Khi nào bạn bắt đầu làm thơ?
Những
người lính chuyên nghiệp kể cho Jennifer tôi một kinh nghiệm như thế
này: sau khi ăn một quả pháo mà không chết, nói rõ hơn, ngay sau khi
một quả pháo nổ kế cận bên họ, là nhẩy vào cái hố vừa mở ra, biết chắc
chắn một điều, quả pháo kế tiếp không thể nào nhè chỗ đó mà nổ.
Những
cư dân của một thành phố Sài Gòn thời kỳ chiến tranh chắc còn nhớ kinh
nghiệm này: khi nghe tiếng hoả tiễn réo xèo xèo ngang đầu, là biết rõ
một điều, trái hoả tiễn đó không dành cho mình
*
Richard Murphy, trên tờ Granta số Mùa
Thu 2001, đã tự hỏi,
không hiểu mình bắt đầu làm thơ vào lúc nào, và ông nhớ ra là đúng vào
thời kỳ
ăn bom bay của Đức quốc xã. Ông viết: Trong trí nhớ của tôi, cái tham
vọng mần
thơ đã tóm lấy thằng bé vào đúng cái tuổi xốn xang vừa mới lớn, khi học
thuộc
lòng mấy vần thơ Shakespeare tại trường trung học Wellington College.
Đó là năm
1944. Người Đức đang trút bom bay như mưa xuống Anh Quốc. Khi bạn nghe
thấy
tiếng, giống xe bình bịch (xe gắn máy) nổ, ở trên trời, là biết, bạn an
toàn.
Khi nó không nổ nữa, có nghĩa hết nhiên liệu, và “cái” thời gian bạn
hết nghe
tiếng xe gắn máy nổ, biết trái bom sắp rớt, biết đâu lại không ngay
trên đầu
mình, đó là lúc hứng thơ dâng trào!
Ấy là Jennifer tôi
hơi “bị” cường điệu. Đúng ra, tác giả nhớ lại là, vào lúc đó, ông mê
một người
bạn cùng một tuổi với ông, một tay điền kinh “mà số phận” (… who was
destined)
là phải vô Hải quân Hoàng gia. Sợ bom gần chết, lại thêm một ông quản
gia vốn
sống sót sau vụ “the Somme” (địa danh, nơi xẩy ra những vụ làm thịt
người đầu
tiên, vì tín ngưỡng) thúc thêm vô, thế là tôi tìm một chỗ ẩn núp, trong
cái
quan niệm về tái sinh, theo đó, một bài thơ, nếu được làm cho tới nơi
tới chốn,
nó sẽ thọ hơn người làm ra nó, sẽ đem lại đời sống sau cái chết, cho
chính anh
ta, và những người thân thương, ở trong trí tưởng của người đọc.
(Liệu có phải đây là
lý do, văn minh “nhân loại” bắt đầu bằng những trận đánh, đầu tiên là
giữa
những vị thần, những bán-thần, rồi tới người trần mắt thịt. Bởi vì, hết
chiến
tranh thì lấy đâu hứng mà bắt đầu làm thơ! Tưởng chuyện đùa, nhưng hãy
thử hỏi,
tại sao văn học Tây phương bắt đầu bằng “Iliade”? Hãy “thử” đọc Simone
Weil,
“Chiến tranh hay là Bài thơ của Sức Mạnh”, viết về “Iliade”.)
Tác giả kể
tiếp, một
năm sau đó, cỡ chừng vậy, khi là một sinh viên 17 tuổi ở Oxford, đói
sex gần
chết, ông lại quanh quẩn với ý nghĩ trở thành một thi sĩ. Kết quả là,
ông trượt
kỳ thi kiểm tra.
Murphy,
tác giả bài
viết ‘Những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi” trên số Granta nói trên, sinh năm
1927 tại
Tây Ireland. Cuốn tự thuật của ông, “The Kick”, sẽ được Granta Book
xuất bản
vào năm tới (2002). “Tuyển tập thơ” của ông đã được xuất bản ở Ireland
và ở Mỹ.
Hiện đang sống ở Dublin, Durban và Nam Phi. Trong bài viết, ông kể lại
những
kinh nghiệm đói sex, đói thơ, và những cuộc gặp gỡ những nhà thơ. Sau
đây là
trích đoạn, cuộc gặp gỡ thi sĩ W.H. Auden.
Barbara
Epstein, biên
tập viên của tôi ở tờ Điểm Sách Nữu Ước, mời tôi ăn tối tại căn phòng
của bà ở
Nữu Ước, vào bữa 22 tháng 11, 1975. Người khách độc nhất còn lại kia,
là W.H.
Auden. Cách đó vài năm, tôi đã gặp ông, ở Stratford-upon-Avon, trong
một buổi
đọc thơ, và nó để dấu ấn ở trong tôi, bởi vì ông thuộc lòng những bài
thơ của
mình. Khi ông ngần ngừ ở một dòng, trong một bài thơ dài, ông chẳng
thèm mò mẫn
cuốn thơ của mình, mà lại nhắm mắt lại, ngẩng mặt lên, như hỏi ông
Trời, hãy
nhắc giùm ông điều gì ông muốn nói, khi mần thơ. Và một khi trở lại với
bài nói
chuyện, ông như được tạo hứng từ cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với ông Trời như
thế đó,
và cứ thế chuyển những ý tưởng của mình thành lời. Đó là điều làm cho
bài thơ
thật là thú vị.
Barbara
kể lại, một
lần mời nhà thơ, ông lầm phòng, bấm chuông, và được một cặp, chẳng phản
đối
phản điếc gì cả, mời vô, ông ngồi bệ vệ trong chiếc ghế bành, đòi một
ly
martini vodka. Tay cầm ly rượu, ông cứ thế độc thoại, và cặp vợ chồng
ngớ
người, không dám lên tiếng ngắt cuộc độc thoại, cho tới khi ly rượu
cạn. Như
nhận ra sự vắng mặt của chủ nhà, Auden hỏi, và được trả lời, vợ chồng
Epsrein ở
căn phòng tầng lầu bên trên.
Murphy
kể lại, cuộc
gặp gỡ chẳng thú vị gì, vì bất cứ chuyện gì, hễ chủ nhà và ông vừa mới
mở miệng
là bị nhà thơ ngắt lời. Khi “bị gợi ý”, rằng nhà thơ là một tay lang
chạ, Auden
phản đối, “Các bạn có vẻ không hiểu, tôi luôn luôn tìm kiếm một người
bạn thứ
thiệt”. Và giải thích thêm: “Mọi lang chạ trên đời là để tìm kiếm một
người bạn
lý tưởng.” [Ghi chú thêm ở đây: Auden là một nhà thơ đồng tình luyến
ái].
Sau
bữa ăn, ông nói:
“Tôi hy vọng ông Trời cho tôi đi ở tuổi bẩy mươi. Đừng sống quá khoảng
đời tự
nhiên của mình.” Ông muốn mọi thư từ của ông được đốt bỏ, khi ông chết,
như ông
đã từng đốt bỏ thư của người cha, mà không đọc, khi cha ông mất; ông
muốn bạn
bè đốt bỏ thư của ông gửi cho họ, và điều này được ghi trong di chúc.
Bằng cách
đốt bỏ mọi giấy tờ như vậy, ông hy vọng chẳng ai có thể viết về cuộc
đời của
ông. Như những y sĩ của một thời xa xưa, giấu kín mọi khám phá y học,
ông hy
vọng mọi bí mật về đời mình sẽ cùng đi với ông xuống mồ.
***
Và câu chuyện nàng
Hélène thành Troie liệu có giông giống
chuyện hai ông thần Sơn/Thủy tranh nhau một cô công chúa con vua Hùng?
Nhưng
Hélène đâu còn
đáng kể gì nữa, khi Troie sẵn sàng quì mọp trước những người thắng trận:
Bây giờ
người ta
chẳng thèm những của cải Pâris
Kể cả Hélène; bằng ấy
kẻ, dù là tên ngu xuẩn nhất, đều nhận ra,
Troie bây giờ đang
bên bờ thất thủ…
“Qu’on n’accepte à
présent ni les biens de Pâris,
Ni Hélène; chacun voit, même le plus ignorant,
Que Troie à présent sur le bord de la perte.”
Như vậy là chúng ta lại trở lại với
nỗi chết không rời,
những trái hoả tiễn, và câu hỏi khi nào bạn bắt đầu làm thơ.
Simone Weil viết:
“Điều mà họ muốn, phải là tất cả: Tất
cả những của cải của
Troie, như là chiến lợi phẩm; tất cả những dinh thự, đền đài, nhà cửa:
tro bụi;
tất cả những đàn bà, trẻ em: nô lệ; tất cả những người đàn ông: xác
chết.”
Jennifer Tran