Thơ mỗi ngày
Cầm dương xanh (thơ)
THE MUSE
When at
night I await the beloved guest,
Life seems
to hang by a thread. "What is youth?" I
demand
Of the room.
"What is honor, freedom, the rest,
In the
presence of her who holds the flute in her hand?"
But now she
is here. Tossing aside her veil,
She considers me. "Are you the one who
came
To Dante, who dictated the pages of Hell
To
him?" I ask her. She replies, "1 am."
1924
Anna Akhmatova
Đêm,
Tôi đợi một
người khách thân quí,
Đời sống như
treo trên sợi chỉ.
"Tuổi trẻ là
gì?"
Tôi tra hỏi.
«Danh dự là gì, tự do là chi, và cái còn lại,
Trước vị nữ thần tay cầm cây sáo? »
Và bây giờ, Bà xuất hiện.
Bà vén chiếc khăn qua một bên, nhìn tôi, dò hỏi.
«Có phải Bà đã đọc cho Dante chép,
Những trang tả Địa Ngục? »
« Phải rồi. Ta đó! »
IN WARSAW
What are you
doing here, poet, on the ruins
Of St.
John's Cathedral this sunny
Day in
spring?
What are you
thinking here, where the wind
Blowing from the Vistula scatters
The red dust
of the rubble?
You swore
never to be
A ritual
mourner.
You swore
never to touch
The deep
wounds of your nation
So you would
not make them holy
With the
accursed holiness that pursues
Descendants
for many centuries.
But the
lament of Antigone
Searching
for her brother
Is indeed
beyond the power
Of
endurance. And the heart
Is a stone
in which is enclosed,
Like an
insect, the dark love
Of a most
unhappy land.
I did not
want to love so.
That was not
my design.
I did not
want to pity so.
That was not
my design.
My pen is
lighter
Than a
hummingbird's feather.
This burden
Is too much
for it to bear.
How can I
live in this country
Where the
foot knocks against
The unburied
bones of kin?
I hear voices,
see smiles. I cannot write
anything; five hands
Seize my pen
and order me to write
The story of
their lives and deaths.
Was I born
to become
a ritual
mourner?
I want to
sing of festivities,
The greenwood
into which Shakespeare
Often took
me. Leave
To poets a
moment of happiness,
Otherwise your world will perish.
It's madness
to live without joy
And to repeat to the dead
Whose part was to be gladness
Of action in
thought and in the flesh, singing, feasts,
Only the two salvaged words:
Truth and
justice.
Warsaw, 1945
Ở Warsaw
Nè, tên thi
sỡi kia, mi làm cái trò gì ở đây,
Trên những điêu
tàn của Nhà Thờ St. John
Vào một ngày xuân đẹp nắng như thế này?
Mi nghĩ gì,
vào lúc này, khi gió đùa về đây,
Từ những nát tan ở khu Vistula,
Bụi đỏ của
đá vụn
Mi thề, mi đếch
bao giờ làm một kẻ khóc lóc, than thở theo đúng lễ nghi
Mi thề mi chẳng
bao giờ rờ vô những vết thương sâu hoắm của nước Mít của mi.
Bởi vì nếu khóc
than như thế là mi biến chúng thành thiêng liêng
Thứ thiêng
liêng đặc biệt Mít, rất ư khó chịu, thứ thiêng liêng chết tiệt,
Đeo đuổi dân
Mít từ thuở dựng nước cho tới bi giờ.
Nhưng sự
than thở của Antigone
Dành cho người
anh của nàng
Thì vượt quá
cả quyền uy của sự bền bỉ chịu đựng.
Và trái tim
thì là 1 hòn đá, trong đó có một tình yêu u tối, như côn trùng,
Của một miền đất
cực kỳ bất hạnh.
Gấu đếch muốn
yêu nước Mít bằng thứ tình yêu cà chớn đó.
Đó không phải
là sở nguyện của Gấu.
Gấu cũng đếch
muốn thương hại kiểu đó.
Cũng đếch phải
sơ đồ của Gấu
Cây viết của
Gấu thì nhẹ hơn nhiều.
Nhẹ hơn cả một
cái lông… chim!
Thứ gánh nặng
đó, quá nặng cho nó,
Để mà mang,
khiêng, chịu đựng.
Làm sao Gấu sống
ở xứ đó
Khi bàn
chân, đi tới đâu, là đụng tới xương của họ hàng, bà con,
Những người
không được chôn cất.
Gấu nghe những
tiếng nói, nhìn thấy những nụ cười.
Gấu không thể
viết bất cứ điều gì; năm bàn tay nắm lấy cây viết của Gấu và ra lệnh
viết
Câu chuyện về
cuộc đời và cái chết của họ.
Không lẽ Gấu
sinh ra để là 1 tên khóc than theo nghi lễ, Nhà Thờ, hay Cửa Phật?
Gấu muốn hát
về những lễ hội.
Về cánh rừng
xanh mà Shakespeare thường rủ Gấu vô đó chơi.
Hãy để thi sĩ cho một khoảnh khắc hạnh phúc, nếu không, thế giới của
bạn sẽ tiêu tùng.
Đúng là khùng
điên, ba trợn,
Nếu sống mà đếch vui, đếch thú, đếch sướng gì hết!
[Hà, hà!]
Và lập lại những
người đã chết
Lập cái cái
phần vui vẻ, sung sướng hạnh phúc của hành
động,
Trong tư tưởng, trong thân xác còn tươi rói, trong hát hỏng,
lễ
hội.
Chỉ hai từ cứu
rỗi:
Sự thực và công
lý
Warsaw, 1945
DEDICATION
You whom I
could not save
Listen to me.
Try to
understand this simple speech as I would be ashamed of another.
I swear, there
is in me no wizardry of words.
I speak to
you with silence like a cloud or a tree.
What
strengthened me, for you was lethal.
You mixed up
farewell to an epoch with the beginning of a new one,
Inspiration of hatred
with lyrical beauty,
Blind force
with accomplished shape.
Here is a
valley of shallow Polish rivers.
And an immense bridge Going into white fog.
Here is a broken city,
And the wind
throws the screams of gulls on your grave
When I am talking with you.
What is
poetry which does not save
Nations or people?
A connivance
with official lies,
A song of
drunkards whose throats will be cut in a moment,
Readings for sophomore girls.
That I
wanted good poetry without knowing it,
That I discovered, late, its salutary
aim,
In this and
only this I find salvation.
They used to
pour millet on graves or poppy seeds
To feed the dead who would come disguised
as birds.
I put this book here for you, who once lived
So that you
should visit us no more.
Warsaw, 1945
Czeslaw
Milosz: Selected Poems, 1931-2004
Dâng Tặng
Bạn người mà
tôi không thể cứu
Hãy lắng
nghe tôi
Hãy cố hiểu
bài nói này, như tôi xấu hổ vì bài nói khác.
Tôi thề,
trong tôi không có sự ma quỉ của những con chữ
Tôi nói với
bạn với sự im lặng của đám mây, hay của cái cây.
Điều làm tôi
mạnh mẽ, với bạn, chết người.
Bạn trộn lời
giã biệt vào một thời đại, với sự khởi đầu của một thời đại khác,
Hứng khởi của
hận thù với cái đẹp trữ tình
Sức mạnh mù
lòa với hình dạng đã hoàn tất.
Đây là một
thung lũng của những con sông Ba Lan nông, cạn
Và một cây cầu bao la
Đưa tới một vùng sương mù trắng. Đây là một thành phố
vỡ nát
Và gió thổi những tiếng la thét của chim hải âu lên mộ
bạn
Khi tôi nói với bạn
Thơ ca là gì nếu không thể
cứu
Quốc gia hay
dân tộc?
Một sự đồng
lõa của những lời dối trá chính thức,
Một bài ca
được hát bởi những tên say, cổ của họ sẽ bị cắt một lát sau đó
Đọc cho mấy
cô gái đại học
Tôi muốn 1
thứ thơ ca tốt, đẹp mà không biết điều này
Tôi muốn một
thứ thơ ca thật muộn màng tôi mới ngộ ra cái mục đích đáng ca ngợi
của nó
Trong đó, và
chỉ trong đó, tôi tìm thấy sự cứu chuộc
Họ thường đổ
hạt kê, hay hạt anh túc lên những ngôi mộ
Để người chết
trở về, hóa trang như là những con chim
Tôi để cuốn
sách của tôi ở đây cho bạn, người có lần đã từng sống
Để bạn đừng
viếng thăm chúng tôi nữa.
MY FAITHFUL
MOTHER TONGUE
Faithful
mother tongue,
I have been
serving you.
Every night,
I used to sit before you little bowls of colors
so you could have your birch,
your cricket, your finch
as preserved
in my memory.
This lasted
many years.
You were my
native land; I lacked any other.
I believed
that you would also be a messenger
between me and some good people
even if they
were few, twenty, ten
or not born,
as yet.
Now, I
confess my doubt.
There are
moments when it seems to me I have squandered my life.
For you are
a tongue of the debased,
of the
unreasonable, hating themselves
even more
than they hate other nations,
a tongue of
informers,
a tongue of
the confused,
ill with
their own innocence.
But without
you, who am I?
Only a
scholar in a distant country,
a success,
without fears and humiliations.
Yes, who am
I without you?
Just a
philosopher, like everyone else.
I
understand, this is meant as my education:
the glory of individuality is taken
away,
Fortune spreads a red carpet
before the
sinner in a morality play
while on the
linen backdrop a magic lantern throw
images of human and divine torture.
Faithful
mother tongue,
perhaps
after all it's I who must try to save you.
So I will
continue to set before you little bowls of colors
bright and pure if possible,
for what is
needed in misfortune is a little order and beauty
Berkeley,
1968
Czeslaw
Milosz: Selected Poems 1931-2004
Tiếng mẹ đẻ
của tôi mà tôi một lòng một dạ
Tiếng mẹ đẻ
của tôi mà tôi một lòng một dạ
Tôi đã
phục
vụ tiếng mẹ đẻ của tôi
Đêm nào cũng
vậy, tôi để trước bà những cái chén màu sắc,
và như vậy bà có thể có cây roi, con dế, con chim sẻ của bà (1)
Như tôi còn
gìn giữ được, trong trí nhớ của mình
Điều này kéo
dài trong nhiều năm
Bà là quê mẹ
của tôi; tôi đâu có quê nào khác.
Tôi tin tưởng
bà còn là vì thiên sứ
Giữa tôi và
số thiện nhân
Ngay cả khi đám
này đếm trên đầu ngón tay
Hoặc chưa có
mống nào ra đời
Và bây giờ,
tôi thú thực
Hình như là
tôi có tí nghi ngờ
Có những lúc
tôi cảm thấy mình hoang phí đời mình.
Bởi vì tiếng
mẹ tôi là thứ tiếng của một đám người tệ hại
Của những kẻ
không hề biết lẽ phải là gì
Của những kẻ
thù hận lẫn nhau
Chúng thù chúng
còn hơn cả thù những quốc gia khác
Thứ tiếng nói
của bọn cớm, những tên chỉ điểm
Của bọn chuyên
lầm lẫn
Một lũ bịnh vì
sự ngây thơ của chính chúng
Nhưng không
có bà, thì tôi là ai?
Chỉ là 1 tên
học giả ở một xứ sở xa xôi
một sự thành
công, không sợ hãi mà cũng không tủi nhục
Đúng rồi, tôi
là ai nếu không có tiếng mẹ đẻ?
Chỉ là 1 triết
gia
Như mọi người
khác
Tôi biết, điều này có
nghĩa như là học vấn của tôi:
Sự vinh
quang cá nhân được lấy đi
Của cải trải
ra tấm thảm đỏ
trước kẻ tội
lỗi trong 1 vở kịch đạo đức,
trong khi trên
tấm màn phông, cây đèn thần ném ra
những hình ảnh của sự tra tấn, con người và thần
linh.
Tiếng mẹ đẻ
mà tôi một lòng một dạ
Có lẽ, sau
chót, chính tôi là người phải cố gắng cứu tiếng mẹ đẻ của mình
Và tôi sẽ tiếp tục bày ra trước tiếng mẹ đẻ
những
cái chén mầu sắc, sáng ngời, và trong sạch, nếu có thể
Bởi vì điều
cần trong bất hạnh, là, một trật tự nho nhỏ và cái đẹp
Czeslaw
Milosz
Berkeley,
1968
(1)
Câu này, thú thực Gấu không hiểu tác giả muốn nói gì.
Trên net, có bài này, có cả nguyên văn tiếng Ba Lan, bạn nào
rành, chỉ giùm.
Cái đoạn
Milosz phạng tiếng mẹ đẻ của ông, sao nghe thấm quá, đã quá!
NQT
Birch là một
loại cây giống cây lao của VN (từ điển Việt nam gọi là cây bu-lô) ,
hoặc cây
aspen của Mỹ, có thân màu trắng, đặc biệt vỏ thân thường bị bóc ra . Lá
trở
vàng vào mùa thu, rất xinh đẹp .
Tiếng mẹ thủy
chung
Tôi đã phục
vụ bà
Hằng đêm tôi
thường đặt trước mặt bà những chén sắc màu nho nhỏ
để bà có thể
có những cây birch, những chú dế, và những con chim sẻ
như chúng đã
được gìn giữ (bảo tồn) trong trí nhớ của tôi
ps. Vì anh
nghĩ birch là cái roi cho nên mới khó hiểu . Chứ khi biết đó là một
loại cây mọc
rất nhiều ở âu mỹ (cũng như tre trúc ở VN ), thì những thứ thân quen
từng nhìn
thấy hàng ngày như cây tre, như dế, như chim sẻ bỗng trở nên thân thiết
ăn sâu
trong trí nhớ của những kẻ xa quê .
Tks. NQT
Né con phố Descartes
Né con phố
Descartes
Tớ đi xuống
phía sông Seine, lấm la lấm lét, gã du lịch trẻ,
tên mán, tên
mọi,
vừa mới tới
thủ đô thế giới
Bọn chúng tớ,
đông lắm, từ Jassy, và Koloshvar, Wilno, Bucharest, Saigon và Marrakesh
Xấu hổ nhớ
những thói quen, truyền thống, tập quán, cổ tục ở xứ sở quê hương nhà
chúng tớ
Những thứ mà
chẳng một ai ở đây, được nghe nói tới, hay nghe kể :
Vỗ tay 1
cái,
Và thế là mấy
đứa người hầu gái chân trần chạy vội vô
Vừa chia đồ
ăn vừa đọc thần chú
Đọc kinh cầu
nguyện, cả nhà, cả chủ lẫn tớ.
Tớ để những
vùng mây mù ở phiá sau
Tớ tiến vô xứ
phổ cập, ngỡ ngàng và ham muốn
Chẳng mấy chốc,
rất nhiều đứa, từ Jassy và Koloshvar, hay Saigon hay Marrakesh,
Bị giết vì họ
muốn huỷ bỏ những tập tục ở quê nhà của họ
Chẳng mấy chốc
những đồng chí của họ ‘nàm’ cách mạng, khởi nghĩa, nổi dậy, cướp chính
quyền..
Thế là chúng
làm thịt, thủ tiêu, cho đi mò tôm đám Ngụy, Việt Gian....
Nhân danh những
tư tưởng đẹp đẽ, phổ cập
Trong khi
đó, thành phố ứng xử thật thích hợp với bản chất tự nhiên của nó
Rù rì với tiếng
cười ở nơi cổ họng trong bóng tối
Nướng thứ
bánh mì giống như những đôi đũa và rót rượu vang vô những cái bình, cái
vại bằng
xành, bằng gốm.
Dửng dưng,
như nó vẫn, tới ba cái trò vinh dự hay nhục nhã, hay cao cả, hay vinh
quang
Bởi vì ba
cái trò này thì đã được thực hiện từ đời tám hoánh nào rồi, và tự biến
thành những
đài tưởng niệm thằng chó nào chẳng ai còn biết!
Hay biến
thành những bài aria thật khó mà nghe ra
Hay những tiết
lảm nhảm, lèm bèm.
Thế là tớ lại
dựa vào bờ tường bằng đá cẩm thạch cứng,
Như thể tớ vừa
trở về, từ những chuyến du lịch xuyên qua những thế giới ngầm, thế giới
bên
kia, vương quốc của ma quỉ,
Và bất thình
lình tớ nhìn thấy ánh sáng từ cái bánh xe thời gian vào những lúc giao
mùa
Khi những đế
quốc sụm xuống, và những con người đã có thời sống, thì bây giờ, ngỏm
mẹ tất cả
rồi
Làm đếch gì
có thủ đô của thế giới, dù ở đây, hay bất cứ ở nơi nào,
dù Bắc Bộ Phủ
của VC,
hay là Bắc Kinh của Thiên Triều!
Và những cổ
tục, hủ tục, tập tục nhỏ bé đã bị huỷ bỏ, triệt tiêu, đào thải… thì lại bò về, trong tí hào quang nho nhỏ của
chúng
Và tớ ngộ ra
1 điều, thời gian của những thế hệ con người, thì đếch phải thời gian
của trái đất!
Về những tội
lỗi nặng nề của GNV, thì tớ nhớ ra 1 cái, thật là sống động:
Như thế nào,
một lần, đi trên một con đường, bên 1 con suối, trong 1 cánh rừng,
Tớ đẩy 1 hòn
đá lên 1 con rắn nước nằm cuộn tròn trên cỏ,
Và những gì
mà tớ gặp phải ở trên cõi đời ô trọc này thì đều là những hình phạt do
tội lỗi
đó mà ra!
Thứ hình phạt
sẽ tới với bất cứ 1 ai, bất cứ kẻ nào dám bẻ gẫy một ta-bu, 1 điều cấm
kỵ!
Czeslaw Milosz/GNV
Milosz viết:
Mặc dù những
tư tưởng phổ cập thì không còn hứng thú cho lắm đối với chúng tôi, từ
Wilno,
Warsaw, hay Budapest, điều này không có nghĩa, chúng mất mẹ hứng thú ở
mọi nơi.
Những tên ăn thịt người trẻ tuổi, nhân danh những nguyên lý cứng nhắc,
làm thịt
[M dùng chữ butcher], nhân dân của chúng, là dân chúng Cambodia, đám
này đều đã
từng du học Paris, học Sorbonne. Chúng giản dị trồng những tư tưởng
triết học mà chúng học được, tại
xứ sở của chúng, [giống như Bác H của Mít chúng ta, áp dụng 1 cách
thông mình, thiên tài vào xứ Mít, trồng trẻ con Bắc Kít, bằng nọc độc
hận thù!]
Ui chao, GNV
này đã từng viết y chang, như trên [lại tự thổi, hà hà!], trong truyện
ngắn "đầu tay", khi còn ở trại tị nạn Thái Lan:
Gặp lại những
nhân vật của Koestler, những nhân vật văn chương còn mang nặng những
nét đặc
thù của nguyên mẫu ngoài đời, những Roubachof suốt đời tắm bằng máu của
kẻ
khác, kể cả của người yêu, bạn bè, đến khi chết lại mong trở thành
những Thánh
Tử Đạo, đọc lại nhhững câu văn mang sự thực khủng khiếp còn hơn cả
những lời
nguyền rủa: "Bằng roi vọt chúng ta quất lên đám đông đang rên rỉ, bắt
họ
hướng về hạnh phúc chỉ có tính tương lai và hoàn toàn lý thuyết...",
tôi bỗng
nhận ra một điều thật giản dị: Nếu những tác phẩm lớn đều cưu mang
trong nó
bóng dáng của những tác phẩm lớn khác - một cách nào đó Hemingway chú
giải
Joyce, Camus mô phỏng Kafka, rõ ràng Garcia Marquez viết lại
Faulkner... - Cũng
vậy, những bạo chúa chỉ là những bản sao của những bạo chúa khác.
Staline bắt
chước Néron, cả hai đều có tham vọng văn chương, một muốn làm thi sĩ,
một muốn
ngự sử văn đàn, kẻ ban phát giải thưởng văn học. Mao diễn lại tuồng đốt
sách,
chôn học trò. Molotov chỉ mong người đời coi là một Robespierre của
Cách Mạng
Nga. Người ra lệnh bắn vào sinh viên biểu tình tại Thiên An Môn là một
học trò
đắc ý của Chu Ân Lai, ông này lại là một học trò đắc ý nhất của Cách
Mạng Pháp.
Polpot đã từng du học ở Paris. Tất cả đều tâm đắc một điều: Không có
một cuộc
cách mạng nào mà không có quá độ. Một cuộc cách mạng không đổ máu thì
rất đáng
ngờ.
Lần
Cuối Sài Gòn
V/v Làm thịt
con rắn nước.
Milosz giải
thích, vấn đề không phải làm thịt bất cứ 1 sinh vật là tội lỗi, nhưng
mà là, ở
xứ Lithuania của chúng tôi, rắn nước được coi là linh thiêng [holy].
Người ta
thường đặt những bình sữa ở trước thềm nhà cho chúng, và coi chúng
tượng trưng
cho sự màu mỡ, sự màu mỡ của đất đai, và của gia đình, và Mặt Trời yêu
mấy chú
rắn nước. Có 1 bài đồng dao Lithuania, “Đừng để 1 chú zaltys chết trên
mặt cỏ.
Hãy chôn nó. Chỉ nội nhìn thấy 1 chú rắn nước nằm chết trên mặt cỏ là
mặt trời bật
khóc”
Czeslaw
Milosz: The Witness of Poetry
BYPASSING RUE DESCARTES
Bypassing
rue Descartes
I descended
toward the Seine, shy, a traveler,
A young
barbarian just come to the capital of the world.
We were
many, from Jassy and Koloshvar, Wilno and
Bucharest, Saigon and Marrakesh,
Ashamed to
remember the customs of our homes,
About which
nobody here should ever be told:
The clapping
for servants, barefoot girls hurry in,
Dividing food with incantations,
Choral
prayers recited by masters and household together.
I had left
the cloudy provinces behind,
I entered
the universal, dazzled and desiring.
Soon enough,
many from Jassy and Koloshvar, or Saigon or
Marrakesh
Were killed
because they wanted to abolish the customs of
their homes.
Soon enough,
their peers were seizing power
In order to
kill in the name of the universal beautiful ideas.
Meanwhile,
the city behaved in accordance with its nature,
Rustling with throaty laughter
in the dark,
Baking long
breads and pouring wine into clay pitchers,
Buying fish, lemons and garlic at
street markets,
Indifferent
as it was to honor and shame and greatness and
glory,
Because that
had been done and transformed itself
Into monuments representing nobody knows
whom,
Into arias hardly audible and into turns of speech.
Again I lean
on the rough granite of the embankment,
As if I had
returned from travels through the underworlds
And suddenly saw in the
light the
reeling wheel of the seasons
Where empires have fallen
and those once living
are now dead.
There is no
capital of the world, neither here nor anywhere else,
And the abolished customs
are restored to their small fame,
And I know the time of human generations is
not like the time
of the
earth.
As to my
heavy sins, I remember one most vividly:
How, one
day, walking a forest path along a stream,
I pushed a
rock down onto a water snake coiled in the grass.
And what I
have met with in life was the just punishment
Which reaches, sooner or later,
everyone who breaks a taboo.
Czeslaw Milosz: The Witness of Poetry.
Starting from My Europe
Nhân đọc mấy
bài viết về Rimbaud, trên net, TV post bài thơ trên, của Czeslaw
Milosz, trong bài
viết, thực sự là bài diễn thuyết của ông, The Charles Eliot Norton
Lectures,
1981-82. Bài viết làm
GNV nhớ đến ý thơ ‘cho tí Paris để làm thi sĩ’, của TTT:
Khởi đi từ Âu Châu của
tôi.
Đọc bài thơ
trên, và của 1 số nhà thơ quen thuộc khác trên TV, như
Zagajewski,
Simic... Gấu thực sự tin, thời của những nhà thơ như Rimbaud, qua rồi.
Chiều
ngu ngơ
phố thị
Cầm dương xanh (thơ)
Bụi
Borges đúng
là thứ nhà văn bỏ túi thuộc hàng thượng thừa. Ông thông thạo nhiều thứ
võ công,
nhưng cái gì ông mần ra thì đều ngắn gọn, [xách tay, bỏ túi mà]. Có lần
ông phán
về mình, do lười biếng nên không dám viết tiểu thuyết, và ba thứ truyện
ngắn,
chúng là dạng tóm tắt của những truyện dài dài hơi.
Độc giả TV đã
đọc Phép Lạ Bí Ẩn mà Thượng
Đế ban cho mấy ông nhà văn nhà thơ Miền Nam
đi cải
tạo [10 ngày ở thiên đường là 10 niên ở hạ giới], và chỉ 10 ngày phù du
ở thiên
đường, khi được trả về trần, ông nào cũng mang về 1 tác phẩm, [có ông
vừa mới ra khỏi thiên đường, là còng lưng ói ra tác phẩm, không dám
mang về nhà, sợ vợ chửi, mi chẳng nhớ gì vợ con, chỉ mê cõi riêng của
mi!] có
lẽ
cũng nên đọc
thêm bài thơ sau đây, viết về cuộc cờ Quốc Cộng!
CHESS
I
In their serious
corner, the players
move the
gradual pieces.
The board
detains them until dawn in its hard
compass: the
hatred of two colors.
In the game,
the forms give off a severe
magic:
Homeric castle, gay
knight,
warlike queen, king solitary,
oblique
bishop, and pawns at war.
Finally,
when the players have gone in,
and when
time has eventually consumed them,
surely the
rites then will not be done.
In the east,
this war has taken fire.
Today, the
whole earth is its provenance.
Like that other,
this game is for ever.
II
Tenuous
king, slant bishop, bitter queen,
straightforward
castle and the crafty pawn-
over the
checkered black and white terrain
they seek out
and enjoin their armed campaign.
They do not
realize the dominant
hand of the
player rules their destiny.
They do not
know an adamantine fate
governs
their choices and controls their journey.
The player,
too, is captive of caprice
(the
sentence is Omar's) on another ground
crisscrossed
with black nights and white days.
God moves
the player, he, in turn, the piece.
But what god
beyond God begins the round
of dust and
time and dream and agonies?
Jorge Luis
Borges
-Translated
by ALASTAIR REID
*
LIMITS
There is a
line of Verlaine I shall not recall again,
There is a
nearby street forbidden to my step,
There is a
mirror that has seen me for the last time,
There is a
door I have shut until the end of the world.
Among the
books in my library (I have them before me)
There are
some I shall never reopen.
This summer
I complete my fiftieth year:
Death
reduces me incessantly.
J.L. Borges
- Translated
by ANTHONY KERRIGAN
*
THE PLOT
Te make his
horror complete, Caesar, pursued to the base of a statue, by the
relentless
daggers of his friends, discovers among the faces and blades the face
of Marcus
Junius Brutus, his favorite, his son perhaps, and he ceases to defend
himself
to exclaim: "You too, my son!"
Shakespeare and Quevedo echo the
pathetic cry.
Fate takes
pleasure in repetitions, variants, symmetries. Nineteen centuries
later, in the
south of Buenos Aires province, a gaucho is assaulted by other gauchos,
and, as
he falls, recognizes a godson and with gentle reproach and gradual
surprise
exclaims (these words must be heard, not read):
"But che!" He is killed
and never knows he dies so that a scene may be
re-enacted.
J.L. Borges
- Translated
by ANTHONY KERRIGAN
The Drunken
Boat
(Le Bateau Ivre)
Comme je
descendais des Fleuves impassibles,
Je ne me
sentis plus guidé par les haleurs:
Des
Peaux-Rouges criards les avaient pris pour cibles,
Les ayant
cloués nus aux poteaux de couleurs.
As I floated
down impassive Rivers,
I felt
myself no longer pulled by ropes:
The Redskins
took my hauliers for targets,
And nailed
them naked to their painted posts.
Tôi bước xuống
những dòng sông bình lặng,
Không còn những
người kéo thuyền hướng dẫn:
Bọn da đỏ đã
dùng họ làm bia
Khi đã đóng
họ vào cột tô màu.
*
J'étais
insoucieux de tous les équipages,
Porteur de
blés flamands ou de cotons anglais.
Quand avec
mes haleurs ont fini ces tapages,
Les Fleuves
m'ont laissé descendre où je voulais.
Carrying
Flemish wheat or English cotton,
I was
indifferent to all my crews.
The Rivers
let me float down as I wished,
When the
victims and the sounds were through.
Tôi vô tư với
mọi đoàn thủy thủ
Vác gạo xứ
Flandre hoặc bông gòn Anh
Hết đám kéo
thuyền hết cơn huyên náo,
Những dòng
sông cứ để tôi mặc tình.
Note: Trên Hậu
Vệ, có 1 độc giả góp ý về bản dịch Con Tầu
Say của bạn HPA, trên Da Màu. Gấu tò mò vô nét, kiếm bản tiếng Anh, trên đây là 3 khúc đầu.
Thêm tí bình
loạn:
“Impassible”
mà dịch là “bình lặng”, nếu dịch ngược lại, sẽ thành “paisible”.
Có lẽ nên dịch
là “ù lì”, [nhớ đến Vua Lì!], từ này sẽ “ăn” với những từ “dửng dưng”,
“mặc
tình”.. sau đó.
Bạn HPA vờ
đi cái khúc, "Je ne me sentis plus"
Gấu thử dịch:
Khi tôi bước
xuống những dòng sông ù lì,
Cảm thấy hết
còn bị đám người kéo thuyền hướng dẫn
Đám Da Đỏ đã
dùng họ làm bia,
Và đóng đinh
họ trần truồng vô mấy cây cột sơn.
“Vô tư”
không hay bằng “dửng dưng”.
Từ “mọi”
nghe cũng ngang tai quá, “tất cả” hay hơn…
“Vô tư”
không hay bằng “dửng dưng”, tới nhất, tôi chẳng thèm để ý
Từ “mọi”
nghe cũng ngang tai quá, “tất cả” hay hơn…
GNV dịch:
Chẳng để ý đến
tất cả thuỷ thủ đoàn
Vác lúa mì Flandre
hay bông gòn... Anh Cuốc
Khi cơn huyên
náo chấm dứt cùng với những người kéo thuyền
Những dòng sông
mặc tình cho tôi muốn trôi đi tới đâu thì trôi.
[Bản tiếng
Anh dịch những người kéo thuyền là những nạn nhân]
Không
hiểu
sao HPA lại dịch lúa mì Flandre thành gạo Mít?
Chắc cũng mắm xốt?
*
READING HISTORY
for Hans Magnus
At times, reading here
In the library,
I'm given a glimpse
Of those condemned to death
Centuries ago,
And of their executioners.
I see each pale face before me
The way a judge
Pronouncing a sentence would,
Marveling at the thought
That I do not exist yet.
With eyes closed I can hear
The evening birds.
Soon they will be quiet
And the final night on earth
Will commence
In the fullness of its sorrow.
How vast, dark, and
impenetrable
Are the early-morning skies
Of those led to their death
In a world from which I'm entirely absent,
Where I can still watch
Someone's slumped back,
Someone who is walking away from me
With his hands tied,
His graying head still on his shoulders,
Someone who
In what little remains of his life
Knows in some vague way about me,
And thinks of me as God,
As Devil.
Đọc Sử Ký
Gửi Hans Magnus
Đôi khi đọc ở đây
Tại thư viện
Tôi được đưa mắt nhìn
Những người bị kết án tử hình
Những thế kỷ đã qua
Và những đao phủ của họ
Tôi nhìn mỗi khuôn mặt
nhợt nhạt
Cách ông tòa tuyên án
Lạ làm sao, là, tôi thấy mừng
Khi nghĩ rằng,
May quá, khi đó mình chưa ra đời!
Với cặp mắt nhắm tít, tôi có thể nghe
Những chim buổi chiều tối
Chẳng mấy chốc, chúng sẽ mần thinh
Và đêm sau cùng trên trái đất
Sẽ bắt đầu
Trong trọn nỗi thống khổ của nó
Bao la, tối, không cách nào
xuyên thủng,
Là những bầu trời sáng sớm
Của những con người bị dẫn tới cái chết của họ
Trong một thế giới mà tôi thì hoàn toàn vắng mặt
Từ cái chỗ của tôi, tôi vẫn có thể ngắm
Cái lưng lảo đảo,
Của một người nào đó,
Một người nào đó đang bước xa ra khỏi tôi
Với hai tay bị trói
Cái đầu xám của người đó thì vẫn còn trên hai vai
Một người nào đó
Trong tí xíu thời gian còn lại của cuộc đời của mình
Biết, một cách mơ hồ về tôi
Và nghĩ về tôi, như là Thượng Đế
Như là Quỉ
*
THE VOICE AT 3:00 A.M.
Who put canned laughter
Into my crucifixion scene?
Charles Simic
Tiếng Nói Lúc Ba Giờ Sáng
Ai đem cái cười đóng hộp
Vào trong cái xen tôi đang bị đóng đinh thập tự?
*
Last Meal
The waiter was dressed in black
and wore a hood
and when we told him we needed a little more time,
his pencil froze in the air above his pad.
And later when he came back
to ask if we were finished, we shook our heads no,
our forks still raised over our empty plates.
BILLY COLLINS
TLS JANUARY 21 2011
Bữa ăn chót
Người
bồi bàn bận bộ đồ den,
đội mũ trùm đầu
Và khi chúng tôi nói với anh ta chúng tôi cần thêm tí ti thời gian
Cây viết chì của anh ta đóng băng, ở trong không khí
phía bên trên xấp giấy của anh.
Và một lát sau đó, khi
anh ta quay trở lại
để hỏi coi chúng tôi dùng bữa xong chưa,
chúng tôi lắc đầu, chưa
mấy chiếc nĩa của chúng tôi thì vẫn còn lơ lửng
ở phía bên trên mấy cái dĩa ăn sạch bách của chúng tôi.
Note: Lạ làm sao, cả ba bài thơ
như cùng hẹn, gặp nhau trên TV!
Thơ Mít, làm sao có thứ này?
*
Giải Oan
Ba mươi năm
qua rồi đó em
Rừng em nằm
sương nhỏ từng đêm
Bao nhiêu lớp
lá vàng rơi rụng
Mưa nhạt
nhòa, nắng chiếu xuyên nghiêng
Mắt em còn mở
nhìn trời cao
Hay úp mặt
ngửi đất tanh tao
Máu đã khô
nuôi mầm rễ mới
Chảy trong từng
mạch nhựa xôn xao
Ba mươi năm
chị thường nằm mộng
Thấy em vùi
sóng nước vỗ bờ
Những đôi mắt
quanh em thù hận
Và tiếng kêu
loài thú hoang sơ
Em có nghe
kinh cầu giải oan
Mõ khua hòa
trên sóng thênh thang
Hồn em có
chút gì xao động
Và tâm em có
được bình an
Da thịt xưa
giờ hòa trong đất
Níu kéo chi
cõi thực cõi hư
Ôi không muốn
mà sao vướng vất
Nỗi oan khiên từ thuở dựng cờ
Đêm nay rằm
trăng rồi sẽ sáng
Lạnh từ
trong chân tóc chưa tan
Kinh cầu
nguyện xin làm chăn đắp
Khói nhang
buồn sưởi ấm bi thương
Em hãy đi
vào nơi miên viễn
Hãy quên đi
cuộc chiến đã tàn
Em hãy nhập
vào dòng nhựa thắm
Nở mầm non
xanh mướt rừng hoang
Lá sẽ che mộ
em đã lấp
Cỏ sẽ đùa với
gió đi qua
Trong mơ chị
sẽ không còn sóng
Và hồn em
ríu rít chim ca
Thôi em đừng
nhớ thiết tha
Đặng Lệ
Khánh
(viết cho em
trai, mất tích trên đường vượt biên qua Thái, xuyên Campuchia)
*
Bụi
Cầm dương xanh (thơ)
*
Slow
nightfall
Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn
những năm xưa.
Jorge Luis
Borges began as a Buenos Aires Baudelaire, but became the master of
epic
subjects in compressed forms
Borges bắt đầu
như là Baudelaire của Buenos Aires...
*
She walks in beauty, like the
night
Byron: Hebrew
Melodies (1815):
Nàng bước trong cái đẹp, như đêm
Borges phán:
Để chấp nhận dòng trên, người đọc phải tưởng tượng ra một em, cao, tối,
tall,
dark, bước đi như Đêm, và Đêm, đến lượt nó, là 1 người đàn bà cao, tối,
và cứ
thế, cứ thế.
Tưởng tượng
đẩy tưởng tượng, câu "hót" BHD, thần sầu, "không phải của GNV", làm nhớ
đến
lời nhạc
thần sầu của TCS, trong Phôi Pha:
Từ vườn
khuya bước về
Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa.
BHD ở ngoài
đời, cao, đen, nhập vào với đêm, y chang lời nhạc của TCS mô tả, những
lần
"bàn chân ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa!"
*
Mấy phê bình
gia có bằng cấp như Thầy Cuốc, Thầy Phúc, do chưa hề viết văn bao giờ,
lại thiếu
sức tưởng tượng, thành thử không bao giờ tìm ra được nét đẹp của tác
phẩm, mà
trước đó, chưa ai nhìn ra, điều mà người ta gọi là khám phá.
Thế là, mỗi
lần phê bình, một ông thì phán cho thật kêu, chẳng cần chứng
minh.
Thầy
Cuốc phán về ông tiên chỉ VP: Nhà văn của thế kỷ 20. Chấm hết! Thầy
chẳng thèm
chỉ dẫn cho độc giả của Thầy, VP nhà văn thế kỷ 20,
là như thế nào? Thế kỷ 20 được coi là thế kỷ
của hung bạo, của tù đầy, của Lò Thiêu, của Gulag, mấy thứ đó VP có
biết gì đâu.
Người có đi
tù VC, nhưng chúng ta cũng chỉ biết có vậy, chấm hết!
Còn Thầy Phúc,
mỗi lần viết phê bình, là Thầy làm văn chương, với những áng văn thật
đẹp, nhưng
rỗng tuếch, và có thể áp dụng cho bất cứ 1 tác giả.
Thí dụ, đoạn
sau đây, Thầy viết về TMT:
Có
sự trộn lẫn của thực tại với hồi ức, của cuộc đời hằn xé với những mộng
tưởng
thanh xuân. Có nắng mưa, gió sóng, cùng những bụi bặm, náo động của
cuộc đời.
Nhưng cũng có, trong những dòng văn chân thật ấy, những khoảng thinh
lặng cần
thiết và ấm áp của tình người.
Đọc nghe thật
sướng lỗ nhĩ, nhưng áp dụng cho bất cứ nhà văn nhà thơ nào có tí ti
lãng mạn, mơ
mộng, khi viết, đều được cả!
Bạn thử đọc
bất cứ 1 bài viết nào của Thầy Phúc, về bất cứ tác giả, đều lọc ra được
những câu
văn sướng lỗ nhĩ như vậy!
GNV quen Thầy
Phúc lần đầu, khi tới Cali lần đầu, 1998, tại nhà NMG, khi còn giữ mục
Tạp
Ghi cho tờ
Văn Học. Ông rất lịch sự, và có đưa ra 1 nhận xét về Gấu, y chang Đào
quân, mi không phải dân khoa bảng.
Đào quân thì chê, thằng thợ điện Bưu
Điện mà phê
bình, triết triếc cái khỉ gì, trong khi Thầy Phúc, có vẻ quí chuyện đó,
không phải dân khoa bảng, nhưng viết được quá, đại khái như thế, Gấu
không nhớ
rõ, và cũng chẳng để ý.
Lần sau qua Cali, hẹn gặp
nhau ở 1 quán cà phê, vì khi đó,
không còn viết cho VH. Hai đứa ngồi đấu hót tưng bừng suốt một buổi
sáng, tới tận
trưa, và tuyệt nhất, là cái tay chủ quán thú vị lắm, hình như còn rất
hân hạnh
nữa, cứ hăng say bàn luận về văn chương, về nghệ thuật, về thơ ca đi,
tớ cũng
thích lắm!
Thành thử, Gấu
chưa hề bao giờ có ý nghĩ phạng ông bạn ngày nào, vì thù hằn, vì thế
này, vì thế
nọ.
Nhưng, viết, là phải viết như thế.
Nếu không, đừng viết!
Hồ Thành Đức, lần gặp lại tại Cali, nhắc tới cú đụng độ với NS,
gật gù,
phê bình là phải như vậy, mũi tên đã đặt lên dây cung, phải bắn thôi!
Ngay ông anh
của Gấu, TTT, mà còn phải gật gù thích thú, khi thằng em điểm cuốn Vào Nơi Gió
Cát của NTH, trên phụ trang VHNT của nhật báo Tiền Tuyến: Có lẽ
tôi cũng phải bắt
chước cậu! (1)
Suốt đời Gấu,
chưa từng khen, chê theo cái kiểu đãi bôi, bất cứ 1 ai.
Trừ mấy đấng bạn quí!
Chính vì thế mà
dám đụng Nguyên Sa, khi Thầy Triết bầy đặt viết truyện ngắn!
Gấu có 1 ông
em văn nghệ, 1 nhà thơ. Làm thơ hay lắm. Đó là sự thực, Gấu thích lắm,
nhưng không
làm sao tìm được cái chìa khoá để vô cõi thơ của anh.
Thế là sau đó,
cũng bị
anh ta bực, đếch thèm chơi với ông anh nữa.
Chán thế đấy!
(1)
Trong cái "nghiệp" phê bình của
tôi, tôi đã đụng độ với
quá nhiều người. Riêng trường hợp ông bạn, tôi quên, nhưng rất nhiều
lần tôi
nhớ. Có khi vừa nhớ, vừa cầu mong, hy vọng rằng bài phê bình của mình
có thể có
ích nào đó. Ngay cả trường hợp ông bạn, tôi cứ tự hào một cách thật tếu
là,
biết đâu, nhờ lời nói "khích" của tôi, ông đã để lại cho đời hai đại
tác phẩm.
Mà có thể thế thật! Thí dụ như lần đụng độ với Nguyễn Thị Hoàng, khi bà
xuất
bản cuốn Vào Nơi Gió Cát. Tôi đang giữ mục điểm sách cho phụ trang Văn
Học Nghệ
Thuật của nhật báo Tiền Tuyến. Trang báo do Thanh Tâm Tuyền phụ trách
(sau ông
giao lại cho Huỳnh Phan Anh và tôi; Huỳnh Phan Anh, sau bực bội với
thằng bạn
"láu cá' Bắc-kỳ, cũng dãn ra). Nguyễn Thị Hoàng vừa thành lập nhà xuất
bản, làm một tuyển tập truyện ngắn, trả tiền nhuận bút rất xôm, có thể
nói là
cao nhất, so với các nhà xuất bản khác. Tôi cũng được mời tham gia.
Ngoài tiền
nhuận bút còn một bữa ăn linh đình, như để giới thiệu tuyển tập truyện
ngắn và
nhà xuất bản. Rồi tới Vào Nơi Gió Cát.
Cuốn truyện quá tệ, nhưng chưa tệ hại bằng bài điểm sách. Sau khi tóm
tắt nội
dung phần đầu, tôi kết luận: phần đầu cuốn sách, theo tôi thật là khủng
khiếp!
(Chấm xuống dòng đàng hoàng!).
Và sự khủng khiếp cứ thế kéo dài cho đến hết cuốn truyện.
Chưa hết, người phụ trách trang báo lại tỏ ra rất thích từ "khủng
khiếp". Ông cho đăng, dưới cái tít: Văn Chương Khủng Khiếp.
Nguyễn Thị Hoàng hết sức giận dữ về bài viết. Nhưng thật khác người, bà
trả lời
sau đó bằng tác phẩm Cuộc Tình Trong Ngục Thất. Đây là một tác phẩm
tuyệt vời
nhất, nói "không" về cuộc chiến, theo tôi. Hình ảnh một người đàn bà,
một người vợ tất tả chạy ngược, chạy xuôi, trong địa ngục để cứu chồng.
Một ấn
bản khác về chàng Orphée. Tôi lại là người được cả hai người, là Thanh
Tâm
Tuyền và Mai Thảo, trao cho vinh dự viết bài điểm sách, trên tờ Vấn Đề:
Nếu
Dostoevsky muốn kéo Thượng Đế xuống cho ngang bằng con người, ở đây
Nguyễn Thị
Hoàng muốn kéo địa ngục lên ngang tầm trái đất...(23)
Một chuyến
đi