*

 




Thơ Mỗi Ngày

&

Mới tậu. Phải order, chờ nửa tháng. Nhiều bài tuyệt lắm!
Hà, hà!
Bữa trước thấy tập thơ mới của Szymborska,
Here, song ngữ, nhưng mắc quá, chê.
Bữa sau mò tới, đã mất rồi. Bà này ăn khách thật.

*


Hai bài thơ trên có trong tập thơ Useen Hand

NOW THAT YOU'VE LOST YOUR MEMORY

 To my Father 

Now that you've lost your memory
and can only smile, defenseless,
I want to help-it was you,
after all, who opened my imagination like a demiurge.
I remember our excursions, woolly clouds
swimming low over a damp mountain forest
(you knew every path in those woods), and
the summer day when we scaled the heights
of a lighthouse above the Baltic
and we watched the endless rippling of the sea,
its white stitches frayed like basted seams.
I won't forget that moment, I think you were
moved too-we seemed to see the whole world,
boundless, calmly breathing, blue and perfect,
at once distinct and hazy, near and distant;
we felt the planet's roundness, we heard the gulls,
who played at aimless gliding
through warm and chilly currents of the air.
I can't help you, I have only one memory.
 

Bây giờ, cha đã mất trí nhớ

Gửi cha tôi 

Bây giờ, cha đã mất trí nhớ
và đành mỉm cười, vô phương chống đỡ
Con muốn giúp - thì chẳng phải đúng là cha,
nói cho cùng, là người, như một đấng quỉ thần, đã mở cửa trí tưởng tượng của con.
Con nhớ những chuyến đi xa của hai cha con, những đám mây mềm như tơ,
bơi bên dưới một cái đập ở vùng rừng núi
(Cha biết từng bước đi, trong những khu rừng đó), và
những ngày hè, khi chúng ta đo chiều cao của ngọn hải đăng  vượt lên khỏi biển Baltic
và hai bố con ngắm đến mệt nghỉ, biển cuộn sóng, nhè nhẹ, nhè nhẹ;
những đợt sóng trắng của nó bện vào nhau như những sợi libe.
Con không thể nào quên khoảnh khắc đó,
con nghĩ bố cũng rất ư là xúc động -
có vẻ như cả hai cha con ta thì được nhìn thấy trọn thế giới,
không bờ bến, thở nhẹ nhàng, xanh và tuyệt hảo,
liền lập tức, bất thình lình, phân biệt rạch ròi, mù mù sương khói, gần gần gụi gụi, và ngàn trùng xa cách
Hai bố con mình cảm thấy cái tròn tròn của trái đất, nghe những con mòng biển
nô đùa, trượt bâng quơ, qua những đợt không khí âm ấm, lành lạnh.
Con không thể giúp bố, "xo ghì",
Con chỉ có 1 hồi nhớ. 

(Translated from the Polish by Clare Cavanagh)

NYRB May 26, 2011

 

Đi Bộ

Tớ chẳng đụng đầu với 1 kẻ nào quen thuộc ngày nào
Mùa hạ, tớ một mình trong thành phố
Tớ đi vô mấy tiệm, mấy căn nhà, mấy văn phòng
Và chẳng kiếm thấy 1 cái gì quen quen ngày xưa.

Cây trong công viên – Xưa chúng cũng to lớn như vậy ư?
Và những con chim, cũng ẩn ẩn, im ắng như thế?
Cái xe buýt đi qua lối này, đi đâu?
Những cửa tiệm bán rau quả, tiệm cắt tóc?

Rồi cái ngôi trường giống như căn nhà với cái hàng rào đỏ?
Cô Harding chắc vẫn ngồi ở bàn giấy
Thở dài khi sắp xếp giấy tờ muộn vào đêm
Chán mớ đời, tớ không kiếm ra con phố.

Tất cả những gì mà tớ làm, là làm 1 tua nữa vòng vòng khu xóm
Hy vọng kiếm ra ai đó chỉ đường chỉ hướng cho tớ đi
Và kiếm ra 1 chỗ để mà ngủ, bởi vì tớ quên mua vé khứ hồi
Trở về bất kỳ chỗ nào, tớ tới từ đó, vào đầu buổi chiều.

Note: Đúng là cái lần Gấu trở lại con hẻm cũ, nhà ông anh nhà thơ, Xóm Gà.
Đếch làm sao kiếm ra nhà. Tới căn nhà yên chí là nhà ngày nào, đếch phải, đành đi trở ra, nhưng bực quá, vô lý quá, lại quay lại, và 1 bà trong xóm bèn nói lớn, vọng tới Gấu, cái nhà có hai ông sĩ quan đi cải tạo ở đằng kia kìa, ở cuối cái sân....
Tới đó, thì bèn “ơ rơ ka” một phát, và tự nhủ thầm, tại làm sao mà lại quên được nhỉ!

Thiếu mấy con chim nhảy lò cò ở bãi biển, [ở bài thơ trên] nhưng thay vào đó, là mấy con gà đang lang thang trong sân đất…

LIFE IS NOT A DREAM

In the beginning, freezing nights and hatred.
Red Army soldiers fired automatic pistols
at the sky, trying to strike the Highest Being.
Mother cried, perhaps remembering
the sentimental stories of her childhood.
Coldwater Street ran beside the river
as if trying to outrace it-
or to reach its distant sources,
still pure beyond a doubt, recalling the dawn's joy. 

If life is a dream,
then the phoenix may actually exist.
But in Krakow life revived
under the sign of common pigeons:
in the Planty Gardens, alongside veterans
clad in the tattered uniforms
of at least three armies,
young beauties made appearances,
and music-loving plane trees donned
their finest new foliage outside Symphony Hall. 

Should one honor local gods?
A beggar at the marketplace in Lucca
moved from stand to stand
garnering tributes-proud as Diana.
It's more difficult to find nymphs
where we live, though,
and great Pan didn't leave his calling card.
Important memories-stern monuments
to monotheism - were inscribed
only in the trees and on church walls. 

We tried courage, since there was no exit.
We tried cunning, but it failed.
We tried patience and fell asleep.
We wrote poems like leaflets and leaflets
like pages from burgeoning epics.
Dreams grew like hibiscus flowers.
Dark wells opened in the night.
We tried cynicism; some of us succeeded.
There was great joy, don't forget.
We tried time; it was tasteless, like water. 

Finally, much later, for unknown
reasons, the clocks began
to revolve ever faster above us,
as in archival, silent films.
And life went on, inevitable life,
so skeptical, so practiced,
coming back to us so insistently
that one day we felt the taste of ordinary failure,
of common tragedy upon our lips,
which was a kind of triumph.

Adam Zagajewski: Eternal Enemies

Đời thì không phải là 1 giấc mơ

 
Vào lúc thoạt đầu, thì là những đêm lạnh giá, và hận thù
Hồng Quân bắn súng liên thanh như điên
Lên bầu trời, tính hăm dọa Thượng Đế.
Mẹ khóc, có lẽ nhớ những câu chuyện làm mủi lòng khi còn là 1 cô bé
Con phố Coldwater Street chạy kế bên con sông,
Như muốn vượt lên nó –
hay là tới được những nguồn xa xôi,
vẫn trinh nguyên, vượt quá hồ nghi,
gợi nhớ niềm vui rạng đông 

Nếu đời là 1 giấc mơ,
thì chim phượng hoàng hẳn là có thực.
Nhưng cuộc sống ở Krakow đã sống lại
dưới dấu hiệu của những con chim bồ câu chung:
tại công viên, dọc theo những cựu chiến binh,
trong những bộ quân phục rách bươm, của ít nhất là ba thứ quân đội,
những em xinh như mộng khoe nhan sắc,
và những cây tiêu huyền mê âm nhạc
xúng xính trong những tàng lá đầu tiên tuyệt vời của chúng,
ở phía bên ngoài Viện Âm Nhạc Hòa Tấu. 

Liệu ai đó có nên vinh danh những vị thổ thần?
Một đấng ăn mày ở Chợ Bến Thành nhích nhích,
từ 1 chỗ lạy ông đi qua, tới 1 chỗ lạy bà đi lại,
thu gom những đồng bạc Cụ Hồ,
ấy chết xin lỗi, những lời vinh danh, tưởng niệm – hãnh diện như Diana.
Tuy nhiên, thật quá khó, để mà tìm những nàng ‘nymphs’,
và vị thần Pan vĩ đại thì lại quên không để lại tấm thẻ gọi điện thoại.
Những kỷ niệm quan trọng – những đài tưởng niệm lạnh lùng thờ độc thần –
thì chỉ được khắc ở trên cây hay trên tường nhà thờ.

Chúng ta thử can đảm, kể từ khi không còn lối ra.
Chúng ta thử bịp, nhưng thất bại.
Chúng ta thử kiên nhẫn, và ngủ gục.
Chúng ta làm thơ như những tờ rơi, tờ rớt
như những trang sách từ những sử thi, hùng ca đang nở rộ.
Những giấc mơ mọc lên như những bông dâm bụt.
Những cái giếng âm u mở vào ban đêm
Chúng ta thử trò đểu giả; có vài tên thành công.
Có niềm vui lớn,
30 năm mới có ngày hôm nay, vui sao nước mắt lại trào,
nhớ nhé, đừng quên
Chúng ta thử thời gian; nó nhạt thếch như nước lã.

Sau cùng, mãi thật lâu sau đó,
Không hiểu vì những lý do gì, những cái đồng hồ tích tắc trở lại,
nhưng chạy ngược chiều, nhanh như chưa từng như thế, ở trên đầu chúng ta,
Như trong những cuốn phim câm, chứa trong kho.
Và cuộc đời lại tiếp tục, cuộc đời không thể nào tránh được,
Thật nản, thật thực dụng.
Nó trở lại với chúng ta thật nhẫn nại, thật nài nỉ, dai như điả đói
đến một ngày nào đó, chúng ta cảm thấy mùi của sự thất bại bình thường,
của bi kịch chung,
ở trên môi của chúng ta,
giống như là 1 thứ chiến thắng. 

Adam Zagajewski: Eternal Enemies

SMALL OBJECTS 

My contemporaries like small objects,
dried starfish that have forgotten the sea,
melancholy stopped clocks, postcards
sent from vanished cities,
and blackened with illegible script,
in which they discern words
like "yearning;' "illness;' or "the end."
They marvel at dormant volcanoes.
They don't desire light.

Adam Zagajewski

Chuyện nhỏ

Người cùng thời với GNV thích ba chuyện nhỏ,
sao biển khô, quên mẹ mất biển cả từ đời nảo đời nào,
những chiếc đồng hồ buồn ngưng chạy, những tấm bưu thiếp,
gửi từ những thành phố đã biến mất,
đen thui với những chữ không làm sao đọc được,
như ‘khát khao’, ‘bịnh’ hay, ‘sau cùng’.
Họ ngỡ ngàng trước những ngọn núi lửa đã nguội, và đang ngủ.
Họ đếch thích ánh sáng.

Late-Night Whispers from Poland

Szymborska thường viết, như thể, về 1 đề tài được chỉ định - một hạt cát, hay là bức hình đầu tiên của Hitler, hay một điều gì có tính suy đoán hơn, thí dụ, sự hiện hữu của linh hồn của chúng ta, hay là sự im lặng của cây cối quanh chúng ta. Rồi, tiếp đó, bà nghiên cứu, xem xét đề tài một cách gần gụi hơn. Trước tiên, bà miêu tả cái bà nhìn thấy, rồi bà nhớ lại những gì bà và những người khác biết về nó, và, yên chí lớn, độc giả theo kịp bà, cùng với bà đi tới mọi khúc rẽ, mọi bước ngoặt của cái đầu của bà, khi bà lần theo tư tưởng của mình, trên đường đi tới một kết luận ngỡ ngàng cho bài thơ, hoặc dí dỏm, hoặc tàn nhẫn, dã man, ác liệt.
Thơ như thế, có vẻ như là 1 cuộc triển khai, viết. Thì nó thế, thực.
Hơn hết thẩy những nhà thơ mà tôi biết, hay nghĩ tới, Szymborska không chỉ sáng tạo ra 1 tình trạng, một trạng thái [a state] thơ, ở nơi những độc giả của bà, nhưng còn nói cho họ biết, những điều họ chưa biết trước đó, và chẳng bao giờ nghĩ về nhưng điều đó.


Dừng Chân Tuyết Xuống Rừng Chiều

Cánh rừng này tôi nghĩ mình biết của ai
Nhà anh trong xóm nhỏ xa xôi
Anh không hề thấy tôi dừng lại
Ngắm cảnh rừng chiều tuyết trắng bay.

NDT dịch

Stopping by Woods on a Snowy Evening

Whose woods these are I think I know.
His house is in the village though;
He will not see me stopping here
To watch his woods fill up with snow.

Note: Đây là bài thơ tiếng Anh đầu tiên trong đời của Gấu, đọc khi ở trại tị nạn Thái Lan, thời gian bắt đầu học lại tiếng Anh.
Trên TV cũng đã dịch. (1)
Nhà thơ dởm dịch bài thơ này cũng dởm, lèm bèm về nó cũng dởm. “Người” muốn lập lại cái từ Dừng/Rừng cho “có vẻ thơ”. Nhưng hỏng.
Thứ nhất, ý của nó là:

Dừng ngựa [không phải chân] bên rừng vào 1 buổi chiều tuyết phủ.

Hai câu đầu cho thấy, tác giả biết chủ nhân của khu rừng, nhà ở làng gần đó, thành thử mới viết tiếp, ông chủ cánh rừng không nhìn thấy khách dừng chân, [lén lút] hưởng cái thú 1 mình ngắm cánh rừng "của ông" tuyết đang xuống.
Thứ nữa: Ý niệm chủ /khách/ cảnh đẹp là nền của khổ thơ đầu, thêm con ngựa.
Bởi vì con ngựa không biết cánh rừng có chủ, nên mới ngạc nhiên, sao ngưng ở đây, mới lắc lắc cái chuông ra ý hỏi, mấy mảnh tuyết mới trả lời...
Ở đâu ra hai chữ “xa xôi” cà chớn? Nhà, rừng gần làng, "xa xôi" chi đâu?

“Không hề thấy”, nhảm quá.
Nguyên tác "sẽ không thấy", will not see, đơn giản có vậy, không hề, never, là sao?

Đọc ông “bình” thơ mới chán nữa! Loạn cào cào châu chấu, chứng tỏ ông không đọc “thủng” bài thơ!

Dừng chân tuyết xuống rừng chiều, nghe tếu [sến] quá!
Hà, hà!

Lèm bèm về thơ cũng đâu có dễ!
Nhân nói chuyện lèm bèm về thơ, bài viết sau đây đang "top ten", trên TV, liên quan tới câu phán của TMT.
Thơ TMT rất TMT.
Thơ tôi rất thơ tôi.

Robert Frost 

Stopping by Woods on a Snowy Evening

Whose woods these are I think I know.
His house is in the village, though;
He will not see me stopping here
To watch his woods fill up with snow.
My little horse must think it queer
To stop without a farmhouse near
Between the woods and frozen lake
The darkest evening of the year.

He gives his harness bells a shake
To ask if there is some mistake.
The only other sound's the sweep
Of easy wind and downy flake.
The woods are lovely, dark and deep,
But I have promises to keep,
And miles to go before I sleep,
And miles to go before I sleep 

Tạm dịch

Dừng ngựa bên rừng buổi chiều tuyết rụng

Rừng này của ai tôi nghĩ tôi biết
Nhà ông ta ở trong làng
Làm sao ông ta thấy tôi ngừng ngựa
Ngắm tuyết rơi phủ kín rừng.
Ngựa của tôi chắc thấy kỳ kỳ
Tại sao ngưng ở đây, chung quanh chẳng nhà cửa trang trại,
Chỉ thấy rừng và hồ nước đóng băng
Vào đúng chiều hôm cuối năm

Nó bèn khẩy khẩy cái chuông nhỏ
Như để nói với chủ của nó, này, chắc có chi lầm lẫn
Để đáp lại tiếng chuông ngựa,
Là tiếng gió thoảng và tiếng mỏng của hạt tuyết rơi.
Rừng thì đẹp, tối, và sâu
Nhưng tôi còn những lời hứa phải giữ
Và nhiều dặm đường phải đi
Trước khi lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ 

Note: Bài thơ này mở ra 1 cuốn sách dạy tiếng Anh cho người tị nạn ở Trại [Thái Lan], có tên là "Promises to Keep".
Những lời hứa phải giữ. Chiều Cuối Năm, Dừng Ngựa Bên Rừng…. Lăn Ra Ngủ…

Tay bác sĩ/nhà thơ dởm này có gì bất thường.
Lần ông ta chê bài diễn văn bỏ chạy của Tông Tông Thiệu sai văn phạm Gấu đã thấy quái rồi. (1)
Lần này, ổng khen bản dịch của HC trên DM (1), Gấu cũng không hiểu nổi từ "khinh mạn" vì ông không dẫn chứng. Tại sao khinh mạn? Khinh mạn về cái gì?
Rồi cái câu hỏi "vĩ cuồng", dịch từ chữ nào cũng quái nữa. Ai thì cũng biết cặp từ vĩ/vi [lớn/bé, mega/micro], cuồng, mania. Vậy cái từ đó sẽ do hai từ đó mà thành. Vậy cũng tra vấn người dịch.

(1)

Tôi nhớ trước ngày 30 tháng 4 năm 75, ngồi bên radio nghe Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn, tôi đánh bạo nói với cha tôi rằng (thì là) theo nhận xét của một học sinh như tôi thì diễn văn của tổng thống có vẻ không đúng với văn phạm tiếng Việt mà tôi được học chút nào. Cha tôi nhìn tôi im lặng một lát rồi buồn rầu bảo, đại ý, các chính thể đến giờ phút lụi tàn bao giờ cũng có những biểu hiện như thế.
NDT
Source

Thổi VC từ lúc còn “trứng nước” như thế này, thì “bất thường” thật.

Tôi thiết nghĩ các nhà văn gốc miền Nam và ở hải ngoại nên tìm đọc thêm về văn học và lý luận văn học Nga. Biết bao nhiêu điều để học, sao cứ đọc hoài Frost với lại Faulkner?
NDT

Dịch Frost, như NDT thì được? NQT

(2)

Bài viết hay, hài hước, khinh mạn.
Bản dịch tuyệt vời.
Không biết chữ “vĩ cuồng” anh Hoàng Chính dịch từ chữ gì.
NDT

IT DEPEND

YOU MUST BE SOMEWHERE, RIGHT? - NICK FLYNN

 Birds (sandpipers) hop on the beach at Galveston.
"La plupart des hommes meurent de chagrin" -says Buffon
(as quoted in Volume One of Claudel's diaries).
R. thinks American poets are unintelligent.
- Yet nobleness exists, if only in a painting:
Christ's face in the Caravaggio at S. Luigi dei Francesi
(I couldn't tear myself away, I couldn't go).
It depends who, I answer: I defend American poets.
Summer, endless dusk, and then the stars like lanterns.
We discuss the emptiness of recent French poetry.
But "rien" is such a lovely word! Better than nothing.
Even the ocean seems happy at noon.
Forests burn: resin has its brief moment of bliss.
We eat ice cream on the cafe terrace.
The speakers are playing "Yesterday."
Notes from a civil war: truce or armistice?
Suddenly I  move to Aix-en-Provence, I don't know how.
Evening crowds on the streets, anticipation.
I push through a dense thicket of onlookers and ask:
What's happening? God's coming back. But it's just a dream.

Adam Zagajewski

Tùy

“Bạn phải ở đâu đó, đúng không?” – Nick Flynn

Chim [sandpipers] nhảy lò cò ở bãi biển Galveston
“Đa số đàn ông chết vì buồn”, Buffon phán
(như được trích dẫn trong nhật ký của Claudel, Tập I)
R. nghĩ thi sĩ Mẽo thì không thông minh.
-Tuy nhiên sự cao nhã, quí tộc, nếu có chăng, thì ở trong một bức họa:
Bộ mặt của Chúa Ky Tô trong Caravaggio at S. Luigi dei Francesi
[Tôi không cầm được nước mắt, không thể bỏ đi)
Còn tùy ai, tôi trả lời: Tôi bảo vệ những nhà thơ Mẽo.
Mùa hè, tối dài dài, rồi thì những ngôi sao như những ngọn đèn
Chúng tôi bàn về sự trống rỗng trong thơ Pháp gần đây
Nhưng “riểng” [rien] thì đúng là 1 từ mới đáng yêu làm sao
Có còn hơn không.
Ngay cả biển thì cũng tỏ ra hạnh phúc vào lúc giữa trưa.
Rừng cháy: nhựa cây thì cũng có khoảnh khắc hạnh phúc rạng ngời của nó.
Chúng tôi ăn kem trong tiệm cà phê lộ thiên
Mấy cái loa hát bài “Yesterday”
Ghi chú từ một cuộc nội chiến: ngưng bắn hay đình chiến?
Bỗng thình lình tôi dời đi Aix-en-Provence. Tôi chẳng hiểu như thế nào
Đám đông buổi chiều trên phố, hoài vọng.
Tôi len người qua đám đông chật cứng, và hỏi:
Chuyện gì xẩy ra?
Chúa trở lại.
Nhưng chỉ là một giấc mơ.

WALKING 

I never run into anyone from the old days.
It's summer and I'm alone in the city.
I enter stores, apartment houses, offices
And find nothing remotely familiar. 

The trees in the park-were they always so big?
And the birds so hidden, so quiet?
Where is the bus that passed this way?
Where are the greengrocers and hairdressers, 

And that schoolhouse with the red fence?
Miss Harding is probably still at her desk,
Sighing as she grades papers late into the night.
The bummer is, I can't find the street. 

All I can do is make another tour of the neighborhood,
Hoping I'll meet someone to show me the way
And a place to sleep, since I've no return ticket .
To wherever it is I came from earlier this evening

Charles Simic

Đi Bộ

Tớ chẳng đụng đầu với 1 kẻ nào quen thuộc ngày nào
Mùa hạ, tớ một mình trong thành phố
Tớ đi vô mấy tiệm, mấy căn nhà, mấy văn phòng
Và chẳng kiếm thấy 1 cái gì quen quen ngày xưa.

Cây trong công viên – Xưa chúng cũng to lớn như vậy ư?
Và những con chim, cũng ẩn ẩn, im ắng như thế?
Cái xe buýt đi qua lối này, đi đâu?
Những cửa tiệm bán rau quả, tiệm cắt tóc?

Rồi cái ngôi trường giống như căn nhà với cái hàng rào đỏ?
Cô Harding chắc vẫn ngồi ở bàn giấy
Thở dài khi sắp xếp giấy tờ muộn vào đêm
Chán mớ đời, tớ không kiếm ra con phố.

Tất cả những gì mà tớ làm, là làm 1 tua nữa vòng vòng khu xóm
Hy vọng kiếm ra ai đó chỉ đường chỉ hướng cho tớ đi
Và kiếm ra 1 chỗ để mà ngủ, bởi vì tớ quên mua vé khứ hồi
Trở về bất kỳ chỗ nào, tớ tới từ đó, vào đầu buổi chiều.

Note: Đúng là cái lần Gấu trở lại con hẻm cũ, nhà ông anh nhà thơ, Xóm Gà.
Đếch làm sao kiếm ra nhà. Tới căn nhà yên chí là nhà ngày nào, đếch phải, đành đi trở ra, nhưng bực quá, vô lý quá, lại quay lại, và 1 bà trong xóm bèn nói lớn, vọng tới Gấu, cái nhà có hai ông sĩ quan đi cải tạo ở đằng kia kìa, ở cuối cái sân....
Tới đó, thì bèn “ơ rơ ka” một phát, và tự nhủ thầm, tại làm sao mà lại quên được nhỉ!

Thiếu mấy con chim nhảy lò cò ở bãi biển, [ở bài thơ trên] nhưng thay vào đó, là mấy con gà đang lang thang trong sân đất…




Szymborska thường viết, như thể, về 1 đề tài được chỉ định - một hạt cát, hay là bức hình đầu tiên của Hitler, hay một điều gì có tính suy đoán hơn, thí dụ, sự hiện hữu của linh hồn của chúng ta, hay là sự im lặng của cây cối quanh chúng ta. Rồi, tiếp đó, bà nghiên cứu, xem xét đề tài một cách gần gụi hơn. Trước tiên, bà miêu tả cái bà nhìn thấy, rồi bà nhớ lại những gì bà và những người khác biết về nó, và, yên chí lớn, độc giả theo kịp bà, cùng với bà đi tới mọi khúc rẽ, mọi bước ngoặt của cái đầu của bà, khi bà lần theo tư tưởng của mình, trên đường đi tới một kết luận ngỡ ngàng cho bài thơ, hoặc dí dỏm, hoặc tàn nhẫn, dã man, ác liệt.
Thơ như thế, có vẻ như là 1 cuộc triển khai, viết. Thì nó thế, thực.
Hơn hết thẩy những nhà thơ mà tôi biết, hay nghĩ tới, Szymborska không chỉ sáng tạo ra 1 tình trạng, một trạng thái [a state] thơ, ở nơi những độc giả của bà, nhưng còn nói cho họ biết, những điều họ chưa biết trước đó, và chẳng bao giờ nghĩ về nhưng điều đó.

Impossible Friendships

For example, with someone who no longer is,
who exists only in yellowed letters.

Or long walks beside a stream,
whose depths hold hidden

porcelain cups-and the talks about philosophy
with a timid student or the postman.

A passerby with proud eyes
whom you'll never know.

Friendship with this world, ever more perfect
(if not for the salty smell of blood).

The old man sipping coffee
in St.-Lazare, who reminds you of someone.

Faces flashing by
in local trains-

the happy faces of travelers headed perhaps
for a splendid ball, or a beheading.

And friendship with yourself
-since after all you don't know who you are.

Adam Zagajewski

 

Tình bạn bất khả

Thí dụ, với 1 ai đó, không còn nữa,
giả như còn, thì là ở trong những lá thư ố vàng.

Hay những cuộc tản bộ dài bên một con suối
sâu thăm thẳm, chẳng biết đâu mà lần.

Những chiếc chén sứ Tầu, Giang Đông, Giang Tây, thí dụ -
và những cuộc lèm bèm về triết học
với 1 sinh viên dụt dè, hay người đưa thư.

Một khách bộ hành đi ngang qua, với cặp mắt kiêu ngạo,
người mà bạn sẽ chẳng bao giờ biết là ai.

Tình bạn với thế giới này, tuyệt ơi là tuyệt
(nhờ tí vị mặn của máu).

Ông già nhâm nhi ly cà phe
ở St.-Lazare, làm bạn nghĩ tới một người nào đó.

Những bộ mặt loé lên
trên những chuyến tầu địa phương  .

những bộ mặt hạnh phúc của những du khách
có lẽ đang hướng tới một buổi dạ vũ,
hay 1 vụ chặt đầu

Tình bạn với chính bạn
– kể từ khi mà bạn đếch biết bạn là ai.

SPEAK SOFTLY ...

Speak softly: you're older than the one
you were so long; you're older
than yourself-and yet you still don't know
what absence, poetry, and gold are.

Rusty water swept the street; a brief storm
shook this supine, sleepy city.
Each storm is a valediction, scores of photographers
seem to swirl above us, catching in a flash
our moments of panic and fear. 

You know what mourning is, despair so fierce
it chokes the heart's rhythm and the future.
You've cried among strangers, in a modern store,
where deft coins make the rounds.

You've seen Venice and Siena and, in paintings, on the streets,
doleful young Madonnas, who wish they were
ordinary girls dancing at carnivals.

You've also seen small towns, not beautiful at all,
old people, worn by pain and time.
Eyes shone in medieval icons,
the eyes of swarthy saints, wild animals' bright eyes.

You picked dry pebbles from the beach at la Galère,
and suddenly you felt as fond of them
-of them and the slender pine,
and everyone else there, and the sea,
which is powerful indeed, but very lonely-
as if we all were orphans
from the same home, parted for good
and granted only momentary visits
in the chilly prisons of the present.

Speak softly: you're no longer young,
revelation must make peace with weeks of Lent,
you must choose, surrender, stall for time,

hold long talks with envoys from dry countries
and cracked lips, you must wait,
write letters, read books of five hundred pages.
Speak softly. Don't give up on poetry.

Adam Zagajewski

Nói nhè nhẹ

Nói nhè nhẹ: Bạn già hơn cái gã lâu nay là bạn;
bạn già hơn chính bạn –
tuy nhiên bạn vẫn không biết
sự trống vắng, thơ ca, và vàng là những cái gì.

Nước han gỉ quét con phố: một trận bão ngắn
lắc lắc thành phố lừ đừ, ngái ngủ.
Mỗi trận bão là một lời tạm biệt, cả một lũ nhiếp ảnh gia vần vũ trên đầu chúng ta,
liên tu bấm máy, cố tóm vội lấy những khoảnh khắc hoảng loạn sợ hãi của chúng ta

Bạn biết mà, đau buồn, khóc than, tưởng niệm, là gì.
Nỗi đau thương, chán chường thê lương khủng khiếp
như mũi dao nhọn xoáy vô người bạn,
bóp nghẹt nhịp tim bạn và tương lai.

Bạn la thét, khóc than giữa những kẻ lạ ở một cửa tiệm hiện đại
nơi những đồng xu khéo léo quay vòng vòng

Bạn đã nhìn thấy Venice và Siena,
và trong những bức họa, trên những con phố
những nàng Madonnas trẻ, sầu não,
chỉ muốn là những cô gái bình thường khiêu vũ tại những ngày hội

Bạn cũng đã nhìn thấy những thành phố nhỏ, chẳng đẹp đẽ gì hết trơn,
những người già, rách nát vì nỗi đau và thời gian
Những con mắt sáng chói trong những pho tượng nhỏ thời trung cổ
Mắt của những vì thánh ngăm đen, mắt sáng ngời của loài chim hoang dại

Bạn nhặt những viên cuội khô từ bờ biển ở “la Galère”
Và, bất thình lình, bạn cảm thấy như mến chúng –
Chúng, và cây thông mảnh khảnh
Và mọi người ở đó, và biển,
tuy mãnh liệt, hùng tráng, nhưng rất ư cô đơn
Như thể tất cả chúng ta thì đều mồ côi
từ cùng một nhà, lên đường vì điều tốt
nhưng chỉ được cho phép
những cuộc thăm viếng thoáng chốc
trong những nhà tù lạnh lẽo của hiện tại.

Nói nhè nhẹ: Bạn đâu còn trẻ
mặc khải phải làm lành với những tuần lễ Lent,
Bạn phải chọn, đầu hàng, trì hoãn,

nắm lấy những cuộc nói chuyện với những đặc sứ đến từ những xứ sở khô
và đánh môi, bạn phải đợi
viết thư, đọc sách, những cuốn chừng 500 trang.
Nói nhè nhẹ. Đừng buông bỏ thơ
 

Late-Night Whispers from Poland


APARTMENT FOR SCHOLARS

The apartment for visiting scholars holds
a bookshelf with a dozen weary novels in a language
not spoken by your kin, a sleepy Buddha,
a mute TV, a battered skillet bearing traces
of Saturday night’s dismal scrambled eggs, 

a drab teapot that whistles in every idiom.
You try to settle in and even think.
You read Meister Eckhart about distance (Abgeschiedenheit),
the poems of a British Francophile,
an Anglocentric Frenchman's prose;

and only after several days of struggling to inhabit these hygienic quarters,
hospice to the cream of cultivated humankind,
you realize with something close to awe
that no one lives here; there's no life on earth.

Adam Zagajewski

 

Phòng cho những vị học giả

Phòng cho những vị học giả thỉnh giảng
Có một giá sách với chừng trên chục cuốn tiểu thuyết chán ngấy,
được viết bằng 1 thứ ngôn ngữ đếch phải của bà con họ hàng của bạn
Một ông Phật lim dim tối ngày
Một cái TV câm
Một cái xoong tả tơi,
đầy dấu vết tơi tả của những lần chiên trứng tối Thứ Bẩy

Một cái ấm nấu trà xám xịt réo inh lên trong mọi thành ngữ.
Bạn cố dọn vô ở, và còn suy tư nữa chứ.
Bạn đọc
Meister Eckhart về khoảng cách (Abgeschiedenheit),
Những bài thơ của một anh chàng nói tiếng Tây gốc Hồng Mao
Và tản văn của một anh Tẩy mê Ăng Lê;

Và chỉ sau vài ngày cựa quậy
để làm quen với khu phố vệ sinh,
nơi nghỉ chân của cà rem của nhân loại văn minh, có học,
Bạn nhận ra,
ui chao, đáng sợ làm sao,
đếch có ai sống ở đây, chẳng có đời sống trên trái đất.

Note: Ui chao, đọc bài thơ này, thì lại nhớ đến triết gia thỉnh giảng họ Bùi,
trong căn phòng nhà nước VC cấp cho ông!
Đúng là THNM rồi!
Chán thế!

WHERE THE BREATH IS

She stands alone onstage
and has no instrument.

She lays her palms upon her breast,
where the breath is born
and where it dies.

The palms do not sing,
nor does the breast.

What sings is what stays silent.

Adam Zagajewski

Nơi hơi thở thở

Nàng đứng một mình trên sàn diễn
chẳng có đàn trống gì cả

Nàng để lòng bàn tay lên ngực
Nơi hơi thở sinh ra
Và cũng là nơi nó ngỏm

Những lòng bàn tay đâu hát được
Ngực cũng đâu phải để hát?
Cái hát là cái im.
Lặng.

SPEAK SOFTLY ...

Speak softly: you're older than the one
you were so long; you're older
than yourself-and yet you still don't know
what absence, poetry, and gold are.

Rusty water swept the street; a brief storm
shook this supine, sleepy city.
Each storm is a valediction, scores of photographers
seem to swirl above us, catching in a flash
our moments of panic and fear. 

You know what mourning is, despair so fierce
it chokes the heart's rhythm and the future.
You've cried among strangers, in a modern store,
where deft coins make the rounds.

You've seen Venice and Siena and, in paintings, on the streets,
doleful young Madonnas, who wish they were
ordinary girls dancing at carnivals.

You've also seen small towns, not beautiful at all,
old people, worn by pain and time.
Eyes shone in medieval icons,
the eyes of swarthy saints, wild animals' bright eyes.

You picked dry pebbles from the beach at la Galère,
and suddenly you felt as fond of them
-of them and the slender pine,
and everyone else there, and the sea,
which is powerful indeed, but very lonely-
as if we all were orphans
from the same home, parted for good
and granted only momentary visits
in the chilly prisons of the present.

Speak softly: you're no longer young,
revelation must make peace with weeks of Lent,
you must choose, surrender, stall for time,

hold long talks with envoys from dry countries
and cracked lips, you must wait,
write letters, read books of five hundred pages.
Speak softly. Don't give up on poetry.

Adam Zagajewski

 

 
A FLAME

God, give us a long winter
and quiet music, and patient mouths,
and a little pride-before
our age ends.
Give us astonishment
and a flame, high, bright.

Adam Zagajewski


Một ngọn lửa

Chúa ơi, cho GNV một mùa đông dài
và nhạc trầm lặng, những cái miệng nhẫn nại
và một tí phách lối - trước khi những ngày già của hắn ta chấm dứt!
Hãy cho Gấu Già sự ngỡ ngàng, kinh ngạc
và một ngọn lửa, cao, sáng.

“Tay không nhìn thấy”, Unseen Hand là tập thơ thứ sáu được dịch qua tiếng Anh của Adam Zagajewski.
Nó sẽ chẳng làm thất vọng những người đã từng biết và mê cõi thơ đáng nể, ấn tượng của ông. Nếu Szymborska là nhà thơ của những chuyến đi tưởng tượng, thì Zagajewski đúng là 1 tay du khách thứ thiệt túi luôn có 1 cái vé và tay thì lắc lư 1 cái va li nho nhỏ. Ông còn có ngay 1 bài thơ làm rồi [không phải bài thơ đang làm dở ở trong túi], “Chân dung Tự họa trên Máy bay”, "Self-Portrait in an Airplane." Rất nhiều những bài thơ của ông là về những thành phố Âu Châu, hay Mẽo, mà ông ta từng sống, hay ghé thăm. Thơ và viễn du là đồng minh. Czeslaw Mitosz có lần phán, thơ là biểu hiện của sự ngạc nhiên về sự vật, phong cảnh, con người, những thói quen của họ, và nhiều nhiều nữa.  

Nobel 2011

Winter's Formulae

1

I fell asleep in my bed
and woke up under the keel.

At four o'clock in the morning
when life's clean-picked bones
coldly associate with one another.
I fell asleep among the swallows
and woke up among the eagles.

2

In the lamplight the ice on the road
is gleaming like lard.

This is not Africa.
This is not Europe.
This is nowhere other than "here."

And that which was "I"
is only a word
in the December dark's mouth. 

Tomas Transtromer

 

Công thức Mùa Đông

1

Tôi ngủ thiếp trên giường
Và thức giấc dưới sà lan

Bốn giờ sáng
Khi xương đời cạo sạch
lạnh lẽo dính vào nhau
Tôi ngủ giữa bầy chim nhạn
Và thức giấc giữa lũ chim ưng

2

Trong ánh đèn, lớp băng trên đường
long lanh như mỡ heo
Không phải Phi châu
Không phải Âu châu
Không đâu khác mà là “đây”

Và cái là “Tôi”
thì chỉ là 1 từ
trong miệng Tháng Chạp đen

Transtromer, Nobel d'économie
Transtromer, Ki
ệm Nobel (1)

(1)

Trong tiểu luận "Chín Mươi Năm Sau" (in trong "On Grief and Reason"), khi viết về bài thơ "Orpheus. Eurydice. Hermes" của [nhà thơ Đức] Rilke, Brodsky cho rằng, mọi thực tại đều mong có được cái thân phận, là một bài thơ, ấy chỉ vì lý do tiết kiệm.
Tiết kiệm là "lý do hiện hữu" tối hậu của nghệ thuật, và lịch sử nghệ thuật chỉ là lịch sử những phương cách dồn nén, sao cho ở bầu thì tròn ở ống thì dài. Thơ ca, là ngôn ngữ, nghĩa là thực tại, ở dạng nén cao cấp của nó. Nói ngắn gọn, một bài thơ "cho rất nhiều mà chẳng nhận bao nhiêu" [bài thơ không phản ảnh, mà là sản sinh].
… This economy is art's ultimate "raison d'être", and all its history is the history of its means of compression and condensation. In poetry, it is language, itself a highly condensed version of reality.
Brodsky

Nobel 2012 về tay nhà thơ Thụy Điển Tomas Transtromer quả có làm ngỡ ngàng báo chí, chuyện thường ngày ở Thụy Điển, hàng năm cứ vào cuối Thu… nhưng với 1 tay  “pro”, chẳng có gì đáng ngạc nhiên: TT có lẽ là nhà thơ được dịch nhiều nhất trên thế giới. Ít nhà thơ nào được dịch hơn 20 ngôn ngữ như ông, và hơn thế, một nhà thơ kín đáo, kiệm lời, kiệm cả việc làm thơ.
Điều này còn nói lên sự khiêm tốn của cả một dân tộc. Xứ Thuỵ Điển đã nấn ná chuyện trao Nobel cho gà nhà, cho đến khi chẳng đặng đừng, bởi vì nhà thơ Phần Lan, Bo Carpelan, trước đó, rất xứng đáng, đã ngỏm trước khi được Nobel.
Nhưng mà thôi, chúng ta hãy vui với TT, hãy vui với 1 chọn lựa quá xứng đáng, và bỏ qua tất cả, kể cả chuyện Uỷ ban Nobel ít mê thơ, nhất là thời gian sau này.
TT được dịch ra tiếng Anh sớm hơn, so với tiếng Pháp. Vào năm 1989, người ta khám phá ra ông ở Paris, trong 1 buổi lễ thật đáng nhớ ở Học viện Thụy điển, ở con phố Payenne, cùng với dịch giả của ông là Jacques Outin, nhân dịp ra lò bản tiếng Tây tuyển tập thơ đầu tiên của ông. Chưa đầy 1 năm sau đó, bịnh tim đã lấy đi của ông giọng nói nồng nàn, cực kỳ đơn giản, đã từng cất lên trong buổi lễ nói trên, khi ông đọc những bài thơ và nói về con đường làm thơ của ông. Vào năm 1996,  Jacques Outin cho xb, cũng vẫn nhà xb Castor Astral, Œuvres completes, toàn tập thơ của ông, bây giờ được in lại trong tủ sách Poésie/Gallimard, dưới cái tít Baltiques (tên 1 bài thơ dài của ông).