*

1


TTT 2006-2015



pasternak

"Nghệ Thuật, nếu nó là đồng minh của hồi ức và tư tưởng, liệu có được quyền năng, làm sống lại cái đắm, chìm, tiêu, ma, huỷ, diệt? Pasternak tin như vậy, và biến niềm tin thành hành động, dù biết rằng, có thể mất, chính cái mạng của mình, vì nó."
Hélène Henry, người biên tập, chỉ đạo, và viết lời giới thiệu cho cuốn mới ra lò: Pasternak: Écrits Autobiographiques. Le Docteur Jivago, nhà xb Gallimard, tủ sách Quarto, 1316 trang, 66 tài liệu, giá 23 Euro.
"Nhưng đâu phải một cuộc đời như mọi cuộc đời nhà văn khác. Đây là cuộc đời một con người đã trước tác, la vie d'un homme qui a oeuvré et écrit, dòng dã 42 năm, trong lòng Liên Bang Xô Viết. Một nhà thơ, mà tác phẩm đầu tay lớn lao, Em tôi cuộc đời, 1922, còn có tiểu đề là "Mùa Hè 1917" ["Một Mùa Thu năm qua cách mạng tiến ra", Phạm Duy], và bài thơ cuối cùng, "Giải thưởng Nobel", Tháng Giêng-Ba 1959, gần như một tiếng thét:
Người, Tự Do, Ánh Sáng
Thì thật gần, nhưng ngay kế bên chân
Ta nghe tiếng bầy chó săn tới gần
Bị bắt giữ, ta tru lên như một con thú cùng đường.
Giữa hai ngày tháng đó, 1917 và 1959, là cuộc đối đầu, giữa nhà nước khốn kiếp, độc tài... và tiếng nói tự do của một nhà văn, bị ám ảnh bởi cái vô cùng, nhưng quyết  định sáng tác, nếu có thể, trong lịch sử và trong thực tại.
[Và đúng như tên của tác phẩm], đây là một thứ "Sauf-Conduit" [Thông Hành], cho cuộc đời.
Hélène Henry.


18 Tháng Sáu [1936]: Marxime Gorki ngỏm. Từ lâu, nhiều người tin rằng Staline đã cho đầu độc nhà văn nhớn, đầu tầu văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa này.
19 và 25 tháng Sáu: André Gide tới Moscow... "Căn hộ sáu phòng thoải mái tại Métropole. Tắm rất ư thoải mái; ăn với vợ chồng Aragon... Pasternak tới nhập bọn. Mặn mà lắm, nhất là cái nhìn, nụ cười..."
Tới 30 Tháng Tám 1940, Gide trở lại với đề tài này: "Pasternak, tay độc nhất tôi "tin cậy được" ở Liên Xô, kể cho tôi, về cuộc nói chuyện của ông với tay Lounartcharski. Tay này say sưa với những kế hoạch cứu [sauvegarder] văn hóa, ông ta tin rằng, nó đang gặp nguy. "Tại sao lại phải tìm cách bảo vệ nó?" P. quạt lại anh ta. "Cái đám khốn nạn Hội Nhà Văn Nhà Véo gì đó đang làm cho nó trở thành điêu tàn, mảnh vụn hả? Thì kệ mẹ tụi nó. Mà này, hãy phụ chúng một tay...", giọng P. trở nên run lẩy bẩy vì xúc động, "Bởi vì, chỉ sau đó, may ra mới có được cơ may, từ ba cái rác rưởi, mảnh vụn, điêu tàn...".
André Gide: Sổ Ghi từ Liên Xô về, Nhật Ký II, 1926-1950, nhà xb Gallimard, tủ sách Pléiade, 1977, trang 524, trang 727
.

Sartre, Aron và Chủ Nghĩa Cộng Sản: Cục Ung Thư Của Thế Kỷ.
Trong Hồi Ký  [1985, nhà xb Gallimard], Raymond Aron đã nói tới "vô minh dẫn tới ngu ngốc đơn thuần. Chẳng bao giờ nhà triết học về tự do, thành công, hay nhẫn nhục mà nhìn ra được bộ mặt thực của chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa toàn trị xô viết, căn bệnh ung thư của thế kỷ, ông ta [Sartre] chẳng bao giờ chẩn đoán, cũng chẳng bao giờ lên án, nó là như thế."
[Dans ses Mémoires, R. Aron parle d'une "ignorance qui conduit à la sottise pure et simple. Jamais le philosophe de la liberté n'a réussi, ou ne s'est résigné, à voir le communisme tel qu'il est. Le totalitarisme soviétique, le cancer du siècle, il ne l'a jamais diagnostiqué, il ne l'a jamais condamné en tant que tel". Magazine Littéraire, số đặc biệt về Sartre, Mars 2005 - Mai 2005]

Nhưng, hình ảnh lá cờ đỏ của chiến thắng, của chinh phục, mà một cô nữ sinh tiên tiến được vinh dự cắm lên một thành phố miền nam, sau trở thành một ám ảnh, ở một nhà văn.
"Ba mươi năm sau, lá cờ nhỏ bằng nửa bao diêm gắn trên đầu tăm mà tôi cắm vào Bà Rịa trở nên trĩu nặng trong tay tôi hơn bao giờ. Vâng, 4 triệu dân thường, 1 triệu binh sĩ tử vong, hàng triệu trẻ em mồ côi và phụ nữ goá bụa, hàng chục triệu người chịu thương tích thể xác và tâm hồn, 76 triệu lít chất độc hoá học và 13 triệu tấn bom đạn... là những con số đã thuộc về lịch sử, tôi không khai quật những con số. Nhưng các hậu quả trầm trọng nhất của cuộc chiến tranh đạt những kỉ lục không thể vượt qua của sự phi nhân tính ấy vẫn còn nguyên, đơn giản vì chúng chưa bao giờ được đưa vào danh sách các hậu quả cần khắc phục."
PTH: Cái còn lại
Thế thì, "cái còn lại", ở một kẻ bị... chinh phục? Một tên Ngụy?
Có thể, hắn chỉ nghĩ đến ám ảnh của những không  may. Những xui xẻo.
Đó là một trong những lý do, khi điền đơn Cao Uỷ Tị Nạn, tại trại Panat Nikhom, Thái Lan, tuy tới Bangkok vào ngày 19 tháng Năm, có một kẻ bị chinh phục, phải chạy trốn quê hương, nó đã chọn cho nó một ngày khác, thay vì ngày sinh của Bác Hồ, với hy vọng một tái sinh, một đổi đời.
Bởi vì, trong những năm chiến tranh, vào những ngày trọng đại như thế đó, những người Cộng Sản lại hô hào biến đau thương, căm thù thành hành động. Hãy có thêm nhiều xác Mỹ Ngụy làm quà dâng tặng ngày sinh Hồ Chủ Tịch, ngày thành lập Đảng..
.


bac_ho

... Uncle Ho, stand discarded.
Ông Hồ...  liệng cống [discarded], thay vì... lộng kiếng!

In one of the back streets of Ho Chi Minh, busts of the father of the nation, Uncle Ho, stand discarded. A local magazine polled young people to discover that they identified Bill Gates as their personal hero rather than the long-dead leader Ho Chi Minh. Police quickly confiscated copies of the paper and burned them after firing the paper’s chief editor.
Tượng ông Hồ ở một con phố đìu hiu, [hay, buồn thiu?], ở thành phố mang tên ông. Cha già dân tộc thua phiếu anh Mẽo Bill Gates, qua một cuộc thăm dò giới trẻ Sài Gòn. Tờ báo đăng thăm dò, tịch thu, đốt bỏ, chủ bút, cho về vườn.
“Viet Nam at peace”: the empire strikes back
[Việt Nam thời bình: Đế quốc quật ngược]
30.4.2015

Quyết định gạch tên những nhà văn tham gia Văn đoàn Độc lập của Hội nhà văn Việt Nam là một cơ hội tuyệt vời cho những nhà văn chân chính, những người từ lâu đã muốn rời bỏ cái hội “hữu danh vô thực” để trở về với nhân dân, về với không gian bao la và tự do. Chúng ta dễ dàng nhận thấy sự vui mừng, sung sướng đến vô hạn của những nhà văn, nhà thơ vừa bị khai trừ đó trên FB của họ. Họ đã chờ đợi quá lâu và thời gian đã làm xong phần việc của mình. Một cuộc chia tay và đoạn tuyệt cần thiết đã đến. Đã đến lúc “ngô ra ngô, khoai ra khoai”. Không thể vàng thau lẫn lộn mãi được.

Một chuyện thường ngày ở huyện VC như thế, mà tại làm sao phải đợi gạch tên mới mừng phát điên lên được?
Đợi quá lâu nữa chứ!

Mà ra khỏi Hội Nhà Thổ, vô hội Độc Nập thì có gì ghê gớm?
Nhà văn thì phải viết, mà viết thì phải một mình, cần đéo gì Hội?
Tao là nhà văn, và cái job của tao là cô đơn. I am a writer, it's my job to be alone, như 1 em Ái nhĩ lan, Anne Enright, phán. (1)

Vô Hội, cũng được đi, nhưng phải có tác phẩm.
Nhìn đám Văn Vịt coi, có tên nào viết ra hồn đâu!

Tởm nhất câu "trở về với nhân dân"! NQT

Sứ mệnh lớn nhất và cao cả nhất của người trí thức là “hướng dẫn và lãnh đạo quần chúng” chứ không phải chạy theo quần chúng, và nhất là chạy theo một thể chế chính trị đã lỗi thời và mục ruỗng như ĐCSVN.

Bài viết của tay này, chắc là đệ tử của NGK, nên mục đích của nó, là cũng tính "hướng dẫn và lãnh đạo quần chúng", thay VC!

Khi viết câu, tởm nhất là "trở về với nhân dân", trên, GCC, như trong trạng thái bị bí đái, bí ỉa lâu quá, bèn phọt ra!

Đọc lại cứ ngẩn ngơ vì….  sướng quá!

Tuy nhiên chưa sướng bằng, tình cờ, cầm cuốn Hai Thành Phố, Two Cities, của Adam Zagajewski, đọc được đúng 1 bài thần sầu giải thích “tại sao” nỗi sướng của GCC. Nói rõ hơn, tại sao lại có “cái gọi là” Hội Nhà Thổ ở những nước CS.

Adam Zagajewski phán, nó là phát minh của Liên Xô, this was a Soviet invention: writers housed in one place allowed the authorities to control their minds, pens, and wallets. Each person who has ever read about Bulgakov, Mandelstam, or Pasternak certainly remembers the stories about literary apartment houses and tenements, about houses in which there were more typewriters than gas stoves. This same model for a collectivized literature was transferred after 1945 to all the countries conquered by Stalin. In time, in Poland at least, this model lost its distinctiveness. There were fewer "literary tenements"; writers came to live in regular houses, having regular neighbors-engineers, laborers, officials. But collectivism did not give up all its attributes, such as literary houses and cafeterias, to name two.
Bài viết của AZ, thực sự, là minh giải 1 bài thơ của Szymborska, viết về 1 nhà thơ Ba Lan.
GCC đã từng đọc “thoáng” nó, và bỏ qua, không nhận ra chủ ý của AZ.
Không hiểu sao lần này, lại chú ý đến bài viết, như thể chính bài viết bực quá, mi ngu quá, không đọc nổi ta, đọc lại ta đi!

BACZYNSKI

It destroys what is individual. What it worships is "milieu." Let each person live in a milieu and let him not dare seek refuge on the sidelines. After a while a secret police will be completely unnecessary. What for, if your milieu knows everything about you already. There is more life in death than in the existence to which collectivism condemns us: chicken noodle soup and the neighbors' astute glance, the inextinguishable reflector of sorneone's curiosity, long hours of common meetings, when nothing occurs except that life is consumed and becomes ordinary, gray-similar to rationed, skimpily rationed substitute goods. Baczynski was a darling of the gods-he died young. He leads a mythic existence in our imagination. Wislawa Szyrnborska allowed the absent poet to don the homespun suit of compromises made by his less happy counterparts. The ashes of the everyday bury the wings of the angel. One should consider another possibility, however: it is possible that Baczynski, had the German bullet chosen a different course, would have been proud, bold, and internally pure. Perhaps he would not have made a single compromise and perhaps this would even have expressed itself in his noble face, not destroyed but merely sculpted by time.

Hội Nhà Thổ huỷ diệt cái gọi là cá nhân. Nó thờ phụng cái gọi là "môi trường". Cái gọi là tập thể. Chỉ 1 thời gian, cái gọi là cớm văn học cũng đếch còn cần thiết!

In Broad Daylight

                                     He would
vacation in a mountain boardinghouse, he would
come down for lunch, from his
table by the window he would
scan the four spruces, branch to branch,
without shaking off the freshly fallen snow.

Goateed, balding,
gray - haired, in glasses,
with coarsened, weary features,
with a wart on his cheek and a furrowed forehead,
as if clay had covered up the angelic marble - he wouldn't
know himself when it all happened.
The price, after all, for not having died already
goes up not in leaps but step by step, and he would
pay that price, too.
About his ear, just grazed by the bullet
when he ducked at the last minute, he would
say: "I was damned lucky"

While waiting to be served his noodle soup, he would
read a paper with the current date,
giant headlines, the tiny print of ads,
or drum his fingers on the white tablecloth, and his hands would
have been used a long time now,
with their chapped skin and swollen veins.
Sometimes someone would
yell from the doorway: "Mr. Baczynski," phone call for you" -
and there'd be nothing strange about that
being him, about him standing up, straightening his sweater,
and slowly moving toward the door.

At this sight no one would
stop talking, no one would
freeze in midgesture, midbreath,
because this commonplace event would
be treated - such a pity-
as a commonplace event.
 

*Krzysztof Karnil Baczyriski, an enormously gifted poet of the "war generation,” was killed as a Home Army fighter in the
Warsaw Uprising of 1944 at the age of twenty-three (Translators' note)

Note: Bài thơ In Broad Daylight, được in trong “Map”, tập thơ mới xb của Szymborska, có tí khác so với bài thơ được AZ lèm bèm về nó.
Bèn post cả hai, và sẽ đi 1 đường dịch thuật, sau, đánh dấu/chào mừng sự ra đời của...  Văn Vịt!


TTT 2006-2015

He used to tell his students that they probably were not terribly familiar with the Decalogue, but it was possible to learn, since there were only seventeen: the Ten Commandments and the seven cardinal sins-taken together, the foundation of our civilization. His Muse, the spirit of language, was, he said, Christian, which explains the Old and New Testament themes in his poetry. 

The most profound thing he said about Akhmatova, and perhaps the most profound words ever spoken about the so-called creative process in general, is the assertion that she suffered greatly while writing her Requiem. Her pain at the imprisonment of her son was genuine, but in writing about it she sensed falsehood precisely because she had to shape her emotions into form. And form makes use of an emotional situation for its own purposes, parasitizing it, as it were.

Czeslaw Milosz: Notes about Brodsky

V/v khúc thứ nhì, ở trên, trong Trò chuyện với Volkov, Brodsky, giải thích Kinh Cầu, và cùng lúc, phân biệt có hai thứ người, người thường, và kẻ  làm thơ viết văn. Lũ thứ nhì, khi đau khổ, trước tai ương, chết chóc của chính mình, của người thân của mình, thì cũng đau khổ như mọi người, nhưng khốn nạn hơn, cứ cố đứng qua 1 bên, như là 1 người dưng, để tìm cách viết về nó! (b)

Notes about Brodsky

Milosz

Đại lượng, rộng lượng, là 1 trong những nét lớn của ông, generosity was one of his traits. Bạn bè của ông luôn cảm thấy, gặp ông là 1 đại hội, đồ biếu tới tấp, his friends always felt showered with gifts. Ông luôn luôn sẵn sàng để "help", giúp, bất cứ lúc nào, để tổ chức, organize, sắp xếp, to manage things. Nhưng trên tất cả, để xưng tụng, để thổi bạn, to praise.
Sự rộng lượng của ông hiển hiện rõ ràng nhất, ở trong Trò chuyện với Brodsky, của Volkov, về Akhmatova. Qua xưng tụng của Brodsky, bà mới vĩ đại, minh triết, wisdom, dịu dàng, và trái tim mới lớn lao làm sao!
Với ông, sự vĩ đại của 1 nhà thơ thì không thể tách ra khỏi sự vĩ đại, như 1 con người. Có thể tôi hiểu lầm, nhưng tôi chẳng hề hồ nghi, dù chỉ khoảnh khắc, khi ông [Brodsky] xưng tụng một nhà thơ, thì cùng lúc xác nhận, đây đúng là 1 con người, when he praised a poet while admitting at the same time that he was just average as a human being. Khi ông phán, thí dụ, Robert Frost thì lớn trong thơ, thế là đủ, đếch cần phải dị mọ vào đời thường, vào tiểu tử của thi sĩ, it was enough, for example, that Robert Frost was great in poetry to justify not inquiring into his biography. Nói rộng ra, thì đây là niềm tin của ông, rằng cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới, mỹ học có trước đạo hạnh, this was consistent with his conviction that aesthetics precedes ethics, và, có thể phán tới chỉ, rằng, mỹ là nguồn của đạo hạnh, is even its sources.
Milosz

Cái sự kiện TTT nằm xuống, chấn động trong và ngoài nước, thì liên quan tới đạo hạnh của cá nhân cuộc đời của ông, nhiều hơn là do thơ tự do mà ông là chủ soái, bởi là vì đâu có phải ai cũng đọc được thơ của ông, chưa nói chuyện mê. Nhưng những dòng Milosz viết về Brodsky lại làm cho chúng ta hiểu thêm, vấn đề, chính cái đẹp của thơ của ông mới là nguồn của sự kính trọng.

Như được nhiều người biết, bi khúc độc nhất, the only elegy, dành cho T.S. Eliot vào năm 1965, được Brodsky viết bằng tiếng Nga. Vào lúc đó, thì Eliot đang ở Lò Luyện Ngục, purgatory, như số phận dành cho những con người sống cuộc đời long trời lở đất, một phản ứng bình thường, the usual reaction - chữ của Milosz - dành cho những danh vọng đỉnh, peak fame. Nhưng ở Nga, ông chỉ mới vừa được khám phá. Sau đó, như Brodsky thú nhận, ông không thích lắm, he was disenchanted, với "Four Quartets". Nói chung, ông coi trọn dòng hiện đại, the whole modernism (theo nghĩa Anglo-Saxon của từ này), thì không khỏe mạnh, unhealthy, đối với nghệ thuật thơ.
Ông nói về chính trị ở nước ông, dùng những khái niệm cổ xưa, employing concepts dating from antiquity: emperium [absolute power, empire, đế quốc], tyrant, bạo chúa, slave, nô lệ. Trước hết, ông tin tưởng, thơ, trong mọi xã hội, được hiểu với lịch sử, thì chỉ là sự quan tâm của 1 tí người, cỡ chừng 1% so với toàn thể, hoặc may lắm, thì nhỉnh hơn 1 tị: In the first place, he believed that poetry in every society known to history is of interest to little more than one per cent of the population. Thứ nữa, người ta không thể nói đến đồng đẳng, ngang hàng, equality, giữa những nhà thơ, ngoại trừ đối với một dúm thật là cừ, with the exception of the few who are very best, to whom it is inappropriate to apply the labels “greater” or “lesser”, với dúm này, thì thật bố lếu bố láo, khi phán, ông này nhỉnh hơn ông kia, hay ông đó đó thì “dưới trung bình”.

Đây là trường hợp đã từng xẩy ra ở xứ Mít, khi Thầy Kuốc chê thơ Nguyễn Tất Nhiên, thơ Phạm Thiên Thư "dưới trung bình”!
Láo thế!

Ông muốn có ích, hữu dụng, theo cái kiểu Cao Chu Thần, Thiên sinh hào kiệt bất ưng hư, [Trời sinh ra…  Gấu không muốn để cho hư đi, hà, hà!]
Ông đã từng đưa ra ý kiến, [trong diễn văn nhận Nobel hình như vậy], rằng, nên phân phát hàng triệu tuyển tập thơ Mẽo, xuyên suốt nước Mẽo, đặt kế bên cuốn Thánh Kinh, tại những phòng ngủ khách sạn [cứ làm tình xong, là vừa hút thuốc lá, vừa đọc thơ Mẽo, vừa cầu nguyện, chắc thế!]. Ông loay hoay, manage, tìm cách thành lập một Hàn Lâm Viện Nga ở La Mã, theo kiểu, modeled, Hàn Lâm Viện Mẽo tại thành phố này. Ông ý thức, về những dây mơ dễ má văn chương Nga, Russian literature’s ties, với Ý quốc [“Những Linh Hồn Chết” của Gogol được viết tại La Mã, Thành Phố Thiên Thu Bất Diệt, the Eternal City, thì luôn luôn hiện diện trong thơ của riêng ông, và của Mandelstam; ông viết về Venice mà ông trầm trồ chiêm ngưỡng].
Ông chẳng có ý định trở lại Nga. Thật là tiện, it is appropriate, nấm mồ của ông thì sẽ ở Venice, như của Stravinsky, của Diaghilev’s] (1)

(1)

The body of Joseph Brodsky, who died in New York City in 1996, was, in accordance with his wishes, transported to Venice and buried in the cemetery of San Michele on the twenty-first of June, 1997. Paradoxically, his tomb and the tomb of Ezra Pound are contiguous.
Milosz

Liệu chăng, ý Trời, khi TTT, tác giả Một Chủ Nhật Khác, nằm xuống ở St Paul, thành phố ra đời của Scott Fitzgerald, tác giả Tender is the Night? (1)

(b)

Brodsky. For me the main thing in Requiem is the theme of splitting, the theme of the author's inability to have an adequate reaction. Akhmatova describes in Requiem all the horrors of Stalin's "great terror," but at the same time she is constantly talking about how close she is to madness. Do you remember?

Already madness dips its wing
And casts a shade across my heart,
And pours for me a fiery wine
Luring me to the valley dark.

I realize that to this madness
The victory I must yield,
Listening closely to my own
Delirium, however strange.

This second stanza may be the best in all of Requiem. Those last two lines pronounce the greatest truth. Akhmatova is describing the state of the poet who is looking at everything that is happening to her as if she were standing off to one side. For the poet, the writing of this is no less an event than the event she is describing. Hence her reproaches to herself, especially when it's a matter of the imprisonment of a son, or whatever the misfortune might be. You start cursing yourself horribly: what kind of monster are you if you can be seeing this whole horror and nightmare as if it had nothing to do with you?

Arrest, death (in Requiem people are constantly on the brink of death)-these kinds of situations really exclude any possibility of an adequate reaction. When someone is weeping, that is the weeper's private affair. When someone writing weeps, when he is suffering, he actually gains something from the fact that he's suffering. The writer can suffer his grief in a genuine way, but the description of this grief is not genuine tears or gray hair. It is only an approximation of a genuine reaction, and the awareness of this detachment creates a truly insane situation. Requiem is constantly balancing on the brink of insanity, which is introduced not by the catastrophe itself, not by the loss of a son, but by this moral schizophrenia, this splitting-not of consciousness but of conscience. The splitting into sufferer and writer.

Conversations with Joseph Brodsky: Remembering Anna Akhmatova

Solomon Volkov

    Already madness dips its wing
   And casts a shade across my heart,
   And pours for me a fiery wine
   Luring me to the valley dark.

   I realize that to this madness
   The victory I must yield,
   Listening closely to my own
   Delirium, however strange.
Với tôi, đề tài chính của Kinh Cầu, là về sự nứt nẻ, phân rẽ, [thân này ví xẻ làm đôi được], về sự không làm sao có được một phản ứng đầy đủ của những tác giả khi đứng trước hoàn cảnh. Akhmatova, trong Kinh Cầu, miêu tả tất cả những điều khủng khiếp, ghê rợn của ‘khủng bố lớn’, của Stalin, nhưng cùng lúc, bà hoài huỷ nói về tình trạng mấp mé bờ điên khùng, hoảng loạn. Bạn nhớ không?
   Already madness dips its wing
   And casts a shade across my heart,
   And pours for me a fiery wine
   Luring me to the valley dark.
Khùng điên giang rộng cánh
Trải dài bóng qua trái tim tôi
Đổ rượu nồng cho tôi
Lùa tôi xuống thung lũng tối
   I realize that to this madness
  
The victory I must yield,
   Listening closely to my own
   Delirium, however strange.
Tôi nhận ra, đối với điên khùng này,
là chiến thắng mà tôi phải trao nhường cho nó.
Trong khi lắng nghe, thật cận kề,
cơn hoảng loạn của chính mình
Mới lạ lùng làm sao!
(1) Trên talawas, có một đấng dịch:

Cơn điên dại đã dang cánh
Phủ bóng lên nửa trái tim tôi.
Cho tôi rượu nồng để uống,
Và kéo tôi xuống thung lũng tối đen.

Đó cũng là lúc tôi nhận ra,
Trong khi lắng nghe cơn mê sảng xa lạ của mình,
Rằng tôi phải trao chiến thắng
Cho nó. (c)

TTT chẳng đã tiên đoán ra được, trước khi khăn gói quả mướp lên đường đi tù cải tạo, miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này. Câu nói của ông đúng vào những ngày 30 Tháng Tư 1975, khi nhìn VC tiến vào Sài Gòn, thì cũng đâu có khác gì Simone Weil, khi nhìn những đoàn quân Nazi tiến vào Paris: Her observation, at the very moment of the occupation of Paris by German troops, that this was a great day for Indo-China (for all people under French colonial rule). G. Steiner: Sainte Simone -  Simone Weil]: Đây là ngày trọng đại, ngày hội lớn, cho xứ Đông Dương, cho tất cả những dân tộc bị Pháp biến thành nô lệ (1)
*

Thư tín

Monday, October 22, 2012 9:27 PM

Chào bác, là một độc giả của Tin văn tôi muốn góp ý về một cách dịch trong bài này:

http://www.tanvien.net/Tribute_1/women.html

Câu sau:
She believed that contradiction "experienced right to the depths of one's being means spiritual laceration, it means the Cross."

Bác dịch là:
Bà tin rằng, mâu thuẫn là ‘kinh nghiệm những khoảng sâu thăm thẳm của kiếp người, và, kiếp người là một cõi xé lòng, và, đây là Thập Giá”.

Theo tôi nên dịch:
Bà tin rằng, mâu thuẫn "được nghiệm ra ở tận những khoảng sâu thăm thẳm của kiếp người, chính là cõi xé lòng, là Thập Giá”.

Phúc đáp:
Câu của TV không sát nguyên tác, so với câu của bạn.

Tks, many Tks
NQT

Tuyệt.
Đọc kỹ đến như thế thì quả là đại vạn hạnh cho TV!

Note:

To QTT:  Bài này, tôi dịch, lâu rồi. Khi bạn hỏi, đọc lại, nhớ ra liền, là, ngay khi dịch xong câu văn, tôi đã nhìn ra độ lệch, so với nguyên tác, nhưng thú thực, câu văn dịch đọc nhịp nhàng hơn, và tôi muốn giữ, không dịch lại.
Nhưng bạn, đọc, mà nhận ra độ lệch, cũng thật là thú vị.

Tks again.
Take care

NQT


Em có biết anh đọc Le Petit Chose năm nào không? Năm học lớp ba và từ xửa xưa đó anh đã thấy nhân vật đó là anh rồi.

Thư gửi đảo xa.

TTT trải qua thời thơ ấu ở Sài Gòn. Thành ra không hiểu lớp ba là lớp mấy, so với thời của GCC.

Ấy là vì, phải đến năm học Đệ Tam trường Hồng Lạc, khoảng đó, thì Gấu mới được học cuốn "Le Petit Chose", cuốn sách “tủ” của Thầy Roch Cường.
Mỗi ông Thầy của Gấu thì đều có 1 cuốn sách. Với Thầy Kỳ, dạy Anh văn lớp Đệ Ngũ, Nguyễn Trãi, thì là cuốn "She stoops to conquer".
Tuy nhiên, cái nhân vật con nít mà Gấu bị ấn tượng, thì là "Poil de Carrote", cũng 1 tuổi trẻ bất hạnh của Jules Renard.
Nhớ hoài cái xen, thằng bé, được cả nhà o bế, chỉ có mày là nhất, can đảm nhất, cái gì cũng nhất, chỉ có mày mới ra khỏi nhà vào lúc đêm tối như thế này, để đóng cửa chuồng gà vịt.
Thằng bé bèn xung phong, xung phong.
Khi xong việc, trở về căn nhà, mái ấm gia đình, thì cả nhà thản nhiên phán, nếu vậy, đêm nào mày cũng nhớ đóng cửa chuồng vịt nhe!

ALPHONSE DAUDET

Time passes at dizzying speed. When I was an adolescent and I lived in the south of Chile, I discovered Daudet, Alfonso Daudet, as he was called then, his name Hispanicized to make it more familiar, though I've never heard of Charles Baudelaire or Paul Verlaine being called Carlos Baudelaire or Pablo Verlaine.
    Reading Daudet back then was (and still is) a pleasure and a luxury that only an adolescent lost at the end of the world could fully appreciate, with the happy sense of license that comes after a perfect theft and the feeling of freedom derived from smoking one's first cigarettes, outside under a tree on a rainy afternoon. His books have accompanied me ever since, especially Tartarin of Tarascon, a treatise on the joy of living which can be ridiculous at times, though it isn't unusual to come upon the truth, hidden beneath the ridiculous, a brave, relative truth containing great doses of epicureanism; and also Letters from my Mill, a collection of cameos and miscellaneous prose to which the early work of Arreola is much indebted; or the Memoirs, a melancholy book in which Daudet, so well sketched by Jules Renard in his Journal, doesn't lecture on the human and the divine but rather glides, like a sleepwalker, from the human to the divine, from Cartesian clarity to pure song, from the useful to the useless, and even from the useless to the useless, this last a feat worthy of real writers; or The Nabob, a reflection on the figure of a politician; or L'Arlesienne, which Bizet set to music; not to forget the sequels to the unforgettable Tartarin: Tartarin on the Alps and Port Tarascon.
    Daudet was a friend of Victor Hugo, whose work he admired, and yet he didn't allow Hugo's titantic force to negatively influence his own work, which is much lighter, more delicate, approaching at moments the naturalism of Zola and Maupassant. Despite his prestige and success, he always saw himself as a lesser writer, easy to like. In other words, he never look himself too seriously. He was generous and, according to his contemporaries, lacking in envy, a sentiment all too common in the backbiting world of letters (which pretends to be so civilized). He loved his children. One of them, Leon Daudet, born in 1867, when his father was twenty-seven, became a writer, and his works rank among the worst of French literature, though it would've hurt his father more to know that in 1907, his crooked offspring would found, with Maurras, the Action Francaise, organ of the far right and seed of French fascism. But Alfonso Daudet didn't live to see it. He died in 1897, after suffering from a nervous complaint for many years. Today, in the south of Chile, almost no one reads Daudet. Not even writers, to whom Daudet sounds vaguely like the name of a pop singer or balladeer.

Bolano: Trong ngoặc

Thời gian qua nhanh đến chóng mặt. Khi mới lớn, sống ở miền nam Chile, tôi khám phá ra Daudet, qua cái tên mang mùi Tây Bán Nhà, Alfonso Daudet, như ông được gọi, nghe thân quen hơn.
Đọc Daudet vào lúc đó (và bi giờ cũng thế) là 1 lạc thú, và một thú vui xa xỉ, mà chỉ một tuổi mới lớn, mất tiêu vào lúc tận cùng thế giới, mới có thể tràn trề hưởng thụ và gật gù tán thưởng, với cảm quan hạnh phúc phóng túng, sau một cú chôm chĩa hoàn hảo, và một cảm nghĩ về tự do, có được nhờ những điếu thuốc lá đầu tiên trong đời, ở bên ngoài trời, dưới 1 tàn cây trong một chiều mưa. Những cuốn sách của ông từ đó không bao giờ rời tôi, đặc biệt là Tác Ta Ranh ở Tarascon, một tiểu luận về nguồn vui của cuộc sống

Thơ dịch
THANH TÂM TUYỀN 

MALLARMÉ

Le vierge, le vivace et le bel aujourd’hui
Va-t-il nous déchirer avec un coup d’aile ivre
Ce lac dur oublié que haute sous le givre
Le transparent glacier des vols qui n’ont pas fui
Un cygne d’autrefois se souvient que c’est lui
Magnifique mais qui sans espoir se délivre
Pour n’avoir pas chanté la region òu vivre
Quand du stérile hiver a resplendit l’ennui
Tout son col secouera cette blanche agonie
Par l’espace infligée à l’oiseau qui le nie
Mais non l’horreur du sol òu le plumage est pris
Fantôme qu’à ce lieu son pur éclat assigne
Il s’immolise au songe froid de mépris
Que vêt parmi l’exil inutile le Cygne . 

Ngày trinh nguyên, phơi phới thắm tươi
Chừng đập cánh say sảng lộng rách
Hồ đặc quên dưới giá ẩn hiện
Gương băng cánh chim xưa không bay
Con thiên nga thuở cũ nhớ mình
Kỳ vĩ nhưng tự do vô vọng
Bởi chốn dung thân không hót tụng
Khi mùa đông trơ ánh chán chường
Vùng thoát giấc trắng xóa tiêu hồn
Không gian chim rẽ rúng hãm cầm
Nào rớt bùn nhơ thân vấy tởm
Ma quỷ tinh anh tự đọa trầm
Ngây sững chiêm bao lạnh khinh mạn
Lốt Thiên Nga ngày hão phiêu vong .

Aux arbres

YVES BONNEFOY

Vous qui vous êtes effacés sur son passage,
Vous qui avez refermé sur elle vos chemins,
Impassibles garants que Douve même morte
Sera lumière encore n’étant rien.
Vous fileuse matière et densité,
Arbres, proches de moi quand elle s’est jetée
Dans la barque des morts et la bouche serrée
Sur l’obole de faim, de froid et de silence.
J’entends à travers vous quell dialogue elle tente
Avec les chiens, avec l’informe nautonier,
Et je vous appartiens par son cheminement
A travers tant de nuit et malgré tout ce fleuve.
Le tonnerre profound qui roule sur vos branches,
Les fêtes qu’il enflamme au sommet de l’été
Signifient qu’elle lie sa fortune à la mienne
Dans la mediation de votre austérité.

Với cây rừng.

Rừng cây nhòa xóa trên lối ruổi
Rừng túa khép nẻo kín bóng nàng
Lầm lì chứng quyết nàng dù khuất
Vẫn là ánh sáng hiển nhiên không
Rừng tơ chất niềm mật trọng
Cây thân cận ta lúc nàng gieo mình
Xuống con thuyền đón vong linh miệng cắn
Miệng bát chan đói, rét, lặng thinh
Ta nghe qua rừng giọng nàng gắng đối đáp
Với lũ chó ngao, với quỷ sứ đưa đò
Và ta lụy hồn rừng theo bước đường lận đận
Ngất trải bao dặm khuya dù sông nước mịt mù
Sấm âm u dội rền đầu ngọn cành
Những hội đám sét thắp rực đỉnh hạ
Điềm báo mệnh nàng với mệnh ta gắn bó
Môi giới nhờ khổ hạnh kiếp rừng.

Thơ dịch

5 năm TTT ra đi

Fyodor Dostoevsky, Những Con Quỉ 

Như ngộ ra tình yêu, khám phá ra biển, sự khám phá Dos đánh một cái dấu ngày tháng quan trọng lên đời một người, và cú này thường xẩy ra khi vừa mới lớn; đám lớn tuổi mò tới những tác giả thanh thản hơn. Vào năm 1915, tại Geneva, tôi ngốn ngấu Tội ác và Hình phạt, qua bản dịch tiếng Anh rất dễ đọc của Constance Garnett. Cuốn tiểu thuyết này, mà những nhân vật của nó là một tên sát nhân và một em điếm, đối với tôi, có vẻ khủng khiếp chẳng thua gì cuộc chiến đang bủa vây quanh…
Borges 

Nếu chúng ta coi cuốn Buồn Nôn của Sartre được viết trên cái nền là khúc nhạc Jazz, Ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới, Some of these days, I will miss U, honey, thì cái bóng của cuốn Tội Ác và Hình Phạt, mà tay Đại khư khư cầm trên tay phủ lên toàn thể những ngày tháng ở Hà Nội, của Tâm, của Đại, "khủng khiếp chẳng thua gì cuộc chiến vây quanh" những ngày 1954,  và sau cùng là,“đi và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết.” 

Ngày 22 tháng 3 năm nay, 2010, là đúng 5 năm nhà thơ từ giã chúng ta. Trong những nhận xét về thơ của ông, có của Quỳnh Giao, theo người viết, thật độc đáo:

“Thơ Thanh Tâm Tuyền phải được đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến tranh' của một thành phố mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay khung cảnh ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của ông.”

Năm năm đã qua, liệu đã đến lúc chúng ta giải phóng nhà thơ ra khỏi thời của ông, như cách nhìn của Steiner về nhà văn và thời của người đó, rằng, tất cả văn chương lớn thì giầu có hơn, và vượt ra ngoài vòng ôm của một thời, that all literature is richer than any single subsequent time could possibly appreciate in full. (1)

Đây cũng là ý của Bakhtin, khi ông trả lời một tờ báo Nga về tương lai của môn nghiên cứu văn học Nga: “Tác giả và những người đồng thời với họ nhìn, công nhận, và đánh giá, chủ yếu về điều gần gụi với những ngày của chính họ. Tác giả bị cầm tù bởi thời của anh ta, bởi sự hiện diện của chính anh ta. Thời tiếp thời và những thời kế tiếp nhau như thế sẽ giải phóng anh ta ra khỏi sự cầm tù, và giới học giả được vời tới để tham sự vào sự giải phóng này” (1)

(1) Reading George Steiner, [Đọc Steine], Nathan A. Scott, Jr. and Ronald A. Sharp biên tập, The Johns Hopkins University Press. 

Sở dĩ Gấu này phải đợi 5 năm nhà thơ ra đi, là để được hân hạnh tham dự vào cái công cuộc giải phóng nhà thơ ra khỏi câu phán tuyệt vời trên, nó đóng chặt nhà thơ vào thời của ông, và sự hiện diện của chính ông!
*

Dưới đây, là nhận xét của Ngài Tiên Chỉ VP, về cuộc di cư 1954:

Thật vậy, hiệp định đình chiến vừa ký kết, thì những điều khoản ngưng cuộc chiến tranh bấy giờ được họ [CSMB] thi hành đồng thời với những điều chuẩn bị cuộc chiến tranh sau. Đồng thời, không muộn hơn một ngày nào.
Lúc ấy chính quyền quốc gia lo đùm túm kéo nhau vào Nam, và tổ chức cuộc di cư cho đồng bào Miền Bắc. Di cư là đi cả nam lẫn nữ, cả già lẫn trẻ: công chức già thì vào theo nhà nước để lãnh hương hưu, các cụ cố thì theo con cháu vào để được nuôi nấng và chết giữa đám con cháu v.v...

Võ Phiến: Bắt Trẻ Đồng Xanh

Bài viết này GNV đọc ngay khi vừa ra lò, chỉ nhớ mài mại. Bây giờ, được đọc lại, mới hỡi ơi, vì cách nhìn của VP về cuộc chiến Mít, về chính quyền VNCH…, mới hạn hẹp làm sao.

Cả bài viết, nhằm mục đích tố cáo Miền Bắc, không hề bỏ qua 1 ngày nào, trong cái việc làm sao ăn cướp cho được Miền Nam, đồng thời tố cáo cái thái độ ‘nhảm nhí, tầm phào’, của VNCH, cả trong chiến địch di tản, di cư 1954, như những dòng trên cho thấy!







**

Tao [VL] đã phải nhờ thằng Nguyễn Thuỵ Long đi lùng khắp mấy tiệm bán sách báo cũ mới có được mấy số này đấy! (2)

*


Ngô Vương Toại & Gấu & Đặng Phú Phong & Dương văn Hùng
 



Top 10 books about betrayal
Top Ten về Phản Bội 

From John le Carré to Muriel Spark, the novelist chooses fiction that reflects a perennial human failing which can wound the betrayer as much as the betrayed

Đứng đầu, phải là Graham Greene!  GCC chưa đọc mà đã đoán ra được!

1. The End of the Affair by Graham Greene

I could have picked any of Greene’s novels: if there was ever a master of betrayal fiction, it was Greene. The End of the Affair, published in 1951, is a sad and beautiful story of love racked by jealousy and Catholic guilt. Written during the postwar austerity era, but set in wartime London, the narrative is loosely based on Greene’s affair with Lady Catherine Walston. When jealous ex-lover Maurice Bendrix realises that his major rival for the love of Sarah Miles is God, The End of the Affair is cast in new light.

Tuy nhiên những nhận xét của tác giả bài viết, về "Tàn Ngày", thật thú

4. The Remains of the Day by Kazuo Ishiguro

Compared with Medea – with anyone, really – Mr Stevens, the narrator of The Remains of the Day, is restrained. Butler at Darlington Hall, the poised Mr Stevens decides to visit his old colleague of 20 years’ standing, Miss Kenton. The quality of restraint, along with dignity and loyalty, is part of the idea of “greatness” by which Mr Stevens has always lived. But the novel ends with the elderly butler realising how the beliefs that have sustained him have also betrayed him.

Làm sao không có John le Carré cho được!

9. The Spy Who Came in from the Cold by John le Carré

Spies are betrayers by profession. The clandestine nature of their trade makes them prone to the kind of duplicity where one part of their own character will always be busy betraying the other. Le Carré manages to convey this complexity of deception in many of his characters, often forced by circumstance to act callously, but The Spy Who Came in From the Cold is, in my view, his best book. Written in 1963, the novel carries strains of film noir, with the lonely, haunted war veteran, feeding on whisky in bleak cityscapes, trying to do right, trying and failing to save the girl he loves. British spy Alec Leamas is assigned one last operation before he can be brought in “from the cold”. He uncovers layer upon layer of duplicity and betrayal and, in the end, must choose between life and loyalty.

Le Carré rất mê CS, và rất tởm tư bản, Anh Quốc, mà hiện thân của nó, là qua ông bố của mình. "Người về từ miền lạnh", khi chấp nhận mission, vượt bức màn sắt, qua thế giới CS, để cứu 1 điệp viên Hoàng Gia Anh, luôn luôn đinh ninh trong đầu, là cái tên, tạm gọi là B, vì tên này cực bảnh, về đạo hạnh, về lý tưởng cao đẹp của CS… Chỉ đến phút chót, anh mới biết, đó là tên mà anh phải loại bỏ, và cái tên anh ta phải kíu, thì cực tởm, đúng như lũ Chống Cộng Điên Cuồng, hay đám bộ lạc Cờ Lăng hiện giờ.

Chúng không phải là phe ta ư?

Đâu có phải dòng dã 40 chục năm chúng ta hận thù VC không thôi đâu. Chúng ta hận thù cả những tên tởm lợm chống cộng điên cuồng, những tên dựa vào chống cộng để mà làm giàu, cho bản thân và gia đình chúng.

*

John le Carré là bút hiệu của David Cornwell, người Anh, sinh năm 1931, làm Bộ Ngoại giao (công tác gián điệp), do vậy, không được dùng tên thực. Cuốn The Spy Who Came in From The Cold là cuốn đưa ông lên đài danh vọng. Đã được quay thành phim, với tài tử Richard Burton. Đã được dịch ra tiếng Việt, nhưng thú vị nhất, đã được nhà văn chuyên viết truyện trinh thám nổi tiếng, Người Thứ Tám, phóng tác, với nhân vật "thần sầu quỉ khốc" Tống Văn Bình, bí số Z.28. Nội ngoại công thâm hậu; võ Hồng Mao, Thiếu Lâm vào hàng thượng thừa, Văn Bình được Ông Hoàng, thủ lãnh điệp viên Miền Nam phái ra Bắc (Hà Nội), để cứu một điệp viên Miền Nam nằm vùng, một cán bộ cao cấp CS. Anh được cung cấp đầy đủ tài liệu: nào là sổ băng của tên "ngụy đội lốt cách mạng" ở một ngân hàng Thụy Sĩ; ngày giờ, địa điểm những lần nhận tiền…

Trong nguyên tác của Le Carré, câu chuyện xẩy ra tại nước Đức, bên này và bên kia Bức Tường (Bá Linh). Muốn cho chắc ăn, ông đã để cho nhân vật chính của mình bị cơ quan phản gián cho về vườn, sau khi thất bại trong một điệp vụ, thân tàn ma dại, đói, bịnh, rồi được một cô gái thương tình cưu mang, săn sóc cho hết bịnh, và sau đó được móc nối với "cách mạng" (Đông Đức).

Mọi việc diễn tiến êm ru bà rù. Muốn chắc ăn, Phản Gián Anh vờ đi, cho gián điệp Đông Đức bắt cóc cô gái, người yêu của anh chàng điệp viên bị thất sủng quay đầu về với cách mạng.

Bí mật bật mí: tất cả những tài liệu tố cáo đều là dởm. Người mà anh điệp viên tin là phe ta, lại là kẻ địch. Và kẻ địch này là một tay Cộng Sản thứ thiệt, theo nghĩa, rất tin tưởng chủ nghĩa Cộng Sản sẽ đưa thiên hạ tới "thái bường"! Còn cái người mà anh điệp viên "tởm" nhất, và tin rằng là kẻ địch, lại chính là phe ta!

*

TLR

JOHN LE CARRÉ

WINTER 2015

INELLIGENCE HAS ONE MORAL LAW - IT IS JUSTIFIED BY RESULTS.

THE SPY WHO CAME IN FROM THE COLD


Nhắc tới le Carré, có liền. Báo Điểm Văn lấy luôn nick cho số Mùa Đông 2015, là John le Carré.
Thú hơn nữa, đọc loáng thoáng ở tiệm sách, trúng ngay 1 bài, đề tặng Vila-Matas: The Dark Twin.

Đọc cái tít ngờ ngợ.
Đọc hết bài, hoá ra thuổng của….  GCC, trong bài viết về Cô Tư, chôm Faulkner:

Cái câu của Faulkner nói về nhà văn, và cái câu của Coetzee nói về Faulkner, xem ra đều áp đụng thật là đắc địa vào trường hợp của Cô Tư (a)
"A book is the writer's secret life, the dark twin of a man: you can't reconcile them."
William Faulkner: Mosquitoes [1927] (1)
Một cuốn sách là cuộc đời bí ẩn của nhà văn, cái thằng anh em sinh đôi u tối của hắn ta: Bạn đừng hòng hoà giải hai thằng chả này.

(1) Coetzee trích dẫn trong 1 bài viết trên tờ Điểm sách Nữu Ước, khi đọc cuốn tiểu sử Faulkner

ESSAY

Sergio Pitol

The Dark Twin

Translated from Spanish by George Henson

FOR ENRIQUE VILA-MATAS

Bài essay này cực sướng. Nó nhắc tới cuốn MCNK của TTT, khi nhắc tới cuốn tiểu thuyết Voi Đi Đâu Để Chết, Where Elephants Go to Die?

Với độc giả của TTT, của MCNK, thì biết liền: ở Đà Lạt.
Trong MCNK có nhắc tới giai thoại này, như là 1 cái dấu báo về cái chết của Kiệt.
Dark Twin của TTT, là MCNK.

Tin Văn sẽ đi liền bài này, như 1 cách nhớ Đà Lạt, và tưởng niệm Kiệt và TTT.

Ông Trung Tá mập có vẻ bệnh hoạn. Ông từng bị địch bắt hồi Mậu Thân khi về quê nhà ăn Tết và vượt ngục trốn thoát sau sáu tháng bị giam cầm trong rừng gần biên giới. Từ trại An Dưỡng ông được đưa lên làm việc tại trường và được giao giữ một chức vụ mới đặt riêng cho ông, không có trong bảng cấp số: thanh tra các lớp học. Ông ngụ trong cư xá độc thân mặc nhiên trở thành trưởng trại. Gia đình ông ở Sàigòn và ông lủi thủi một mình không có bạn.
Tiếng ông nói nhanh nghe như lắp bắp, tiếng cười phát ra bất thường và ngắn ngủi. Nhìn nét mặt ông ngay sau khi tiếng cười vừa tắt, không ai có thể biết ông đã cười.
Ông chết cách đây mấy tháng. Một trái lựu đạn nhỏ bằng trái chanh đã nổ trong gian phòng ông ngủ ban đêm. Gian phòng chếch với gian phòng của Kiệt thuộc khối nhà bên kia quảng trường. Nằm đây bên cạnh cửa sổ kính dầy, Kiệt chỉ ngó thấy được gian phòng ấy bằng tưởng tượng. Gian phòng không ai dám ở nữa, lỗ chỗ những mảnh lựu đạn trên cửa, trên tường, trên sàn.
Cuộc điều tra đưa đến kết luận tử nạn vì công vụ, giúp cho vợ con của ông được hưởng các quyền lợi của một tử sĩ . Cái chết phủ nhiều bí mật với nhiều dư luận đồn đãi. Đêm trái lựu đạn nổ trong phòng ngủ của ông, Kiệt có ngủ tại trại nhưng không hề hay biết. Chàng hoảng hồn ngơ ngác trong buổi sáng tinh mơ đứng trên bãi đậu xe nghe tiếng người la lớn đối đáp báo tin biến cố đêm hôm.
Kiệt nhìn ánh điện vàng nhòe của ngọn đèn giữa quảng trường chiếu trên mặt kính. Đêm ấy, ngọn đèn này tắt, Kiệt nhớ.
Chàng ngồi lên trong mùng, ngó quanh quất.
Bữa leo núi, trong khoang chiếc trực thăng, lần duy nhất Kiệt nói chuyện với người đã chết. Chính ông gợi chuyện. Ông hỏi chàng ở ngoại quốc bao lâu? Chàng về nước năm nào? Cảm tưởng của chàng những ngày đầu mới trở về? Kiệt lịch sự trả lời vừa đủ, không dài dòng trong khi hai người cùng mầy mò quan sát những mối dây điện cao thế bị cắt rời khỏi các bộ phận đã tháo gỡ. Bỗng không ông nhận xét: buổi tối nằm lại trong khoang tầu này chắc rét chịu không thấu. Mùa đông vừa qua, ông sưởi bằng bóng đèn 500 [watts] ngay trong phòng làm việc, bóng đèn giấu dưới gầm bàn. Rồi ông hỏi: "Tại sao ông lên trên này?". Ngồi trên xe díp trước khi mở máy, ông ngó chiếc phi cơ nói: "Ông trông nó giống con voi không? Loài voi có đặc tính kỳ lạ là khi biết mình sắp chết thì tự động bỏ đàn lánh đến chỗ khuất nằm chờ chết? Các nhà thám hiểm Phi Châu thường gặp những nghĩa địa voi." Ngưng vài giây, ông nói tiếp bằng giọng bình thường: "Tôi mới đọc một quyển truyện về voi, thật thích. Tôi đang cố gắng dịch quyển sách ấy". Kiệt hỏi: "Trung Tá viết sách?" Ông vội vàng cải chính: "Đâu có. Tôi dịch để gửi về cho mấy đứa nhỏ ở nhà đọc. Chúng nó không đọc được sách ngoại quốc mà quyển này thì chắc chẳng có ai mất công dịch, in làm chi. Tại tôi thích... với lại viết thư cho tụi nhỏ tôi chẳng biết viết gì...".  Về đến thành phố giữa buổi trưa ngà nắng, ông bảo: "Cũng có phần đúng, thành phố này là một nghĩa địa voi. Nhưng rừng ở đây tuyệt giống voi lâu rồi.... Cái ông bác sĩ tìm ra thành phố này là một con bệnh ông biết không? Ông ta mắc chứng kỳ quái...".
Sau buổi ấy, Kiệt không còn dịp nào nói chuyện với ông. Gặp lại chào ông, được ông đáp bằng vẻ dửng dưng như với mọi người. Cái chết thình lình lấp kín ông. Đêm nay chàng sực nghĩ đến tập sách dịch của ông, muốn đọc, chàng quên không hỏi ông về nhan đề quyển sách, tự hỏi chẳng rõ ông dịch xong chưa, rồi tự đáp, cuốn sách dịch bỏ dở dang. Và không lý do, chàng kết luận ông tự vẫn.

if art for its subject
will have a broken jar
a small broken soul
with a great self-pity

what will remain after us
will be like lovers' weeping
in a small dirty hotel
when wallpaper dawns

Zbigniew Herbert

Giả như nghệ thuật, về đề tài của nó
Có cái bình bể
Một linh hồn nhỏ tan hoang
Với nỗi tủi thân thực là bự

Cái còn lại, sau chúng ta
Sẽ là tiếng nức nở của những kẻ yêu nhau
Ở 1 khách sạn nhỏ dơ dáy
Khi tờ giấy dán tường sáng lên dần cùng với rạng đông

GCC đọc đoạn trên, từ bài viết của Adam Zgajewsi, cái Tiều Tụy và cái Đỉnh Cao The Shabby and the Sublime, trong A Defense of Ardor, thì bèn nhớ ra bài này đã giới thiệu trên TV, kèm luôn cả bài viết của chính tac giả về bài thơ của ông, nhưng chưa có bản tiếng Việt.

I CHOSE THIS POEM after some hesitation. I do not consideration the best poem I've written, nor is it one that can represent my poetic program. I think it does have two virtues: it is simple, dry, and speaks of matters that are truly close to my heart, without superfluous ornament or stylization.
Tớ chọn bài thơ này, sau tí lưỡng lự. Tớ không coi nó là bài thơ bảnh nhất, cũng không phải thứ đại diện cho thơ của mình. Nhưng có lẽ chỉ vì, nó giản dị, khô, và rất gần gụi với trái tim của tớ, ấy là những gì bài thơ lèm bèm, thay tớ, không màu mè, không huê dạng.

Lâu lắm, Tin Văn không đi 1 đường nào về Adam Zagajewski.

GCC đọc bài viết trên, trước hết là do câu Adam trích dẫn, làm chó gì có thứ thơ thấp lè tè, thơ tán gái, thơ tán bạn, thơ tán cà phê.
Nếu có, thì nó chính là cái Tiều Tụy, đầy rẫy trong thơ Mít, hà hà!

Il n'est pas de poésie sans hauteur...
-Philippe Jaccottet

Đây cũng là quan niệm của Joseph Brodsky, như bài viết dưới đây, Ai Điếu Nadezhda Mandelstam [1899-1980], cho thấy:

Thực tại, chính nó, chẳng đáng một đồng xu teng. Chính cảm nhận của chúng ta đem ý nghĩa đến cho nó. Và, có đẳng cấp trong cảm nhận; cũng thế, có đẳng cấp trong ý nghĩa. Những cảm nhận được chiết qua những lăng kính tinh vi nhất, lọc lõi nhất, mẫn cảm nhất, chúng sẽ chót vót ở trên đỉnh.

Bèn đi luôn bài của Adam, bài thơ, và bài viết về thơ của chính tác giả: Tại sao [Những Nhà] Cổ Điển?

Cái gọi là Đỉnh Cao, là Đẳng Cấp, là Văn Hóa, như Milosz định nghĩa, khi viết về Brodsky:

Trong một tiểu luận, Brodsky gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính ông, cũng là 1 thi sĩ của văn hóa, và hẳn là vì lý do này, ông tạo sự hài hòa với dòng sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống người, khám phá ra quá khứ như là một mê cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu vô mê cung, chúng ta khám phá ra cái gì sống sót quá khứ là kết quả của nguyên lý phân biệt dựa trên đẳng cấp. Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống rác tìm đồ ăn, [ui chao lại nhớ Giàng Búi], là thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng hoại thoái hoá bị kết án phải tuyệt diệt. Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là khoảnh khoắc thần tiên còn hoài hoài.

TTT cũng đã trải qua những khoảnh khắc thần tiên còn hoài hoài, khi cùng bạn tù nghe đọc thơ của ông, được 1 bạn tù phổ nhạc:

Ba Mươi Tháng Tư Đọc Thơ Thanh Tâm Tuyền 

Note: Bài Nhớ Thi Sĩ của Thanh Tâm Tuyền, qua thi sĩ Nguyễn Hà Tuệ, còn là sĩ quan cải tạo, đã được nhạc sĩ Hồ Đăng Tín phổ nhạc, hát giữa bạn tù, tại trại Tân Lập K2


 
*

Steiner, trong "Những cuốn sách mà tôi không viết", (1) "giải thích":

Mỗi chương, trong bảy chương, ở trong cuốn sách này, lèm bèm về 1 cuốn sách mà tôi đã hằng mong viết ra được, nhưng sau cùng, đếch thèm viết. Chúng giải thích tại sao.

GCC cũng thế! Cũng như Thầy của mình. Gấu cũng có 1 cuốn, muốn viết lắm, hồi còn trẻ, cái gì gì, "nối liền hai thành phố", và về già, một cuốn, “anh viết kể từ khi em đọc, chữ sao muộn màng so với cuộc đời của chúng ta”, viết về cô bạn, rồi 1 cuốn nữa, viết về những ngày đi tù VC ở Đỗ Hải, Nhà Bè…

Chưa kể cuốn mà Gấu Cái phán, cuốn bảnh nhất, viết về tui, những cuốn thằng chả đã viết, chỉ là bản nháp... nhưng thằng chả không đủ tài để viết ra!

Steiner phán:

Một cuốn sách đếch thèm viết, thì hơn 1 cái trống rỗng, a void. Nó đi kèm tác phẩm mà tác giả đã viết, như 1 cái bóng hăm hở, hớn hở, an active shadow.

Liệu chúng ta có thể giải thích lý do TTT đếch thèm viết nữa, như thế?

Cái bóng của những tác phẩm của ông đã từng viết, khi còn Miền Nam, quá hừng hực, như thể bây giờ chúng mới được đọc, và nếu như thế, viết nữa làm cái đéo gì nữa!

(1)

Each of these seven chapters tells of a book which I had hoped to write, but did not. They seek to explain why.
A book unwritten is more than a void. It accompanies the work one has done like an active shadow, both ironic and sorrowful. It is one of the lives we could have lived, one of the journeys we did not take. Philosophy teaches that negation can be determinant. It is more than a denial of possibility. Privation has consequences we cannot foresee or gauge accurately. It is the unwritten book which might have made the difference. Which might have allowed one to fail better.
Or perhaps not.

-GS

Cambridge, September 2006

Borges: The Intruder

Trong bài viết về Borges, Hổ trong gương, “Tigers in the mirror”, trên The New Yorker, sau in trong “Steiner at The New Yorker”, Steiner có nhắc tới 1 truyện ngắn của Borges, mới được dịch qua tiếng Anh, The Intruder. Truyện này hoành dương, illustrate, tư tưởng hiện tại của Borges.

Tò mò, Gấu kiếm trong “thư khố” của Gấu, về ông, không có. Lên net, có, nhưng chỉ cho đọc, không làm sao chôm: “The Intruder”, câu chuyện hai anh em chia nhau, một phụ nữ trẻ. Một trong họ, giết cô gái để cho tình anh em lại được trọn vẹn. Vì chỉ có cách đó mà hai em mới cùng san sẻ một cam kết mới: “bổn phận quên nàng”.

Borges coi nó như là 1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để trang trí - cho những những câu chuyện đầu tay của Kipling. “Kẻ lén vô nhà, The Intruder”, quả là 1 chuyện nhỏ, nhẹ, nhưng không 1 tì vết và cảm động một cách lạ thường. Lần đầu đọc, trên net, Gấu mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng trưng cho thứ văn học của Gấu, hay rộng ra, của cả Miền Nam đúng hơn, được cả hai thằng, anh Bắc Kít và em Nam Kít, cùng mê, và 1 thằng đã "làm thịt em" để cả hai cùng có bổn phận, quên nàng:

Như thể, sau khi Gấu lang thang xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về Xề Gòn, và thấy Những Ngày Ở Sài Gòn, nằm trên bàn!

"The Intruder," a very short story recently translated into English, illustrates Borges's present ideal. Two brothers share a young woman. One of them kills her so that their fraternity may again be whole. They now share a new bond: "the obligation to forget her."

Borges himself compares this vignette to Kipling's first tales. "The Intruder" is a slight thing, but flawless and strangely moving. It is as if Borges, after his rare voyage through languages, cultures, mythologies, had come home and found the Aleph in the next patio.

Steiner cho rằng cái sự nổi tiếng của Borges làm khổ dúm độc giả ít ỏi, như là 1 sự mất mát riêng tư.
Và theo ông, nó bắt đầu, cùng với sự kiện, cả hai đấng rất ư được người đời ít biết đến, và đọc được họ, là Beckett và Borges, khi hai đấng này chia nhau giải thưởng Formentor Prize, vào năm 1961.
Năm sau, cuốn Mê Cung và Giả Tưởng của Borges có bản tiếng Anh.
Vinh danh  rớt xuống, như mưa: Honors rained.

Vào cái tuổi già chín rục, Borges tếu táo, tôi bắt đầu nghi, rằng thì là bi giờ cả thế giới biết tới mình!
Quả là 1 ngạc nhiên, bởi là vì vào năm 1932, cỡ đó, tôi có cho xb 1 cuốn  sách, và cuối năm, tôi khám phá ra, chỉ bán được có 37 cuốn!

Beckett thì cũng rứa! Gấu nhớ là 1 tay xb từ chối ông, sau quá ân hận.

TTT cũng thế.

May sau đó, nhờ Nguyễn Đình Vượng, đổ mớ sách ra hè đường Xề Gòn, nhờ thế cuốn sách tái sinh, từ tro than, từ bụi đường!
Khủng nhất, là, ông già NDV như tiên đoán ra được số phận của cả 1 nền văn chương của cả 1 Miền Nam, sau đó, sau 1975!

Gấu là thằng may nhất, nếu không có cú bán xon của NDT, Gấu không làm sao được đọc Bếp Lửa!

The Intruder

Note: GCC kiếm thấy The Intruder, trong cuốn Borges A Reader, mua xôn, từ đời nào. Bèn post ở đây, và sẽ dịch sau.

Borges coi nó như là 1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để trang trí - cho những những câu chuyện đầu tay của Kipling. “Kẻ lén vô nhà, The Intruder”, quả là 1 chuyện nhỏ, nhẹ, nhưng không 1 tì vết và cảm động một cách lạ thường.

Lần đầu đọc, trên net, Gấu mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng trưng cho thứ văn học của Gấu, hay rộng ra, của cả Miền Nam đúng hơn, được cả hai thằng, anh Bắc Kít và em Nam Kít, cùng mê, và 1 thằng đã "làm thịt em" để cả hai cùng có bổn phận, quên nàng:

Như thể, sau khi Gấu lang thang xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về Xề Gòn, và thấy "Những Ngày Ở Sài Gòn", nằm trên bàn!

Nếu có về lại Xề Gòn, thì phải như thế, chứ làm sao có đường về "gian nan"?
Về để ăn kít VC, hử, hử?
*

THE INTRUDER

2 Samuel 1:26

[JLB 98]

They claim (improbably) that the story was told by Eduardo, the younger of the Nilsen brothers, at the wake for Cristian, the elder, who died of natural causes at some point in the 1890s, in the district of Moron. Someone must certainly have heard it from someone else, in the course of that long, idle night, between servings of mate, and passed it on to Santiago Dabove, from whom I learned it. Years later, they told it to me again in Turdera, where it had all happened. The second version, considerably more detailed, substantiated Santiago's, with the usual small variations and departures. I write it down now because, if I am not wrong, it reflects briefly and tragically the whole temper of life in those days along the banks of the River Plate. I shall put it down scrupulously; but already I see myself yielding to the writer's temptation to heighten or amplify some detail or other.

In Turdera, they were referred to as the Nilsens. The parish priest told me that his predecessor remembered with some astonishment seeing in that house a worn Bible, bound in black, with Gothic characters; in the end pages, he glimpsed handwritten names and dates. It was the only book in the house. The recorded misfortunes of the Nilsens, lost as all will be lost. The old house, now no longer in existence, was built of unstuccoed brick; beyond the hallway, one could make out a patio of colored tile, and another with an earth floor. In any case, very few ever went there; the Nilsens were jealous of their privacy. In the dilapidated rooms, they slept on camp beds; their indulgences were horses, riding gear, short-bladed daggers, a substantial fling on Saturdays, and belligerent drinking. I know that they were tall, with red hair which they wore long. Denmark, Ireland, places they would never hear tell of, stirred in the blood of those two criollos. The neighborhood feared them, as they did all red-haired people; nor is it impossible that they might have been responsible for someone's death. Once, shoulder to shoulder, they tangled with the police. The younger one was said to have had an altercation with Juan Iberra in which he did not come off worst; which, according to what we hear, is indeed something. They were cowboys, team drivers, rustlers, and, at times, cheats. They had a reputation for meanness, except when drinking and gambling made them expansive. Of their ancestry or where they came from, nothing was known. They owned a wagon and a yoke of oxen.

Physically, they were quite distinct from the roughneck crowd of settlers who lent the Costa Brava their own bad name. This, and other things we do not know, helps to explain how close they were; to cross one of them meant having two enemies.

The Nilsens were roisterers, but their amorous escapades had until then been confined to hallways and houses of ill fame. Hence, there was no lack of local comment when Cristian brought Juliana Burgos to live with him. True enough, in that way he got himself a servant; but it is also true that he showered her with gaudy trinkets, and showed her off at fiestas-the poor tenement fiestas, where the more intimate figures of the tango were forbidden and where the dancers still kept a respectable space between them. Juliana was dark-complexioned, with  large wide eyes; one had only to look at her to make her smile. In a poor neighborhood, where work and neglect wear out the women, she was not at all bad looking.

At first, Eduardo went about with them. Later, he took a journey to Arrecifes on some business or other; he brought back home with him a girl he had picked up along the way. After a few days, he threw her out. He grew more sullen; he would get drunk alone at the local bar, and would have nothing to do with anyone. He was in love with Cristian's woman. The neighborhood, aware of it possibly before he was, looked forward with malicious glee to then subterranean rivalry between the brothers. One night, when he came back late from the bar at the corner, Eduardo saw Cristian's black horse tethered to the fence. In the patio, the elder brother was waiting for him, all dressed up. The woman came and went, carrying mate. Cristian said to Eduardo:

"I'm off to a brawl at the Farias'. There's Juliana for you. If you want her, make use of her."

His tone was half-commanding, half-cordial. Eduardo kept still, gazing at him; he did not know what to do. Cristian rose, said goodbye to Eduardo but not to Juliana, who was an object to him, mounted, and trotted off, casually.

From that night on, they shared her. No one knew the details of that sordid conjunction, which outraged the proprieties of the poor locality. The arrangement worked well for some weeks, but it could not last. Between them, the brothers never uttered the name of Juliana, not even to summon her, but they sought out and found reasons for disagreeing. They argued over the sale of some skins, but they were really arguing about something else. Cristian would habitually raise his voice, while Eduardo kept quiet. Without realizing it, they were growing jealous. In that rough settlement, no man ever let on to others, or to himself, that a woman would matter, except as something desired or possessed, but the two of them were in love. For them, that in its way was a humiliation.

One afternoon, in the Plaza de Lomos, Eduardo ran into Juan Iberra, who congratulated him on the beautiful "dish" he had fixed up for himself. It was then, I think, that Eduardo roughed him up. No one, in his presence, was going to make fun of Cristiano

The woman waited on the two of them with animal submissiveness; but she could not conceal her preference, unquestionably for the younger one, who, although he had not rejected the arrangement, had not sought it out.

One day, they told Juliana to get two chairs from the first patio, and to keep out of the way, for they had to talk. Expecting a long discussion, she lay down for her siesta, but soon they summoned her. They had her pack a bag with all she possessed, not forgetting the glass rosary and the little crucifix her mother had left her. Without any explanation, they put her on the wagon, and set out on a wordless and wearisome journey. It had rained; the roads were heavy going and it was eleven in the evening when they arrived at Moron. There they passed her over to the patrona of the house of prostitution. The deal had already been made; Cristian picked up the money, and later on he divided it with Eduardo.

In Turdera, the Nilsens, floundering in the meshes of that outrageous love (which was also something of a routine), sought to recover their old ways, of men among men. They went back to their poker games, to fighting, to occasional binges. At times, perhaps, they felt themselves liberated, but one or other of them would quite often be away, perhaps genuinely, perhaps not. A little before the end of the year, the younger one announced that he had business in Buenos Aires. Cristian went to Moron; in the yard of the house we already know, he recognized Eduardo's piebald. He entered; the other was inside, waiting his turn. It seems that Cristian said to him, "If we go on like this, we'll wear out the horses. It's better that we do something about her."

He spoke with the patrona, took some coins from his money belt, and they went off with her. Juliana went with Cristian; Eduardo spurred his horse so as not to see them. They returned to what has already been told. The cruel solution had failed; both had given in to the temptation to dissimulate. Cain's mark was there, but the bond between the Nilsens was strong-who knows what trials and dangers they had shared-and they preferred to vent their furies on others. On a stranger, on the dogs, on Juliana, who had brought discord into their lives.

March was almost over and the heat did not break. One Sunday (on Sundays it is the custom to retire early), Eduardo, coming back from the corner bar, saw Cristian yoking up the oxen. Cristian said to him, "Come on. We have to leave some hides off at the Pardos'. I've already loaded them. Let us take advantage of the cool."

The Pardo place lay, I think, to the south of them; they took the Camino de las Tropas, and then a detour. The landscape was spreading out slowly under the night. They skirted a clump of dry reeds. Cristian threw away the cigarette he had lit and said casually, "Now, brother, to work. Later on, the buzzards will give us a hand. Today I killed her. Let her stay here with all her finery, and not do us any more harm."

They embraced, almost in tears. Now they shared an extra bond; the woman sorrowfully sacrificed and the obligation to forget her.


*

*

“L'Express”, 15 & Avril 2015

Nhân vật Lara, một cách nào đó, là bản gốc, “đẻ” ra những nhân vật như Phương, trong Nỗi Buồn Chiến Tranh, của Bảo Ninh; Hà, trong Sau Cơn Mưa của Lý Hoàng Phong; Thanh trong Bếp Lửa, của TTT.
Nếu không có bàn tay lông lá của Xịa, Pạt chưa chắc đã được Nobel, và cuốn tiểu thuyết của Pạt có thể cũng không nổi đình nổi đám đến như thế, đúng như tờ báo Tẩy phán, XỊA là “agent littéraire” của Pạt.

Bắc Kít không có thứ "traitre" như Pạt:
Cái sự quảng bá cuốn sách, ký bản án tử, cho Pạt, tên phản bội, sự ô nhục của Niên Xô chúng ta. Nhưng chính Xịa làm cho nó trở thành bất tử.
Và ở trung tâm của nó là Mắt Bão, của trận bão có tên là Chiến Tranh Lạnh.

Cái thứ văn học, tác phẩm VC được quảng bá ở Mẽo, do ổ VC ở Mẽo xb, những gì gì, Nếu Đi Hết Biển, thí dụ, chỉ là kít. Ngay cả những cuốn sách được lũ lâu la, bộ lạc Cờ Lăng, xb thì cũng là kít.
Phải có 1 cái gì như Xịa trong vụ này, mới được, và đấy là “khía cạnh mới mẻ nhất" của cuốn sách ["Bác sĩ Zhivago"], trong lịch sử tình báo.... như tờ báo Tẩy viết.



*

Note: Bài nói chuyện về thơ sau cùng của TTT, trước 1975, có lẽ là bài đọc trong ĐÊM THƠ VHC

Thơ là lời và hơn lời

Tuyệt!

ĐÊM * THƠ * VŨ HOÀNG CHƯƠNG
TUESDAY, SEPTEMBER 21, 2010

Đoạn văn dưới đây là phần chính bài nói chuyện của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền trong Đêm Thơ Vũ Hoàng Chương ngày 16-1-1975 tại phòng trà Khánh Ly, đường Tự Do, Sàigòn.
Thanh Tâm Tuyền

Sự hiện diện của các bạn cùng chúng tôi hôm nay là một cuộc tôn vinh cho thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Chẳng những cho riêng thi sĩ, người suốt đời chỉ biết làm thơ - không biết, không thể làm gì khác - mà còn cho tất cả mọi thi sĩ và qua các thi sĩ là một cuộc tôn vinh cho Thơ.
Tôn vinh Thơ? Tại sao tôn vinh Thơ? Thơ quan hệ chi đến đời sống chúng ta? Sướng ích chi mà có những người để một đời như Vũ Hoàng Chương để theo đuổi thơ?
Thi sĩ có thể không biết - thật chăng? Có lẽ cũng chỉ là một cách nói riêng của thi sĩ. Riêng chúng ta có biết, chúng ta biết tận trong thâm tâm chúng ta, biết qua động cơ thúc đẩy cuộc hội họp tối nay được chính chúng ta dấu diếm bằng những lý lẽ rất tầm thường hằng ngày. Chúng ta biết rằng chúng ta muốn gặp mặt nhau, nhìn mặt nhau đêm nay: “Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa - Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh.” Chúng ta biết rằng khi mọi giá trị thiêng liêng đều chẳng còn đáng gì, đều bị liệng bỏ dần dọc theo đời người thì thơ vẫn còn lại. Phải thế chăng? Dù cho thơ có thể chẳng thay thế được các giá trị thiêng liêng. Không là giá trị thiêng liêng - có bao giờ thơ như thế? - thì nó vẫn ở cùng trong đời sống chúng ta - như lúc này, giây phút này đây - và nó đủ năng lực để cuốn đời sống chúng ta đến chân trời viễn vọng. Thơ nhắc rằng chúng ta đang sống, sống lạ lùng, sống với ta và sống với người.
Chúng ta còn có thể nói đến những điều ghê gớm hơn nữa về thơ nhưng rồi thơ lại còn có thể vượt ra ngoài mọi điều ghê gớm ấy. Tuy nhiên nói cho đến cùng (biết đâu là cùng?) Thơ vẫn chỉ là lẽ thường của đời người, là sự thường của kiếp sống - ngắn ngủi và vô hạn như một tiếng hát.

Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, này sông cát bồi.

Và lẽ thường của đời người, sự thường của kiếp sống là Thơ trong nỗ lực sống với ta và sống với mọi người rốt cuộc - cho đến bao giờ? - vẫn là sống với một số người nào đó, một bộ lạc nào nhất định. Nói như Đinh Hùng Thơ là “tiếng ca bộ lạc.” Đêm nay chúng ta quây quần nơi đây nào khác, như giữa đám rừng dầy hung bạo có ngọn lửa kia đốt lên và tiếng trống kêu gọi ta đến. Ngọn lửa Thơ, lời gọi cùng thẳm của Thơ mời chúng ta đến tôn vinh cho Thơ. Thơ như nhịp trống bập bùng gọi ta về tụ hội, tiễn ta đi tản mạn, cầm chân ta ở lại vui chơi, giục ta đi săn đuổi mịt mùng.
Nhưng tôn vinh cho Thơ cũng là tôn vinh qua các thi sĩ - kẻ làm thơ, suốt đời chỉ làm thơ, không biết và cũng không thể làm gì khác. Giữa chúng ta có một vài người, như Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng.
Làm thơ. Làm thơ hành động tối thậm phi lý, mở mọi ngõ ngách phi lý, đẩy đưa đời người vào cõi phi lý. Ngõ ngách phi lý ấy là chính chúng ta, cõi phi lý ấy chính là đời chúng ta. Như đêm nay không giống mọi đêm đã qua và sẽ chẳng bao giờ giống một đêm nào ở mai kia. Làm thơ như rong chơi, quên lãng, hay làm thơ như tận tụy với một mối duyên tình hay làm thơ như đốn ngộ hốt hoảng thì vẫn là cái “không thể làm” được ở đời người, ở kiếp sống. Tri kỷ khả nhi vi chi, biết không làm được mà lại cứ làm. Tại sao? Tại sao vậy?
Trầm trọng phải không? Tự nhiên cái sự thể nó như thế. Trầm trọng cũng là tự nhiên của thơ và của việc làm thơ.
Thi sĩ đêm nay của chúng ta Vũ Hoàng Chương - làm thơ suốt một đời. Một đời để ra làm thơ. Thơ Vũ Hoàng Chương đi từ “Đêm Hoa Đăng đèn xanh bóng trăng” từ “Phách ngọt đàn say đêm khói êm” từ “Áo vải mộng phong hầu” đến “Ngồi quán” đến Isabel Baes đến nhị thập bát tú và không gian “bốn bề vẫn chỉ một phương,” đến Ngày lớn. Chúng ta không thể nào hiểu Vũ Hoàng Chương còn đi đến đâu - hỏi thực cũng như chúng ta đây chúng ta trong giây phút này có biết chúng ta đi đến đâu - nhưng hiện thời chúng ta cũng đang biết - biết gì? - biết Vũ Hoàng Chương đang ăn nằm với Thơ như đang ăn nằm với cái chết. Chết cũng là một cách nói thôi. Như Trang nói chết là tỉnh giấc chiêm bao. Và có “tỉnh lớn” thì mới biết được “chiêm bao lớn.” Ta có một đời để sống, để chết hay có vô vàn đời? Ai biết? Mà nói chi những điều ấy. Nhưng người làm thơ cứ nói. Nói miết. Thay nhau nói. Tranh nhau nói. Để làm gì?
Thôi nói chi những chuyện ấy. Thơ là lời và hơn lời. Đã đến lúc chúng ta cần nghe thơ. Thơ đọc trong đêm nay dành cho Vũ Hoàng Chương.
16-1-1975

(Văn, giai phẩm, 14-2-75)


Một bữa, vào thời kỳ đó, giữa thập niên 1950, Olga Ivinskaya nhận cú điện thoại từ người yêu, Pasternak. Giọng ông nức nở, đứt đoạn, đầy nước mắt.
Bà hoảng quá, hỏi dồn, "Chuyện gì, chuyện gì?"
"Ông ta chết, chết, chết", ông lập đi lập lại.
Ông ta nói về Yuri Zhivago. Đó là đoạn vị bác sĩ bị bịnh tim quật sụm trên xe điện Moscow, (cũng không xa nơi sau này con trai của Pasternak bị chết)...

Nghệ thuật, Pasternak viết, luôn luôn là suy tư về cái chết từ đó đẻ ra đời sống.

Gấu bỗng nhớ đến cái chết của nhân vật Kiệt trong Một Chủ Nhật Khác, của Thanh Tâm Tuyền.
Anh chàng này, may mắn được du học, nhưng ngu si, bỏ về, và chết lãng nhách tại Đà Lạt...
Chương Zhivago bị quất sụm coi như chấm dứt "thời kỳ đó".
Như cái chết của Kiệt.
Không ai có thể ngờ, đời sống lại được bắt đầu từ những trại tù.
Từ biển cả.


Suspended Sentences by Patrick Modiano – three novellas from the Nobel laureate

He has been hailed as a contemporary Marcel Proust, but Modiano’s investigations into the moral history of the occupation make him a pure original
Những câu văn bị treo: Được thổi là Proust hiện đại, nhưng những điều tra của Modiano vào cái phần đạo đức của lịch sử thời Pháp bị Đức đô hộ khiến ông bảnh hơn nguyên gốc, tức sư phụ của mình.

Đám Bắc Kít thử đi đường điều tra thời kỳ Bắc Kít đô hộ Nam Kít, kể từ 30 Tháng Tư 1975, coi có ra được tí tác phẩm nào không?
Đếch 1 giọt mắt cá sấu – chưa nói đến nước mắt thực, pure original, làm sao ra tác phẩm!

All his novels resemble crime stories, but the genre’s usual finale of clarification never occurs.
Tất cả những cuốn tiểu thuyết của ông đều có mùi trinh thám, nhưng khó mà gọi nó là cái thứ gì.

 Nỗi Buồn Hoa Phượng

Nhà thơ TTT có lần ngồi Quán Chùa, nhân lèm bèm về nhạc sến, đúng hơn, nhạc có lời, ông phán, GCC nhớ đại khái, ở trong chúng, có cái gọi là nhịp của thời gian.

Bạn nghe 1 bản nhạc sến, là nhớ lại 1 cái thời nào đó liên quan đến nó.
Bản Tình Nhớ với Gấu là thời gian đi trình diện nhập ngũ tại Quang Trung, viết rồi.
"Ngày mai đi nhận xác chồng", là thời gian ở nông trường cải tạo Đỗ Hoà, [đang loay hoay viết].
"La plus belle pour aller danser", là thời gian thằng em nghêu ngao, chờ đi xa.

Với Nỗi Buồn Hoa Phượng, của vị nhạc sĩ vừa mới ra đi, với GCC, cái thời của nó, là thời gian học Đệ Tứ, trường Thành Công, ở khu Hoà Hưng, của thầy Chu Tử, tức Chu Văn Bình, bạn của ông anh rể của GCC, là nhà văn Nguyễn Hoạt, và còn là nhà báo với cái nick Hiếu Chân.

Chu Tử là hiệu trưởng, và là giáo sư dạy Pháp Văn, lớp của GCC.
Trường có thể chỉ là cái vỏ để ông làm chính trị. Vốn thành lập trường có thể là của Cao Đài.
Ông bị Diệm bắt, và sau 1 thời gian giam giữ lâu quá, không có cớ để bắt, thành ra cũng không có cớ để tha, chúng ghép ông vào 1 băng ăn trộm xe hơi, để chụp hình đăng báo, cùng đồng bọn, và sau đó, thả.

GCC có nhìn thấy tấm hình đó, trên 1 nhật báo ở Sài Gòn.
Thả, ông làm báo tiếp, tờ Sóng Thần, viết văn, và nổi tiếng với tác phẩm Yêu.
Lần đầu tiên GCC biết đến cái gọi là “lưu bút ngày xanh” là ở trường Thành Công.
 

Hết năm học, một em, còn nhớ, người Nam, đưa cho GCC 1 cuốn sổ nho nhỏ, GGC nhớ là, đẹp lắm, và nói, anh viết vài dòng lưu bút cho em!
Ui chao, thế là Gấu bèn viết.  Không còn nhớ viết cái gì, nhưng chắc là cũng vãi linh hồn lắm!

Trong thời gian học trường Thành Công, GCC gặp lại cô gái ở Hà Nội, con 1 người bạn của bà cô, Cô Dung, của Gấu. Nhà cũng ở khu đường gần hồ Hallais, cô Gấu hay tới xoa mà chược, và Gấu tới, để lấy tiền đi mua bánh mì baguette, ở lò bánh mì Michaux, ở đường Trường Thi, gần Bờ Hồ.
Nhờ vậy, mà được nhìn thấy cô gái.
Gặp lại ở Thành Công.
Cô học ở 1 lớp ở bên dưới. Gấu học 1 lớp ở trên lầu. Gấu mò ra đúng chỗ cô ngồi, và 1 bữa, để cái thư của Gấu ở nơi ngăn bàn học. 

Cũng chẳng nhớ 1 tí gì, về nội dung bức thư tình.
Cô gái đem thư trình ông giám hiệu.
Thời gian đó, Chu Tử đã bị bắt. GCC học trường Thành Công, tuy là trường tư, nhưng không phải đóng học phí, hay chỉ phải đóng 1 nửa, lâu quá chẳng nhớ, nhờ cái thư của ông anh rể đưa cho Thầy Chu Tử.
Tay giám hiệu trừng trị GCC bằng cách quyết định, mi từ nay phải đóng học phí.
Học không lo, lo tán gái!

GCC  trở lại, không phải trường Thành Công, mà là trường Thánh Mẫu, đối diện với trường Thành Công, mãi sau đó, khi đã đậu Tú Tài I, vô Chu Văn An, quen bạn C, em nhà thơ TTT, và nhờ vậy, quen biết Bà T, bạn của bà cụ C.

Nhà văn Mít về mặt đạo hạnh, quá tệ, nhất là lũ viết dưới ánh sáng của Đảng. Cho đến giờ phút này, thì lịch sử Mít thời vừa qua, hiện ra thật rõ nét. Phải có 1 tên nào đó, có tí ti can đảm để lập lại câu của DTH, chúng ta đã bị lừa. Phải có 1 tên, nhỏ 1 giọt nước mắt cá sấu cho lũ Ngụy. Nước mắt cá sấu thôi, cũng được rồi.

Cái sự kiện, TTT không cho xb Ung Thư có thể là do, trong đó, có những dòng thật là tuyệt vời của những người bạn cũ của ông, ở lại Hà Nội, những nhân vật như thi sĩ Đồng chẳng hạn.
Bởi là vì có lần GCC hỏi ông, thời gian đi tù ở đất Bắc, có người nào đi thăm ông, ông bật cười, sặc ly cà phê buổi sáng, nói, sức mấy mà có chuyện đó!

30.4.2015

Đêm chong đèn nhớ Trịnh.

Đọc bài này, thì bất giác nhớ bài thơ của Brodsky, “Gửi Con Gái Tôi”, và cái ước mong, nếu Ông Giời cho tớ một đời nữa, thì tớ sẽ hát ở 1 phòng trà.  
Và tất nhiên, nhớ bài viết của Gấu về TCS, có lẽ bài viết sớm nhất về chuyện ông đi xa, và, bảnh nhất, theo Đặng Tiến.
Tuy nhiên, sau này, GCC khui ra, có hai hình ảnh tuyệt vời nhất, về ông, một, từ nhạc của ông, và một là từ thơ của Anna Akhmatova, cũng là để nói về ông.
Một hình ảnh do Le Huu Khoa khui ra khi viết về ông, trong Mảng Lưu Vong: Chim Thiêng hát lời Mệnh Bạc.

To My Daughter

Give me another life, and I’ll be singing
in Caffè Rafaella. Or simply sitting
there. Or standing there, as furniture in the corner,
in case that life is a bit less generous than the former.
 

Yet partly because no century
from now on will ever manage
without caffeine or jazz, I’ll sustain this damage,
and through my cracks and pores,
varnish and dust all over,
observe you, in twenty years, in your full flower.

On the whole, bear in mind that I’ll be around.
Or rather,
that an inanimate object might be your father,
especially if the objects are older than you, or larger.
So keep an eye on them always,
for they no doubt will judge you.

Love those things anyway, encounter or no encounter.
Besides, you may still remember a silhouette, a contour,
while I’ll lose even that, along with the other luggage.
Hence, these somewhat wooden lines
in our common language.

1994

Gửi Con Gái Tôi

Cho tôi một đời khác, và tôi sẽ đang hát
ở Caflè Rafaella. Hay giản dị ngồi
ở đó. Hay đứng ở đó, như cái bàn cái ghế ở góc phòng,
trong trường hợp cuộc đời sau không rộng lượng bằng cuộc đời trước. 

Mà có lẽ, một phần, là còn do điều này:
không một thế kỷ nào kể từ nay, mà lại có thể xoay sở, nếu thiếu cà-phê-in và nhạc jazz,
bố sẽ cố chịu chuyện đó, như cái bàn cái ghế, với những vết nứt, nẻ, véc ni, mớ bụi bặm trên mình,
ngắm con gái của bố, trong hai mươi năm, nở hết những cánh hoa, và trở thành một đóa hoa rạng rỡ. 

Thôi thì thôi, cũng thế thôi, nhưng hãy nhớ điều này,
rằng bố vẫn quanh quẩn bên con,
cái bàn cái ghế vô hồn, bất động,
có thể là bố đó
nhất là khi chúng già nua, cồng kềnh, kịch cợm hơn con
Vậy thì hãy để mắt tới chúng
bởi vì, không nghi ngờ chi, chúng sẽ cân nhắc mọi chuyện giùm cho con,
[hoặc cau mày nhắc nhở con, một điều gì đó]. 

Yêu mọi điều, mọi chuyện ở trên đời, dù gì đi chăng nữa, dù gặp hay không gặp.
Ngoài ra còn điều này:
Con vẫn còn nhớ một hình bóng, một dáng vẻ,
Trong khi bố mất tất cả, cùng với cả một hành lý khác.
Thí dụ như là những dòng đời khô héo,
của cái tiếng nói chung,
của cha con ta...

Gởi con gái tôi (Joseph Brodsky)

Cái tít bài viết của Bọ Lập, là cũng từ 1 bản nhạc của TCS, Huyền Thoại Mẹ.
Về những cuộc tình của TCS, nhiều thì nhiều thực, nhưng theo ý riêng của GCC, đều không thực.
Thực, là khi xa nhau, họ đều cảm ơn Ông Trời, đã cho gặp nhau, dù chẳng để làm 1 chuyện gì.
Và, 1 khi như thế, thì chỉ 1 cuộc tình, là đủ cho 1 con người. Một khi nó sống thực cuộc tình, thì những cuộc tình sau đó, nếu có, là để lập lại – theo 1 nghĩa thật đẹp - cuộc tình thứ nhất, vưỡn theo GCC, khi ngộ ra 1 lời phán về GCC, của 1 độc giả/thân hữu/bạn văn.
TCS không có cuộc tình nào thực cả. Đó là nỗi đau của ông, và nỗi mừng của những người tình của ông, đau thế.
Em nào cũng khoe, đã từng yêu và được Trịnh yêu, và đều mừng, vì...  an toàn sau cuộc tình.
Quá đau cho họ Trịnh!
Khác hẳn nhạc sĩ VTA. Hay PD. Cuộc tình nào của những đấng này đều có cú làm ăn tới chỉ cả.

Trong Một Chủ Nhật Khác, khi Oanh từ chối cái hôn của Kiệt, - em yêu ông thầy của mình, bèn gặp, để nói ra điều đó, rồi bỏ đi - và Kiệt bèn quê, đếch thèm làm gì cả, và khi Oanh đi rồi, em mới hiểu ra “chân ní”, bèn đánh điện, “ới” 1 tiếng, là em lên liền, thầy muốn “biên tập” - từ này của 1 em nữ thi sĩ ở trong lước – thầy muốn làm gì thì… làm!
Thê lương nhất, là sau đó, khi nghe 1 cô bạn học, kể lại cuộc tình của Kiệt với Hiền, em thấy đời mình thừa thãi, bỏ đi, mơ màng đã thành đàn bà, đếch cần 1 thằng đàn ông nào…. biên tập!
Thê lương hơn nữa, là lần gặp gỡ sau cùng của họ, ở 1 tiệm ăn, hình như thế, ở phiá bên  ngoài, hay hành lang rạp Rex. Oanh mua tặng Kiệt cái kèn, và chàng mang về Đà Lạt, để chết. Bạn còn nhớ cái xen Kiệt thổi kèn cho bạn là Duy nghe, trước khi “bị” ngỏm?
Quái là GCC cũng có 1 cú gặp gỡ sau cùng với BHD, ở 1 quán, ở đâu đó, gần Chợ Bến Thành.
Cuộc gặp gỡ của Gấu cảm động hơn nhiều, thực hơn nhiều.
GCC cũng kể đâu đó, vài lần rồi...

-C’est ridicule, c’est formidable, c’est merveilleux… c’est toi. Oanh. Pleure pas. Pleure pas.
Thật kỳ cục, thật kinh khủng, thật tuyệt vời, thật em. Oanh. Đừng khóc, đừng khóc. 

Đúng buổi sáng ngày Kiệt bị quật ngã, chàng mới có quyết định đánh bức điện tín cho Oanh. Chàng đội mưa chạy đến Bưu Điện. Cơn sốt đã bập bùng bên lỗ tai như tiếng sấm. Chàng viết bức điện tín, tay run như đuôi con thằn lằn đứt. Chàng viết, chàng nhớ đúng như in chàng đã nói: S.O.S. Au secours. Bớ người ta cứu tôi với. Kiệt. Kiệt nghĩa là hết sạch, chẳng còn gì, chẳng còn tí tẹo nào. Cô nhân viên Bưu Điện vốn quen vì gặp hàng tuần, trợn mắt: Ông không điên chứ ông Kiệt? -Tôi điên chớ, rõ ràng là tôi điên đây thôi. –Ông nhất quyết gửi bức điện này?  -Chớ sao nữa, còn gì nữa. Tôi đang cần tiền, hết tiền tiêu rồi, phải kêu kiểu đó mới có tiền. Kiệt cười hộc. Chàng ra khỏi Ty Bưu Điện chạy xuống hồ lại vòng lên xin rút bức điện lại. Chàng ướt còn hơn buổi sáng đưa Oanh đi. Mưa nhòa hết cảnh vật, nhòa hết cảm xúc, ý nghĩ, và quyết định. Oanh cũng bó tay mà thôi.
-Anh coi thường em quá. Oanh ngăn xúc động, dịu dàng nói.
-Rồi em sẽ hiểu, nên để người ta coi thường mình. Kiệt trở giọng giận dữ. – Mình là cái quái gì. Anh chỉ mong mọi người coi thường anh. Được coi thường, thường hết, dễ sống. Không có ai là ghê gớm, là thiết yếu đối với ai ở đời này. Rỡn chơi vậy. Em hiểu không, nói rỡn vậy mà chơi thôi. Chẳng đáng một đồng bạc cắc. Anh đâu có thiết yếu cho em, mà em đâu có thiết yếu cho anh.
Oanh như bị cái tát trái, tá hỏa, cứng đơ. Nàng run rẩy lắp bắp không thành lời.
-Em nghe cho thật kỹ đây. Kiệt như thể được đà. -Với mọi người đàn bà anh đều nói: đàn bà là đàn bà, muôn đời vẫn chỉ là đàn bà không hơn không kém. Anh… (1)

Trịnh Công Sơn vs Lịch Sử

Milosz, trong một bài trả lời phỏng vấn, cho biết, ông đào thoát, xin tị nạn tại Pháp tháng Hai năm 1951. Viết Cầm Tưởng, [Cái Đầu Bị Cùm], mùa xuân cùng năm, hoàn tất vào mùa thu cũng trong năm. Trong lời tựa, ông cho biết, viết để thanh toán một lần cho xong. Và hy vọng chẳng bao giờ phải đụng lại với vấn đề này nữa.

Trong ý nghĩ đó, theo tôi, những bản nhạc phản chiến, những ca khúc da vàng của TCS đã được "thanh toán".
Milosz cho rằng, cuốn sách không thuộc dòng của ông [that isn't my line]. Ông viết nó, như kẻ lưng đụng vô tường, hết đường lui.

Cũng trong bài viết, ông nhắc đến cảm giác hết sức bối rối, khó chịu, của Pasternak, khi được trao giải thưởng Nobel văn học, do cuốn tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago, chứ không phải do thơ.
Bản thân Milosz cũng được nổi tiếng, là nhờ Cầm Tưởng.

Tôi nghĩ, Trịnh Công Sơn có gì tương tự với hai trường hợp trên. Ông nổi tiếng cả thế giới, là nhờ nhạc phản chiến. Nhưng thứ đó, thực sự "không thuộc dòng của ông".
Như Milosz, ông đụng lưng vô tường, khi viết nó.
Nhưng tình ca, mới là nhạc phản chiến đời đời của ông.
Và của loài người.

Hãy hát tình ca của ông, theo nghĩa mà Brodsky định nghĩa:

Nếu có gì có thể thay thế cho tình yêu, thì đó là hồi ức.
Tình ca của TCS, là hồi ức, là tưởng nhớ, là kinh cầu cho một miền nam hòa bình đã mất.

“Cái từ, giải phóng chúng ta khỏi gánh nặng và nỗi đau làm người, là hai chữ: Tình Yêu.”

*

Tôi thu tôi lại...
Hạt bụi nào...

He has turned into the life-giving ear of grain
Or into the gentlest rain of which he sang

Akhmatova

Người thi sĩ ấy biến thành mầm sống
Thành hạt mưa dịu dàng nhất mà chàng hát về nó

D.M. Thomas trích dẫn, cho chương Death of a Poet, [trong Solzhenitsyn: Thế kỷ ở trong ta], nói về cái chết của Pasternak.
 
Trịnh Công Sơn:

Chim Thiêng Hót Lời Mệnh Bạc

L'oiseau sacré chante le destin tragique

*

Un jour se noyer et flotter
[Cũng sẽ chìm trôi]

Ah ! la lune en haut
Assis je suis en bas
La course de l'eau la limpidité
Mon âme l’eau trouble
Les hérons s'envolent crient le calme absolu
Les chemins de la vie proches
Mais les pas ralentissent de fatigue
Ah ! la lune en haut
Assis je suis en bas
Les chemins tordus
La lumière soudaine
Depuis l'oiseau sacré chante le destin tragique
Chaque goutte de l'infini
Se noie disparaît sans appel de retour

Lời Việt::

Nhật nguyệt í-a trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một dòng í-a trong veo, sao lòng ối-a còn đục
Bầy vạc í-a bay qua, kêu mòn ối-a tịch lặng
Đường đời í-a không xa, sao chồn ôi-à gối chân
Nhật nguyệt í-a trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một đường í-a cong queo, nắng vàng ối-a đột ngột
Từ độ í-a chim thiêng, hót lời ối-a mệnh bạc
Từng giọt í-a vô biên, trôi chìm ôi-à tiếng tăm

Partir et revenir
[Một cõi đi về]

Les années écoulées les départs
Partir tourner la vie les fatigues
Les épaules aux deux bouts de la lune
Le reflet transversal de cent ans partir et revenir
Quelle sera la parole des arbres
Quelle sera la parole de l'herbe étrangère
Un seul coucher du soleil dans l'ivresse
Quelle vie légère appartient déjà au passé
Ruine du printemps ruine de l'été
Un jour d'automne l'écho du galop au loin
Nuage couvre la tête soleil sur les épaules
Les pas s'en vont les rivières savent rester
\Soudain l'otage de l'amour m'appelle
A l’intérieur apparaît l'ombre de l’être
Le détour de la pluie dans l'âme
Une pluie fine
Cent ans l'infini la chance de rencontre sera nulle
Quel lieu sera chez moi
Les chemins les détours les cercles en ruine
Le côté a' herbe le côté de rêve
Chaque parole du crépuscule
Chaque parole de la terre des tombes
Voix de la mer des fleuves de leurs sources.
Alors qu'on rentre on se souvient déjà qu'on partira
Partir vers les monts
Revenir vers le large
Les bras de la vie n’offrent jamais l'indulgence
Seul un vent impossible souffle tout au long de la
jeunesse

Trinh Cong Son

Traduit par Le Huu Khoa

Connu avec Pham Duy comme l'un des deux plus grands compositeurs du Vietnam actuel, Trinh Cong Son se veut avant tout poète et chante « les rêves en ruines de ses êtres ». Son œuvre raconte l'exil collectif de son peuple mais aussi l'éphémère de l'amour et de la beauté. Trinh Cong Son réussit pas à pas sa méditation sur la souffrance, ses textes construits autour d'un lieu de fractures né du passage des guerres offrent un fond de réinterprétations extrêmement riches du bouddhisme, du taoïsme.L'évidence esthétique du texte fait corps avec l'inexistence de l'être.

Được biết đến cùng với Phạm Duy như là một trong hai nhà soạn nhạc lớn lao nhất của Việt Nam hiện nay, Trịnh Công Sơn tự muốn mình, trước hết, như là một nhà thơ và hát "những giấc mơ điêu tàn của đồng loại". Tác phẩm của ông kể cuộc lưu vong tập thể của dân tộc ông, và về sự phù du của tình yêu và cái đẹp. Từng bước, Trịnh Công Sơn hoàn tất cơn trầm tư của mình về sự khổ đau, những bài ca của ông xoay quanh một nơi chốn tang thương đổ nát do chiến tranh cầy đi cầy lại, và chúng tạo nên một cái nền của những tái diễn giải cực kỳ giầu có, tư tưởng Phật giáo và Đạo giáo. Cái đẹp hiển nhiên của bài ca làm bật ra nỗi vô thường của kiếp người.

Le Huu Khoa: Mảng lưu vong [La Part d'Exil]

*

Note: Tks K. Gấu

Conversations with the Dead

Reading has always been for me a sort of practical cartography. Like other readers, I have an absolute trust in the capability that reading has to map my world. I know that on a page somewhere on my shelves, staring down at me now, is the question I’m struggling with today, put into words long ago, perhaps, by someone who could not have known of my existence. The relationship between a reader and a book is one that eliminates the barriers of time and space and allows for what Francisco de Quevedo, in the sixteenth century, called “conversations with the dead.” In those conversations I’m revealed. They shape me and lend me a certain magical power.

Trò chuyện với người chết

Đọc đối với tôi là 1 cách vẽ bản đồ. Như những độc giả khác, tôi có sự tin vậy tuyệt đối vào khả năng, đọc phải vẽ ra thế giới của tôi. Tôi biết, trong 1 trang sách đâu đó, trên những kệ sách của tôi, ngó xuống tôi, thì là 1 câu hỏi mà tôi đang đánh vật với nó, bữa nay, được đặt thành những từ ngữ từ lâu lắm rồi, bởi 1 người nào đó, có thể chưa từng biết đến có tôi ở trên đời. Liên hệ giữa 1 độc giả với cuốn sách, là 1 liên hệ triệt tiêu những biên cương của thời gian, không gian, và cho phép điều mà Francisco de Quevedo, thế kỷ thứ 16, gọi là “những cuộc trò chuyện với người đã chết”.
Trong những cuộc trò chuyện như thế, tôi lộ ra, bật mí. Chúng tạo hình dáng tôi và cho tôi 1 quyền năng thần kỳ.

Những nhận xét, như trên, quá đúng, nhưng chỉ với từ ngữ. Với âm thanh, lời nhạc, GCC nghĩ, sai, như có lần GCC phán, bạn phải sống cùng thời với TCS, cùng 1 Miền Nam với ông, thì mới cảm hết nhạc của ông.

Thí dụ, cái lần GCC vô Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, lần đầu, đúng thời gian gần Tết, thời tiết lạnh lạnh, TCS thì mới cho ra lò bản Tình Nhớ, và trong đêm khuya, 1 tay tân binh như Gấu cứ huýt sáo hoài bản nhạc đó. Gấu đau quá, vì cùng với nó, còn là nỗi đau thằng em vừa mới tử trận - cô bạn vừa mới từ giã, và cùng với cô, là Sài Gòn - có thể, từng nằm, đúng cái giường sắt Gấu đang nằm.

Khủng khiếp lắm. Một Bắc Kít, sinh ở Bắc Kít, sau 1975, mê nhạc Trịnh, không thể nào hiểu được nỗi đau này. Một đấng Nam Kít, bỏ chạy, như Đặng Tiến, thì cũng đếch cảm ra nỗi đau này, nên ông phán Tình Nhớ mà mắc mớ gì tới cuộc chiến, phản chiến!

Những ngày Trịnh Công Sơn

Tôi biết Trịnh Công Sơn khi anh chưa nổi tiếng, và qua Nguyễn Đình Toàn, tại một bàn cà phê ở quán Cái Chùa, đường Tự Do, Sài Gòn. Nói chưa nổi tiếng, là đối với đa số công chúng thưởng ngoạn. Cùng với đà cuộc chiến leo thang, người dân miền nam ngày càng thấm nhạc của anh.
Anh ngồi chung bàn với Toàn và tôi, nhưng cứ chốc chốc lại có một anh bạn trẻ nào đó, từ một bàn nào đó, tạt qua bàn, chỉ để nói chuyện hoặc hỏi thăm anh, và thường là về Huế, và cứ mỗi lần như vậy, anh đổi giọng nói. Khi nói với hai đứa chúng tôi, anh dùng giọng bắc.
Toàn lúc đó phụ trách chương trình nhạc chủ đề trên đài phát thanh Sài Gòn, và hai người hình như có hẹn gặp nhau tại quán, ấy là tôi suy đoán ra như vậy.
Thời gian này, tôi chưa để ý đến nhạc Trịnh Công Sơn. Nói rõ hơn, nó chưa thấm vào tôi.

Phải tới khi đứa em trai mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc là quá nhớ bồ, cứ thế huýt sáo bài Tình Nhớ gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt không ra… Lúc này, tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói chung của cả miền nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó, khi cùng nói: hãy yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ, và chẳng bao giờ miền nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với miền bắc, vì họ đều tin một điều, miền bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi.
Như cả nhân loại tiến bộ, họ chỉ có thể tiên đoán đến đó. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói đó. Tính phản chiến của nhạc của anh, chính là tính phản chiến của cả một miền đất.
Và cũng như cả nhân loại tiến bộ, chỉ tới sau vòng tay lớn rã ra, Trịnh Công Sơn mới hiểu.
Một bạn văn của người viết, còn ở lại Sài Gòn, nhân lần gặp gỡ tại xứ người, đã kể chuyện, sau "giải phóng", có thời gian Trịnh Công Sơn bị Cộng Sản địa phương làm khó dễ, anh phải vô Sài Gòn, và có than thở với anh bạn văn kể trên. Anh nói, thì cứ dzô đây, gì thì gì, chắc cũng dễ thở hơn.
Sài Gòn cưu mang Trịnh Công Sơn không phải chỉ lần đó. Theo như tôi được biết, những ngày cuộc chiến dữ dội, trong khi chúng tôi cứ thế theo nhau lên Trung Tâm Ba, Trịnh Công Sơn may mắn đã được đại tá không quân Lưu Kim Cương che chở.
Trong số những quân cảnh tại thành phố, có người chỉ mong cơ hội "chộp" được Trịnh Công Sơn!
Đại tá Lưu Kim Cương tử trận trong biến cố Mậu Thân, khi bảo vệ vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất.
Riêng tôi, tôi mong được như anh: được chết tại Sài Gòn.
Xin vĩnh biệt.



*

The Scene of the Crime

Chuyến đi Mỹ Lai của 1 phóng viên và những bí mật của quá khứ

Seymour M. Hersh

Nguyen Qui Duc, a fifty-seven-year-old writer and journalist who runs a popular bar and restaurant in Hanoi, fled to America in 1975 when he was seventeen. Thirty-one years later, he returned. In San Francisco, he was a prize-winning journalist and documentary filmmaker, but, as he told me, ''I'd always wanted to come back and live in Vietnam. I felt unfinished leaving home at seventeen and living as someone else in the United States. I was grateful for the opportunities in America, but I needed a sense of community. I came to Hanoi for the first time as a reporter for National Public Radio, and fell in love with it."

The New Yorker, My Lai Revisited, Mar 30 2015

NQD nhà văn Mít 57 tuổi, chủ nhân 1 nhà hàng tại Hà Nội, chạy qua Mẽo năm 1975 khi 17 tuổi. Tớ luôn muốn về sống ở xứ Mít. Tớ thấy tớ chưa xong, không đầy đủ, bỏ nhà ra đi khi 17 tuổi, và sống như 1 ai đó ở Mẽo. Tớ biết ơn Mẽo với những cơ may mà nó ban cho tớ. Nhưng cái tớ cần là 1 cảm quan, ý nghĩa cộng đồng. Gặp Hà Nội, là tớ mê liền.

Born Red

Nga Hoàng Đỏ xây dựng Đế Quốc Xô Viết quyền lực thứ nhì thế giới bằng cách làm thịt dân của mình, chừng 20 triệu, cỡ đó. Từ tên trộm cướp cách mạng, le bandit révolutionaire, biến thành 1 tên bạo chúa khùng. Đại Khủng Bố mỗi ngày làm thịt 16 ngàn người.

Đế quốc VC như hiện giờ, "cũng" đã được xây dựng lên, bằng cách làm thịt dân Mít của nó.
Cuộc chiến chống Pháp đúng ra không xẩy ra. Nó xẩy ra là vì VC muốn như thế, nếu không thế không sao làm thịt lũ Việt gian được. Việt gian là những kẻ không theo VC, những đảng phái quốc gia như VNQD, thí dụ. Cuộc chiến chống Mỹ cũng không thể xẩy ra, và nó xẩy ra vì Bắc Kít muốn như thế. Bởi thế, chúng mới nhử Mẽo vô Miền Nam, khi thành lập MTGP, bằng cách vu cho Diệm đầu độc tù VC tại trại tù Phú Lợi.
Tuy nhiên, điều chúng ta không biết, là liên minh ma quỉ giữa Bắc Kinh và Bắc Bộ Phủ. Không có sự giúp đỡ của Tẫu, cả hai cuộc chiến vô phương xẩy ra với kết quả như bây giờ. Bởi thế, vào thời điểm 1975, khi Solzhenitsyn nhận định, Bắc Kít sẽ thôn tính Nam Kít, và đây là cuộc chiến tranh giành ảnh hưởng giữa những đế quốc, Paz chỉnh Solz, đây là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc; chỉ đến bây giờ chúng ra mới thấy Solz có lý, khi yếu tố Tẫu lộ ra. Bởi là vì với dân Mít, Tẫu là kẻ thù ngàn đời của chúng.

Bi giờ, thì Mít mới biết, Bắc Kít dâng cả vợ con cho Tẫu, để làm thịt cho bằng được thằng em Nam Kít của nó.
Trước, cũng biết, nhưng giả đò, không.
Gấu về lại đất Bắc, đọc gia phả dòng họ Nguyễn, đấng nào đấng đó đóng khung những chi tiết, sự kiện lịch sử, đã từng học tại trường West Point Tẫu!

Bởi thế, Gấu mới phục ông già của Gấu, đếch theo VC, chỉ là “cảm tình viên” của Đảng, như cô cháu gái của 1 ông chú, Chú Cầm, Huyện Uỷ Bạch Hạc, Việt Trì, giải thích lý do tại sao mấy đứa anh chị em của Gấu ở lại đất Bắc, không được công nhận là con của liệt sĩ!
Bố của Gấu cực bảnh!

Hà, hà!

Ông tin tên học trò của mình, nên chết vì nó, như Gấu, quá mê bạn quí, đến lụy 1 đời vì chúng!