn sách, những ghi chép của tôi
Ở đây không
có những loài chim “nightingales” hay “blackbirds”.
Với tiếng hót
buồn, ngọt của chúng
Và bắt chước
mọi tiếng người.
Zbigniew Herbert
Why The Classics
Tại sao những nhà cổ điển.
Tôi chọn bài thơ này sau tí
ngần ngừ. Tôi không coi dây là bài thơ
bảnh nhất của tôi, cũng không coi nó đại diện cho chương trình thơ tôi.
Tôi nghĩ,
nó có hai đức hạnh: giản dị, khô ráo, và “nói lên” vấn đề rất cận kề
trái tim tôi,
đếch cần hoa lá cành, hay văn vẻ.
….
Cái nhìn của
chủ nghĩa lãng
mạn, nhà thơ phải phơi trần vết thương
của mình ra, kể lể về những bất hạnh, [về nỗi cô đơn của bầy ngựa
hoang, thân phận nhược tiểu da vàng... trong
cuộc chiến Mít, thí dụ]
vuỡn còn được nhiều người hưởng ứng vào những ngày này, mặc dù những
thay đổi về văn phong, và khiếu thưởng ngoạn.
Phổ cập mà nói, thì "nó" [chủ nghĩa vãi linh hồn] phán, nghệ sĩ có
quyền thiêng liêng với cái chủ quan, tao là bố
thiên hạ, tao số 1....
Thơ
Mỗi Ngày
In Memoriam:
Octavia Paz
I was in San
Miguel Allende in January when I heard that Octavio Paz was gravely
ill. My
hotel room had a rooftop patio. When I walked out onto it at dawn, six
thousand
feet up in the Sierra Madre, I looked out at a late Renaissance dome,
eighteenth-century church spires, laundry lines, utility lines, black
rooftop
cats gazing with what seemed religious reverence at the pigeons they
could not
quite reach, and in the distance at the lines of low bare hills that
formed the
high shallow valley of San Miguel. Overhead
there was a flock of what must have been two hundred cormorants flying
silently
and swiftly north. In the dawn light it looked as if the white sky were
full of
broken black crosses, a kind of aerial, fast-moving cemetery. It could
have
been an image from one of his poems.
He was not
only Mexico's greatest poet. He was one of the most remarkable literary
figures
of this half century. His essays are at least as compelling as his
poems and a
good way for English readers to get to know him. Paz's great prose book
is
probably his stunning meditation on the nature of poetry, The Bow and the Lyre, and there
are others: his book-length essay on
Mexico and Mexican culture, The
Labyrinth of Solitude,
and his biographical study of Mexico's great poet of the
Colonial Period, Sor Juana de la Cruz, and his essays on history and
politics, One Earth, Four or Five
Worlds, and his essays on Mexican art. Only Czeslaw
Milosz among the poets of his generation has had the same depth and
range.
But he was a
poet first of all. The best volumes of his work in English are Selected Poems
and A Tree Within, both
published by New Directions. Here is one
of his poems, gorgeous in Spanish, and you can almost hear the original
in this
translation from Selected Poems:
Tưởng niệm
Octavio Paz
Tôi ở San
Miguel Allende, vào tháng
Giêng, thì nghe tin ông bịnh nặng. Căn phòng khách sạn của tôi có cái
terrace.
Buổi sáng sớm, tôi ra terrace, từ trên đỉnh cồn nhìn xuống thành phố,
những vòm thời
kỳ Phục Hưng muộn, những đuờng xoắn nhà thờ thế kỷ 18, những đường giặt
ủi, tiện
ích, những con mèo đen trên mái nhà, với cái nhìn có vẻ kính cẩn, và
nhuốm tí mùi
tôn giáo, gửi tới những con bồ câu, chúng không làm sao sơ múi, vì
ngoài tầm nhảy, và
xa hơn tí nữa, là những đường viền của những ngọn đồi trần trụi, thấp,
tạo thành
cái dáng của thung lũng San Miguel. Trên đầu tôi, cả 1 đàn chim cốc,
chừng hai
trăm con, lặng lẽ, lầm lũi di chuyển về phương bắc. Trong ánh sáng lờ
mờ của buổi
sáng tinh sương, cả bầu trời màu trắng thì đầy những cây thập tự
đen, gãy, bể, chắng khác chi một nghĩa địa đang lặng lẽ, nhanh lẹ di
động. Hẳn
là hình ảnh này, là từ trong thơ của ông, được thiên nhiên lập lại.
Ông không chỉ là nhà thơ Mexico lớn lao nhất. Ông là
1 trong những
khuôn mặt văn học đáng kể nhất của nửa thế kỷ này. Những bài tiểu luận
của ông
thì cũng dữ dằn, hiếp đáp chúng ta, chẳng thua gì thơ của ông, và là 1
cách thật
tốt, cho độc giả tiếng Anh biết tới ông. Cuốn thơ xuôi lớn của ông có
lẽ là trầm
tư ngỡ ngàng về thơ, The Bow and the Lyre,
và còn những cuốn khác nữa: tiểu luận dài, là cả 1 cuốn sách, về Mexico
và văn
hóa của nó, Mê Cung của Cô Đơn, và
nghiên cứu có tính tiểu sử của nhà thơ lớn
Mexico, thời kỳ thuộc địa, Sor Juana de la Cruz, và tiểu luận của ông
về
lịch sử
và chính trị, One Earth, Four or Five Worlds, và những tiểu
luận
về nghệ
thuật Mexico. Trong thế hệ thi sĩ cùng thời, chỉ Czeslaw Milosz, tầm
vóc và chiều sâu, ngang ông.
Nhưng trước tiên, và trong tất cả, thì vẫn là thi sĩ Octavio Paz,
[“ông số 1” như Mít có thể gọi, dù "Ông số 1" này thì cũng viết đủ thứ,
khiến ông
tiên chỉ VP mà còn nhầm, và coi là tiểu thuyết gia!] Những
cuốn dịch qua tiếng Anh bảnh nhất, là Tuyển
Tập Thơ, và
A Tree Within. Ở đây, là 1 bài thơ thần sầu,
mà qua bản
tiếng Anh, bạn có thể ngửi ra mùi vị gốc Tây Bán Nhà của nó:
Wind and Water
and Stone
The water
hollowed the stone,
the wind
dispersed the water,
the stone
stopped the wind.
Water and
wind and stone.
The wind
sculpted the stone,
the stone is
a cup of water,
the water
runs off and is wind.
Stone and
wind and water.
The wind
sings in its turnings,
the water
murmurs as it goes,
the
motionless stone is quiet.
Wind and
water and stone.
One is the
other, and is neither:
among their
empty names
they pass
and disappear,
water and
stone and wind.
Gió và Nước và Đá
Nước làm rỗng đá
Gió làm nước tung toé
Đá chặn gió
Nước và gió và đá.
Gió tạc đá
Đá là ly nước
Nước chạy/chảy và là gió
Đá và gió và nước
Gió hát theo từng khúc quanh
của nó
Nước thầm thì khi chảy
Đám bất động lặng câm
Gió và nước và đá
Kẻ này là kẻ kia và chẳng là kẻ
nào:
Giữa những cái tên trống rỗng
Chúng qua đi và biến mất
Nước và đá và gió
Robert Hass: Now & Then
Octavio
Paz
Autumn
The wind wakes,
sweeps the thoughts from my mind
and hangs me
in a light that smiles for no one:
what random beauty!
Autumn: between your cold hands
the world flames.
1933
Octavio Paz: First Poems (1931-1940)
Mùa Thu
Gió thức dậy
Quét những ý nghĩ ra khỏi cái đầu của anh
Và treo anh
Trong ánh sáng mỉm cười cho chẳng ai
Cái đẹp mới dưng không, tình cờ làm sao?
Mùa thu: giữa lòng bàn tay lạnh của em
Tình anh sưởi ấm
[nguyên văn, thế giới bập bùng ngọn lửa]
Here
My footsteps in this street
echo
in another street
where
I hear my footsteps
passing in this street
where
Only the mist is real
[1958-1961]
Đây
Tiếng bước chân của tôi
trong con phố này
vọng lên
trong một con phố khác
nơi
tôi nghe những bước chân của mình
qua con phố này
nơi
Chỉ sương mù là có thực
Zbigniew Herbert
Why The Classics
Tại sao những nhà cổ điển.
Tôi chọn bài thơ này sau tí
ngần ngừ. Tôi không coi dây là bài thơ
bảnh nhất của tôi, cũng không coi nó đại diện cho chương trình thơ tôi.
Tôi nghĩ,
nó có hai đức hạnh: giản dị, khô ráo, và “nói lên” vấn đề rất cận kề
trái tim tôi,
đếch cần hoa lá cành, hay văn vẻ.
….
Cái nhìn của chủ nghĩa lãng
mạn, nhà thơ phải phơi trần vết thương
của mình ra, kể lể về những bất hạnh, [về nỗi cô đơn của bầy ngựa
hoang, thân phận nhược tiểu da vàng... trong
cuộc chiến Mít, thí dụ]
vuỡn còn được nhiều người hưởng ứng vào những ngày này, mặc dù những
thay đổi về văn phong, và khiếu thưởng ngoạn.
Phổ cập mà nói, thì "nó" [chủ nghĩa vãi linh hồn] phán, nghệ sĩ có
quyền thiêng liêng với cái chủ quan, tao là bố
thiên hạ, tao số 1....
Obscurely
Occupied
You are the Lord of the
maimed,
The one bled and crucified
In a
cellar of some prison
Over which the day is breaking.
You inspect the latest
refinements
Of cruelty. You may even kneel
Down in wonder. They know
Their business, these grim fellows
Whose wives and mothers
rise
For the early Mass. You, yourself,
Must hurry back through the snow
Before they find your rightful
Place on the cross vacated,
The few candles burning higher
In your terrifying absence
Under the darkly magnified dome.
Charles Simic
U tối bận rộn
Người là Chúa Tể của những
kẻ bị thương tật
Người chảy máu, bị đóng đinh trên cây thập tự
Ở nơi tầng hầm một nhà tù nào đó
Bên trên ngày ló dạng
Người kiểm tra những trau
truốt sau cùng
Của sự độc ác.
Người có thể quỳ xuống, ngạc nhiên lẩm lẩm
Chúng quả là quá rành nghề của chúng,
Những tên nhẫn tâm, ác nghiệt này
Vợ của chúng, mẹ của chúng
Dậy sớm, cho Lễ Sớm
Người, chính Người
Phải vội vã trở lại, băng qua tuyết
Trước khi họ tìm sự công bằng chính trực của Người
Hãy để trước cây thập tự
bỏ trống
Vài cây
đèn cầy, cháy thật cao
Cao hơn
cả sự vắng mặt khủng khiếp của Người
Dưới vòm
trời phóng lớn tối thui.
Note: Bài thơ này cực kỳ… u
tối.
Chỉ bằng mấy dòng thơ Simic bèn dẫn ra 1 Ông Trời “bỏ chạy, vắng mặt,
ẩn giấu" [Dieu caché], khi xẩy ra Lò Thiêu.
Đọc Simic, GCC cứ sờ sợ, là vậy!
HUMMINGBIRDS
I thought
she was exaggerating a little
when she
said that every one of her hummingbirds-she had five-
had a
distinct name and that they flew
freely in
her garden, where they had
distinct
feeders. "If not, they fight too much."
But it was
like that, just like that:
I saw them
once, when the house, alone,
invited a
visit to the open back garden.
There they
came flying like tiny
winged
envoys
with urgent
notices and warnings.
No name fit
them well. Useless
words.
Astonishment
at the rapid
movement of the wings:
the not
being able to look at them
the approach
of their tiny hearts
beating so
incredibly rapidly
close, very
close,
and then
suddenly shooting off, high,
unattainable.
Beings of
our world but also of another,
only theirs.
-Circe Maia
(Translated, from
the Spanish, by Jesse Lee Kercheval.)
The New
Yorker, 25/11/2013
Chim Ri
Tôi nghĩ nàng
có hơi cường điệu khi nói, mọi chim ri của nàng – nàng có năm – có 1
cái tên riêng
biệt và chúng tự do bay trong khu vườn của nàng, nơi chúng có người cho
ăn riêng.
“Nếu không, là chúng đánh nhau loạn xà ngầu”.
Trong khi thực
sự thì là như vầy, đúng là như vầy:
Một lần, tôi
nhìn thấy chúng, khi trong nhà, một mình, được mời ra thăm khu vườn sau
nhà
Ở đó, chúng
bay, như những thiên sứ nhỏ xíu với đôi cánh, với những “bản tin” [chữ
này thuổng
của HậuVệ] khẩn thiết, những cảnh cáo nghiêm trọng
Chẳng có cái
tên nào hợp với chúng [Thiên Sứ ư? Coi chừng biến thành Quỉ Đỏ. Phỏng
Giái ư? Coi chừng biến thành Phê Bình Gia, Quan Hoạn, hà, hà!].
Từ ngữ vô dụng ở đây.
Ngỡ ngàng với
những cú đập cánh nhanh như cắt: Thật khó mà có thể nhìn chúng, tiếng
đập khi tới gần, của những trái tim nhỏ bé của chúng mới chớp nhoáng 1
phát, thật
gần, cực gần.
Và rồi, bất
thình lình, thoát đi, cao thật cao, không làm sao với tới được.
Thuộc thế giới
của chúng ta, nhưng cũng còn thuộc về 1 thế giới khác.
Chỉ chúng.
HUMMINGBIRDS
I thought
she was exaggerating a little
when she
said that every one of her hummingbirds-she had five-
had a
distinct name and that they flew
freely in
her garden, where they had
distinct
feeders. "If not, they fight too much."
But it was
like that, just like that:
I saw them
once, when the house, alone,
invited a
visit to the open back garden.
There they
came flying like tiny
winged
envoys
with urgent
notices and warnings.
No name fit
them well. Useless
words.
Astonishment
at the rapid
movement of the wings:
the not
being able to look at them
the approach
of their tiny hearts
beating so
incredibly rapidly
close, very
close,
and then
suddenly shooting off, high,
unattainable.
Beings of
our world but also of another,
only theirs.
-Circe Maia
(Translated, from
the Spanish, by Jesse Lee Kercheval.)
The Day Lou
Reed Died
It's not
like his songs are going to simply
evaporate,
but since
the news I can't stop
listening to him
on endless
shuffle - familiar, yes, inside
me, yes, which means
I'm alive,
or was, depending on when
you read this. Now
a song
called "Sad
Song," the last one on "Berlin,"
sung now
from the other side, just talk,
really, at the beginning, then,
the promise
or threat, I'm gonna stop wasting
my time, but
what else
are we made
of, especially now? A chorus
sings Sad
song sad song sad song sad
song. I
knew him
better than I new my own
father,
which means
through
these songs, which means
not at all.
They died on the same day, O
what a perfect day, maybe
at the same
moment, maybe
both their
bodies are laid out now in
the freezer,
maybe side by side, maybe
holding
hands, waiting
for the fire
on the earth or the man
or the salt -
if I could
I'd let birds devour whatever's left
&carry
them into the sky, but all I can do
it seems
is lie on
the couch & shiver, pull a coat
over my body
as if it were all I had, as if I
were the one
sleeping outside, as if it were my
body
something was leaving, rising up
from inside me
& the
coat could hold it inside
maybe a
little longer.
The New
Yorker, 25/11/2013
Robert Hass,
nhà thơ với vòng nguyệt quế Mẽo, U.S. Poet Laureate, còn là nhà dịch
thơ số 1,
như những bạn thơ, cũng "U.S. Laureate" như Charles Simic, thí
dụ.
Tin
Văn sẽ đi những bài viết trong này, vì đọc chúng, cũng là đọc thơ toàn
thế giới!
Hà, hà!
Khi GCC phịa
ra mục “thơ mỗi ngày” và được 1 độc giả đi 1 cái mail cám ơn, đã
thấy sướng
mê tơi.
Nhưng mục nhà thơ Robert Hass phịa ra mới khủng, như chính ông thú
nhận,
chưa từng có trên đời:
The
Poet’s Choice Columns.
A Note to
Readers
THIS IS A
BOOK of poems and small essays about them written over a period of
about two
years. It came about because Nina King, then literary editor of the Washington
Post, invited me to write a weekly column for the Post's Book World.
The idea
was that I would, each week, select a poem and comment on it. The aim
was to
introduce poetry to people who had never read it at all; to reintroduce
it to
people who had read it in school but had gotten out of the habit and,
having an
impulse to find their way back to it, didn't know where to start; and
to give
people who did read poetry some poems and ideas about poems to think
about.
The column
was a novelty. Nothing quite like it had been done in an
American
newspaper in
many decades, if ever, and it was immediately popular with readers of
Book
World….
Để ăn mừng tập
thơ, GCC xin giới thiệu tới độc giả TV, bài tưởng niệm Zbigniew
Herbert, Robert
Hass viết, đúng
SN/GCC.
AUGUST 16 [1998]
In Memoriam: Zbigniew
Herbert
Zbigniew
Herbert died a few weeks ago in Warsaw at the age of seventy-three. He
is one
of the most influential European poets of the last half century, and
perhaps-even more than his great contemporaries Czeslaw Milosz and
Wladislawa
Symborska-the defining Polish poet of the post-war years.
It's hard to
know how to talk about him, because he requires superlatives and he
despised
superlatives. He was born in Lvov in 1924. At fifteen, after the German
invasion
of Poland, he joined an underground military unit. For the ten years
after the
war when control of literature in the Polish Stalinist regime was most
intense,
he wrote his poems, as he said, "for the drawer." His first book
appeared in 1956. His tactic, as Joseph Brodsky has said, was to turn
down the
temperature of language until it burned like an iron fence in winter.
His verse
is spare, supple, clear, ironic. At a time when the imagination was, as
he
wrote, "like stretcher bearers lost in the fog," this voice seemed
especially
sane, skeptical, and adamant. He was also a master of the prose poem.
Here are
some samples:
The Wind and the Rose
Once in a
garden there grew a rose. A wind fell in love with her. They were
completely different,
he-light and fair; she immobile and heavy as blood.
There came a
man in wooden clogs and with his thick hands he plucked the rose. The
wind
leapt after him, but the man slammed the door in his face.
-O that I
might turn to stone-wept the unlucky one-I was
able to go round the whole world, I was
able to stay away for years at a time, but I knew that she was always
there
waiting.
The wind
understood that, in order really to suffer, one has to be faithful.
Mưa
Khi ông anh của tớ từ mặt
trận trở về
Trán của anh có 1 ngôi sao bạc nho nhỏ
Và bên dưới ngôi sao
Một vực thẳm
Một mảnh bom
Đụng anh ở Plê Ku
Hay, có lẽ, ở Củ Chi
(Anh quên những chi tiết)
Anh trở thành nói nhiều
Trong nhiều ngôn ngữ
Nhưng anh thích nhất trong tất cả
Ngôn ngữ lịch sử
Đến hụt hơi,
Anh ra lệnh đồng ngũ đã chết, chạy
Nào anh Núp,
Nào anh Trỗi.
Anh la lớn
Trận đánh này sẽ là trận chiến thần thánh chót
[Mỹ Kút, Ngụy Nhào, còn kẻ thù nào nữa đâu?]
Rằng Xề Gòn sẽ vấp ngã,
Sẽ biến thành Biển Máu
Và rồi, xụt xùi, anh thú nhận
Bác Hồ, lũ VC Bắc Kít đếch ưa anh.
[Hà, hà!]
Chúng tôi nhìn anh
Ngày càng xanh mướt, tái nhợt
Cảm giác bỏ chạy anh
Và anh lần lần trở thành 1 đài tưởng niệm liệt sĩ
Trở thành những cái vỏ sò
âm nhạc của những cái tai
Đi vô khu rừng đá
Và da mặt anh
Thì được bảo đảm bằng những cái núm mắt khô, mù
Anh chẳng còn gì
Ngoại trừ xúc giác
Những câu chuyện gì, anh kể
Với những bàn tay của mình.
Bên phải, những câu chuyện tình
Bên trái, hồi ức Anh Phỏng Giái
Chúng mang ông anh của tớ
đi
Đưa ra khỏi thành phố
Mỗi mùa thu anh trở về
Ngày càng ốm nhom, mỏng dính
Anh không muốn vô nhà
Và đến cửa sổ phòng tớ gõ
Hai anh
em đi bộ trong
những con phố Xề Gòn
Và anh kể
cho tớ nghe
Những câu
chuyện chẳng đâu vào đâu
Và sờ mặt
thằng em trai của anh
Với những
ngón tay mù,
Của mưa.
Zbigniew
Herbert
AUGUST 16 [1998]
In Memoriam: Zbigniew
Herbert
Zbigniew
Herbert mất vài tuần trước đây, ở Warsaw thọ 73 tuổi. Ông là 1 trong
những nhà
thơ Âu Châu, ảnh hưởng nhất trong nửa thế kỷ, và có lẽ - bảnh hơn
nhiều, so với ngay cả hai người vĩ đại, đã từng được Nobel, đồng thời,
đồng hương với ông, là Czeslaw Milosz và
Wladislawa
Symborska - nhà thơ định nghĩa thơ Ba Lan hậu chiến.
Thật khó mà
biết làm thế nào nói về ông, bởi là vì ông đòi hỏi sự thần sầu, trong
khi lại
ghét sự thần sầu. Ông sinh tại Lvov năm 1924. Mười lăm tuổi, khi Đức
xâm lăng
Ba Lan, ông gia nhập đạo quân kháng chiến. Trong 10 năm, sau chiến
tranh,
khi chế độ
Xì Ta Lin Ba Lan kìm kẹp văn chương tới chỉ, ông làm thơ, thứ thơ mà
ông nói, “để
trong ngăn kéo”.
*
Zbigniew Herbert, “Ba Lan Tam
Kiệt” [hai “kiệt” còn lại là,
Milosz, Szymborska đều đợp Nobel văn chương], như "Đồng Nai Tam Kiệt"
của xứ Mít Nam: Bùi Giáng, Tô Thuỳ Yên, Thanh Tâm Tuyền, như NTV đã
từng gọi.
Gấu biết tới Herbert, là qua 1 bài viết của Coetzee, "Thế nào là cổ
điển?" (1)
Nhưng để đọc được ông, thì cũng mới đây thôi, một phần vì cuốn nào của
ông thì
cũng dày cộm, và vì ông là thi sĩ, mà cái món thi sĩ, thì Gấu cũng mới
đọc
được, mới đây thôi!
Đọc 1 phát, là dịch ào ào, điếc không sợ súng!
(1)
Nhà văn Nam Phi [Coetzee]
nhắc tới một bài diễn thuyết -
cùng tên với bài viết của ông, của T.S. Elliot - vào tháng Mười 1944,
tại
London, khi Đồng Minh đang quần nhau với Nazi tại đất liền (Âu Châu).
Về cuộc chiến, Eliot chỉ nhắc tới nó, bằng cách xin lỗi thính giả, rằng
chỉ là
tai nạn của hiện tại (accidents of the present time), một cái hắt hơi,
xỉ mũi,
đối với cuộc sống của Âu Châu, và nó làm ông không thể sửa soạn chu đáo
cho bài
nói chuyện.
"Nhà là nơi một người bắt đầu"
[Home is where one starts
from], "Trong cái bắt đầu là cái chấm dứt của tôi" [In my beginning
is my end], nhà thơ [Eliot] cho rằng, để trả lời cho câu hỏi này, chúng
ta phải
trở lại với nhà thơ lớn lao nhất, "cổ điển của chính thời đại của chúng
ta" (the great poet of the classic of our own times), tức nhà thơ Ba
Lan,
Zbigniew Herbert.
Với Herbert, đối nghịch Cổ Điển
không phải Lãng Mạn, mà là Man Rợ.
Với nhà thơ Ba Lan, viết từ mảnh đất văn hóa Tây Phương không ngừng
quần thảo
với những láng giềng man rợ, không phải cứ có được một vài tính cách
quí báu
nào đó, là làm cho cổ điển sống sót man rợ. Nhưng đúng hơn là như thế
này: Cái
sống sót những xấu xa tồi tệ nhất của chủ nghĩa man rợ, và cứ thế sống
sót, đời
này qua đời khác, bởi những con người nhất quyết không chịu buông xuôi,
nhất
quyết bám chặt lấy, với bất cứ mọi tổn thất, (at all costs), cái mà con
người
quyết giữ đó, được gọi là Cổ Điển.
Như vậy, với
chúng ta, cuộc chiến vừa qua, cũng
chỉ là một cái hắt hơi của lịch sử. Không phải viết từ những đối nghịch
chính
trị, như một hậu quả của cuộc chiến đó, mà trở nên bền. Muốn bền, là
phải lần
tìm cho được, cái gọi là nhà, liệu có đúng như Eliot nói đó không: Nhà
là nơi
một người bắt đầu.
Hay nhà là
nơi cứ thế sống sót những xấu xa của
chủ nghĩa Man Rợ, đời này qua đời khác, bởi những con người nhất quyết
không
chịu buông xuôi, nhất quyết bám chặt lấy, với bất cứ mọi tổn thất...
Câu trên, Nhà là nơi một người bắt đầu, có vẻ như áp dụng cho một nhà
văn Việt
nam ở hải ngoại.
Câu dưới, có
vẻ như dành cho nhà văn trong nước.
ST. JOHN'S
EVE
The setting
sun, with implacable splendor,
parted the
distances on its blade.
And night is
here, tender as a willow.
Whorls of
brusque bonfires
Splutter
into red:
wood offered
in sacrifice
bleeds into
the high flames:
living flag,
blind mischief.
The darkness
is as gentle as someplace far away.
Today the
streets remember
that they
were fields one day.
And through
the holy night,
Solitude says
its rosary of far flung stars.
-C.M.
J.L. Borges: Poems of the Night
ST. JOHN'S
EVE
Mặt trời lặn,
rực rỡ như chưa từng rực rỡ -Sóng đẩy biển lên cao, khi xuống kéo theo
mặt trời/Không
gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối chùm lên tất cả - Phân chia khoảng cách -
nắng
chia nửa bãi chiều rồi – trên lưỡi kiếm của nó.
Và đêm đây nè,
dịu dàng –Tender is the Night – như dáng liễu
Những cụm bonfires
bất thần
Phun phì phì
lửa đỏ:
Gỗ cống hiến
sự hy sinh
Như máu, rót
thành ngọn lửa cao:
ngọn cờ sống - cờ máu của Đảng ta – Cái Ác Bắc Kít mù lòa.
Đêm tối dịu dàng, như một nơi nào đó xa thật xa.
Đêm nay con
phố Xề Gòn nhớ 1 chiều không xanh không tím không hồng, những ống khói
tàu mệt
lả
Nhớ, ngày xưa
nó đã từng là cánh đồng.
Và qua đêm
thiêng,
Sự cô đơn nói,
về vườn hồng, của những vì sao xa vời, tỏa hương thơm của nó.
Krakow's
story
Home to two
literary festivals, busy book fairs, clubs and writer after writer –
this is a
town where people queue for poetry
UNWRITTEN
ELEGY
FOR
KRAKOW'S
JEWS
Nemo
Vào
khoảng năm 1960 tôi nhận được một lá thư, từ Krakow, của một thi sĩ,
mà tôi chưa từng nghe tên, Stanislaw Czycz....
FUTURE PERFECT
Where you
were
before you
were born,
and where
you are
when you're
not anymore
might be
very close.
Might be the
same place,
though
neither is
as slippery
as being
here but
imagining
where
you will
have been-
that point
where things
land,
are
finished, over, and
gone but not
yet.
-Lia Purpura
The New
Yorker, Nov 18, 2013
Tương lai hoàn
hảo
Bạn ở đâu
Khi bạn chưa
sinh ra
Và bạn ở đâu,
khi không còn bạn nữa
Hai vấn nạn
nhớn hình như rất cận kề!
Có thể cùng/cũng
một chỗ
Tất nhiên, không
trơn trượt, và cũng chẳng như là ở đây
Nhưng mà là tưởng
tượng
Nơi bạn sẽ là
-
điểm sự vật
ghé bến, kết liễu, xong xuôi, và đi rồi
tuy nhiên chưa
hẳn.
UTOPIA
When the
train stops, the woman said, you must get on it.
But how will
I know, the child asked, it is the right train?
It will be
the right train, said the woman, because it is the
right time.
A train approached the station; clouds of grayish
smoke
streamed from the chimney. How terrified I am, the
child thinks,
clutching the yellow tulips she will give to her
grandmother.
Her hair has been tightly braided to withstand
the journey.
Then, without a word, she gets on the train, from
which a
strange sound comes, not in a language like the one
she speaks,
something more like a moan or a cry.
-Louise
Gluck
NYRB Nov 21,
2013
Krakow's
story
Home to two
literary festivals, busy book fairs, clubs and writer after writer –
this is a
town where people queue for poetry
UNWRITTEN
ELEGY
FOR
KRAKOW'S
JEWS
Nemo
Vào
khoảng năm 1960 tôi nhận được một lá thư, từ Krakow, của một thi sĩ,
mà tôi chưa từng nghe tên, Stanislaw Czycz....
FUTURE PERFECT
Where you
were
before you
were born,
and where
you are
when you're
not anymore
might be
very close.
Might be the
same place,
though
neither is
as slippery
as being
here but
imagining
where
you will
have been-
that point
where things
land,
are
finished, over, and
gone but not
yet.
-Lia Purpura
The New
Yorker, Nov 18, 2013
THE
LANDSCAPES
OF VILHELM HAMMERSHOI
Between
water reading itself a story
with no
people in it
and fields,
illegible, and a sky
that
promises nothing,
least of all
what will happen now,
are the
trees
that do not
believe in
any version
of themselves
not even the
one in which
they are
apparently everyday trees
and not a
sequence of wooden frames
for ordinary
leaves.
-Vona
Groarke
The New
Yorker Nov 11, 2013
Vilhelm
Hammershøi often written in English Vilhelm Hammershoi (15 May 1864 –
13
February 1916), was a Danish painter. He is known for his poetic,
low-key
portraits and interiors.
In 1997, Denmark issued a postage stamp in
his
honor.
(Wiki)
Phong cảnh
quê ta
Giữa nước, nó
đọc nó, một câu chuyện,
đếch có 1
người nào ở trong đó
và những cánh
đồng, đếch làm sao đọc được,
và bầu trời,
đếch hứa hẹn
một cái đếch nào cả
là cây
ít ra đó là
tất cả những gì sẽ xẩy ra bi giờ
cây, đếch
tin bất cứ một ấn bản nào về chính chúng
ngay cả ấn
bản, trong đó, chúng bề ngoài có vẻ như là những cái cây của mọi ngày
không phải thứ
tiếp nối của những khung gỗ
cho những cái
lá bình thường.
THE ELEVATOR
IS OUT OF ORDER
Grandmothers
and their caged birds
Must be
trembling with fear
As you climb
with heavy steps,
Stopping at
each floor to take a rest.
A monkey
dressed in baby clothes,
Who belonged
to an opera singer,
Once lived
here and so did a doctor
Who peddled
drugs to wealthy customers.
The one who
let you feel her breasts
Vanished
upstairs. The name is not familiar,
But the
scratches of her nails are.
The bell
rings, but no one comes to open the door.
That old
man, with a face powdered white,
You caught
peeking out of a door,
Whom did he
expect to see if not you,
All frazzled
and descending in a hurry?
Charles
Simic: That Little Something
Thang máy hư
Những bà nội,
bà ngoại và những lồng chim
Hẳn là phải
run bắn lên vì sợ
Mỗi lần mi
trèo từng tầng
Với bước chân
nặng nề
Cứ hết 1 tầng, là lại ngưng, để thở.
Một con khỉ
mặc đồ con nít
Vốn là của một
ca sỡi opera
Đã từng sống
ở đây, và cũng vậy là 1 một ông đốc tưa
Bán lẻ thuốc
cho những khách hàng giàu có.
Cái em đã
cho phép mi mân mê cặp vú
Biến mất ở
tầng lầu.
Tên của em thì không còn nhiều người nhớ
Nhưng thật
thần sầu với những cú gãi gãi bằng móng tay
Tiếng chuông
cửa reo, nhưng chẳng ai ra mở
Một anh già, mặt
chát đầy phấn trắng
Mi bắt gặp hé nhìn từ 1 cánh cửa
Ai là người
mà anh già mong gặp, nếu không phải là mi?
Tất
cả thì đều
mệt rã rời và hấp tấp xuống cầu thang.
WALKING
I never run
into anyone from the old days.
It's summer
and I'm alone in the city.
I enter
stores, apartment houses, offices
And find
nothing remotely familiar.
The trees in
the park-were they always so big?
And the
birds so hidden, so quiet?
Where is the
bus that passed this way?
Where are
the greengrocers and hairdressers,
And that
schoolhouse with the red fence?
Miss Harding
is probably still at her desk,
Sighing as
she grades papers late into the night.
The bummer
is, I can't find the street.
All I can do
is make another tour of the neighborhood,
Hoping I'll
meet someone to show me the way
And a place
to sleep, since I've no return ticket .
To wherever
it is I came from earlier this evening
Charles
Simic: That Little Something
Cuốc Bộ
Tớ chẳng đụng
đầu với 1 kẻ nào quen thuộc ngày nào.
Mùa hạ, tớ một
mình trong thành phố
Tớ đi vô mấy
tiệm, mấy căn nhà, mấy văn phòng
Và chẳng kiếm
thấy 1 cái gì quen quen ngày xưa.
Cây trong
công viên – Xưa chúng cũng to lớn như vậy ư?
Và những con
chim, cũng ẩn ẩn, im ắng như thế?
Cái xe buýt
đi qua lối này, đi đâu?
Những cửa tiệm
bán rau quả, tiệm cắt tóc?
Rồi cái ngôi
trường giống như căn nhà với cái hàng rào đỏ?
Cô Harding
chắc vẫn ngồi ở bàn giấy
Thở dài khi
sắp xếp giấy tờ muộn vào đêm
Chán mớ đời,
tớ không kiếm ra con phố.
Tất cả những
gì mà tớ làm, là làm 1 tua nữa vòng vòng khu xóm
Hy vọng kiếm
ra ai đó chỉ đường chỉ hướng cho tớ đi
Và kiếm ra 1
chỗ để mà ngủ, bởi vì tớ quên mua vé khứ hồi
Trở về bất kỳ
chỗ nào, tớ tới từ đó, vào đầu buổi chiều.
Note: Đúng
là cái lần Gấu trở lại con hẻm cũ, nhà ông anh nhà thơ, Xóm Gà.
Đếch làm sao
kiếm ra nhà. Tới căn nhà yên chí là nhà ngày nào, đếch phải, đành đi
trở ra,
nhưng bực quá, vô lý quá, lại quay lại, và 1 bà trong xóm bèn nói lớn,
vọng tới
Gấu, cái nhà có hai ông sĩ quan đi cải tạo ở đằng kia kìa, ở cuối cái
sân....
Tới đó, thì
bèn “ơ rơ ka” một phát, và tự nhủ thầm, tại làm sao mà lại quên được
nhỉ!
Thiếu mấy
con chim nhảy lò cò ở bãi biển, [ở bài thơ trên] nhưng thay vào đó, là
mấy con
gà đang lang thang trong sân đất…
Thơ
Mỗi Ngày
THE BATHER
Where the
path to the lake twists
Out of
sight, a puff of dust,
The kind
bare feet make running.
A low branch
heavy with leaves
Swaying
momentarily
In the dense
and somber shade.
A late
bather disrobing for a dip,
Pinned hair
coming undone soon to float
As she flips
on her back letting
The sleepy
current take her
Over the
dark water to where the sky
Opens wide,
the night blurring
Her
nakedness, the silence thick,
Treetops
like charred paper edges,
Even the insects
oddly reclusive,
The rare
breath of wind in the leaves
Fooling me
to look once again,
Until the
chill made me rise and go in.
Charles
Simic: That Little Something
Nữ tắm
Nơi lối đi
ra hồ, quanh co
Ra khỏi tầm
nhìn, một luồng bụi
Lối chân trần
khiến chạy.
Cành thấp, nặng
lá
Lắc lư một
thoáng
Trong bóng đậm
và tối
Một nàng tắm
muộn
Trút quần áo,
làm 1 cú đầm mình
Tóc kẹp chẳng
mấy chốc bung ra, và em bồng bềnh
Nằm ngửa
Mặc sóng đưa
đẩy
Tới khoảng
nước tối
Nơi trời rộng,
đêm mù mờ
Khỏa thân em,
im lặng dầy
Đỉnh cây như
rìa giấy than,
Côn trùng cũng
kỳ cục lẩn tránh
Hơi gió hiếm
trong đám lá
Khiến tôi nhìn,
một lần nữa
Cho tới khi
cơn ớn lạnh khiến tôi phải đứng lên và đi vô.
CRICKETS
Blessed are
those for whom
Time doesn't
run
Into dark of
night,
But drags
its feet,
A moment's
captive,
Like a lone
sail
At sunset
Suspended on
the bay,
A few gulls
in the sky
Keeping it
company,
And closer
to home,
Crickets,
crickets, crickets.
Charles
Simic: That Little Something
Dế
Phúc thay những
kẻ
Thời gian không
chạy
Vô đêm đen
Nhưng lê lết
chân của nó,
Một khoảnh
khắc bị cầm giữ
Như con tàu
trơ trọi
Vào lúc mặt
trời lặn
Treo lơ lửng
ở bãi biển
Vài cánh hải
âu trên bầu trời
Làm bạn
với
nó
Và gần
nhà, gần nhà
Túc tắc
túc
tắc, dế dế.
Sad as a
Ship in a Bottle
Sad as a
matchbox in a house
Where
they've stopped smoking.
Sad as the
soap of a movie queen
After she
steps out of the shower.
Sad as the
love pill
In a pocket
of a dead man.
Happy as a
mouse in a rocking chair.
Happy as
pair of dentures ...
No, wait a
minute! Something's wrong here!
Sad as a
maybug in June.
Sad as a
hotdog eating champ
Having
dinner in a fish restaurant.
CHARLES
SIMIC
TLS 26 Sept
2008
[sau
in trong Master in Disguises]
Rầu như thuyền
đắm trong chai
Chán như hộp
quẹt nơi người hết phi
Buồn như xà
phòng Tây Thi
Mà nàng ảnh
hậu đã rời phòng hương
Tội như viên
thuốc yêu đương
Nằm im trong
túi anh chàng cứng đơ
Vui như chú
chuột lắc lư
Lăng xăng
trên ghế đong đưa … hay là
Vui như hàm
giả … Ui cha
Hình như có
chút sai ngờ đâu đây …
Buồn như bọ
nở trật ngày *
Rầu như danh
thủ một tay ăn dồi
Lại mời ăn
cá … sao trôi ?
(* maybug in
June : một lối chơi chữ )
Note: Tks
K.
NQT
Buồn
như 1 con tầu nằm
trong 1 cái chai
[GNV thích, cảnh ngược lại!]
Buồn như cái
hộp diêm quẹt ở
trong nhà
Khi ai cũng bỏ hút thuốc lá
Buồn như cục xà bông của nữ hoàng điện ảnh
Khi nàng bước ra khỏi cái vòi hoa sen
Buồn như viên Viagra
Trong túi 1 thằng cha đã ngỏm
Vui như chú chuột
Trên cái ghế lắc la lắc lư
Vui như cặp răng giả....
Ấy chết, xin lỗi, có gì lộn ở đây !
Buồn như con bọ ăn lá cây
Vào 1 ngày tháng Sáu
Buồn như anh chàng vô địch ăn hotdog
Một bữa ăn tối tại cửa hàng chuyên phục vụ món cá (1)
THE BLUR
He lost the
thread of his story in a forest,
So he went
down on his knees to search for it
When he saw
a blur of light between the trees,
Like a
wedding gown made of cobwebs,
The unknown
bride setting out for a stroll
In a
graveyard where her people lie buried-
Or so he let
himself be fooled once-
And now
couldn't think of anything else to say.
Charles
Simic: That Little Something
Lờ Mờ
Anh ta mất dấu
câu chuyện kể của mình trong 1 khu rừng
Thế là anh
ta quỳ xuống mò tìm
Khi anh ta lờ
mờ nhìn thấy tí ánh sáng giữa đám cây
Giống cái áo
cưới làm bằng mạng nhện
Cô dâu, không
ai biết, sửa soạn chuyến đi dạo
Tới nghĩa địa,
nơi những người của cô được chôn -
Thì như thế đấy,
hãy để anh ta khùng với anh ta một lần trong đời
Và bi giờ không
thể nghĩ đến bất cứ chuyện gì, để mà nói.
LABOR AND
CAPITAL
The softness
of this motel bed
On which we
made love
Demonstrates
to me in an impressive manner
The
superiority of capitalism.
At the
mattress factory, I imagine,
The
employees are happy today.
It's Sunday
and they are working
Extra hours,
like us, for no pay.
Still, the
way you open your legs
And reach
for me with your hand
Makes me
think of the Revolution,
Red banners,
crowd charging.
Someone
stepping on a soapbox
As the
flames engulf the palace,
And the old
prince in full view
Steps to his
death from a balcony.
Charles
Simic
Cày và Vốn
Trên cái gường
khách sạn mềm ơi là mềm
Hai đứa mần
tình
Chứng minh 1
cách rất ư là “kiệt xuất”
Tính ưu việt
của chủ nghĩa tư bản
Ở xưởng thợ,
tôi nghĩ
Cô làm nệm bữa
nay chắc hạnh phúc
Chủ nhật,
bão vô xứ Mít, vậy mà cô vưỡn được
Đảng và nhân dân ưu ái cho đi làm
Làm giàu cho
tổ quốc XHCN
Giờ phụ trội,
như cặp đôi chúng tớ, nhưng đếch trả tiền
Tuy nhiên,
cách mà em mở rộng chân, và đùi,
Và cách em lấy
tay với đầu tôi giúi xuống
Làm tôi nghĩ
đến Cách Mạng
Băng đỏ ngập
trời Xề Gòn đón lũ Bắc Kít Quỉ Đỏ
Và lũ Cách Mạng
30 Tháng Tư hò hét xông lên,
Nối Vòng Tay
Nhớn!
Một người
nào đó bước lên hộp xà bông
Khi ngọn lửa
nuốt trọn Dinh Độc Lập
Và Chế Độ Cũ
cái con khỉ gì đó
Buớc vô cái
chết, từ bao lơn tòa lâu đài.
Thơ
Mỗi Ngày
The
New Yorker
Nov 11, 2013
IN A HUDDLE
The wobbly
crossing gate shuts with a creak
And the road
is blocked. In a huddle by the fence
Neighbor
women, hard at the usual talk:
About so and
so who could be whoever's twin.
About wine
that costs the earth and isn't worth it.
This
government; this latest bad infection.
About the
little one; the big one nearly twenty;
About the
pig that feeds but doesn't thrive.
As the black
train goes clanging past them
Their gaze
is far away and meditative.
WASHERWOMEN
Out in a
field half-fallow and half-furrowed,
A plough is
standing, no oxen-team in sight,
Forgotten
looking, half-hid in a mist-cloud.
From the
mill-pond comes the wet slapping and surge
And rhythmic
rinsings of the washerwomen,
Each
splish-splash keeping time with their sing-song dirge:
The wind is
blowing, the bush is snowing,
You've not
come back to your native heath:
"When
you went, you left me sorrowing
Like a
plough left out in a fallow field.
-Giovanni
Pascoli
(Translated,
from the Italian, by Seamus Heaney.)
Nhà thơ
kiệt xuất Nguyễn Đức Sơn ( Tâm Nhiên)
Note: Bài viết này, theo GCC chỉ nên post ở 1 nơi thực xứng đáng với
nó, đúng
cái tinh thần Sơn Núi. Cho nó xuống núi, là hư bài viết.
Thiển ý, cái
từ “kiệt xuất”, hơi bị nhảm, nó chỏi với chính cái nick Sơn Núi.
Cuộc đời NDS
thê lương lắm, không đơn giản, mà chẳng có kiệt xuất.
Thơ của ông
cũng không kiệt xuất, theo nghĩa của từ này.
Khen như thế,
là làm giảm chất thơ của ông đi. NQT.
Mít hải ngoại
ngo ngoe chỉ mấy diễn đàn, đăng ở đó, là OK nhất rồi,
hà cớ chi mà
lại phải post ở vài nơi khác?
Hà, hà!
And if a
place could know me, now it does.
Daylight
Saving
The clocks
go back. As the light fails
Down on the
path by the Metro line
Where yellow
leaves have drifted overnight
Against the
wire fences, men walk with dogs
To show they
are not murderers.
Neither here
nor there, trains pass
On other
lines. They pull the grey air
Inside out.
The dog spooks easily,
Knowing what
humans will do.
I stop to
listen where there used to be
A house you
couldn't find except on foot.
The kids
demolished it, and creepers claim
Its
blackened bricks. The smell
Of years-old
burning makes me homeless,
But the
story is not mine, no more
Than this
unhappy accident of place
That lies
beyond a frontier no one drew
And yet
stands undisputed. Here
At world's
end, nothing intervenes,
And if a
place could know me, now it does.
A step too
far, beyond the light
Shed by the
streetlamp at the bridge
And things
are as they are, dark air
And
ruination, far-off trains, the dog
Who, like
his foolish master,
Cannot tell
which way to turn.
Invite me
in, then, emptiness.
SEAN O'BRIEN
TLS Oct
18/2013
Daylight
Saving
Đồng hồ chạy
ngược. Ánh sáng nhạt dần trên lối đi kế đường xe điện
Nơi lá vàng
ngất ngư, lãng đãng, trôi giạt suốt đêm
Chống lại những
kẽ hàng rào sắt, người dẫn chó thả bộ
Để chứng tỏ
họ không phải là những tên giết người.
Không phải ở
chỗ này, hay ở chỗ khác, những con tầu qua lại trên những
tuyến đường
khác.
Họ đẩy không
khí xám ở bên trong ra bên ngoài.
Mấy con chó
ngửi ra liền,
Biết con người
sẽ làm gì
Tôi ngưng bước
lắng nghe, nơi vốn có căn nhà
Bạn không thể
kiếm thấy, ngoại trừ bằng cách đi bộ
Những đứa trẻ
phá hủy nó, những dàn giây leo chiếm những viên gạch đen thui.
Mùi củi mục
lưu cữu theo năm tháng
Làm tôi bỗng cảm ra rằng thì là, tôi là 1 thằng đếch có
nhà
Nhưng câu chưyện
thì đếch phải của tôi
Cũng thế, là
cái tình cờ bất hạnh của 1 nơi chốn
Nằm quá cõi
bờ đếch ai dám mò tới
Và bèn dừng
lại, đếch bàn cãi.
Đây là nơi thế giới chấm
dứt, chẳng có chi can thiệp, dòm ngó, hay xiá vô
Và, giả như
một nơi chốn có thể biết tôi, thì bây giờ, nó bèn.
Một bước quá
xa, quá ánh sáng
Từ ngọn đèn
đường ở cây cầu
Và sự vật thì
như chúng là, không gian âm u
Và, điêu tàn
tiếp điêu tàn, những con tầu phiêu dạt, xa tít
Con chó, như
tên chủ khùng
Đếch biết hướng
nào đi.
Này, hãy mới
Gấu vô, hỡi Hư Vô Lớn!
Note:
Daylight Saving
Mùa đông,
xứ lạnh vặn ngược đồng hồ 1 giờ, và gọi là "daylight saving".
Thơ
Mỗi Ngày
MON RÊVE
FAMILIER
Je fais
souvent ce rêve étrange et pénétrant
D'une femme
inconnue, et que j'aime, et qui m'aime,
Et qui n'est,
chaque fois, ni tout à fait la même
Ni tout à fait
une autre, et m'aime et me comprend.
Car elle me
comprend, et mon coeur, transparent
Pour elle
seule, hélas! cesse d'être un problème
Pour elle
seule, et les moiteurs de mon front blême,
Elle seule
les sait refraichir, en pleurant.
Est-elle
brune, blonde ou rousse?-Je l'ignore.
Son nom? Je
me souviens qu'il est doux et sonore
Comme ceux
des aimés que la Vie exila.
Son regard
est pareil au regard des statues,
Et pour sa
voix lointaine, et calme, et grave, elle a
L'inflexion
des voix chères qui se sont tues.
Paul
Verlaine
MY RECURRING
DREAM
Mon Rêve
familier
Often I have
this strange and penetrating dream
Of an
unknown woman I love and who loves me,
And each
time she is neither quite the same
Nor quite
another, but she loves and understands.
For she does
understand, and my heart, lucid
Alas, only
for her, is a problem no longer,
But only for
her, and the fever of my pale brow
Only by her
can be cooled, as she weeps.
Is she dark,
fair, or red-haired? I know not.
Her name? I
remember it is sweet and singing
Like those
of loved ones whom Life has banished.
Her gaze is
like the gaze of statues,
And her
voice, distant, calm, and low,
Has the
inflection of dear voices that are stilled.
MURIEL
KITTEL
The Anchor
anthology of French Poetry
Mộng Quen
Tôi luôn có
giấc mộng lạ thường và nhức nhối
Về một người
đàn bà không quen, tôi thương, và thương tôi
Và nàng thì
cứ mỗi lần mỗi khác
Không phải là
một người khác,
Và thương và
hiểu tôi
Bởi là vì nàng
hiểu tôi, và trái tim tôi, trong suốt
Than ôi, chỉ
cho nàng thôi, hết còn là một vấn đề
Chỉ cho nàng
thôi, và cái trán đẫm mồ hôi của tôi
Bèn mát lạnh,
theo từng giọt nước mắt của nàng nhỏ xuống
Tóc nàng đen,
sáng, hay hung hung? Tôi đâu biết
Tên của nàng?
Mới dịu dàng như tiếng hát làm sao
Của những
kẻ được yêu thương, và bèn bị Cuộc Đời đầy ải
Cái nhìn của
nàng, của những bức tượng
Giọng nói của
nàng ư? Xa xa và trầm lắng
Cưu mang trong
nó những giọng nói thân thương suốt đời câm nín.
L'ALBATROS
Souvent, pour
s'amuser, les hommes d'équipage
Prennent des
albatros, vastes oiseaux des mers,
Qui suivent,
indolents compagnons de voyage,
Le navire
glissant sur les gouffres amers.
À peine les
ont-ils déposés sur les planches,
Que ces rois
de l'azur, maladroits et honteux,
Laissent
piteusement leurs grandes ailes blanches
Comme des
avirons trainer à côté d'eux.
Ce voyageur
ailé, comme il est gauche et veule!
Lui, naguère
si beau, qu'il est comique et laid!
L'un agace
son bec avec un brule-gueule,
L'autre
mime, en boitant, l'infirme qui volait!
Le Poète est
semblable au prince des nuées
Qui hante la
tempête et se rit de l'archer;
Exilé sur le
sol au milieu des huées,
Ses ailes de
géant l'empêchent de marcher.
Charles
Baudelaire
THE
ALBATROSS
L'Albatros
Ofttimes,
for diversion, seafaring men
Capture
albatross, those vast birds of the seas
That
accompany, at languorous pace,
Boats plying
their way through bitter straits.
Having
scarce been taken aboard
These kings
of the blue, awkward and shy,
Piteously
their great white wings
Let droop
like oars at their sides.
This winged
voyager, how clumsy he is and weak!
He just now
so lovely, how comic and ugly!
One with a
stubby pipe teases his beak,
Another
mimics, limping, the cripple who could fly!
The Poet
resembles this prince of the clouds,
Who laughs
at hunters and haunts the storms'
Exiled to
the ground amid the jeering pack,
His giant
wings will not let him walk.
KATE FLORES
Thơ
Mỗi Ngày
1207-1273
JELALUDDIN
RUMI
Because the
question of good and evil has been tormenting us since the moment we
plucked a
fruit from the tree of knowledge, perhaps it's worthwhile to remind
ourselves
that there have been people who didn't take to heart that pair of
opposite notions.
For them, as for Jelaluddin Rumi, nonattachment meant simply that you
could lie
down in a meadow.
Out beyond
ideas of wrongdoing and rightdoing,
there is a field. I'll meet you there.
When the
soul lies down in that grass,
the world is too full to talk about. I
deas,
language, even the phrase each other
doesn't make any sense.
Translated by Coleman
Barks and John
Moyne
LI PO
701-762
Perhaps in
this Chinese poem there is something similar to the poem by Rumi.
Motionless
sitting and meditating on a landscape leads to the disappearance of our
separate
existence,
so we become the mountain we contemplate.
Có lẽ bài
thơ này "quàng" với bài thơ của Rumi, được,
nhưng, VKK quàng với
Beckett thì không được, hà hà!
Ngồi bất động, suy ngẫm về phong cảnh, tới 1 lúc cái hiện hữu lẻ tẻ của
mình biến
mất,
và Gấu trở thành ngọn núi Gấu chiêm ngưỡng!
THE BIRDS HAVE VANISHED
The birds
have vanished into the sky,
and now the
last cloud drains away.
We sit
together, the mountain and me,
until only
the mountain remains.
Translated from the
Chinese by Sam
Hamill
Czeslaw Milosz
tuyển chọn và giới thiệu
Chim Đi
Chim biến khỏi
bầu trời
Và bi giờ
chùm mây cuối cũng chuồn
Gấu và núi
ngồi ngó nhau
Tới lúc núi
biến mất
Chỉ còn Gấu
Cà Chớn!
AT THE
SORBONNE
He walked
these streets the first time
(He was
young and handsome then)
With a woman
he betrayed,
And the
streets remind him of her golden hair,
Her easy
ways, the black stone set in the silver ring.
He bought
Montaigne, white sausage.
It was
Christmas. They'd bought a duck
And
cooked
it badly.
These
were
the times when
Intellectuals
gathered in cafés,
Avid for
seduction,
Talked of
revolution,
Ranged in
the Latin Quarter, smoked for the sake of style.
You might
perhaps run into Roland, Jean-Paul and Simone.
Georges
was
writing songs.
It was
after
Albert crashed and died....
Ở Sorbonne
Anh ta đi trên
những con phố này lần đầu tiên
(Lúc đó anh ta
còn trẻ măng, và đẹp trai)
Với người phụ
nữ mà anh ta phản bội,
Và những con
phố nhắc nhở anh ta mớ tóc vàng của nàng
Phong thái
nhẹ nhàng, dễ dãi, viên đá đen trong cái nhẫn bạc
Anh ta mua
Montaigne, xúc xích trắng
Đó là Giáng
Sinh. Họ chơi thêm 1 con vịt
Và nấu thật
tệ.
Đó là thời kỳ
Đám trí thức
tụ tập trong những quán cà phê
Thèm dụ khị
Lèm bèm cách
mạng
Nối đuôi
nhau Xóm La Tinh
Hút như thổi
bễ tìm hứng, kiếm văn phong.
Bạn có thể đụng
đầu Roland [Barthes], Jean-Paul [Sartre]
Nữ Hoàng Hiện Sinh, Simone [de
Beauvoir].
Georges đang
viết bài ca
Đó là sau khi
Albert [Camus] bị xe đụng và ngỏm.
Ngày lạnh
nhất Hà Nội
Phố nhoen nhoét và mưa van vát
Những chiếc taxi bỗng nhiên trở mặt gọi không dừng lại
Tất cả đàn ông trong hàng thịt chó đều mặc áo đen
Hai đốm lửa – hai cái áo len đỏ một góc phòng nhức mắt
Ngày lạnh nhất
Hôm nay đài báo ngày lạnh nhất.
*
Não đàn bà làm bằng gì mà chỉ nghĩ chuyện tình yêu?
Chụm đầu nghiêm trọng như âm mưu chỉ để bàn về một người đàn ông bé
nhỏ? (1)
PTVA
JOYCE KILMER
(1886-1918)
SERGEANT
KILMER, born in New Brunswick, New Jersey, and a Columbia graduate,
died under
German gunfire on July 30, 1918, in the second Battle of the Marne.
France
awarded him a posthumous Croix de Guerre.
Kilmer's
best-remembered poem, "Trees," first appeared in Poetry magazine
(August
1913), when he was on the staff of The
New York Times Review of Books. He received six dollars for the
poem, later
reprinted in his second book of verse, Trees
and Other Poems (1914). Critics continue to ridicule "Trees" for
its mixed metaphors-how, for example, can a tree press its mouth to the
earth
and at the same time lift leafy arms to pray? Yet somehow the poem has
a spare,
crystalline quality. A convert to Roman Catholicism, Kilmer edited an
anthology
of Catholic verse and also a collection of poems by the Catholic writer
Hilaire
Belloc. Perhaps it is his poem's final reference to God that accounts
for its
continued popularity outside academia.
"Trees"
was first set to music by Kilmer's mother, Annie, and later by Phyllis
Fergus,
Oscar Rasbach and others. There was a notable recording of the song by
the
opera star Madame Ernestine Schumann-Heink. A white oak on the Rutgers
University campus (Kilmer attended Rutgers for several years) was said
to have
inspired the poem. In 1986, on the centennial of Kilmer's birth, a new
white
oak was planted to replace the old one that had died twenty-five years
earlier.
Trees
I think that
I shall never see
A poem
lovely as a tree.
A tree whose
hungry mouth is prest
Against the
earth's sweet flowing breast;
A tree that
looks at God all day,
And lifts
her leafy arms to pray;
A tree that
may in Summer wear
A nest of
robins in her hair;
Upon whose
bosom snow has lain;
Who
intimately lives with rain.
Poems are
made by fools like me,
But only God
can make a tree.
Cây
Tớ chưa từng
thấy
Một bài thơ
nào đáng yêu như là cây
Một cái cây,
cái miệng đói của nó
Mò vú mẹ, là
mặt đất, từ đó dòng sữa ngọt ngào chảy ra
Một cái cây
nhìn Chúa cả ngày
Đưa những cánh
tay về hướng Người
Một cái cây
vào Hạ có thể đội
Một cái tổ Hải
Âu trên tóc của nó
Và Đông
về
Trải những bông
tuyết của nó lên cây
Thay cho lá
ngày nào
Trong lúc ăn
ngủ, giường chiếu… cùng những giọt mưa.
Thơ thì được
làm bởi 1 tên khùng như Gấu Cà Chớn
Còn cây ư?
Ngoài Chúa
ra, ai làm nổi điều này?
Thơ
Mỗi Ngày
THE FIRST
LONG-RANGE
ARTILLERY
SHELL IN LENINGRAD
A rainbow of
people rushing around,
And suddenly
everything changed completely,
This wasn't
a normal city sound,
It came from
unfamiliar country.
True, it
resembled, like a brother,
One peal of
thunder or another,
But every
natural thunder contains
The moisture
of clouds, fresh and high,
And the
thirst of fields with drought gone dry,
A harbinger
of happy rains,
And this was
as arid as hell ever got,
And my
distracted hearing would not
Believe it,
if only because of the wild
Way it
started, grew, and caught,
And how
indifferently it brought
Death to my
child.
1941
Anna
Akhmatova
Trái hỏa tiễn
đầu tiên VC bắn vô Xề Gòn
Một cầu vồng
cư dân Xề Gòn xô đẩy nhau,
Và bất
thình
lình mọi chuyện thay đổi hoàn toàn,
Không
phải
tiếng động thành phố bình thường
Nó tới từ
xứ
sở không quen
Thực sự
mà nói,
nó giống như người anh em
Một hồi
sấm,
hay một hồi khác
Nhưng mọi
tiếng
sấm tự nhiên chứa đựng
Một cụm
hơi mây,
tươi, cao
Và cơn
khát
của những cánh đồng vào hạn
Dấu báo
những
cơn mưa hạnh phúc
Và cơn
khô cằn
khủng khiếp, còn hơn cả địa ngục
Tôi lơ
đãng
nghe,
Tin tôi
đi,
Chỉ là vì
nó
bất chợt thật hung hãn, rồi bùng lên, rồi tóm bắt
Và dửng
dưng
làm sao
Là cái
chết
nó đem đến cho đứa con của tôi.
In My Long
Night
I have
toiled like a spider at his web
In the dome
of a church
Where only
the upraised eyes of martyrs
In their
torments could see me.
Where one
cold spring day,
With rumors
of war in the air,
My young
parents brought me
To be
baptized by the priest.
Where years
after, my grandmother
Was to lie
in an open coffin
Looking
pleased to be done with
Having to
bury other people.
Where I once
saw a crow walk in,
Lured by the
gold on the altar
And the
light the candles cast,
While I
dangled up there by a thread.
Charles
Simic: Master of Disguises
Trong đêm dài
của Gấu Cà Chớn
Gấu lê lết
như con nhện trong mạng lưới của nó
Ở vòm nhà thờ
Nơi, chỉ những
con mắt không ngước lên của những kẻ tử đạo
Trong những
cơn thống khổ của họ, có thể nhìn thấy Gấu.
Nơi, một ngày
xuân lạnh lẽo
Với những đồn
thổi về cuộc chiến ở trong không khí
Ông bô bà bô
còn trẻ măng của Gấu
Đem Gấu tới
Để được một
vị linh mục rửa tội.
Nơi, bao nhiêu
năm sau, Bà của Gấu
Nằm, trong cỗ
quan tài mở nắp
Hài lòng, vì đã
làm xong phần việc của Bà:
Phải chôn cất những
người khác.
Nơi, Gấu đã
có lần nhìn thấy một con quạ bước vô
Bị dụ khị bởi
vàng nơi bàn thờ
Và ánh sáng của
những ngọn nến
Trong lúc Gấu,
lủng lẳng ở cuối 1 sợi dây.
Tiệm
Thuốc Lá
Fernando
Pessoa
I failed in everything.
Since I had no ambition, perhaps I failed in nothing.
I left the education I was given,
Climbing down from the window at the back of the house.
I went to the country with big plans.
But all I found was grass and trees,
And when there were people they were just like others.
I step back from the window and sit in a chair.
What should I think
about?
Tôi thất bại trong mọi chuyện
Bởi là vì tôi không có tham vọng, có lẽ, tôi thất bại trong...
chẳng có gì
Tôi rời bỏ học vấn mà tôi được ban
Bò xuống cửa sổ, phía sau một căn nhà.
Tôi đi về vùng quê với những chương trình lớn
Nhưng tất cả những gì mà tôi thấy, thì là cỏ và cây
Và khi có người, thì cũng giống như những người khác.
Tôi lui khỏi cửa sổ và ngồi xuống 1 cái ghế.
Tôi nghĩ gì bi giờ?
|
|