|
TTT 2006-2015
A
Burnt-out
Case
Ầm ầm sóng
vỗ chung quanh ghế
ngồi
Câu thơ
trên, của Nguyễn Du,
trong truyện Kiều, tả cảnh Kiều ở trung tâm một trận bão, lụt, làm Gấu
nhớ tới
cái truyện ngắn chỉ có được mỗi cái tên truyện của Gấu: Mắt Bão.
Nhớ, cả cái bữa ngồi Quán
Chùa, khoe cái tít với ông anh, ông biểu, còn nhiều từ như thế lắm, ở
trong môn
học địa lý.
Nhưng,
"ầm ầm sóng vỗ chung
quanh ghế ngồi", còn là cái dáng ngồi như ông Bụt của Marlow, khi anh
kể lại câu
chuyện của Kurtz, trong Trái Tim Của
Bóng Đen.
Và đúng là cái tâm trạng của
NHT, kẻ "chẳng bao giờ đi xa và cứ ở mãi đây", ở cái xứ Bắc Kít. Ở
trung tâm của
Bóng Đen.
Ở Mắt
Bão.
Bien
qu'il n'ait jamais
disparu, le courant brun qui coulait rapidement du cœur des ténèbres
vers la
mer en nous emportant sur le fleuve Congo
est de retour. Et
avec lui
revient le personnage de Kurtz qui, lui non plus, n'a jamais disparu,
ou s'il
l'a fait, il était « parti très loin, comme dirait Kafka, pour rester
ici ».
Thì, tất nhiên, nó chẳng bao
giờ biến mất, cái dòng nước đục ngầu, đỏ như máu, của sông Hồng, chảy
từ trái
tim của bóng đen, là thành phố Hà Nội, ra biển, đưa chúng ta dạt dào
lưu vong,
sau khi thoát hải tặc Thái lan, mãi tít tới miệt Công Gô, và, ăn Tết
Công Gô
xong, lại trở về.
Và cùng về với nó, là nhân
vật Kurtz; anh này, tất nhiên, cũng chẳng hề biến mất, hay là, nếu anh
ta làm
như thế, “anh ta đi rất xa, nói như Kafka, để ở lại đây”.
Kurtz, như thế, họ hàng với
Colonel Sutpen, trong Absalom,
Absalom!
Cũng dòng Yankee mũi tẹt, gốc
gác Hải Dương [cùng quê PXA], hay Sơn Tây [cùng quê Tướng Râu Kẽm]?
Gấu bảnh hơn cả PXA & Râu
Kẽm: Sinh Hải Dương, nhưng gốc dân Sơn Tây!
Gấu về Bắc lần đầu, năm 2000,
là để tìm hỏi coi ông bố mình mất ngày nào, và đến chỗ ông mất, trên,
ngày xưa
chỉ là một bãi sông, thắp nén hương cho bố, rồi đi.
Mấy ông bạn văn VC nói, đi
làm cái quái gì nữa, anh mua cái nhà, khu Thanh Xuân chẳng hạn, vừa gần
Tướng
Về Hưu vừa gần tụi này!
Đi rất xa, chỉ để ở lại đây!
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng
lắm!
*
NHT
cũng một thứ
Kurtz, nhưng chẳng bao giờ rời xứ Bắc Kít!
Bảnh nhất trong những Trái Tim của
Bóng Đen!
Ông Trùm.
Chẳng cần đi rất xa, và cứ ở mãi đây!
Giles
Foden, đọc và giới thiệu A Burnt-out
Case
của Greene, cũng nhận ra, Trái Tim
Của Bóng Đen của Conrad phủ lên nó.
"Burnt-out", cháy
mất tiêu, cháy đến tàn lụi, ở đây, là để chỉ tình trạng bệnh cùi
ăn chân
tay của người bệnh, biến chúng thành một thứ bóng ma, có đó, nhưng
không có đó.
Cái
chuyện Gấu mê Faulkner,
có thể đã có trong tiềm thức, bởi vì vừa gặp Colonel Sutpen là đã nhận
ra họ
hàng [Miền Nam nhận họ, Miền Bắc nhận hàng] rồi, nhưng chuyện làm quen
Greene
chỉ để học tiếng Tây khi học trung học, vậy mà về già chỉ còn tâm sự
được với
những nhân vật của ông, thì đúng là.. có Trời!
Đành phải cám ơn ông ta một phát!
Có thể
nói, cuốn nào của
Greene cũng tuyệt. Cái tay Giles Foden giới thiệu "một trường hợp cánh
tay
cháy tàn đến thành tay ma" [A
Burnt-out Case] này, cũng đúng là tri kỷ
của
Greene!
*
V/v "Cánh tay ma" này, bữa trước Gấu có đọc một truyện ngắn của một anh
bộ đội MB, viết, cũng đề tài này. Truyện cũng được lắm. Hình như
có giới thiệu lại trên Tin Văn, để coi lại.
Đọc, Gấu nhớ tới lần, xém một tí là mất cánh tay, và khẩu súng,
của chính Gấu, tại nhà hàng Mỹ Cảnh!
Và nhớ luôn, cái cảm giác, vừa té xuống, là nghĩ ngay đến BHD, và câu
trách của Em, em đã nói rồi, anh đừng có ham ăn ham uống, mà khổ!
Quái
đản thật, mất cánh tay, có thể mất mạng, không sợ, mà
chỉ sợ em giận, em dỗi, nghỉ chơi với Gấu!
*
In
some ways the novel can be read as an investigation of post-Christian
faith, an
attempt to see what can be raised from the ashes of a century notable
for its
cruelty. Yet it is dangerous to see A
Burnt-out Case in such totalizing terms. Its appeal to or against
ending
feels closer to Matthew Arnold's poem about ebbing Christian faith,
'Dover
Beach', than to works written in response to the Holocaust. Some
further
remarks in Greene's Ways of Escape
appear to recognize the way in which Arnold's
poem acts as a 'nineteenth-century forestructure' for the novel:
This
account may seem cynical
and unfeeling, but in the years between The
Heart of the Matter and The End of
the Affair I felt myself
used and
exhausted by the victims of
religion. The
vision of faith as untroubled sea was lost for ever; faith was more
like a
tempest in which the lucky were engulfed and lost, and the unfortunate
survived
to be flung battered and bleeding on the shore. A better man could have
found a
life's work on the margin of that cruel sea, but my own course of life
gave me no
confidence in any aid 1 might proffer. 1 had no apostolic mission, and
the
cries for spiritual assistance maddened me because of my impotence.
What was
the Church for but to aid these sufferers? What was the priesthood for?
1 was
like a man without medical knowledge in a village struck with plague.
It was in
those years, I think, that Querry was born and Father Thomas too.
Greene
Trong
một vài đường hướng,
cuốn tiểu thuyết có thể được đọc như một cuộc điều tra, về niềm tin
hậu-Ky tô,
một toan tính để nhìn coi xem, cái gì dấy lên từ tro than của thế kỷ
trứ danh về
cái sự độc ác của nó…
Ui
chao, bạn đọc có
thể mô phỏng đoạn trên, và đi một đường “bốc thúi” trang Tin Văn:
Trong một vài đường hướng,
trang Tin Văn có thể được đọc như là "… niềm tin hậu chiến Mít, một cái
gì
dấy lên từ
tro than của cuộc chiến trứ danh vì Cái Ác Bắc Kít của nó."!
Nhưng, biết đâu đấy, Ky Tô giáo đang lâm đại nạn tại nước Mít, là cũng
ứng vào cuộc "điều tra" này, của trang Tin Văn? (1)
(1) Nên
nhớ, bộ sách khổng lồ Gulag của
Solz. còn có một cái tiểu tít là 'một
cuộc điều tra có tính văn học...'.[ The Gulag Archipelago: An
Experiment in Literay Investigation, Một thử nghiệm trong điều tra văn
học…]. Biết đâu đấy, sau
khi Gấu đi rồi, một bạn
đọc Tin Văn download những
trang sách hổ lốn, chẳng biết đâu mà lần này, gỡ nó ra, sắp xếp lại,
thành một bộ sách khổng lồ có tên là Gulag
Mít hay cái gì đó tương tự?
Cái viễn ảnh của niềm tin
như là biển cả
bình yên không sóng gió thế là mất vĩnh viễn ... Tôi cảm thấy mệt
nhoài, nát bấy bởi những nạn nhân của tôn giáo....
Greene
Dzui thôi mà!
Trong một vài đường
hướng, đây là một cuốn sách tuyệt hảo đối với tôi - mặc dù đề tài và sự
quan tâm
của nó, thì rõ ràng thuộc về một cõi không tuyệt hảo. Tôi đọc nó, lần
đầu khi còn
trẻ, dân Ky tô, lớn lên ở Phi Châu, vào lúc mà trại cùi còn phổ thông.
Tôi còn
nhớ, lần viếng thăm cùng với mẹ tôi, một trại cùi như thế, được mấy bà
sơ chăm
sóc, tại Ntakataka, nơi hồ Lake Malawi.
Và tôi
sợ đến mất vía bởi cái sự cử động dịu dàng đến trở thành như không có,
của những
người cùi bị bịnh ăn mất hết cánh tay, y hệt như được miêu tả ở trong
cuốn tiểu
thuyết: “Deo Gratias gõ cửa. Querry nghe tiếng cào cào cánh cửa của cái
phần còn
lại của cánh tay. Một xô nước treo lủng lẳng ở cổ tay giống như một cái
áo khoác,
treo ở cái núm trong tủ áo”.
Vào cái lúc tôi đọc
nó, thì tôi đang phải chiến đấu, như những người trẻ, hay già, phải
chiến đấu,
và cũng không phải chỉ ở Phi Châu, với những đòi hỏi về một niềm tin,
khi
mà niềm
tin này thì thực là "vô ích, vô hại, vô dụng, vô can…", tại một nơi
chốn,
bất cứ một
nơi chốn, bị tai ương, bệnh tật, và cái chết nhòm nhỏ, đánh hơi, quấy
rầy,
không phút nào nhả ra.
Thành thử câu chuyện của Greene về một gã
Querry, một
tay kiến trúc sư bảnh tỏng, tới xứ Công Gô, chỉ để chạy trốn, và tìm ra
một thế
giới, và có thể, Chúa bắt kịp anh ta đúng ở đó, một câu chuyện như thế,
làm
tôi quan
tâm.
*
Ui chao, đọc một
phát, là Gấu bỗng nhớ đến Bếp Lửa,
đoạn Tâm, ở Hà Nội, không khứng ra bưng
theo VC,
cũng quá chán Hà Nội, bèn qua Bắc Ninh dậy học tại một trường của
mấy ông
cha; dậy học dậy hiệc ra sao chẳng rõ, nhưng rõ ràng là mất niềm tin,
bị mấy
ông thầy tu chê, đành trở về lại Hà Nội.
Bạn, đọc lại khúc
đối đáp nẩy lửa liên quan, mà chẳng... thú sao!
*
Về Bắc Ninh
tôi bị
cảm khản tiếng mất một tuần phải nghỉ làm việc. Nhưng buổi sáng mùa
đông buồn
rầu thêm. Tôi nằm lỳ trên giường không buồn trở dậy. Những tiếng ồn ào
từ trong
lớp giờ làm việc, ngoài sân giờ ra chơi, bay lên qua một khoảng xa cách
lắm,
tôi đợi từng bước chân người ngoài hành lang.
Mỗi buổi trưa ông già gác mang lại phòng cho tôi một bát cháo nóng -
buổi trưa
kèm theo một tờ báo hàng ngày. Tôi lười, thoái thác không xuống phòng
ăn. Tôi
đọc báo, nhìn cuộc đời bình thản qua như những cuộn mây xám thường
ngoài cửa sổ
buổi chiều. Và tôi ngủ những giấc ngủ đầy hơi thở nóng và mồ hôi cùng
trống
ngực.
Linh mục Tân đến thăm tôi hàng ngày khoảng 4 giờ chiều và ở lại phòng
tôi chừng
mười lăm phút. Nhiên săn sóc tôi vào buổi tối khi những tiê!ng chuông
khóa lễ
chiều đã im. Nhiên thuờng ngồi nói chuyện. Anh kể về gia đình, về thời
thơ ấu,
và ơn trên đã kêu gọi anh để được dâng mình cho Chúa, bằng giọng bình
thản như
đọc một đoạn sách thánh kinh. Bà nội anh muốn có một người con dâng cho
Chúa
nhưng cha anh là con một. Tiếp theo Nhiên là đứa cháu độc nhất. Đứa
cháu độc
nhất ấy nghe ở linh hồn mình từ nhỏ âm vang lời kêu gọi của Thiên Chúa
và Nhiên
mong rằng sẽ làm thỏa mãn khát vọng của những người sinh thành. Trong
những lúc
ấy tôi ngó lên ngọn điện yếu mỏng chập chờn như muốn tắt.
Đại không sang, những thư từ của tôi được cho vào phong bì lớn dán kín
gởi sang
trường. Tôi nhận được thư của Francoise trách tôi lười viết, nàng hỏi
tôi có
nhận được thư của nàng không. Nàng cho biết hiện đang công tác vận động
những
gia đình có con em chiến đấu ở Đông Dương để làm kiến nghị yêu cầu chấm
dứt
chiến tranh ở đây. Đồng thời cùng với một nhóm bạn hữu thanh niên, nàng
đã được
gặp Sartre, chất vấn về vấn đề cộng sản và cách mạng. Nàng bảo nàng hơi
đen và
gầy hơn nhưng cũng cao hơn. Nàng vừa kỷ niệm sinh nhật thứ muời chín
của nàng.
“Pauvre Francoise!”
Hòa tả những trận mưa ở đồn điền dài ba trang giấy mỏng. Và Ngọc:
“Mày ơi!
Mày còn thì giờ để ý đến tao ư? Tao tưởng mày nghĩ đến thân phận mày
cũng đã đủ
lắm rồi. Thằng Bảo cho tao lãng mạn và chắc rằng chúng mày cũng đồng ý
với
nhau. Nhưng hỡi ôi! Lãng mạn phải là chúng mày mới đúng. Đau khổ cho
nhiều vào,
đọc sách cho nhiều vào, xót thương mình chưa đủ rồi xót thương người…
để mơ
mộng: cách mạng. Ôi chao cách mạng! Cách mạng để làm gì? Những con ngựa
bị hành
hạ đau quá thì lồng lên hất thằng dô kề ngã mà chạy. Chạy đi đâu? Thằng
dô kề
nó sẽ túm được, nó đánh đập tàn nhẫn hơn và lại sỏ cương trèo lên.
“Thế nào tao cũng bỏ đất này đi, tao can đảm thú thực như thế, chết ở
chỗ khác
yên thân hơn. Còn hơn chúng mày lòng tin đã mất mà không dám thú thực,
mà vẫn
còn cố gắng giả tin.
“Bằng chứng là mày có tự do đâu, thằng Bảo vợ con và cái be nước mắm,
mày bỏ
trường này rồi cũng đến trường khác. A-men, mày đang tìm về với Chúa
đấy.
Cầu Chúa che chở cho cái thằng sâu kiến lúc nào cũng tưởng mình lớn
ngang Đức
Chúa. Làm dấu Thánh Giá và quì xuống.”
Ngọc
Tôi quên lá thư của Ngọc mở ở bàn đêm đầu giường. Buổi chiều tôi ngủ
chập chờn,
khi mở mắt Nhiên ngồi cạnh và đã bật đèn. Nhiên hỏi:
“Anh không ăn cháo? Để tôi bổ cam cho anh xơi.”
Tôi ngồi dạy nói:
“Cám ơn anh, tôi có thể làm lấy được.”
Tôi bổ cam ở bàn, nhìn ra cửa sổ, gió khoan khoái một chút.
Nhiên hỏi:
“Anh cho là có Thượng Đế hay không?”
Tôi suy nghĩ rồi trả lời:
“Câu hỏi ấy chưa bao giờ làm tôi thắc mắc cả.”
Tôi không nghĩ đến nó.
Nhiên lại hỏi:
“Anh có nhận rằng ở đời có một cái gọi là Thiện, một cái gọi là Ác, có
công
bằng, có tự do, bác ái…"
Tôi trông thẳng vào mặt Nhiên đáp:
“Có chứ tại sao không?”
“Vậy mà anh lại không tin Thượng Đế thì lạ thật.”
“Tôi tưởng những ý niệm ấy họp nhau thành một ý niệm hoàn hảo hơn tất
cả là
Thượng Đế. Thường thường người ta nghĩ một vài ý niệm khó thỏa hiệp vớ
nhau như
bình đẳng và tự do, nhưng đạt đến sự hòa hiệp chính là tìm về Thượng Đế
rồi còn
gì.”
Tôi bước vài bước đắn đo:
“Tôi nhắc lại với anh tôi không suy nghĩ về vấn đề ấy. Theo tôi có
những lúc
người ta cần giải quyết giữa người với người và Thượng Đế không nên có
mặt ở
lúc ấy. Có mặt khi không cần thiết, Thượng Đế sẽ bị nhơ nhuốc lây và có
thể bị
mất ngôi. Mà ngôi Thượng Đế có lẽ cần thiết lúc khác.”
“Thượng Đế sẽ giải quyết được những vấn đề của loài người nếu loài
người biết
tìm về Người.”
“Không, tôi không tin như thế, Thượng Đế không sống cái sống xác thịt
của nhân
loại. Khi Thượng Đế nhập thể thành người như Chúa Jésus hay Phật Tổ thì
chính ở
những người ấy Thượng Đế đã bị lôi kéo vào tấn thảm kịch riêng tư của
loài
người, và chỉ có thể thoát ra với sự thất bại…”
Những buổi tối tiếp theo, Nhiên thưa sang thăm tôi - Tôi nằm nghe tiếng
động
ngoài hành lang và lòng mình.
Tôi trả lời Ngọc:
“Ngọc,
Con sâu ở giữa tim giữa hồn, giữa não, mày nhớ không? Đi đâu cũng chỉ
là mày –
đau khổ và nhục nhã. Mà nào riêng có đất nước này hổ nhục thôi đâu, mọi
nơi mắt
mày cũng chỉ nhìn thấy như đây. Không trốn được đâu trừ khi mày trốn
được lòng
này.
Nhưng thôi tao vẫn cầu chúc cho mày đi cho thỏa dồn nén, để ngó thấy ở
bất cứ
một góc địa cầu nào những điều ghê tởm không muốn ngó, rồi mày sẽ trở
lại, tao
tin như vậy, nhất định sẽ trở lại. Tất nhiên chán chường hơn nữa, nhưng
từ chỗ
chán chường cuối cùng ấy tao còn mày hay mất mày vĩnh viễn.
Ngọc ơi! Mày có nhẩy xuống biển ngủ ở dưới ấy không? Con sâu ở giữa
tim, giữa
hồn, giữa não.
Trước khi đi hãy thư cho bạn mày.
Tâm.”
Lễ Chúa Giáng Sinh đến gần với những ngày rét cóng hơn. Nhà trường vắng
ngắt,
những giáo sư ngoài như tôi đã về Hà Nội cả. Mặt sân cứng ướt hiu quạnh
không
cây cối, tôi bước trên sạn vụn theo một cửa ngách sang nhà thờ. Màu đá
xám cao
và lạnh lẽo thêm.
Những chiếc đen mầu hình ngôi sao, những dây hoa giấy sặc sỡ buồn cười.
Vòm nhà thờ sâu, ánh sáng mờ ảo.
Tôi đi bên những hàng ghế mộc, đến máng cỏ Chúa Hài Đồng. Tôi đứng cách
xa ngắm
những hình tượng được xếp đặt khéo léo. Vài người đàn bà nhà quê hình
như ở chợ
rẽ vào, quỳ gối kính cẩn.
Rồi tôi xuống Đáp Cầu cho đến hết buổi sáng.
Tôi vẫn chưa biết nên về Hà Nội hay nên giam mình một tuần lễ trong
chuỗi ngày
rét mướt ở tỉnh lỵ. Con đường dốc, những sườn núi trơ đất và đá đỏ, gió
và hơi
nước quyến lấy nhau ở không trung làm khói đặc nặng nề, không một tiếng
động
ngoài tiếng nổ của động cơ. Chiếc xe hàng đã đổ hết khách ở Bắc Ninh
chỉ còn
lại vài người. Thị xã tiêu điều những mặt nhà méo lệch. Quán chợ lụp
xụp nhớp
nháp; chợ còn lại dẫy tường trắng loang lỗ vết tích cũ.
Bữa ăn với vợ chồng Long trong một gian buồng hẹp ấm, mâm bằng gỗ.
Tôi trở về Bắc Ninh gần ba giờ chiều.
Tôi ngồi trong quán nước ở bến xe trong sự náo nhiệt ấm áp của những
người xuôi
ngược và những người làm xe. Ở đây có những bát nước chè tươi nóng,
điếu thuốc
lào. Trời mưa bay. Bỗng tôi trông thấy Hạnh, nàng mặc tấm áo dài thâm
đi ở
ngoài. Nàng chào tôi và ghé vào quán.
Tôi hỏi:
“Cô đi Hà Nội?”
“Vâng.” Hạnh đáp.
Tôi mời nàng uống nước và chúng tôi uống những bát nước chè tươi xanh
nóng rộp
lưỡi. Hạnh hỏi tôi:
“Anh cũng về Hà Nội?”
Tôi chưa biết trả lời thế nào Hạnh đã tiếp:
“Nếu tiện anh đi xe của em cùng về.”
Nàng nói tự nhiên còn tôi lúng túng. Hạnh lại nói:
“Chỉ sợ anh chê đi xe chở hàng thôi.”
Hạnh đưa tôi ra xe, chiếc xe cam nhông chuyên chở hàng hóa. Sau xe
trống, ngoài
một thùng đựng ét xăng của nhà binh bỏ không và mấy tấm bao vải.
Tôi và Hạnh ngồi phía trên cùng người tài xế và người phụ xe ở đằng
sau. Xe ra
khỏi thị xã cùng với hạt mưa dầy hơn. Người tài xế đứng tuổi hai bàn
tay khô
khan gân guốc chụp trên đầu chiếc mũ cát két dạ. Anh phụ xe trẻ tuổi
nói qua lỗ
hổng lên với bác tài một câu gì. Hạnh ngồi sát vào tôi và tôi nhận hơi
ấm của
nàng.
Nhìn thấy ở ngực Hạnh đeo hình thánh giá, tôi hỏi:
“Em theo đạo?”
Hạnh gật đầu trả lời:
“Khi còn ở hậu phương, bây giờ thì thôi rồi.”
Một lát sau, xe chạy đều tốc lực, màu trắng phủ những cánh đồng hai bên
đường.
Tôi hỏi Hạnh:
“Em còn nhớ về anh xưa hay không?”
Hạnh ngước mắt nhìn tôi rồi trả lời:
“Em nhớ những ngày nghỉ học anh thường đi theo em. Hồi ấy nhà em ở hai
nơi, Thị
Cầu và Đáp Cầu, nhà anh ở khoảng giữa con đường ấy. Đi về em phải qua
nhà anh.
Em mặc áo trắng và cặp tóc và em đã được nghe anh nói là em đẹp nhất
Thị Cầu.”
Tôi nắm bàn tay nhỏ bé của Hạnh và để vào lòng bàn tay tôi từ lúc nào,
rất cảm
động.
Hạnh nói tiếp:
“Một lần anh Long và một người bạn nữa đã thách anh đến vuốt tóc em và
anh đã
làm thật. Ở con đường ra đồng trước cửa nhà một người Pháp có nuôi một
đàn
ngỗng dữ và em đã về mách nhà anh cái tội trêu trọc em và tội đứng đó
ăn cắp trứng
ngỗng.”
Tôi nắm chặt hơn tay Hạnh, có cảm giác hổ thẹn về những hành động ngây
thơ táo
bạo và tôi đáp:
“Nhưng em cũng biết là bà ngoại anh chẳng bao giờ trị tội anh cả.”
Hạnh gật đầu và cái búi tóc nghiêng xuống vai về phiá tôi. Hạnh hỏi lại
tôi:
“Học hết lớp nhất anh đi Sài Gòn? Anh làm gì?”
Tôi nói điềm nhiên và thành thật, ngoài ý muốn:
“Anh đã bán báo, làm thợ, và học nghể chữa ô tô.”
Đến Hà Nội, mưa lớn hơn. Chúng tôi cùng đi ăn cơm với nhau.
Và đêm ấy tôi ngủ với Hạnh ở khách sạn
[To All Of U, THERE, and Tks. NQT]
Thật khó mà
nói, TTT coi ông như là nạn nhân của Trại Tù, bởi là vì rõ ràng là, nhờ
nó, ông
làm lại được thơ, và bẽn lẽn như hồi mới lớn, không dám khoe với bạn
tù!
Brodsky rất
bực khi bị hỏi, thí dụ, tại làm sao chúng đưa ông đi tù. Ông từ chối
chơi, he
refuses to play, và cho biết, hai năm tù là quãng đời hạnh phúc nhất
của ông. Lạ
1 điều, chính cái chuyện ông từ chối làm anh hùng, chính nó, có cái
chất anh hùng,
như tác giả "From Russia With Love" nhận xét, paradoxically enough, his
rejection
of the part of hero was itself heroic.
Bếp Lửa,Tựa
Lần In Thứ Tư (1973)
Malraux có
viết: "Người ta không thể nào viết lại một quyển tiểu thuyết."
Tôi không
tin như thế. Trong nhiều năm sau khi quyển sách này được xuất bản,
dường như
tôi đã hì hục viết một BẾP LỬA khác. Mỗi lần sửa lỗi ấn loát để cho tái
bản,
tôi đều muốn viết lại nó. Kể cả bây giờ, sau mười bẩy năm.
Đây không phải
là quyển tiểu thuyết đầu tay của tôi.
Quyển đầu
tay tuy được một nhà xuất bản nhận in năm 1955, vào phút chót tôi đổi
ý, rút lại
sách, quyết định không xuất bản.
Quyển Bếp Lửa
rất có thể đã chịu chung số phận của quyển đầu tay, nếu không may mắn
gặp ông
Nguyễn Đình Vượng [chủ báo Văn, chủ nhà in, nhà xuất bản Nguyễn Đình
Vượng].
Được viết một
hơi – khoảng đâu hai ba tháng – được in ngay sau khi viết – không có
một quãng
cách nào để kịp lùi, nhìn lại – quyển Bếp Lửa là quyển duy nhất của tôi
chỉ có
một lần bản thảo.
Trên trang đầu
bản thảo có đề câu của Rimbaud: Je est un autre [Tôi là kẻ khác], nhưng
khi đưa
in tôi đã xóa bỏ.
Sách in lần
đầu ba ngàn cuốn, chẳng rõ bán được bao nhiêu, chỉ biết ít lâu sau sách
được
mang bán "son". Có hai bài viết về quyển sách: một trên nhật báo Tự
Do tại Sài Gòn, một trên tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà Văn miền Bắc ở
Hà Nội.
Tiếc là tôi
không có thói quen lưu giữ tài liệu để có thể in kèm vào sách khi tái
bản.
Đại cương
hai bài viết đều là lời chê trách giống nhau: quyển sách bi quan tiêu
cực. Bài
trên tờ Văn Nghệ ở Hà Nội chỉ là một cột điểm sách ngắn vài mươi giòng
nhưng bấy
giờ đã mang đến cho tôi hãnh diện và sung sướng. Hãnh diện là thứ có
ngày nghĩ
lại khiến thẹn thùng. Nhưng sung sướng lúc nào cũng vẫn là sung sướng,
dù cùng
với thời gian có thể lẫn vẻ bùi ngùi.
Tôi sung sướng
nghĩ các bạn tôi ở Hà Nội đọc cột báo ấy, biết được tôi vẫn nhớ họ, đã
viết về
họ, về những ngày tháng ấy của chúng tôi. Họ có thể tức tối căm giận,
nhưng chắc
họ cũng cảm động bồi hồi.
Mười bẩy năm
đã qua.
Kinh nghiệm
dạy cho tôi là lời của Malraux đúng. Tôi đã loay hoay quá lâu với một
quyển
sách. Lần này tôi quyết định đề là ấn bản chung quyết.
Tôi hiểu đã
đến lúc nên viết những quyển sách khác.
Tháng 3 – 73
THANH TÂM
TUYỀN
Trên
tờ Ba Xu, số Mùa Xuân, The Threepenny Review, Spring 2015, trong mục
“Lèm bèm bên ly cà phe & bạn hiền", Table Talk, Alberto
Manguel có đi 1 đường về từ “chung quyết” này.
Bài cực thú. Với 1 đại gia đọc, như
AM này, bạn yên tâm, khi đọc, vì thế nào có vớ được 1 chi tiết bạn
không ngờ, gây
cực khoái, hà, hà!
Ben
scan, và nhân riện, post thêm 1 bài thơ trong số báo, Tên Kép Của Tớ, The Double.
Kép ở đây không có nghĩa là Thằng Bồ, mà là tên thế thân, theo cái kiểu
mà TTT tính chôm câu của Rimbaud; Tớ là 1 kẻ khác.
The Double
My double is
nothing like me.
They say he
smells of lavender,
that he
dances elegantly.
But he looks
like a cadaver
when he
sleeps. Animals can't tell
he's there.
At the park a bird flew
straight
into his chest, and fell
as if it hit
a closed window.
Men like him
are unnatural.
Mothers hold
their children closer
when we pass
by: original
or copy,
we're both a danger.
My double
wants to leave this town.
He tells me
he doesn't believe
we're
twinned. And he's right; we're not bound
by much. But
we don't get to leave.
-Ryan
Teitman
Kẻ Kép
Kẻ kép của tớ
chẳng giống gì tớ
Chúng nói, hửi
có mùi oải hương
Rằng hắn nhảy
đầm rất lịch
Nhưng trông
hắn chẳng khác gì cái xác chết
Khi hắn ngủ.
Lũ thú vật
không thể nói, có hắn đó.
Một con chim
ở nơi công viên
Bay đánh bộp
một phát trúng ngực hắn ta
Và rớt đánh
bịch cũng 1 phát
Như thể đụng
vô kính cửa sổ
Người như hắn
chẳng giống người.
Mấy bà mẹ ôm
chặt con khi hắn - và tớ - đi tới gần
Bản chính
hay bản sao, cả hai đều hiểm nguy
Kẻ kép của tớ
muốn rời thành phố
Hắn biểu tớ,
hắn đếch tin hai đứa sinh đôi
Hắn phán đúng
Hai chúng tôi
không mắc mớ với nhau nhiều
Nhưng biết làm
sao, thì cũng đành, cứ thế, cứ thế.
From
Russia With Love
Last But Not
Least
Saturday /
Sunday, 17 and 18 May, 1997
THERE IS A
CURIOUS interview with Joseph by Michael Scammell in Index on
Censorship,"
which had been established shortly before this, on the initiative of
Stephen
Spender among others, as the organ of the Writers & Scholars
International,
the aims of which were "to promote the study of the suppression of
freedom
of expression". Again, it is surprising to find Joseph so insistent,
this
early in his life in the West, on his right to be judged solely as a
writer, a
poet, and not categorized as a dissident or a victim of oppression. He
sensed
the direction of the interview almost from the start, answering some
factual
questions briefly, but as soon as Scammell, innocuously enough, begins
to lead:
"When did it become clear to you that your poems were not going to be
published generally in the Soviet Union and what was the effect of this
realization upon you?" Joseph shoots back: "I must say that it was
never really clear to me. I always thought that they would be published
one day
and so this idea has had no effect on me at all [ ... ]"
And more of the like
follows. Joseph answers non-commit ally
whenever he can, but as soon as the questioner begins to probe, he
reacts.
"Why do you think they sent you to prison?" "I don't really
know. In any case that seems to me, if you don't mind my saying so, a
typically
western approach to the problem; every event has to have a cause and
every
phenomenon has to have something standing behind it. It is very
complex.
Sometimes there is a cause, perhaps. But as to why they put me in
prison, all I
can do is repeat to you the items in the indictment. My own answer
perhaps
won't satisfy you, but it is very simple. A man who sets out to create
his own
independent world within himself is bound sooner or later to become a
foreign body
in society and then he becomes subject to all the physical laws of
pressure,
compression and extrusion." Joseph refuses, time after time, to don the
mantle of the tragic exile, the martyr, the victim. "How did trial and
prison affect your work?" "You know, 1 think it was even good for me,
because the two years 1 spent in the country were from my point of view
one of
the best times of my life. I did more work then than at any other time.
During
the day 1 had to do physical work, but since it was agricultural
labour, it
wasn't like in a factory and there were lots of period of rest when we
had
nothing to do."
Scammell, perhaps growing
a little exasperated with all this,
finally says: "What is your attitude to people who take a stand and why
have you personally never done so yourself?" Joseph, rejecting both
mantle
of freedom-fighter and that of feeble aesthete (despite the remarks
about
boredom), responds rather defiantly, provocatively, and perhaps equally
exasperatedly: "It is all very simple, really. The point is that the
person who seriously devotes himself to some sort of work - and in my
case belles lettres - has in any case plenty
of problems and difficulties that arise from the work itself, for
instance
doubts, fears and worries, and this in itself taxes the brain pretty
powerfully. And then again 1 must say that any kind of civic activity
simply
bores me to death. While the brain is thinking in political terms and
thinks of
itself as getting somewhere, it is all very interesting, attractive and
exciting,
and everything seems fine. But when these thoughts reach their logical
conclusion,
that is when they result in some sort of action, then they give rise to
a
terrible sense of disillusionment, and then the whole thing is boring."
He develops this: "I think
that for the writer who first
of all concerns himself with his own work, the deeper he plunges into
it, the
greater will be the consequences - literary, aesthetic and of course
political
as well." Joseph is unconvinced of the effectiveness of efforts in the
West to help "unorthodox" Russian writers, casting doubt even on the
publication of such writers in the West: "[ ... ] All you can do is to
help people get published. But I am not sure how helpful this is. 1
suppose it
gives one a pleasant sensation, a sense of not being without hope: up
or down,
you still exist and you still haven't perished. It gives a certain
psychological relief to a man living in rather uncomfortable
circumstances. But
here again you get all sorts of problems arising, because all forms of
comfort
are in a way a sort of escapism." This is interestingly reminiscent of
remarks made by concentration-camp prisoners about the possibly deadly
effect
of hope. It also sheds a little light on Brodsky's natural stoicism,
the need
to live with reality and not with pipe dreams. Scammell pointedly
suggests that
the publication of Brodsky's poetry might have helped him maintain his
position
of independence, influenced his writing. He denies all this: "Maybe it
did
help in some way, but I must confess that I doubt it very much. You
see, I am
not representative in any way, I cannot stand for anything or anybody
except
myself."
So,
Joseph establishes the
parameters, right from the start. He
refuses to play. He was an individual in the Soviet Union and he's
damned if
he's going to give up being one now that he is in the West. It seems
that he
knew exactly what he wanted. This was, to say the least, a different
kind of
exile. An exile rather ahead of his time, almost post-Soviet. He
frequently puzzled
those awaiting him with friendly intentions. In some cases, Joseph
seems too
dismissive of liberal opinion. But he is self- consistent.
Paradoxically
enough, his rejection of the part of hero was itself heroic. He covered
all the
bases. The media which was not to be deterred by his ironical comments
continued to describe him as a victim of the totalitarian state, while
those
who knew him better began to develop a more nuanced understanding of
the
East-West dichotomy. His belief in art, his elevation of it (and
language) over
politics, was distinctly sinewy and non-escapist.
TTT 2006-2015
Chữ sao muộn
màng so với cuộc đời của chúng ta
30 Tháng Tư
mà đọc bài này thì hết xẩy con cào cào. Cô blogger này, dân Hà Nội,
kiếm Camus
trên net, ra trang Tin Văn.
Bạn của "Chị So"
Tks. NQT
Cái tít bài
này, là của Joseph Huỳnh Văn:
Đầu tháng
lòi ra bài này:
/TV_Journal_new/61.html
Bài này nữa, nhưng chắc là do sắp tới 30 Tháng Tư:
/Presentation/t%E2m_su_xuan_sach.html
Trùng hợp lạ lùng: Mít, cùng lúc, tưởng niệm TTT, TCS, 30 Tháng Tư...
Hàng năm cứ vào Tháng Tư, lá ngoài đường đỏ như máu, thế là tụi Mít thi
nhau khóc....
“Từ thuở tóc
xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm”.
Giá mà có 1 bài như "Người Leo Núi", của Osip Mandelstam thỉ thật là
tuyệt!
Tưởng nhớ nhà thơ Thanh
Tâm
Tuyền
Thứ Hai, 22 tháng 3 2010
Nhân dịp tưởng nhớ nhà thơ
năm nay, chúng ta tìm hỏi ý nghĩa của sự chọn lựa, “Tôi là kẻ sống sót,
nhưng
tôi chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn”, của ông, sau
khi ra
khỏi trại tù.
Liệu đây có nghĩa là, từ chối
viết? (1)
Như rất nhiều tác giả khác,
cũng như ông, thí dụ như một Melville, nhà văn nổi tiếng Mỹ, qua nhân
vật nổi
tiếng của ông, Bartleby, với câu nói nổi tiếng: I would prefer not to:
Tôi chọn
đừng.
Báo Văn
học Pháp, Le Magazine
Littéraire, số đặc biệt về Văn chương và những trại tù [La littérature
et les
camps], trong bài viết mở đầu, Thư gửi độc giả, Lettre aux lecteurs,
dưới nhan
đề Hội chứng Bartleby, Jean-Louis Hue viết:
Nghĩ đến chuyện từ bỏ viết,
Melville tưởng tượng ra nhân vật Bartleby, thách đố câm lặng và hư vô,
đã chọn
lựa một giải pháp là tự nhốt mình trong văn phòng, vắng mặt trước những
kẻ
khác, và trước chính mình. “Tôi chọn lựa đừng” [I would prefer not to,
khi được
dịch sang tiếng Pháp, là, “Je préférais ne pas le faire”, và mới nhất,
“Je
préférais pas”].
Trong số những nhà văn “Tôi
chọn lựa đừng” này, có, kể sơ sơ, Rimbaud, Robert Walser, J.D.
Salinger… và nhà
thơ Celan, sống sót Lò Thiêu, sau tự sát.
Liệu thái độ “Tôi chọn lựa
đừng” này, là cũng của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, sau trại tù cải tạo?
(1)
Après ma libération, sur le
chemin du retour, la première chose que j'ai faite, a été de me replier
et
écrire mes poèmes mémorisés tout au long de ma détention.
Je suis un survivant, mais je
ne veux plus être écrivain, comme je l'ai pourtant souhaité depuis
toujours.
J'ai écrit dans ma mémoire au
camp: «II faut que j'arrive à écrire comme si rien ne s'était passe,
comme si
rien n'était modifié.»
Et maintenant je me dis:
«Quand serai-je capable d'une telle chose?» Pour re-écrire.
THANH TAM TUYEN
La poésie entre la guerre et
le camp
Thơ giữa chiến tranh và trại
tù
Propos recueillis et traduits
par Le Huu Khoa
Khi ra
khỏi trại tù, trên
đường về, điều đầu tiên tôi làm, là cúi gập mình viết ra những bài thơ
lưu giữ
trong trí nhớ suốt thời gian tù đầy.
Tôi là kẻ sống sót, nhưng
tôi
chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn.
Tôi đã từng lưu vào trí nhớ,
khi ở trong trại tù, điều này: "Phải làm sao viết như chẳng có gì xẩy
ra,
chẳng có gì thay đổi."
Và bây giờ tôi tự hỏi:
"Khi nào thì tôi có thể làm được như vậy? Để lại viết?”
Thanh Tâm Tuyền
Thời gian của
điêu tàn làm mạnh thơ ca.
Le temps des
ruines renforce la poésie.
Cõi thơ êm đềm
ngự trị ở bên trên sự bình thản của vũ trụ.
Cet état
poétique paisible règne sur le calme
de l'univers.
Sự lớn
lao của Hemingway không hệ tại nhiều ở điều ông nói mà ông nói điều đó như thế nào. Ông nắm tiếng Anh và viết nó một cách mà trước
đó chưa từng có ai viết. So sánh hai ông, Hemingway, sinh năm 1899 và
Henry James, mất năm 1916, khoảng cách 17 năm giữa họ đó mới ngỡ ngàng,
tương phản làm sao, ở trong văn phong của họ. Với James, sự thực, cái
rất giống, chủ nghĩa hiện thực, hay bất cứ cái từ gì mà bạn muốn gọi,
thì được hoàn thành bằng một thứ tiếng Anh ê hề, đầy ra đó, tha hồ mà
xài. Hemingway, ngược hẳn lại, tước bỏ trong văn phong của ông mọi trò
‘bầy biện cho nó sang, đồ hàng mã, đồ dởm, thùng rỗng kêu to, hoành
tráng, sự lạm dụng tu từ… ‘, và sử dụng những tính từ và trạng từ cho
thơ xuôi của ông, theo cái kiểu mà một tay 'đốc tưa' ghi đơn thuốc cho
một người nghi là bịnh. Hiệu quả là một thứ thơ xuôi cực kiệm từ, với
một nhịp điệu, sự cường tráng, và sự cực giản khiến chúng ta nhớ tới
một bản văn cực kỳ già, cực kỳ cổ xưa: Thánh Kinh.
Từ
những bản văn của Hemingway móc nối tới… Thánh Kinh, đừng nghĩ là tôi
‘cường điệu’.
Hemingway quả là đã thấm nhuần ngôn ngữ và hình ảnh Thánh Kinh, và Ngư
Ông
Và Biển Cả có thể được đọc như là một ám dụ Ky tô, tuy nhiên, tôi
chẳng dám
coi nó là một tác phẩm tôn giáo, hẳn nhiên không phải theo cái kiểu của
cuốn
sách mà tôi vừa mới gửi thủ trưởng hai tuần trước đây, Gilead.
Hemingway
sử dụng những ngày Chúa ghé trọ trần gian theo
cách muôn thuở của riêng ông, để khai triển,
khám phá, thám hiểm ý nghĩa của những khổ đau của con người.
‘Ân
sủng dưới sức ép’ là
chữ của Hemingway, khi bị tra hỏi về sự gan góc, lì lợm của những nhân
vật của
ông. Một cách rất riêng Hemingway để lèm bèm về ‘hoàn tất chiến thắng
qua thất
bại’. Gấu này đã ‘bàng bạc’ nhận ra điều này – và, có thể là do đọc
Hemingway
mà có được – khi phán, Miền Nam có công với lịch sử ‘thông qua sự thất
trận’ của
họ! Tuy nhiên, khi viết như vậy, là Gấu vẫn còn ‘hoang tưởng’ về cuộc
thống nhất
đất nước, cả giống Mít xúm vào xây dựng một cái nhà Mít to đùng, bây
giờ thì ‘ô
hô ai tai’ rồi!
Vinh quang,
chiến thắng thông qua thất bại, nhờ thất bại mà có được, ‘con người có
thể bị
huỷ diệt nhưng không thể bị đánh gục’, cuộc đi câu ‘mang về không
phải con cá mà là bộ xương khổng lồ của nó’, thấm đẫm tinh thần Ky Tô
giáo của
Ông Già Santiago [Gấu Già đó ư?] lạ làm sao, cũng là cuộc phiêu lưu mà
điểm tận
cùng là nhà tù VC của cả một miền đất: Gấu đã chẳng viết về nhà thơ NXT
và tập
thơ nhờ đi tù VC mà có được, về TTT mà những vần thơ ẩn mật của ông,
nhờ té núi
khi vác nứa mà ngộ ra?
Em có biết
anh đọc Le Petit Chose năm nào không? Năm học lớp ba và từ xửa xưa đó
anh đã thấy
nhân vật đó là anh rồi.
Thư gửi đảo
xa.
TTT trải qua
thời thơ ấu ở Sài Gòn. Thành ra không hiểu lớp ba là lớp mấy, so với
thời của
GCC.
Ấy là vì, phải đến năm học Đệ Tam trường Hồng Lạc, khoảng đó, thì Gấu
mới được
học cuốn "Le Petit Chose", cuốn sách tủ của Thầy Roch Cường.
Mỗi ông Thầy của Gấu
thì đều có 1 cuốn sách. Với Thầy Kỳ, dạy Anh văn lớp Đệ Ngũ, Nguyễn
Trãi, thì là
cuốn "She stoops to conquer".
Tuy nhiên, cái nhân vật con nít mà Gấu bị ấn tượng,
thì là "Poil de Carrote", cũng 1 tuổi trẻ
bất hạnh của Jules Renard.
Nhớ
hoài cái xen, thằng bé, được cả nhà o bế, chỉ có mày là nhất, can đảm
nhất, cái
gì cũng nhất, chỉ có mày mới ra khỏi nhà vào lúc đêm tối như thế này,
để đóng cửa
chuồng gà vịt.
Thằng bé bèn xung phong, xung phong.
Khi xong việc, trở về
căn nhà, mái ấm gia đình, thì cả nhà thản nhiên phán, nếu vậy, đêm nào
mày cũng nhớ đóng cửa chuồng
vịt nhe!
Quả đúng là công việc/số
phần của Gấu
thiệt.
Lũ bạn quí của GCC gọi Gấu là “anh hùng rơm”, khi cương quyết không
chịu bỏ… Gấu
Cái!
Mới đây thôi, họp
Tết, nhắc tới Gấu, chúng
vẫn đều lắc đầu, không thằng nào trong số chúng ta làm đuợc cái cú
“đóng cửa
chuồng vịt” đó được!
Hà, hà!
Borges
Conversations
Nhưng chúng ta được biết là chúng ta
không thể có được cú diễn giải trung thực về thời của chúng ta nếu
không có sự
giúp đỡ của Kafka.
Đúng, nhưng K quan trọng hơn thời của
chúng ta. Thật thê lương, K phải sống sót thời kỳ này, và những giản
lược của
nó. Lẽ dĩ nhiên, chúng ta chịu đựng cái thế kỷ này mà chẳng có lấy 1 tí
tự hào,
Với tí hoài nhớ thế kỷ 19, mà nó thì lại có tí hoài nhớ thế kỷ 18. Có
lẽ Oswald
Spengler có lý về cái sự thoái trào mà chúng ta hoài nhớ - hiển nhiên
là chúng
ta có thể nói về cái thời cũ kỹ [trước 1975] của chúng ta, và
chúng ta
có lý, hơn lũ VC, tất nhiên. Bất cứ cái chó gì dính dáng tới trước
1975, thì
đều bảnh tỏng cả!
Có em Carmen Gándara đi 1 đường tiểu luận thú vị về Kafka, tôi mới đọc
gần đây.
Em phán 1 phát cực lạ về Kafka: Xuyên suốt đời mình, Kafka tìm kiếm một
Thượng
Đế “vắng mặt” của thời của chúng ta.
Borges: Tôi bị hỏi hoài về vụ này, mà thực sự không hiểu.
Ý của tôi là, mặc dù mọi chuyện, Kafka có thể là 1 tín hữu, hay có 1
tinh thần
tôn giáo.
Borges: Đúng như thế, nhưng tinh thần tôn giáo thì không cần phải tin
vào một
ông trời cá nhân. Thí dụ tín hữu Phật Giáo đâu có tin vào một ông Phật
có hình
hài giống… chúng ta, đúng không, và chuyện đó đâu cần. Cái ý tưởng tin
vào 1
ông trời cá nhân thì không phải là 1 yếu tố cần thiết trong tinh thần
tôn giáo.
Những kẻ phiếm thần, hay Spinoza – ông này thì thực là bí ẩn và ông
phán, “Deus
sive natura”, Trời hay Thiên nhiên. Hai thứ đó là một đối với ông ta.
Cái ý tưởng “Kafka, phần hồi ức con
người”, của Borges, đúng là cái ý mà cô học trò của TTT, Quỳnh Giao,
viết về
ông, khi ông mất, tức là, khoanh vùng TTT vào biến cố 1954:
Thơ Thanh Tâm Tuyền phải được đặt trong vị trí “di cư” và “chiến tranh”
của một
thành phố mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay
khung
cảnh ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của ông.
Lần tưởng niệm 5 năm ông ra
đi, GCC lập lại ý trên, và đề nghị, đã đến lúc cởi bỏ cái nhận định
đóng cứng
TTT vào thời điểm 1954.
Borges cũng phán y chang,
thế mới thú:
In Kafka's case, I think that he can be
read beyond his historical circumstances. And there are two very
important
ones. Kafka writes a good part of his work during the 1914-18 war. One
of the
worst wars ever. He must have suffered it greatly. Also, he was a Jew
at a time
when anti-Semitism was growing. He lived in Austria, well, Bohemia
which was
then part of Austria. He died in Berlin, I think. All these
circumstances-living
in a besieged city, in a country that was winning but was then
defeated-reverberates in his work. Yet if a reader did not know about
this, he
wouldn't notice it. Kafka transmuted all this.
Suy
diễn từ những ý nghĩ, tư tưởng trên, áp dụng vô cas TTT, chúng ta có
thể rút ra được cái tâm thái của ông, khi hỳ hục, loay hoay với vấn
nạn, làm sao viết như thể không có gì xẩy ra, khi, đứng từ phía độc
giả, thay vì tác giả:
Chúng ta có thể đọc TTT quá những hoàn cảnh lịch sử của ông.
Có hai hoàn cảnh
lịch sử quan trọng: 1954 và 1975.
Với 1954, là Bếp Lửa, và thái độ, ông tự coi mình
là đứa con tư sinh của một miển đất.
Với
1975, là "Thơ ở đâu xa", và Trại Tù mà ông viết được nhờ nó.
Milosz, khi
nhắc tới câu nói khủng khiếp của Adorno, Sau Lò Thiêu mà còn làm thơ
thì thật là
dã man, đã thú nhận, chính là ở Lò Thiêu, khủng hơn, ở "hậu môn" của
thế giới,
mà ông làm được thơ.
"Thơ ở đâu xa" cũng được TTT làm ở Trại Tù. Hơn thế
nữa, chính nhờ nhà tù mà ông làm lại được thơ.
Nhưng khi ra
khỏi nhà tù, ông đụng vấn nạn, làm sao viết, như thể đếch có gì xẩy ra?
Còn 1 sự kiện
lạ nữa, là, khi còn ở xứ Mít, khi còn Miền Nam, ông đã làm được cú
“giao
lưu hòa giải”, khi tưởng tượng ra 1 anh Mít lưu vong, 1 tên Miền Nam,
bỏ chạy
cuộc chiến, vội vàng trở về, để chết, như là 1 tên Ngụy, bị lầm là VC?
Quái đản thật!
TTT 2006-2015
Những đứa trẻ
của Dickens
17.2.1973
Em và anh
thuộc loại máu lạnh ở xứ nóng không hợp thật. Mấy ngày em ở Sài Gòn,
tuy nói với
em là vẫn làm việc nhưng anh chẳng làm gì cả. Làm mấy bài thơ thì có.
Lúc nào
anh cũng ngóng, biết em không đến, nhất là hai bữa cuối trước ngày em
đi. Em đi
lần này không có anh đưa. Giả thử anh có đưa chỉ làm em nặng thêm, máy
bay nặng
thêm. Bữa ấy - chắc là có cô H.A đưa ra đến Phạm Ngũ Lão - có thấy nhẹ
không?
Ngồi trước mặt
em, anh thật chẳng hiểu mình ra sao, mình muốn gì. Bởi anh toàn nói bậy
không.
Lúc nào anh cũng cứ nghĩ chẳng nên làm em buồn, hãy cùng vui lúc bấy
giờ. Nhưng
cái vui anh gây ra cũng tệ. Anh tự hỏi : tại sao đối với em, anh không
làm như
với những người khác, hay bình thường là hai kẻ yêu nhau, như mọi
người. Bữa em
hỏi anh có sợ em không, bây giờ anh thấy có lẽ anh sợ em. "Sợ" như
cái mặc cảm anh biết bắt rễ tự nơi anh ngày nhỏ: không
bao giờ anh có được cái mà tất cả mọi
người đều có. Đứa trẻ bất hạnh mồ côi ra đời quá sớm mà. Nó chỉ nhìn đồ
chơi
bày trong tủ kính, nhìn đồ chơi những đứa khác chơi, nó chẳng có, chẳng
ai nghĩ
đến cho nó. Em có biết anh đọc Le Petit Chose năm nào không? Năm học
lớp ba và
từ xửa xưa đó anh đã thấy nhân vật đó là anh rồi. Những đứa trẻ của
Dickens đều
vậy, lớn lên khá hơn nhưng rốt cuộc vẫn khốn đốn vì yêu người.
Thư gửi đảo
xa
Những nhân vật
của Dickens cũng là những nhân vật của Kim Dung.
Nhưng phải là
Graham Greene, trong bài Gánh Nặng Tuổi Thơ, viết về những đứa trẻ bất
hạnh của
Dickens, mới thần sầu, quá thần sầu.
Giả như phải
tìm một lời giải thích cho sự hiện hữu của một cái xuồng chứa toàn
những cay đắng
ngày nào, thì có lẽ những lời phán của Greene xem ra cũng đặng.
Hai tuổi thơ bất hạnh của Gấu, đực và cái, đã tìm cách nương tựa vào
nhau, đâu
lưng tự vệ, trước nanh vuốt của cuộc đời, "sống sót hai chế độ, trốn
thoát
một cuộc chiến, trốn thoát hai quê hương, một Nam, một Bắc, tìm ra được
quê
hương đích thực cho dòng Gấu, và sau cùng, trốn thoát cả một lô những
ông bạn
quí hoá."
Dickens by Slater
Tuổi
thơ bất hạnh của Dickens
khủng khiếp đến độ ông không dám xì ra, ngay với cả với vợ con. Vào năm
1824, vừa ăn
mừng sinh nhật lần thứ 12 được hai ngày, chú được ông bố bà mẹ, trường
kỳ bất lực
không làm sao nuôi nổi con cái, gửi tới một nhà máy chuyên làm
công
chuyện đánh bóng giầy bốt, một dẫy nhà đầy chuột bọ nhìn xuống sông
Thames, mỗi
ngày cầy 10 tiếng. Cùng thời gian, ông bố bị chủ nợ tống vô tù. Người
ta thường
vẫn nghĩ, thời gian chú trải qua tại nhà máy chỉ chừng vài tuần, nhưng
Slater
người viết cuốn tiểu sử mới nhất của Dickens cho biết, chú ở đó từ 13
tới 14 tháng,
một vĩnh cửu, a eternity, đối với một đứa bé. Trước đó, một đứa bé
thông
minh, sáng sủa, lanh lợi, “cháu ngoan Bác Hồ”, thầy cô ai cũng mến. Từ
đó, [tim tôi bừng nắng hạ], chú
bị bỏ quên bởi tất cả mọi người với số phận của chú, là kéo dài chuỗi
ngày của
mình, như là một “thằng cu thợ”.
Cơn ác mộng nhà máy
đánh giầy chỉ ra không phải thứ giả tưởng nào ông sẽ viết, mà lý do ông
viết. Ông
muốn được yêu mến bởi những độc giả của mình, muốn làm cho họ cười,
khóc, và đi
vô trái tim của họ, ấy là vì, ông cảm thấy, những người nào yêu ông như
là một đứa
trẻ, thì họ sẽ làm bật nó ra, sẽ khu trục nó. Nỗi đau không được yêu
càng buốt
nhói ở thuở mới lớn, bởi một em nhà giầu, bố làm chủ nhà băng, lương
anh cu thợ
với sao tới. Cô gái vờ vĩnh với cậu trai, rồi đá cho một cú, nhưng cậu
trai không
một chút tủi hờn, bởi vì ‘mọi điều gì gọi là yêu đương, đam mê, mong
ước, quyết
tâm… tất cả đều thuộc về anh”, chàng sau đó nói với nàng, “Anh sẽ chẳng
bao giờ
bị tách rời, hoặc [tự mình] tách rời ra khỏi người đàn bà nho nhỏ có
trái tim cứng
rắn, là em”. Ông lấy vợ, “thế là xong” [Nếu biết rằng em đã có
chồng anh đành
lấy vợ, thế là xong], và những lá thư của ông cho thấy, ông không hề
thực sự yêu
vợ.
*
Câu vinh danh
Dickens, tuyệt vời nhất, theo Gấu, là câu này, của phê bình gia tổ sư
Mác Xít:
Nhà phê bình
Mác-xít G. Lukacs cho rằng, trong những phát kiến (inventions) của
Kafka, có
những dấu vết đặc thù, của phê bình xã hội. Viễn ảnh của ông về
một hy
vọng triệt để, thật u tối: đằng
sau bước quân hành của cuộc cách mạng
vô sản,
ông nhìn thấy lợi lộc của nó là thuộc về bạo chúa, hay kẻ mị dân. Cuốn
tiểu
thuyết "Vụ Án" là một huyền thoại quỉ ma, về tệ nạn hành chánh mà
"Căn Nhà U Tối" của Dickens đã tiên đoán. Kafka là người thừa kế nhà
văn người Anh Dickens, không chỉ tài bóp méo các biểu tượng định chế
(bộ máy kỹ
nghệ như là sức mạnh của cái ác, mang tính huỷ diệt), ông còn thừa
hưởng luôn
cơn giận dữ của Dickens, trước cảnh tượng người bóc lột người.
Tuyệt!
Chính Kafka cũng thừa nhận, ông
là đệ tử của Dickens, theo như Kundera viết:
America, m¶t cuÓn
ti‹u thuy‰t kÿ kÿ (curious): Tåi sao Kafka, khi
Çó m§i 29 tu°i, låi "Ç¥t Ç‹" cuÓn ti‹u thuy‰t ÇÀu tiên cûa ông tåi
m¶t Çåi løc ông chÜa tØng Ç¥t chân t§i? M¶t
ch†n l¿a có chû Çích rõ rŒt: Không làm hiŒn th¿c
chû nghïa. Ông cÛng
ch£ng thèm tra cÙu, tìm tòi, Ç‹ che giÃu s¿ "ngu dÓt". Ông bÎa Ç¥t š
nghï cûa ông, vŠ America, tØ nh»ng thÙ phÄm, ba ÇÒ ph° thông. Hình änh America ª trong truyŒn là tØ nh»ng clichés.
HÙng khªi chính cho nhân vÆt và tình ti‰t câu chuyŒn: mÜ®n Ç« Dickens,
nhÃt là
tØ David Copperfield (ông thØa nhÆn
ÇiŠu này, trong nhÆt kš), V§i ông, theo Kundera, nghŒ thuÆt hiŒn Çåi: M¶t s¿ phän kháng, chÓng låi s¿ b¡t chܧc
th¿c tåi. ñây có lë là lš do tåi sao Ƕc giä "chÎu không n°i"
nh»ng tác phÄm cÓ vë låi nh»ng nhà giam, nh»ng ngày tù ÇÀy, cäi tåo.
Kundera
coi Çây là s¿ khác biŒt gi»a "thi ca Kafka", trong Vø Án,
v§i 1984, cûa Orwell, cÛng nói vŠ b¡t b§, tù ÇÀy, và
vÓn ÇÜ®c coi nhÜ
m¶t tác phÄm chÓng c¶ng cûa m¶t bÆc thÀy. 1984
là tÜ tܪng chính trÎ nguœ trang dܧi hình thÙc ti‹u thuy‰t, trong Çó
thi‰u
nh»ng cºa s° mª sang khu vÜ©n Thuš, thi‰u windows.
"Không
ai có th‹ Çi
xa hÖn Kafka, trong Vø Án. Ông tåo m¶t
hình änh "c¿c kÿ thÖ", vŠ m¶t "th‰ gi§i c¿c kÿ không thÖ".
B¢ng th‰ gi§i c¿c kÿ không thÖ, tôi muÓn nói, m¶t th‰ gi§i trong Çó
không có
ch‡ cho t¿ do cá nhân, không có s¿ Ƕc nhÃt vô nhÎ: là m¶t cá nhân. NÖi
con
ngÜ©i chÌ là døng cø cûa nh»ng sÙc månh phi nhân: ThÜ låi, KÏ thuÆt,
LÎch sº.
B¢ng hình änh c¿c kÿ thÖ, tôi muÓn nói, không thay Ç°i y‰u tính, cÛng
nhÜ bŠ
ngoài không thÖ, Kafka Çã "n¡n låi" th‰ gi§i Çó, b¢ng sÙc tܪng tÜ®ng
bao la, ÇÀy thi tính cûa ông."(Kundera, sÇd).
Mùa Thu, những di dân
GNV
không biết TTT có về lại
Đất Bắc lần nào không, khi đã ra hải ngoại. (1) Nhưng có lần ngồi lèm
bèm với Thảo Trường,
hình như
Gấu có than, giá mà về được 1 lần dối già, nữa, nhỉ, ông bèn ‘mắng cho’:
Ông về,
một lần thắp hương cho
ông cụ, ở đúng cái chỗ ông cụ ra đi, bên mé sông Hồng, Việt Trì; một
lần
chụp
hình cái lô cốt, vậy là quả đủ rồi!
Ui
chao, sao mà bạn Gấu hiểu
Gấu, quá cả Gấu hiểu Gấu!
Cái lô
cốt trên đê làng Thanh
Trì quả là khủng khiếp thật.
Cứ như Cột Đồng Mã Viện ấy,
nhỉ!
(1)
Chắc là
không. Ông trở lại Sài
Gòn, lần bà cụ đau nặng, rồi qua, ông em về thay ông anh, rồi qua, sau
đó, ông
mất, trước bà cụ. Bài tưởng niệm
TTT của đấng bạn quí NTV, trừ mấy cái thư riêng mang ra khoe, là
bài trả lời phỏng vấn LHK, và bài này, thì GCC đã cho đăng trên Văn Học
NMG, từ khi ông còn sống.
Nội dung mấy lá thư riêng, cho thấy TTT vưỡn mong viết
lại, khi ông kể trường hợp mấy đấng mũi lõ, đến khi sắp xuống lỗ, vưỡn
có tác phẩm
lớn, hay khi kể về 1 thứ cây gì gì đó, tưởng chết theo mùa đông, nhưng
mùa xuân
bèn sống lại. Hiện tượng này, ở Canada rất là rõ nét. Thiên nhiên chẳng
những
sống lại, mà sống nhanh sống vội sống ào ào.
Tuy nhiên, có hai ý tưởng mà NTV gán
cho TTT, một, khi coi ông là nhà văn lưu vong, cái gì gì “writer in
exile”, và
"tâm thái" thì lúc nào cũng ở nơi quê nhà, làm GCC có tí thắc mắc.
GCC sự thực,
không tin, TTT coi ông là nhà văn lưu vong. Ông đi Mẽo là do tự nguyện,
theo chương
trình của Mẽo dành cho sĩ quan Ngụy. Và ông đi, là nghĩ đến thế hệ
tương lai của
đám con cái của ông, khi ra hải ngoại, gần như ông không viết nữa.
Có vẻ như ông
không làm sao “viết như đếch có chó gì xẩy ra”, và đây mới là tâm thái
của ông, chứ
đếch phải xứ Mít mà ông, có thể, cũng đếch thèm nhớ.
Ông đâu trở về lại đất Bắc,
trừ lần đi tù?
Còn Miền Nam ư? Tất nhiên, nhớ, thì ai mà chẳng nhớ, nhưng nó mất
mẹ mất rồi, và mỗi người tự chọn cho mình 1 cách nhớ, thương nhớ đồng
quê, thương
nhớ.... biển, thí dụ vậy.
Mar 24, 2015
Văn học miền
Nam: Thanh Tâm Tuyền
Thơ ở đâu
xa không
phải
là một tác phẩm văn chương đơn thuần, mà đó là lời bia mộ cho cả một
thời.
Blog NL
Khi
ra khỏi
trại tù, trên đường về, điều đầu tiên tôi làm, là cúi gập mình viết ra
những
bài thơ lưu giữ trong trí nhớ suốt thời gian tù đầy.
Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng
mong muốn.
Tôi đã từng lưu vào trí nhớ, khi ở trong trại tù, điều này: "Phải làm
sao
viết như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi."
Và bây giờ tôi tự hỏi: "Khi nào thì tôi có thể làm được như vậy? Để lại
viết?
Propos
recueillis et traduits par Le Huu Khoa
“Người” phán
như thế, thì làm gì có chuyện "rũ sạch ký ức", như 1 cas bịnh lý, mà
ông bạn quí
này viết, để “phục sinh”, để "lại viết lại"?
Cái chuyện
"không thể viết" lại nữa, của TTT, theo tôi, có gì mắc mớ đến “không
thể viết”, của
Kafka, thí dụ, hay của những người sống sót Lò Thiêu, qua câu phán nổi
tiếng của
Adorno, sau Lò Thiêu mà còn làm thơ thì thật là dã man, và trên thực
tế, thì đúng
như ông nói với thằng em, trong 1 lần điện thoại, trời cho chỉ có thế!
Mấy tên này,
nói là bạn của TTT, nhưng đâu có đọc điệc gì, thành ra làm sao mà hiểu
ra được
những cas như của TTT.
Nhân kỷ niệm ngày ông mất, thì bèn lôi mấy cái thư riêng
ra khoe, thế thôi.
Tay bác sĩ này,
ngay khi Gấu mới ra hải ngoại, gửi cho bài phỏng vấn TTT, nhờ đó, Gấu
dịch và
cho đăng trên Văn Học. Sau qua Tẩy chơi, ở nhà Kiệt Tấn, anh đưa bản
in, cả cuốn
sách, và Gấu làm 1 bản copy. Đi lai rai trên TV, những bài về Võ Phiến,
về Trịnh
Công Sơn. LHK có cái sự rất nhanh lẹ, khi nhận xét về 1 tác giả. Thí
dụ, về
TCS, ông chỉ lôi 1 câu là đủ hết về cuộc đời của xừ lủy: Chim thiêng
hót lời mệnh
bạc.
Đâu có như mấy
tay cà chớn này.
La
poésie entre la guerre et le camp
Thanh Tâm Tuyền
Thơ giữa chiến tranh và trại tù.
Nhà thơ chủ yếu của văn học Việt Nam hiện
đại, Thanh Tâm Tuyền đã hai lần đóng góp, và đóng góp nào cũng mang
tính uyên
nguyên, cho cuộc sống văn học sau 1945.
Về thơ, ông cắt đứt truyền thống cổ điển về nhạc tính trong thơ, và
trong mảnh
đất mới mẻ này, ông là người đại diện của nó: người sáng lập ra trường
phái thơ
tự do. Hai tập thơ đầu 'Tôi Không Còn Cô Độc' và 'Liên Đêm Mặt Trời Tìm
Thấy'
khai sinh ra một thế hệ "làm thơ", "không làm những câu
thơ".
Về văn xuôi, truyện kể đầu tay, Bếp Lửa,
cũng đánh dấu sự không thể trở lại với cách kể chuyện cũ nữa.
Tính ngắn gọn của thông điệp làm tăng nhịp văn và làm chủ cảm quan thẩm
mỹ.
Được nhìn nhận, nhưng không được nghiên
cứu sâu, bởi giới phê bình trong thời kỳ chiến tranh 1954-1975, tuy
nhiên, vào
lúc này, ông quả là một tác giả đáng gờm của giới phê bình văn học Việt
Nam, bởi
tính đa dạng trong đường hướng sáng tạo, và bởi lý thuyết văn học mang
tính tổng
hợp. Tất cả điều này sở dĩ có được, là nhờ dựa trên một phát kiến mới
mẻ của
ông về nhạc tính của thơ.
Thanh Tâm Tuyền thuộc trong số những
nhà văn sớm cảm nhận sự huỷ hoại của đất nước Việt Nam chiến tranh
triền miên
nhưng ông cũng là một trong số những người hiểu thế nào là sống trong
một chế độ
toàn trị kìm kẹp như chế độ hiện thời, trải qua tù đầy, trại cải tạo,
trong nhiều
năm ròng rã, dưới sự áp bức của chế độ mới, từ năm 1975 tới 1990. Ông
kể lại
sau đây, kinh nghiệm viết của ông, dưới áp bức, kìm kẹp.
LHK
Ông nói với thằng em, trước khi đi cải
tạo: Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này.
TTT hình như
cũng không có bạn.
Nghe qua bà cụ, thì người thân nhất với ông trong nhóm Sáng
Tạo, là Ngọc Dũng.
Mai Thảo, đi thoát được, thấy bạn bị VC cho đi tù, thế là bèn
coi như chết rồi, phịa ra 1 cái kỷ niệm đã từng quen, khi gặp ở tòa
soạn báo Dân
Chủ, và lầm “bạn mình” với 1 tên thợ sắp chữ, và tên này còn hỗn đến
mức dám hỏi
xin ông, một điếu thuốc lá!
Nhà thơ nhớn sống sót Lò Cải Tạo, bệ những dòng viết
cho đảo xa về blog văn học ngồi bên ly cà phê nhớ bạn hiền của mình,
cùng với 1 tiếng
“xì”, tưởng đạo mạo, hoá ra cũng có tình nhỏ, bồ nhí!
Giờ đến đấng NTV này, một
cas bịnh lý!
Cứt cả 1 lũ!
Đâu phải TTT
không biết về lũ này. Khi ông sắp sửa đi xa, thấy gia đình có ý thông
báo thông
biếc này nọ, ông bèn gạt phắt, khi sống ta đã chẳng làm ai vui, cớ gì
khi chết,
ta “bắt” chúng buồn!
Một bài tưởng
niệm như thế, mà post hết trên chỗ này tới chỗ khác, còn đem về trong
nước, cho
đăng trên Văn Vịt nữa chớ!
Gấu cũng chẳng
có bạn. Tên NTV này GCC cũng đã từng quen, từ hồi còn sinh viên. Và
cũng như những
tên bạn quí khác, thì đều coi Gấu như chết rồi.
Hồi mới ra hải ngoại, Gấu có lần
gọi điện thoại, gặp bà vợ, nghe đến tên GCC, bèn cúp điện thoại. Gấu
ngay tình,
tưởng trục trặc đường dây, bèn gọi lại, chuông reo, đếch có ai bắt điện
thoại.
GCC có kể vụ này cho NTV nghe, khi anh còn ở hải ngoại, và có lần, nhân
chuyện
gì đó, anh điện thoại, và nhắc đến vụ này, hắn nói, đây là do bà vợ của
hắn, thấy
hắn bận toàn những chuyện lớn lao, đại sự, nên không muốn ai làm phiền,
để Nguời
lo việc lớn!
Cái gì gì Kỉu
Long cạn dòng....
Cuốn này,
đem dự thi giải y sĩ gì đó, bị vứt thùng rác!
Mà cũng nên
vứt thùng rác.
Thua 1 bài
báo, trên tờ NYRB, GCC từng đọc. Tác giả bài viết rành rẽ hơn NTV rất
nhiều,
khi viết về những con đập của TQ, và cái dã tâm của tụi Tẫu, với cả 1
vùng Đông Nam Á.
Tên y sĩ này, do mê danh
hão, ngay
từ hồi còn là sinh viên y khoa, viết bất cứ cái gì, thì đều không ra
hồn, vì
không có thực tài. Một câu văn viết không nên thân, do không thực tình
mê nó.
Đây là 1 sự thực, ở rất nhiều tên nhà văn, nhà thơ Mít, mê danh, không
mê văn
chương.
Lần qua
Cali, ở nhà NDT, tên này có ghé, để thăm KT, khi tên này bị vợ đuổi
khỏi nhà, thấy
có Gấu ở đó, bèn hỏi, anh đã gặp mấy đấng bạn cũ… chưa, GCC bực quá, xổ
nho, gặp
làm đéo gì!
Thì vẫn bộp
chộp, bad Gấu, as toujours, always, như độc giả TV mắng mỏ, tội nghiệp!
Tội nghiệp
thực!
Đến ông Trời
mà còn tội nghiệp GCC.
Ông ban cho 1 thằng bạn. Một thằng là đủ rồi, ông biểu
GCC.
Joseph Huỳnh
Văn!
Hà, hà!
Tưởng Niệm TTT
2006-2015
9 năm sau khi ông mất
TTT 2006-2015
Đặng Tiến
phán, TTT không có truyền nhân, về thơ. Gấu đã từng chú giải nhận xét
của ông, ấy
là do tính trí tuệ của thơ TTT.
Và dẫn trường
hợp Milosz, qua bài viết tưởng niệm ông, của Adam Zagajewski, Trí tuệ
và những
bông hồng.
Bài viết
này, GCC đọc, khi mới xuất hiện trên báo, sau được in trong A Defence
of Ardor.
Bữa nay,
cách nhớ ông anh nhà thơ tốt nhất, với riêng GCC, là đi thêm 1 bài nữa,
trong tập
này. Hoặc “Thơ và Hồ Nghi, Poetry and Doubt”, hay “Chống Thơ, Against
Poetry”.
Hai bài tương đối ngắn. Bài “Nietzsche ở Krakow” thật là tuyệt, nhưng
khá dài!
Có thể nói,
bài nào trong tập này thì đều quá cần thiết cho xứ Mít. Chúng ta không
được ai
dậy cho những kinh nghiệm thơ, và đều làm thơ theo kiểu tự phát, hay
nói theo
kiểu của ông anh của GCC, nhà văn nhà thơ Mít cứ viết xong thời thanh
xuân là
ngỏm.
Về già, Gấu
còn nhận ra ở những bậc đàn anh có tí tên tuổi, thường bịp, hơn là biết
tới nơi
tới chốn. “A Defence” của Adam Zagajewski còn là những kinh nghiệm đọc
của ông,
thời của ông, thầy của ông, bạn của ông. Chúng ta đâu có những kinh
nghiệm như
thế.
Thí dụ, qua
bài viết Nietzsche ở Krakow, ông cho biết kinh nghiệm của ông khi đọc
Nietzsche, và đọc, là chúng ta nhận ra liền, cái hiểu biết của PCT về
“Nietzsche
ở Xề Gòn”, chỉ là bịp, theo nghĩa, hiểu biết quá nông cạn về Nietzsche!
A
Defense of Ardor
Tưởng Niệm
Czeslaw Milosz
[1911-2004]
Trí Tuệ và Những Bông Hồng
Adam Zagajewski
Note: Truyện ngắn
Mắt Bão, trong truyện ngắn Cõi Khác, của GCC, đăng trên Văn Học, NMG số
126, 1996. Khúc này, viết thêm, khi ra hải ngoại, gặp lại Cô Bạn. Khúc
trước, đã đăng trên Văn, trước 1975.
Kiếp Khác
Flamme seule,
je suis seul
Bruler seule, rêver seul
Grand symbole, double symbole
incompris
Le premier pour la femme,
toute brulante, doit rester
seule, sans rien dire;
Le second pour l'homme taciturne
qui n'a qu'une solitude à offrir.
[GCC tạm dịch:
Ngọn lửa cô
đơn, tớ cô đơn
Cháy mình ên, mơ mình ên
Biểu tượng nhớn, biểu tượng kép không
hiểu thấu
Biểu tượng đầu là cho người đàn bà,
Toàn thân bốc cháy, phải một mình,
không nói năng;
Biểu
tượng thứ nhìn dành cho người đàn ông lầm lì,
chỉ có nỗi cô đơn dâng hiến
"đảo xa" hình như rành tiếng Tẩy, thành ra TTT để nguyên]
Trong một đêm
anh đọc đoạn trên
trong một quyển sách mỏng của Bachelard, chép lại cho em đọc đỡ buồn.
Câu đầu
là thơ của Tzara. Đoạn sau quãng [“quảng” NQT] diễn của Bachelard -
philosophe
già, tóc trắng xóa, tâm trí thơ mộng vô cùng. Anh có ý lấy đoạn này để
cho Mắt
Bão. Em thích không ?
Mắt
Bão
Sài gòn,
8.3.1973
Thư trước báo
cho em biết đi dậy
học từ ngày 15.2, thư này báo đã bỏ dậy học 28.2. Bất định quá. Vào lớp
chán
quá, mặc dầu được học trò thương. Chắc anh khó có thể trở lại nghề cũ.
Xem bộ
anh thấy mình khá hơn xưa : chẳng còn cần đến những ánh mắt, nụ cười
ngưỡng mộ
tôn kính nữa. Khỏi khoác một bộ vó chẳng ra gì. Chẳng hiểu đúng không?
Hết là
thứ "ông giáo làng" phải không em?
Còn gì nữa ?
Anh nghĩ đến Mắt
Bão. Hồi đầu anh tưởng tượng người đàn ông chết, người đàn bà mất
tích. Hôm
qua anh tưởng tượng câu chuyện sẽ được kể lại sau khi người đàn ông
chết bằng
chính người đàn ông. Trước mặt mọi người, người đàn ông chết hẳn
hòi, có
đám táng linh đình, đông đủ bà con thân hữu. Nhưng đó là trò lừa của
hai người.
Sau khi người đàn ông đã chết, do người đàn bà giết, hai người trở lại
ngôi nhà
cũ bên hồ trong những ngày cuối cùng của cuộc đời nhìn lại quãng đã
qua. Chương
mở đầu gọi là Hẹn nhau sau khi chết. Anh còn đang phân vân nên
để cho
người đàn bà đến nơi hẹn chăng. Hay từ đầu chí cuối quyển tiểu thuyết
là sự chờ
đợi. Bởi khu nhà của người đàn bà ở trong cái khu như cù lao phía bên
kia hồ.
Hồi anh viết
Cát Lầy, anh
đã có ý ấy nhưng sau bỏ vì nghĩ nó tàn nhẫn, trêu cợt người ta quá.
Trong Cát
Lầy, Người đàn bà tên Thuận tự tử nằm bên trong ngôi nhà khóa trái
cửa một
đêm giông mà Trí kêu gào bên ngoài trước khi ra bến xe đi với Diệp sáng
hôm
sau, thực sự không chết. Anh định kết Cát Lầy bằng đoạn Trí
tìm thấy
Hiệp và Thuận ở nơi khác, lại đến thăm ngồi với hai người này một buổi
tối,
xong mới đi hẹn với Diệp, nhưng rồi sau anh bỏ ý ấy, "kỳ" quá phải
không em ? Vì Trí còn trẻ, Diệp còn trẻ
Trích
Thư viết cho đảo xa
Văn Học,
NMG
số 121, 1996
Nhưng
tôn vinh cho Thơ cũng là tôn vinh qua các thi sĩ - kẻ làm thơ, suốt đời
chỉ làm
thơ, không biết và cũng không thể làm gì khác. Giữa chúng ta có một vài
người,
như Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng.
Làm
thơ. Làm thơ hành động tối thậm phi lý, mở mọi ngõ ngách phi lý, đẩy
đưa đời
người vào cõi phi lý. Ngõ ngách phi lý ấy là chính chúng ta, cõi phi lý
ấy
chính là đời chúng ta. Như đêm nay không giống mọi đêm đã qua và sẽ
chẳng bao
giờ giống một đêm nào ở mai kia. Làm thơ như rong chơi, quên lãng, hay
làm thơ
như tận tụy với một mối duyên tình hay làm thơ như đốn ngộ hốt hoảng
thì vẫn là
cái “không thể làm” được ở đời người, ở kiếp sống. Tri kỷ khả nhi vi
chi, biết
không làm được mà lại cứ làm. Tại sao? Tại sao vậy?
Trầm
trọng phải không? Tự nhiên cái sự thể nó như thế. Trầm trọng cũng là tự
nhiên của
thơ và của việc làm thơ.
Thi
sĩ đêm nay của chúng ta Vũ Hoàng Chương - làm thơ suốt một đời. Một đời
để ra
làm thơ. Thơ Vũ Hoàng Chương đi từ “Đêm Hoa Đăng đèn xanh bóng trăng”
từ “Phách
ngọt đàn say đêm khói êm” từ “Áo vải mộng phong hầu” đến “Ngồi quán”
đến Isabel
Baes đến nhị thập bát tú và không gian “bốn bề vẫn chỉ một phương,” đến
Ngày lớn.
Chúng ta không thể nào hiểu Vũ Hoàng Chương còn đi đến đâu - hỏi thực
cũng như
chúng ta đây chúng ta trong giây phút này có biết chúng ta đi đến đâu -
nhưng
hiện thời chúng ta cũng đang biết - biết gì? - biết Vũ Hoàng Chương
đang ăn nằm
với Thơ như đang ăn nằm với cái chết. Chết cũng là một cách nói thôi.
Như Trang
[chắc là thiếu chữ Chu, Trang Chu, mơ hoá bướm? NQT] nói chết là tỉnh
giấc chiêm bao. Và có “tỉnh lớn” thì mới biết được
“chiêm bao
lớn.” Ta có một đời để sống, để chết hay có vô vàn đời? Ai biết? Mà nói
chi những
điều ấy. Nhưng người làm thơ cứ nói. Nói miết. Thay nhau nói. Tranh
nhau nói. Để
làm gì?
Thôi
nói chi những chuyện ấy. Thơ là lời và hơn lời. Đã đến lúc chúng ta cần
nghe
thơ. Thơ đọc trong đêm nay dành cho Vũ Hoàng Chương.
TTT
Thơ
là lời và hơn lời
Tuyệt!
********
Goethe, who
is not one of my heroes, thought that all poetry is occasional poetry (Gelegenheitsdichtung). I have forgotten
the context, but I suppose his statement is open to at least two
interpretations:
he may have been apologizing for the all-too-plentiful verses he
contributed to
albums, or he may have implied that true poetry springs from what a
particular
man feels at a particular time. In my case, I can fairly claim that
every piece
in this book had its origin in a particular mood, in a necessity of its
own,
and was not meant to illustrate a theory or to fill out a volume. I
have never
thought of my poems, in fact, in terms of publication.
Borges: Introduction [Selected
Poems, edited by Norman Thomas di Giovanni]
Goethe,
không phải là 1 trong những người hùng của tôi, phán, mọi thơ ca thì
đều mang
tính ngẫu hứng, tôi không nhớ trọn câu, nhưng tôi nghĩ, câu phán của
ông mở
ra hai dẫn giải, có thể ông tính "xin lỗi" cho những câu thơ quá lèm
bèm,
quá dông dài của mình, và cũng có thể, ông nghĩ, thơ thì thường
phọt ra,
khi ngồi bên ly cà phê, nhớ bạn hiền, hoặc nhớ bướm, nghĩa là, từ một
hoàn cảnh đặc biệt của 1
con người, trong 1 hoàn cảnh đặc biệt nào đó, của hắn ta.
Thảo nào thơ
Mít chỉ thịnh về hai hoàn cảnh đặc biệt nêu trên.
Tuy nhiên,
áp dụng vào thơ TTT, thì lại bật ra cái hoàn cảnh đặc biệt của ông, và
thơ
của ông,
như Quỳnh Giao nhận ra:
Phải đóng đinh thập tự thơ
TTT, và con
người của
ông, vào thời điểm 1954!
Norman di
Giovanni là 1 dịch giả thơ Borges, những bài thơ Borges cùng tham
gia vào
việc dịch thuật. Ông còn là tác giả 1 cuốn sách về Borges, và cuộc tình
với bà
vợ già, một goá phụ, tái giá với ông, gây sóng gió trên chốn giang hồ,
có thể
nói như vậy. Trên TLS số Sept 12, 2014, có bài điểm, "Fur Poets",
Normal Thomas di Giovanni, "Georgie & Elsa, Jorges Luis and his
wife: The
untold story". Trong những untold này, có chi tiết, bà góa phụ tái giá
với
Borges khi quá ngũ tuần, vưỡn thèm sex, và Borges, thì bất lực, súng
hư, hết
còn sử dụng được.
Thú vị, tìm
số báo, kiếm tấm hình, thì lại lòi ra bài thơ, tặng & tưởng niệm
TTT, thì thật tuyệt.
Thinking of
Jonah
If I could
say it took the metaphor
Out of my
sails, I might make headway.
The scales
fall from the waves.
The lucky
man lives
To tell his
tale
Thinking of
Jonah in the whale.
That much I
can pin down, as an oar
Rotates on
its thole-pin between water and air.
I hear the
creak and rattle of it, the knock
And racket
of putting my back into it.
My mind to
it. I cannot hear the high Atlantic
Being under
it, being above it.
I know one
day it will swallow me whole
And I'll
swim in the belly of the whale.
And the
helter-skeltering stars
Will count
the years on the tips of their fingers.
ANDREW
McNEILLIE
Bạn có thể tưởng tượng
TTT, một Jonah, nhân vật Thánh Kinh, bị cá nuốt vô bụng, và bèn sống ở
trong đó...
Hãy nghĩ tới Jonah, trong
bụng con cá voi....
TTT hẳn là đã từng nghĩ về
mình, như thế, khi nhớ đến đứa con trai bị mất tích khi vượt biển
vượt biên
Cúi trông cố
lý mây vô xứ
Ngầu trắng u
mông táp mạn thuyền
Ngút ngọn
triều dâng vách sụt lở
Bọt xóa
thiên thanh dấp sóng quên
Chương Hai
Không giải
văn học con mẹ gì cho Kafka
No Literary
Prize for Kafka
Mọi hy sinh
thì nên dành cho nghệ thuật - để riêng ra 1 bên, apart, cái phần hy
sinh của chính nó, nghệ thuật.
Any
sacrifice should be made for art - apart from the sacrifice of art
itself.
Chương Bảy
Kẻ Luyện Đan
The Alchemist
I bent my
head over my sheet of paper and looked at the shadow of my pen
S.J. Agnon, The letter
Tớ cúi đầu xuống trang viết và nhìn cái bóng của cây
viết
Kafka, the
Years of Insight
Mi làm phiền
ta quá. Kiếp trước, mi đúng là con đỉa. Ta bận chồng, bận con, bận công
việc nhà
thờ, bận “viết” nữa, đâu có thì giờ thí cho mi....
[mail của 1
nữ thi sĩ]
Mi làm phiền
ta quá. Kafka cũng bị 1 đấng độc giả - có thiệt, trong như cuốn tiểu sử
Gấu mới mua,
về ông, Kafka, The Years of Insight:
Kafka: Years
of insight
“Kafka:
Những năm đốn ngộ” là tập nhì,
của cuốn tiểu sử hách xì xằng, masterful, về Kafka của Reiner Stach.
Tập đầu là
về những năm từ 1910 tới 1915, khi Kafka còn trẻ, viết như khùng, như
điên,
writing furiously, vào ban đêm, into the night, trong khi cày 50
giờ/tuần. Tập
nhì ghi lại thời kỳ danh vọng trồi lên, cho tới khi ông mất, ở một viện
an
dưỡng ở Áo vào tuổi bốn mươi, sau những năm tháng đau khổ vì bịnh lao
phổi.
(Tập thứ ba, ghi lại những năm đầu đời, đang tiến hành).
Trong những năm sau cùng, từ 1916 tới 1924, Kafka nhận được thư, từ
giám đốc,
quản lý nhà băng, chọc quê ông, khi yêu cầu giải thích những truyện
ngắn do ông
viết ra (“Thưa Ngài, Ngài làm tôi đếch làm sao vui được. Tôi mua cuốn
“Hóa
Thân” của Ngài làm quà tặng cho 1 người bà con, nhưng người đó đếch
biết làm
sao xoay sở, hay là làm gì, với cuốn truyện”).
TTT thì
cũng rứa!
Khi mới
xuất
hiện, ông bị đập tơi bời hoa lá cành, thơ hũ nút,
thơ tự mình vái mình.
GCC nhớ là, cái tay
Duy Lam, trong 1 bài viết cho số Xuân, của tờ báo của Nhất Linh thì
phải, tả cảnh
thăm viếng tòa soạn các báo, tới Sáng Tạo, thấy mỗi ông một cái bàn
thờ, đang lạy
lục chính mình!
Steiner viết,
Kafka sống cái kinh nghiệm tội tổ tông, Kafka vécut l’expérience du
péché originel…
Chỉ 1 dúm người kinh nghiệm trong cuộc đời họ, niềm tin và những hậu
quả, của tình
trạng, bị phế thải, bị hoang hóa, đếch làm sao… thành công! [Seule une
petite
poignée d’être humains ont expérimenté dans leur vie la conviction et
les conséquences
de l’état d’être déchus]
Thì cũng
như…. GCC, sống kinh nghiệm Cái Ác
Bắc Kít! Đây
là Tội Tổ Tông của nòi giống Mít, theo GCC!
Bộ này khủng lắm, thật sự là vậy
Flamme seule,
je suis seul
Bruler seule, rêver seul
Grand symbole, double symbole
incompris
Le premier pour la femme,
toute brulante, doit rester
seule, sans rien dire;
Le second pour l'homme taciturne
qui n'a qu'une solitude à offrir.
Trong một đêm
anh đọc đoạn trên
trong một quyển sách mỏng của Bachelard, chép lại cho em đọc đỡ buồn.
Câu đầu
là thơ của Tzara. Đoạn sau quãng [“quảng” NQT] diễn của Bachelard -
philosophe
già, tóc trắng xóa, tâm trí thơ mộng vô cùng. Anh có ý lấy đoạn này để
cho Mắt
Bão. Em thích không ?
Mắt
Bão
Sài gòn,
8.3.1973
Thư trước báo
cho em biết đi dậy
học từ ngày 15.2, thư này báo đã bỏ dậy học 28.2. Bất định quá. Vào lớp
chán
quá, mặc dầu được học trò thương. Chắc anh khó có thể trở lại nghề cũ.
Xem bộ
anh thấy mình khá hơn xưa : chẳng còn cần đến những ánh mắt, nụ cười
ngưỡng mộ
tôn kính nữa. Khỏi khoác một bộ vó chẳng ra gì. Chẳng hiểu đúng không?
Hết là
thứ "ông giáo làng" phải không em?
Còn gì nữa ?
Anh nghĩ đến Mắt
Bão. Hồi đầu anh tưởng tượng người đàn ông chết, người đàn bà mất
tích. Hôm
qua anh tưởng tượng câu chuyện sẽ được kể lại sau khi người đàn ông
chết bằng
chính người đàn ông. Trước mặt mọi người, người đàn ông chết hẳn
hòi, có
đám táng linh đình, đông đủ bà con thân hữu. Nhưng đó là trò lừa của
hai người.
Sau khi người đàn ông đã chết, do người đàn bà giết, hai người trở lại
ngôi nhà
cũ bên hồ trong những ngày cuối cùng của cuộc đời nhìn lại quãng đã
qua. Chương
mở đầu gọi là Hẹn nhau sau khi chết. Anh còn đang phân vân nên
để cho
người đàn bà đến nơi hẹn chăng. Hay từ đầu chí cuối quyển tiểu thuyết
là sự chờ
đợi. Bởi khu nhà của người đàn bà ở trong cái khu như cù lao phía bên
kia hồ.
Hồi anh viết
Cát Lầy, anh
đã có ý ấy nhưng sau bỏ vì nghĩ nó tàn nhẫn, trêu cợt người ta quá.
Trong Cát
Lầy, Người đàn bà tên Thuận tự tử nằm bên trong ngôi nhà khóa trái
cửa một
đêm giông mà Trí kêu gào bên ngoài trước khi ra bến xe đi với Diệp sáng
hôm
sau, thực sự không chết. Anh định kết Cát Lầy bằng đoạn Trí
tìm thấy
Hiệp và Thuận ở nơi khác, lại đến thăm ngồi với hai người này một buổi
tối,
xong mới đi hẹn với Diệp, nhưng rồi sau anh bỏ ý ấy, "kỳ" quá phải
không em ? Vì Trí còn trẻ, Diệp còn trẻ
Trích Thư viết cho đảo xa
Note:
Trên số báo Văn Học, NMG, số 126 (?), 1996, bạn đọc Tin Văn có thể đọc,
qua ấn bản pdf, truyện ngắn của GCC, gồm hai phần, phần thứ nhì có cái
tít “Mắt Bão 1969”.
Cái
tít này, Gấu, trong 1 lần ngồi với ông anh ở Quán Chùa, có nói với ông.
Như
vậy, có thể là thấy thằng em lậm Cô Ba nặng quá, viết lách gì nữa, ông
bèn viết 1 Mắt Bão của ông.
Mắt
Bão của Gấu, lấy ý từ cái cảnh Gấu 1 mình ngồi trên Đỉnh Cồn, là Đài
Liên Lạc VTD/ thoại quốc tế, trên lầu chót, building số 5 Phan Đình
Phùng,
gửi hình ảnh
cuộc chiến Mít đi khắp thế giới, khi làm chuyên viên VTD, Radiophoto
operator cho UPI.
Hình
ảnh này, sau, Gấu gặp ở Wat, khi
ông coi
nhà thơ, như con thuyền, ở trung tâm con bão chính trị, là thời của
mình:
"Chính trị",
ông than thở, "là số mệnh của chúng ta. Trong cơn bão tố chính trị,
chúng
ta trú ẩn ở mắt bão, trên chiếc thuyền mỏng manh là thi ca...".
A. Wat:
"Thế kỷ của tôi: Cuộc phiêu lưu của một trí thức Ba-lan".
Người đẻ ra
ý nghĩ, ghi âm hồi tưởng của một thi sĩ Ba-lan, bệnh hoạn và quá đau
đớn không
thể viết, cư dân Berkeley từ năm 1964, là Gregory Grossman, thuộc Trung
tâm
nghiên cứu Slavic và Đông Âu, tại Berkeley. Ông giao trách nhiệm cho
Czeslaw
Milosz, (thi sĩ, Nobel văn chương). Wat nhận ra ở Milosz, một người
nghe lý tưởng,
và có cảm tưởng, những lần họ ngồi chung, Milosz đang làm một nghi lễ
trừ tà ở
nơi ông.
"Thế kỷ
của tôi" - Milozs gọi là những "buổi gọi hồn", trong đó, ông
vinh dự được phục vụ như là một "phương tiện" - không chỉ là một công
trình lớn lao của riêng người nghe, cũng không hẳn là di chúc của người
kể.
Cùng từ một nền, Milosz hiểu ngay lập tức, điều nhà thơ đang nói, và
những gì bạn
mình cảm thấy khó khăn, để nói ra. "Tôi nhận ra liền, một điều chi độc
nhất
vô nhị, đang diễn ra giữa chúng tôi. Không hẳn chỉ là vấn đề, tôi, một
cá nhân
riêng lẻ, khác, trên mặt đất, một kẻ cũng đã từng kinh qua thế kỷ và có
cùng ý
nghĩ về nó, như Wat. Ở đây, chẳng có chi mắc mớ đến sự độc ác tàn nhẫn,
của số
mệnh, hay của lịch sử. Hàng triệu triệu con người đã đau thương, cay
đắng vì
nó, còn hơn Wat. Không, vấn đề ở đây là "một tính khí", (a cast of
mind), một văn hóa... đặc biệt văn hóa của tầng lớp trí thức Ba-lan.
Những bài thơ
gởi đảo xa & trăng màu hồng
Sáng nay, trong email Cường lại gởi cho
những tài liệu về Thanh Tâm Tuyền (TTT) trong đó chứa những điều mình
chưa từng
biết, những điều lần đầu tiên được công bố. Về một mối tình và
những bài
thơ cho đảo xa.
GCC thắc mắc: Ai cho phép mà lần đầu
tiên được công bố?
Thư riêng, mail riêng, làm sao dám đăng lên, rồi tự cho phép lần đầu
tiên được
công bố?
NQT
TV đã từng viết về những kỷ niệm thật
riêng tư về TTT, tính, qua đó, lần ra những liên hệ với những bài thơ,
bài
viết, truyện ngắn, truyện dài của ông, nhưng sau đó, nhận được mail của
bạn C
ra lệnh ngưng.
*
Một bạn văn vừa cho biết nguồn của
những bài thơ của TTT.
Tks. NQT
Thư Tín
From:
Sent: Tuesday, February 14, 2012 5:43 PM
Subject:
tinvan.net
<
GCC thắc mắc: Ai cho phép
mà lần đầu tiên được công bố?
Thư riêng, mail riêng,
làm sao dám đăng lên, rồi tự cho phép lần đầu tiên được
công bố?
>
Ong GCC nay
qua la bop chop (as always)
Trong cai link chinh inh
o post cua ong GCC : "Giờ đây, sau khi nha tho
nằm xuống sáu năm, tất cả được công bố. Mà do người tình trăng hồng hạ
kia." (http://phovanblog.blogspot.com/)
Thi "nguoi tinh hong ha"
cong bo "thu rieng" . The
ong GCC phan doi a ? Ai noi ong "thu rieng khong dam (sic) dang
len" ? Nha tho...cung la mot "public figure" trong pham
tru VN . Dang len cung ...OK lam chu nhi !
Ong la ai cua nha tho
...qua't la'o the ?
Ong bat duoc "nguon" roi
, co phan ung gi chang nhi ?
Phuc Đap:
Ban hieu lam roi
....
Phu nhan của nha tho la nguoi khong
lien quan den “giang ho, gio tanh mua mau” (1)
NXT la ban cua TTT
Anh phai biet chuyen do
O dau post cung duoc
Nhung Pho Van dung nen post
Regards
NQT
xin loi ong GCC .
Bay gio la "mode" tung ...thu* rieng len mang, nguoi doc
"net" binh thuong nhu toi cung nga'n , nhu kieu Dao Anh-TCS ...bay
gio "Cu*?a Kho'a Trai' " - "Trang Hong" - va Nha Tho Tu Do
vi dai cua Mien Nam !
Do la thu* / tho* trong tinh tha^`n van nghe , mot kieu lang mang ngoai
doi
song ...gia dinh (von khong lang mang cua TTT).
Toi dong y ve post cua ong ve
NXT .
Tran trong va xin loi lam phien
Bye
Take Care
NQT
(1)
Đọc những dòng tưởng niệm TTT của mấy đấng bạn quí của ông, thì thấy
nhảm cả.
Thành ra Gấu lại phải viết về ông anh vậy.
Trong 1 lần điện thoại, Gấu hỏi ông, anh còn viết chứ, ông nói, Ông
Trời cho chỉ có thế.
Và có lẽ thế thật.
Như vậy, thằng em đành viết, 1 thứ Mắt Bão cho cả hai anh em, gợi ý từ
Wat, như 1 nghi lễ trừ tà của xứ Mít!
Hà, hà!
|
|