|
Thơ
Mỗi Ngày
Mới tậu. Phải
order, chờ nửa tháng. Nhiều bài tuyệt lắm!
Hà, hà!
Bữa trước thấy
tập thơ mới của Szymborska, Here, song ngữ, nhưng mắc quá, chê.
Bữa sau mò tới, đã mất rồi. Bà
này ăn khách thật.
Hai bài thơ trên có trong tập thơ Useen
Hand
NOW THAT
YOU'VE LOST YOUR MEMORY
To my
Father
Now that
you've lost your memory
and can only
smile, defenseless,
I want to
help-it was you,
after all,
who opened my imagination like a demiurge.
I remember
our excursions, woolly clouds
swimming low
over a damp mountain forest
(you knew
every path in those woods), and
the summer
day when we scaled the heights
of a
lighthouse above the Baltic
and we
watched the endless rippling of the sea,
its white
stitches frayed like basted seams.
I won't
forget that moment, I think you were
moved too-we
seemed to see the whole world,
boundless,
calmly breathing, blue and perfect,
at once
distinct and hazy, near and distant;
we felt the
planet's roundness, we heard the gulls,
who played
at aimless gliding
through warm
and chilly currents of the air.
I can't help
you, I have only one memory.
Bây
giờ, cha đã mất trí nhớ
Gửi cha tôi
Bây giờ, cha
đã mất trí nhớ
và đành mỉm
cười, vô phương chống đỡ
Con muốn
giúp - thì chẳng phải đúng là cha,
nói cho
cùng, là người, như một đấng quỉ thần, đã mở cửa trí tưởng tượng của
con.
Con nhớ những
chuyến đi xa của hai cha con, những đám mây mềm như tơ,
bơi bên dưới
một cái đập ở vùng rừng núi
(Cha biết từng
bước đi, trong những khu rừng đó), và
những ngày
hè, khi chúng ta đo chiều cao của ngọn hải đăng vượt
lên khỏi biển Baltic
và hai bố
con ngắm đến mệt nghỉ, biển cuộn sóng, nhè nhẹ, nhè nhẹ;
những đợt
sóng trắng của nó bện vào nhau như những sợi libe.
Con không thể
nào quên khoảnh khắc đó,
con nghĩ bố
cũng rất ư là xúc động -
có vẻ như cả
hai cha con ta thì được nhìn thấy trọn thế giới,
không bờ bến,
thở nhẹ nhàng, xanh và tuyệt hảo,
liền lập tức,
bất thình lình, phân biệt rạch ròi, mù mù sương khói, gần gần gụi gụi,
và ngàn
trùng xa cách
Hai bố con
mình cảm thấy cái tròn tròn của trái đất, nghe những con mòng biển
nô đùa, trượt
bâng quơ, qua những đợt không khí âm ấm, lành lạnh.
Con không thể
giúp bố, "xo ghì",
Con chỉ có 1 hồi nhớ.
(Translated
from the Polish by Clare Cavanagh)
NYRB
May 26,
2011
Đi Bộ
Tớ chẳng đụng
đầu với 1 kẻ nào quen thuộc ngày nào
Mùa hạ, tớ một
mình trong thành phố
Tớ đi vô mấy
tiệm, mấy căn nhà, mấy văn phòng
Và chẳng kiếm
thấy 1 cái gì quen quen ngày xưa.
Cây trong công
viên – Xưa chúng cũng to lớn như vậy ư?
Và những con
chim, cũng ẩn ẩn, im ắng như thế?
Cái xe buýt
đi qua lối này, đi đâu?
Những cửa tiệm
bán rau quả, tiệm cắt tóc?
Rồi cái ngôi
trường giống như căn nhà với cái hàng rào đỏ?
Cô Harding
chắc vẫn ngồi ở bàn giấy
Thở dài khi
sắp xếp giấy tờ muộn vào đêm
Chán mớ đời,
tớ không kiếm ra con phố.
Tất
cả những
gì mà tớ làm, là làm 1 tua nữa vòng vòng khu xóm
Hy
vọng kiếm
ra ai đó chỉ đường chỉ hướng cho tớ đi
Và
kiếm ra 1
chỗ để mà ngủ, bởi vì tớ quên mua vé khứ hồi
Trở
về bất kỳ
chỗ nào, tớ tới từ đó, vào đầu buổi chiều.
Note:
Đúng là cái lần Gấu trở lại con hẻm cũ, nhà ông anh nhà thơ, Xóm Gà.
Đếch
làm sao kiếm ra nhà. Tới căn nhà yên chí là nhà ngày nào, đếch phải,
đành đi trở
ra, nhưng bực quá, vô lý quá, lại quay lại, và 1 bà trong xóm bèn nói
lớn, vọng
tới Gấu, cái nhà có hai ông sĩ quan đi cải tạo ở đằng kia kìa, ở cuối
cái
sân....
Tới
đó, thì bèn “ơ rơ ka” một phát, và tự nhủ thầm, tại làm sao mà lại quên
được nhỉ!
Thiếu mấy con chim nhảy lò cò ở bãi biển, [ở bài thơ trên] nhưng thay
vào đó, là mấy
con gà
đang lang thang trong sân đất…
LIFE IS NOT
A DREAM
In the
beginning, freezing nights and hatred.
Red Army
soldiers fired automatic pistols
at the sky,
trying to strike the Highest Being.
Mother
cried, perhaps remembering
the
sentimental stories of her childhood.
Coldwater
Street ran beside the river
as if trying
to outrace it-
or to reach
its distant sources,
still pure
beyond a doubt, recalling the dawn's joy.
If life is a
dream,
then the
phoenix may actually exist.
But in
Krakow life revived
under the
sign of common pigeons:
in the
Planty Gardens, alongside veterans
clad in the
tattered uniforms
of at least
three armies,
young
beauties made appearances,
and
music-loving plane trees donned
their finest
new foliage outside Symphony Hall.
Should one
honor local gods?
A beggar at
the marketplace in Lucca
moved from
stand to stand
garnering
tributes-proud as Diana.
It's more
difficult to find nymphs
where we
live, though,
and great Pan
didn't leave his calling card.
Important
memories-stern monuments
to
monotheism - were inscribed
only in the
trees and on church walls.
We tried
courage, since there was no exit.
We tried
cunning, but it failed.
We tried
patience and fell asleep.
We wrote
poems like leaflets and leaflets
like pages
from burgeoning epics.
Dreams grew
like hibiscus flowers.
Dark wells
opened in the night.
We tried
cynicism; some of us succeeded.
There was
great joy, don't forget.
We tried
time; it was tasteless, like water.
Finally,
much later, for unknown
reasons, the
clocks began
to revolve
ever faster above us,
as in
archival, silent films.
And life
went on, inevitable life,
so
skeptical, so practiced,
coming back
to us so insistently
that one day
we felt the taste of ordinary failure,
of common
tragedy upon our lips,
which was a
kind of triumph.
Adam
Zagajewski: Eternal Enemies
Đời thì
không phải là 1 giấc mơ
Vào lúc thoạt
đầu, thì là những đêm lạnh giá, và hận thù
Hồng Quân bắn
súng liên thanh như điên
Lên bầu trời,
tính hăm dọa Thượng Đế.
Mẹ khóc, có
lẽ nhớ những câu chuyện làm mủi lòng khi còn là 1 cô bé
Con phố
Coldwater Street chạy kế bên con sông,
Như muốn vượt
lên nó –
hay là tới
được những nguồn xa xôi,
vẫn trinh
nguyên, vượt quá hồ nghi,
gợi nhớ niềm vui rạng đông
Nếu đời là 1
giấc mơ,
thì chim phượng
hoàng hẳn là có thực.
Nhưng cuộc sống
ở Krakow đã sống lại
dưới dấu hiệu
của những con chim bồ câu chung:
tại công
viên, dọc theo những cựu chiến binh,
trong những
bộ quân phục rách bươm, của ít nhất là ba thứ quân đội,
những em
xinh như mộng khoe nhan sắc,
và những cây
tiêu huyền mê âm nhạc
xúng xính
trong những tàng lá đầu tiên tuyệt vời của chúng,
ở phía bên
ngoài Viện Âm Nhạc Hòa Tấu.
Liệu ai đó
có nên vinh danh những vị thổ thần?
Một đấng ăn
mày ở Chợ Bến Thành nhích nhích,
từ 1 chỗ lạy
ông đi qua, tới 1 chỗ lạy bà đi lại,
thu gom những
đồng bạc Cụ Hồ,
ấy chết xin
lỗi, những lời vinh danh, tưởng niệm – hãnh diện như Diana.
Tuy nhiên,
thật quá khó, để mà tìm những nàng ‘nymphs’,
và vị thần
Pan vĩ đại thì lại quên không để lại tấm thẻ gọi điện thoại.
Những kỷ niệm
quan trọng – những đài tưởng niệm lạnh lùng thờ độc thần –
thì chỉ được
khắc ở trên cây hay trên tường nhà thờ.
Chúng ta thử
can đảm, kể từ khi không còn lối ra.
Chúng ta thử
bịp, nhưng thất bại.
Chúng ta thử
kiên nhẫn, và ngủ gục.
Chúng ta làm
thơ như những tờ rơi, tờ rớt
như những
trang sách từ những sử thi, hùng ca đang nở rộ.
Những giấc
mơ mọc lên như những bông dâm bụt.
Những cái giếng
âm u mở vào ban đêm
Chúng ta thử
trò đểu giả; có vài tên thành công.
Có niềm vui
lớn,
30 năm mới có ngày hôm nay, vui sao nước mắt lại trào,
nhớ nhé, đừng quên
Chúng ta thử
thời gian; nó nhạt thếch như nước lã.
Sau cùng,
mãi thật lâu sau đó,
Không hiểu
vì những lý do gì, những cái đồng hồ tích tắc trở lại,
nhưng chạy
ngược chiều, nhanh như chưa từng như thế, ở trên đầu chúng ta,
Như trong những
cuốn phim câm, chứa trong kho.
Và cuộc đời
lại tiếp tục, cuộc đời không thể nào tránh được,
Thật nản, thật
thực dụng.
Nó trở lại với
chúng ta thật nhẫn nại, thật nài nỉ, dai như điả đói
đến một ngày
nào đó, chúng ta cảm thấy mùi của sự thất bại bình thường,
của bi kịch
chung,
ở trên môi của
chúng ta,
giống như là
1 thứ chiến thắng.
Adam
Zagajewski: Eternal Enemies
SMALL
OBJECTS
My contemporaries like
small objects,
dried starfish that have forgotten the sea,
melancholy stopped clocks, postcards
sent from vanished cities,
and blackened with illegible script,
in which they discern words
like "yearning;' "illness;' or "the end."
They marvel at dormant volcanoes.
They don't desire light.
Adam
Zagajewski
Chuyện nhỏ
Người cùng
thời với GNV thích ba chuyện nhỏ,
sao biển
khô, quên mẹ mất biển cả từ đời nảo đời nào,
những chiếc
đồng hồ buồn ngưng chạy, những tấm bưu thiếp,
gửi từ những
thành phố đã biến mất,
đen thui với
những chữ không làm sao đọc được,
như ‘khát
khao’, ‘bịnh’ hay, ‘sau cùng’.
Họ ngỡ ngàng
trước những ngọn núi lửa đã nguội, và đang ngủ.
Họ đếch
thích ánh sáng.
Late-Night Whispers from
Poland
Szymborska thường viết, như
thể, về 1 đề tài được chỉ định - một hạt
cát, hay là bức hình đầu tiên của Hitler, hay một điều gì có tính suy
đoán hơn,
thí dụ, sự hiện hữu của linh hồn của chúng ta, hay là sự im lặng của
cây cối quanh
chúng ta. Rồi, tiếp đó, bà nghiên cứu, xem xét đề tài một cách gần gụi
hơn.
Trước tiên, bà miêu tả cái bà nhìn thấy, rồi bà nhớ lại những gì bà và
những
người khác biết về nó, và, yên chí lớn, độc giả theo kịp bà, cùng với
bà đi tới mọi
khúc rẽ, mọi bước ngoặt của cái đầu của bà, khi bà lần theo tư tưởng
của mình,
trên đường đi tới một kết luận ngỡ ngàng cho bài thơ, hoặc dí dỏm, hoặc
tàn nhẫn,
dã man, ác liệt.
Thơ như thế, có vẻ như là 1 cuộc triển khai, viết. Thì nó thế,
thực.
Hơn hết thẩy những nhà thơ mà tôi biết, hay nghĩ tới, Szymborska không
chỉ
sáng tạo ra 1 tình trạng, một trạng thái [a state] thơ, ở nơi những độc
giả của
bà, nhưng còn nói cho họ biết, những điều họ chưa biết trước đó, và
chẳng bao
giờ nghĩ về nhưng điều đó.
Dừng Chân
Tuyết Xuống Rừng Chiều
Cánh rừng này tôi nghĩ mình biết của ai
Nhà anh trong xóm nhỏ xa xôi
Anh không hề thấy tôi dừng lại
Ngắm cảnh rừng chiều tuyết trắng bay.
NDT dịch
Stopping
by Woods on a Snowy Evening
Whose woods
these are I think I know.
His house is
in the village though;
He will not
see me stopping here
To watch his
woods fill up with snow.
Note: Đây là
bài thơ tiếng Anh đầu tiên trong đời của Gấu, đọc khi ở trại tị nạn
Thái Lan,
thời gian bắt đầu học lại tiếng Anh.
Trên TV cũng đã dịch. (1)
Nhà thơ dởm
dịch bài thơ này cũng dởm, lèm bèm về nó cũng dởm. “Người” muốn lập lại
cái từ
Dừng/Rừng cho “có vẻ thơ”. Nhưng hỏng.
Thứ nhất, ý
của nó là:
Dừng ngựa [không phải
chân] bên rừng vào 1 buổi chiều tuyết phủ.
Hai câu đầu
cho thấy, tác giả biết chủ nhân của khu rừng, nhà ở làng gần đó, thành
thử mới
viết tiếp, ông chủ cánh rừng không nhìn thấy khách dừng chân, [lén lút]
hưởng
cái thú 1 mình ngắm cánh rừng "của ông" tuyết đang xuống.
Thứ nữa: Ý niệm chủ /khách/ cảnh đẹp là nền của khổ thơ đầu, thêm con
ngựa.
Bởi vì con ngựa không biết cánh rừng có chủ, nên mới ngạc nhiên, sao
ngưng ở
đây, mới lắc lắc cái chuông ra ý hỏi, mấy mảnh tuyết mới trả lời...
Ở đâu ra hai chữ “xa xôi” cà chớn? Nhà, rừng gần làng, "xa xôi" chi đâu?
“Không hề thấy”, nhảm quá.
Nguyên tác "sẽ không thấy", will not see, đơn giản có vậy, không hề,
never, là sao?
Đọc ông “bình”
thơ mới chán nữa! Loạn cào cào châu chấu, chứng tỏ ông không đọc
“thủng” bài thơ!
Dừng chân
tuyết xuống rừng chiều, nghe tếu [sến] quá!
Hà, hà!
Lèm bèm về
thơ cũng đâu có dễ!
Nhân nói
chuyện lèm bèm về thơ, bài viết sau đây đang "top ten", trên
TV, liên quan tới câu phán của TMT.
Thơ TMT rất TMT.
Thơ tôi rất thơ tôi.
Robert Frost
Stopping by
Woods on a Snowy Evening
Whose woods
these are I think I know.
His house is
in the village, though;
He will not see
me stopping here
To watch his
woods fill up with snow.
My little
horse must think it queer
To stop
without a farmhouse near
Between the
woods and frozen lake
The darkest
evening of the year.
He gives his
harness bells a shake
To ask if
there is some mistake.
The only
other sound's the sweep
Of easy wind
and downy flake.
The woods
are lovely, dark and deep,
But I have
promises to keep,
And miles to
go before I sleep,
And miles to
go before I sleep
Tạm dịch
Dừng ngựa
bên rừng buổi chiều tuyết rụng
Rừng này của
ai tôi nghĩ tôi biết
Nhà ông ta ở
trong làng
Làm sao ông
ta thấy tôi ngừng ngựa
Ngắm tuyết
rơi phủ kín rừng.
Ngựa của tôi
chắc thấy kỳ kỳ
Tại sao
ngưng ở đây, chung quanh chẳng nhà cửa trang trại,
Chỉ thấy rừng
và hồ nước đóng băng
Vào đúng chiều
hôm cuối năm
Nó bèn khẩy
khẩy cái chuông nhỏ
Như để nói với
chủ của nó, này, chắc có chi lầm lẫn
Để đáp lại
tiếng chuông ngựa,
Là tiếng gió
thoảng và tiếng mỏng của hạt tuyết rơi.
Rừng thì đẹp,
tối, và sâu
Nhưng tôi
còn những lời hứa phải giữ
Và nhiều dặm
đường phải đi
Trước khi
lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ
Note: Bài
thơ này mở ra 1 cuốn sách dạy tiếng Anh cho người tị nạn ở Trại [Thái
Lan], có
tên là "Promises to Keep".
Những lời hứa phải giữ. Chiều Cuối Năm, Dừng
Ngựa Bên Rừng…. Lăn Ra Ngủ…
Tay bác
sĩ/nhà thơ dởm này có gì bất thường.
Lần ông ta
chê bài diễn văn bỏ chạy của Tông Tông Thiệu sai văn phạm Gấu đã thấy
quái rồi. (1)
Lần này, ổng
khen bản dịch của HC trên DM (1), Gấu cũng không hiểu nổi từ "khinh
mạn"
vì ông không dẫn chứng. Tại sao khinh mạn? Khinh mạn về cái gì?
Rồi cái câu
hỏi "vĩ cuồng", dịch từ chữ nào cũng quái nữa. Ai thì cũng biết cặp từ
vĩ/vi [lớn/bé, mega/micro], cuồng, mania. Vậy cái từ đó sẽ do hai từ đó
mà thành.
Vậy cũng
tra vấn người dịch.
(1)
Tôi nhớ trước
ngày 30 tháng 4 năm 75, ngồi bên radio nghe Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu
đọc diễn văn,
tôi đánh bạo nói với cha tôi rằng (thì là) theo nhận xét của một học
sinh như
tôi thì diễn văn của tổng thống có vẻ không
đúng với văn phạm tiếng Việt mà tôi được học
chút nào. Cha tôi nhìn tôi
im lặng một lát rồi buồn rầu bảo, đại ý, các chính thể đến giờ phút lụi
tàn bao
giờ cũng có những biểu hiện như thế.
NDT
Source
Thổi
VC từ lúc
còn “trứng nước” như thế này, thì “bất thường” thật.
Tôi thiết
nghĩ các nhà văn gốc miền Nam và ở hải ngoại nên tìm đọc thêm về văn
học và lý
luận văn học Nga. Biết bao nhiêu điều để học, sao cứ đọc hoài Frost với
lại
Faulkner?
NDT
Dịch Frost, như
NDT thì được? NQT
(2)
Bài viết
hay, hài hước, khinh mạn.
Bản dịch tuyệt
vời.
Không biết
chữ “vĩ cuồng” anh Hoàng Chính dịch từ chữ gì.
NDT
IT DEPEND
YOU MUST BE
SOMEWHERE, RIGHT? - NICK FLYNN
Birds
(sandpipers) hop on the beach at
Galveston.
"La
plupart des hommes meurent de chagrin" -says Buffon
(as quoted in Volume
One of Claudel's diaries).
R. thinks
American poets are unintelligent.
- Yet
nobleness exists, if only in a painting:
Christ's
face in the Caravaggio at S. Luigi dei Francesi
(I couldn't
tear myself away, I couldn't go).
It depends
who, I answer: I defend American poets.
Summer, endless dusk, and then the
stars like lanterns.
We discuss the emptiness of recent French poetry.
But
"rien" is such a lovely word! Better than nothing.
Even the ocean
seems happy at noon.
Forests
burn: resin has its brief moment of bliss.
We eat ice
cream on the cafe terrace.
The speakers are playing "Yesterday."
Notes from a
civil war: truce or armistice?
Suddenly I
move to Aix-en-Provence, I don't know how.
Evening crowds on the streets,
anticipation.
I push
through a dense thicket of onlookers and ask:
What's
happening? God's coming back. But it's just a dream.
Adam
Zagajewski
Tùy
“Bạn phải ở đâu
đó, đúng không?” – Nick Flynn
Chim
[sandpipers] nhảy lò cò ở bãi biển Galveston
“Đa số đàn ông
chết vì buồn”, Buffon phán
(như được trích
dẫn trong nhật ký của Claudel, Tập I)
R. nghĩ thi
sĩ Mẽo thì không thông minh.
-Tuy nhiên sự
cao nhã, quí tộc, nếu có chăng, thì ở trong một bức họa:
Bộ mặt của
Chúa Ky Tô trong Caravaggio at S. Luigi dei Francesi
[Tôi không cầm
được nước mắt, không thể bỏ đi)
Còn tùy ai,
tôi trả lời: Tôi bảo vệ những nhà thơ Mẽo.
Mùa hè, tối
dài dài, rồi thì những ngôi sao như những ngọn đèn
Chúng tôi bàn
về sự trống rỗng trong thơ Pháp gần đây
Nhưng “riểng” [rien] thì đúng là 1 từ mới đáng yêu làm sao
Có còn hơn
không.
Ngay cả biển
thì cũng tỏ ra hạnh phúc vào lúc giữa trưa.
Rừng cháy:
nhựa cây thì cũng có khoảnh khắc hạnh phúc rạng ngời của nó.
Chúng tôi ăn
kem trong tiệm cà phê lộ thiên
Mấy cái loa
hát bài “Yesterday”
Ghi chú từ một
cuộc nội chiến: ngưng bắn hay đình chiến?
Bỗng thình lình
tôi dời đi Aix-en-Provence. Tôi chẳng hiểu như thế nào
Đám đông buổi
chiều trên phố, hoài vọng.
Tôi len người
qua đám đông chật cứng, và hỏi:
Chuyện gì xẩy
ra?
Chúa trở lại.
Nhưng chỉ là
một giấc mơ.
WALKING
I never run
into anyone from the old days.
It's summer
and I'm alone in the city.
I enter
stores, apartment houses, offices
And find nothing remotely familiar.
The trees in
the park-were they always so big?
And the birds so hidden, so quiet?
Where is the
bus that passed this way?
Where are
the greengrocers and hairdressers,
And that
schoolhouse with the red fence?
Miss Harding
is probably still at her desk,
Sighing as she grades papers late into the
night.
The bummer is, I can't find the street.
All I can do
is make another tour of the neighborhood,
Hoping I'll meet someone to show me
the way
And a place
to sleep, since I've no return ticket .
To wherever
it is I came from earlier this evening
Charles
Simic
Đi Bộ
Tớ chẳng đụng
đầu với 1 kẻ nào quen thuộc ngày nào
Mùa hạ, tớ một
mình trong thành phố
Tớ đi vô mấy
tiệm, mấy căn nhà, mấy văn phòng
Và chẳng kiếm
thấy 1 cái gì quen quen ngày xưa.
Cây trong công
viên – Xưa chúng cũng to lớn như vậy ư?
Và những con
chim, cũng ẩn ẩn, im ắng như thế?
Cái xe buýt
đi qua lối này, đi đâu?
Những cửa tiệm
bán rau quả, tiệm cắt tóc?
Rồi cái ngôi
trường giống như căn nhà với cái hàng rào đỏ?
Cô Harding
chắc vẫn ngồi ở bàn giấy
Thở dài khi
sắp xếp giấy tờ muộn vào đêm
Chán mớ đời,
tớ không kiếm ra con phố.
Tất
cả những
gì mà tớ làm, là làm 1 tua nữa vòng vòng khu xóm
Hy
vọng kiếm
ra ai đó chỉ đường chỉ hướng cho tớ đi
Và
kiếm ra 1
chỗ để mà ngủ, bởi vì tớ quên mua vé khứ hồi
Trở
về bất kỳ
chỗ nào, tớ tới từ đó, vào đầu buổi chiều.
Note:
Đúng là cái lần Gấu trở lại con hẻm cũ, nhà ông anh nhà thơ, Xóm Gà.
Đếch
làm sao kiếm ra nhà. Tới căn nhà yên chí là nhà ngày nào, đếch phải,
đành đi trở
ra, nhưng bực quá, vô lý quá, lại quay lại, và 1 bà trong xóm bèn nói
lớn, vọng
tới Gấu, cái nhà có hai ông sĩ quan đi cải tạo ở đằng kia kìa, ở cuối
cái
sân....
Tới
đó, thì bèn “ơ rơ ka” một phát, và tự nhủ thầm, tại làm sao mà lại quên
được nhỉ!
Thiếu mấy con chim nhảy lò cò ở bãi biển, [ở bài thơ trên] nhưng thay
vào đó, là mấy
con gà
đang lang thang trong sân đất…
Szymborska
thường viết, như
thể, về 1 đề tài được chỉ định - một hạt
cát, hay là bức hình đầu tiên của Hitler, hay một điều gì có tính suy
đoán hơn,
thí dụ, sự hiện hữu của linh hồn của chúng ta, hay là sự im lặng của
cây cối quanh
chúng ta. Rồi, tiếp đó, bà nghiên cứu, xem xét đề tài một cách gần gụi
hơn.
Trước tiên, bà miêu tả cái bà nhìn thấy, rồi bà nhớ lại những gì bà và
những
người khác biết về nó, và, yên chí lớn, độc giả theo kịp bà, cùng với
bà đi tới mọi
khúc rẽ, mọi bước ngoặt của cái đầu của bà, khi bà lần theo tư tưởng
của mình,
trên đường đi tới một kết luận ngỡ ngàng cho bài thơ, hoặc dí dỏm, hoặc
tàn nhẫn,
dã man, ác liệt.
Thơ như thế, có vẻ như là 1 cuộc triển khai, viết. Thì nó thế,
thực.
Hơn hết thẩy những nhà thơ mà tôi biết, hay nghĩ tới, Szymborska không
chỉ
sáng tạo ra 1 tình trạng, một trạng thái [a state] thơ, ở nơi những độc
giả của
bà, nhưng còn nói cho họ biết, những điều họ chưa biết trước đó, và
chẳng bao
giờ nghĩ về nhưng điều đó.
Impossible
Friendships
For example,
with someone who no longer is,
who exists
only in yellowed letters.
Or long
walks beside a stream,
whose depths hold hidden
porcelain
cups-and the talks about philosophy
with a timid student or the postman.
A passerby
with proud eyes
whom you'll never know.
Friendship
with this world, ever more perfect
(if not for the salty smell of blood).
The old man
sipping coffee
in
St.-Lazare, who reminds you of someone.
Faces
flashing by
in local trains-
the happy
faces of travelers headed perhaps
for a splendid ball, or a beheading.
And
friendship with yourself
-since after
all you don't know who you are.
Adam
Zagajewski
Tình bạn bất
khả
Thí dụ, với
1 ai đó, không còn nữa,
giả như còn,
thì là ở trong những lá thư ố vàng.
Hay những cuộc
tản bộ dài bên một con suối
sâu thăm thẳm,
chẳng biết đâu mà lần.
Những chiếc
chén sứ Tầu, Giang Đông, Giang Tây, thí dụ -
và những cuộc lèm bèm về triết học
với 1 sinh viên dụt dè, hay người đưa thư.
Một khách bộ
hành đi ngang qua, với cặp mắt kiêu ngạo,
người mà bạn
sẽ chẳng bao giờ biết là ai.
Tình bạn với
thế giới này, tuyệt ơi là tuyệt
(nhờ tí vị mặn
của máu).
Ông già nhâm
nhi ly cà phe
ở St.-Lazare,
làm bạn nghĩ tới một người nào đó.
Những bộ mặt
loé lên
trên những chuyến tầu địa phương .
những bộ mặt
hạnh phúc của những du khách
có lẽ đang hướng tới một buổi dạ vũ,
hay 1 vụ chặt
đầu
Tình bạn với
chính bạn
– kể từ khi mà
bạn đếch biết bạn là ai.
SPEAK SOFTLY
...
Speak
softly: you're older than the one
you were so long; you're older
than
yourself-and yet you still don't know
what absence, poetry, and gold are.
Rusty water
swept the street; a brief storm
shook this supine, sleepy city.
Each storm
is a valediction, scores of photographers
seem to swirl above us, catching in a
flash
our moments
of panic and fear.
You know
what mourning is, despair so fierce
it chokes
the heart's rhythm and the future.
You've cried among strangers, in a modern
store,
where deft coins make the rounds.
You've seen
Venice and Siena and, in paintings, on the streets,
doleful young Madonnas, who
wish they were
ordinary
girls dancing at carnivals.
You've also
seen small towns, not beautiful at all,
old people, worn by pain and time.
Eyes shone
in medieval icons,
the eyes of
swarthy saints, wild animals' bright eyes.
You picked
dry pebbles from the beach at la Galère,
and suddenly you felt as fond of them
-of them and
the slender pine,
and everyone
else there, and the sea,
which is
powerful indeed, but very lonely-
as if we all
were orphans
from the
same home, parted for good
and granted only momentary visits
in the
chilly prisons of the present.
Speak
softly: you're no longer young,
revelation
must make peace with weeks of Lent,
you must choose, surrender, stall for time,
hold long
talks with envoys from dry countries
and cracked lips, you must wait,
write
letters, read books of five hundred pages.
Speak softly. Don't give up on
poetry.
Adam Zagajewski
Nói nhè nhẹ
Nói nhè nhẹ: Bạn già hơn cái gã
lâu nay là bạn;
bạn già hơn chính
bạn –
tuy nhiên bạn vẫn không biết
sự trống vắng, thơ ca, và vàng là những cái gì.
Nước han gỉ quét con phố: một
trận bão ngắn
lắc lắc thành phố lừ đừ, ngái ngủ.
Mỗi trận bão là một lời tạm biệt, cả một lũ nhiếp ảnh gia vần vũ
trên đầu chúng ta,
liên tu bấm máy, cố tóm vội lấy những khoảnh khắc hoảng loạn
sợ hãi của chúng ta
Bạn biết mà, đau buồn, khóc
than, tưởng niệm, là gì.
Nỗi đau thương, chán chường thê lương khủng khiếp
như mũi dao nhọn xoáy vô người bạn,
bóp nghẹt nhịp tim bạn và tương lai.
Bạn la thét, khóc than giữa
những kẻ lạ ở một cửa tiệm hiện đại
nơi những đồng xu khéo léo
quay vòng vòng
Bạn đã nhìn thấy Venice và
Siena,
và trong những bức họa, trên những
con phố
những nàng Madonnas trẻ, sầu não,
chỉ muốn là những cô gái bình
thường khiêu vũ tại những ngày hội
Bạn cũng đã nhìn thấy những
thành phố nhỏ, chẳng đẹp đẽ gì hết trơn,
những người già, rách nát vì nỗi đau và thời gian
Những con mắt sáng chói trong những pho tượng nhỏ thời trung cổ
Mắt của những vì thánh ngăm đen, mắt sáng ngời của loài chim hoang
dại
Bạn nhặt những viên cuội khô từ
bờ biển ở “la Galère”
Và, bất thình lình, bạn cảm thấy như mến chúng –
Chúng, và cây thông mảnh khảnh
Và mọi người ở đó, và biển,
tuy mãnh liệt, hùng tráng, nhưng rất ư cô đơn
Như thể tất cả chúng ta thì đều mồ côi
từ cùng một nhà, lên đường vì điều tốt
nhưng chỉ được cho phép
những cuộc thăm viếng thoáng chốc
trong những nhà tù lạnh lẽo của hiện tại.
Nói nhè nhẹ: Bạn đâu còn trẻ
mặc khải phải làm lành với những tuần lễ
Lent,
Bạn phải chọn, đầu hàng, trì hoãn,
nắm lấy những cuộc nói chuyện
với những đặc sứ đến từ những xứ sở
khô
và đánh môi, bạn phải đợi
viết thư, đọc sách, những cuốn chừng 500 trang.
Nói nhè nhẹ. Đừng buông bỏ thơ
Late-Night Whispers from
Poland
APARTMENT
FOR SCHOLARS
The
apartment for visiting scholars holds
a bookshelf
with a dozen weary novels in a language
not spoken by your kin, a sleepy
Buddha,
a mute TV, a
battered skillet bearing traces
of Saturday
night’s dismal scrambled eggs,
a drab
teapot that whistles in every idiom.
You try to settle in and even think.
You read
Meister Eckhart about distance (Abgeschiedenheit),
the poems of a British Francophile,
an
Anglocentric Frenchman's prose;
and only
after several days of struggling to inhabit these hygienic quarters,
hospice to
the cream of cultivated humankind,
you realize with something close to awe
that no one
lives here; there's no life on earth.
Adam Zagajewski
Phòng cho những
vị học giả
Phòng cho những
vị học giả thỉnh giảng
Có một giá sách
với chừng trên chục cuốn tiểu thuyết chán ngấy,
được viết bằng 1 thứ ngôn ngữ đếch
phải của bà con họ hàng của bạn
Một ông Phật
lim dim tối ngày
Một cái TV câm
Một cái xoong
tả tơi,
đầy dấu vết tơi tả của những lần chiên trứng tối Thứ Bẩy
Một cái ấm nấu
trà xám xịt réo inh lên trong mọi thành ngữ.
Bạn cố dọn vô
ở, và còn suy tư nữa chứ.
Bạn đọc Meister
Eckhart về
khoảng cách (Abgeschiedenheit),
Những bài thơ
của một anh chàng nói tiếng Tây gốc Hồng Mao
Và tản văn của
một anh Tẩy mê Ăng Lê;
Và chỉ sau
vài ngày cựa quậy
để làm quen
với khu phố vệ sinh,
nơi nghỉ chân
của cà rem của nhân loại văn minh, có
học,
Bạn nhận ra,
ui chao, đáng
sợ làm sao,
đếch có ai sống
ở đây, chẳng có đời sống trên trái đất.
Note: Ui
chao, đọc bài thơ này, thì lại nhớ đến triết gia thỉnh giảng họ Bùi,
trong căn
phòng nhà nước VC cấp cho ông!
Đúng là THNM rồi!
Chán thế!
WHERE THE
BREATH IS
She stands
alone onstage
and has no instrument.
She lays her
palms upon her breast,
where the breath is born
and where it
dies.
The palms do
not sing,
nor does the breast.
What sings
is what stays silent.
Adam Zagajewski
Nơi hơi thở
thở
Nàng đứng một
mình trên sàn diễn
chẳng có đàn
trống gì cả
Nàng để lòng
bàn tay lên ngực
Nơi hơi thở
sinh ra
Và cũng là nơi
nó ngỏm
Những lòng bàn
tay đâu hát được
Ngực cũng đâu
phải để hát?
Cái hát là cái
im.
Lặng.
SPEAK SOFTLY
...
Speak
softly: you're older than the one
you were so long; you're older
than
yourself-and yet you still don't know
what absence, poetry, and gold are.
Rusty water
swept the street; a brief storm
shook this supine, sleepy city.
Each storm
is a valediction, scores of photographers
seem to swirl above us, catching in a
flash
our moments
of panic and fear.
You know
what mourning is, despair so fierce
it chokes
the heart's rhythm and the future.
You've cried among strangers, in a modern
store,
where deft coins make the rounds.
You've seen
Venice and Siena and, in paintings, on the streets,
doleful young Madonnas, who
wish they were
ordinary
girls dancing at carnivals.
You've also
seen small towns, not beautiful at all,
old people, worn by pain and time.
Eyes shone
in medieval icons,
the eyes of
swarthy saints, wild animals' bright eyes.
You picked
dry pebbles from the beach at la Galère,
and suddenly you felt as fond of them
-of them and
the slender pine,
and everyone
else there, and the sea,
which is
powerful indeed, but very lonely-
as if we all
were orphans
from the
same home, parted for good
and granted only momentary visits
in the
chilly prisons of the present.
Speak
softly: you're no longer young,
revelation
must make peace with weeks of Lent,
you must choose, surrender, stall for time,
hold long
talks with envoys from dry countries
and cracked lips, you must wait,
write
letters, read books of five hundred pages.
Speak softly. Don't give up on
poetry.
Adam Zagajewski
A FLAME
God, give us
a long winter
and quiet
music, and patient mouths,
and a little
pride-before
our age
ends.
Give us
astonishment
and a flame,
high, bright.
Adam
Zagajewski
Một ngọn lửa
Chúa ơi, cho
GNV một mùa đông dài
và nhạc trầm
lặng, những cái miệng nhẫn nại
và một tí
phách lối - trước khi những ngày già của hắn ta chấm dứt!
Hãy cho Gấu
Già sự ngỡ ngàng, kinh ngạc
và một ngọn
lửa, cao, sáng.
“Tay không nhìn thấy”,
Unseen Hand là tập thơ thứ sáu được dịch
qua tiếng Anh của Adam
Zagajewski.
Nó sẽ chẳng
làm thất vọng những người đã từng biết và mê cõi thơ đáng nể, ấn tượng
của ông.
Nếu Szymborska là nhà thơ của những chuyến đi tưởng tượng, thì
Zagajewski đúng
là 1 tay du khách thứ thiệt túi luôn có 1 cái vé và tay thì lắc lư 1
cái va li
nho nhỏ. Ông còn có ngay 1 bài thơ làm rồi [không phải bài thơ đang làm
dở ở
trong túi], “Chân dung Tự họa trên Máy bay”, "Self-Portrait in an
Airplane." Rất nhiều những bài thơ của ông là về những thành phố Âu
Châu,
hay Mẽo, mà ông ta từng sống, hay ghé thăm. Thơ và viễn du là đồng
minh.
Czeslaw Mitosz có lần phán, thơ là biểu hiện của sự ngạc nhiên về sự
vật, phong
cảnh, con người, những thói quen của họ, và nhiều nhiều nữa.
Nobel
2011
Winter's Formulae
1
I fell asleep in my bed
and woke up under the keel.
At four o'clock in the morning
when life's clean-picked bones
coldly associate with one another.
I fell asleep among the swallows
and woke up among the eagles.
2
In the lamplight the ice on the
road
is gleaming like lard.
This is not Africa.
This is not Europe.
This is nowhere other than "here."
And that which was "I"
is only a word
in the December dark's mouth.
Tomas Transtromer
Công
thức Mùa Đông
1
Tôi
ngủ thiếp trên giường
Và
thức giấc dưới sà lan
Bốn
giờ sáng
Khi
xương đời cạo sạch
lạnh
lẽo dính vào nhau
Tôi
ngủ giữa bầy chim nhạn
Và
thức giấc giữa lũ chim ưng
2
Trong
ánh đèn, lớp băng trên đường
long
lanh như mỡ heo
Không
phải Phi châu
Không
phải Âu châu
Không
đâu khác mà là “đây”
Và
cái là “Tôi”
thì
chỉ là 1 từ
trong
miệng Tháng Chạp đen
Transtromer,
Nobel d'économie
Transtromer, Kiệm
Nobel (1)
(1)
Trong tiểu
luận "Chín Mươi Năm Sau" (in trong "On Grief and Reason"),
khi viết về bài thơ "Orpheus. Eurydice. Hermes" của [nhà thơ Đức]
Rilke, Brodsky cho rằng, mọi thực tại đều mong có được cái thân phận,
là một
bài thơ, ấy chỉ vì lý do tiết kiệm.
Tiết kiệm là "lý do hiện hữu" tối
hậu của nghệ thuật, và lịch sử nghệ thuật chỉ là lịch sử những phương
cách dồn
nén, sao cho ở bầu thì tròn ở ống thì dài. Thơ ca, là ngôn ngữ, nghĩa
là thực tại,
ở dạng nén cao cấp của nó. Nói ngắn gọn, một bài thơ "cho rất nhiều mà
chẳng
nhận bao nhiêu" [bài thơ không phản ảnh, mà là sản sinh].
… This
economy is art's ultimate "raison d'être", and all its history is the
history of its means of compression and condensation. In poetry, it is
language, itself a highly condensed version of reality.
Brodsky
Nobel
2012 về
tay nhà thơ Thụy Điển Tomas Transtromer quả có làm ngỡ ngàng báo chí,
chuyện
thường ngày ở Thụy Điển, hàng năm cứ vào cuối Thu… nhưng với 1 tay “pro”, chẳng có gì đáng ngạc nhiên: TT có lẽ là
nhà thơ được dịch nhiều nhất trên thế giới. Ít nhà thơ nào được dịch
hơn 20 ngôn
ngữ như ông, và hơn thế, một nhà thơ kín đáo, kiệm lời, kiệm cả việc
làm thơ.
Điều
này còn nói lên sự khiêm tốn của cả một dân tộc. Xứ Thuỵ Điển đã nấn ná
chuyện
trao Nobel cho gà nhà, cho đến khi chẳng đặng đừng, bởi vì nhà thơ Phần
Lan, Bo
Carpelan, trước đó, rất xứng đáng, đã ngỏm trước khi được Nobel.
Nhưng mà thôi,
chúng ta hãy vui với TT, hãy vui với 1 chọn lựa quá xứng đáng, và bỏ
qua tất cả,
kể cả chuyện Uỷ ban Nobel ít mê thơ, nhất là thời gian sau này.
TT được dịch
ra tiếng Anh sớm hơn, so với tiếng Pháp. Vào năm 1989, người ta khám
phá ra
ông ở Paris, trong 1 buổi lễ thật đáng nhớ ở Học viện Thụy điển, ở con
phố Payenne,
cùng với dịch giả của ông là Jacques Outin, nhân dịp ra lò bản tiếng
Tây tuyển tập
thơ đầu tiên của ông. Chưa đầy 1 năm sau đó, bịnh tim đã lấy đi của ông
giọng nói
nồng nàn, cực kỳ đơn giản, đã từng cất lên trong buổi lễ nói trên, khi
ông đọc
những bài thơ và nói về con đường làm thơ của ông. Vào năm 1996, Jacques Outin cho xb, cũng vẫn nhà xb Castor
Astral, Œuvres completes, toàn tập
thơ của ông, bây giờ được in lại trong tủ sách Poésie/Gallimard,
dưới cái
tít Baltiques (tên 1 bài thơ dài
của ông).
|
|