|
BOOK 2:
ANIMAL FARM
BY GEORGE ORWELL
April
30, 2007
To
Stephen Harper,
Prime Minister of Canada,
From a Canadian writer,
With best wishes,
Yann Martel
P.S. Happy birthday
Dear
Mr. Harper,
Now
that your Flames have
been knocked out of the playoffs I guess you'll have more free time on
your
hands.
I fear that some may
criticize me for the second book I am sending you, Animal Farm, by
George
Orwell. It's so well known, and it's another book by a dead white male.
But
there is time yet to be representative of all those who have harnessed
the word
to express themselves-believe me, they are varied and legion-unless you
lose
the next election, which would likely give you even more time to read,
but not,
alas, according to my suggestions.
Many of us read Animal Farm
when we were young perhaps you did too-and we loved it because of the
animals
and the wit. But it's in our more mature years that its import can
better be
understood.
Animal Farm has some commonalities
with The Death of Ivan Ilych: both are short, both show the
reality-changing
power of great literature, and both deal with folly and illusion. But
whereas
Ivan Ilych deals with individual folly, the failure of one individual
to lead
an authentic life, Animal Farm is about collective folly. It is a
political
book, which won't be lost on someone in your line of business. It deals
with
one of the few matters on which we can all agree: the evil of tyranny.
Of
course a book cannot be reduced to its theme. It's in the reading that
a book
is great, not in what it seeks to discuss.
But I also have a personal
reason for why I've chosen Animal Farm: I aspire to write a similar
kind of
book.
Animal Farm first. You will
notice right away the novel's limpid and unaffected style, Orwell's
hallmark.
You get the impression the words just fell onto the page, as if it were
the
easiest, the most natural thing in the world to write such sentences
and paragraphs
and pages. It's not. To think clearly and to express oneself clearly
are both
hard work. But I'm sure you know that from working on speeches and
papers.
The story is simple. The
animals of Manor Farm have had enough of Farmer Jones and his
exploitative ways
so they rebel, throw him out, and set up a commune run according to the
highest
and most egalitarian principles. But there's a rotten pig named
Napoleon and
another one named Squealer-a good talker he-and they are the nightmare
that
will wreck the dream of Animal Farm, as the farm is renamed, despite
the best
efforts of brave Snowball, another pig, and the meek goodness of most
of the
farm animals.
I've always found the end of
Chapter II very moving. There's the question of five pails of milk from
the
cows. What to do with them, now that Farmer Jones is gone and the milk
won't be
sold? Mix it with the mash they all eat, hints a chicken. "Never mind
the
milk, comrades!" cries Napoleon. "The harvest is more important.
Comrade Snowball will lead the way. I shall follow in a few minutes."
And
so off the animals go, to bring in the harvest. And the milk? Well, "
...
in the evening it was noticed that the milk had disappeared."
With those five pails of
white milk the ideal of Animal Farm, still so young, begins to die,
because of
Napoleon's corrupted heart. Things only get worse, as you will see.
Animal Farm is a perfect
exemplar of one of the things that literature can be: portable history.
A
reader who knows nothing about twentieth-century history? who has never
heard
of Joseph Stalin or Leon Trotsky or the October Revolution? Not a
problem:
Animal Farm will convey to that reader the essence of what happened to
our neighbors
across the Arctic. The perversion of
an ideal,
the corruption of power, the abuse of language, the wrecking of a
nation - it's
all there, in a scant 120 pages. And having read those pages, the
reader is
made wise to the ways of the politically wicked. That too is what
literature
can be: an inoculation.
And now the personal reason
why I've sent you Animal Farm: the Jewish people of Europe
murdered at the hands of the Nazis also need to have their history made
portable.
And that is what I'm trying to do with my next book. But to take the
rubble of
history-so many tears, so much bloodshed-and distil it into some few
elegant
pages, to turn horror into something light-it's no easy feat.
I offer you, then, a literary
ideal of mine, besides a great read.
Yours truly,
Yann Martel
P.S. Happy birthday.
*
Trại Loài Vật là thí dụ tuyệt
hảo về những điều mà văn chương có thể đem đến cho chúng ta: một thứ
lịch sử cầm
tay. Một độc giả chẳng biết tí gì về thế kỷ thứ 20, Stalin là thằng chó
nào, Trốt
Kít quái vật hả, Cách Mạng Tháng 10 quái thai ư: Trại Loài Vật sẽ chuyên chở tới
cho vị độc giả đó cái cốt yếu, cốt tủy về điều gì đã xẩy tới cho những
người láng
giềng ở bên kia Bắc Cực của chúng ta [dân Canada]: Cái quái thai, tởm
lợm,
bại hoại của một lý tưởng [giải phóng, thống nhất đất nước, thí dụ], sự
hư ruỗng, thối nát
của quyền lực, sự lạm dụng ngôn từ, sự băng hoại của cả một quốc gia –
tất cả đều
có ở trong đó, chỉ trong một tiếng nấc của trên trăm trang sách. Và khi
đọc những
trang này, độc giả trở nên minh mẫn hơn, nhờ uống 'lầm' thuốc độc chính
trị! Điều
này thì cũng là văn chương: Sự tiêm chủng vắc xin!
Ui
chao, đúng là trường hợp đã
xẩy ra cho GNV: Giả sử những ngày mới lớn không vớ được Đêm giữa Ngọ,
thì thể nào
cũng nhẩy toán, lên rừng làm VC, phò Hoàng Phủ Ngọc Tường, đúng như một
tên đệ
tử của Thầy Cuốc 'chúc' Gấu!
Đoạn trên
thật là tuyệt cú mèo, nhưng thua… Brodsky khi
ông viết về thơ, về Kinh Cầu: "Ở vào một vài giai đoạn của lịch sử, chỉ
có
thơ mới có thể chơi ngang ngửa với thực tại, bằng cách nhét chặt nó vào
một cái
gì mà nhân loại có thể nâng niu, hoặc giấu diếm, ở trong lòng bàn tay,
một khi
cái đầu chịu thua không thể nắm bắt được. Theo nghĩa đó, cả thế giới
nâng niu
bút hiệu Anna Akhmatova."
Và bây giờ cái lý
do rất cá nhân tại sao tôi viết ‘mấy lời’ gửi ông, kèm cuốn Trại Loài
Vật: người
Do Thái Âu Châu, bị Nazi sát hại cũng cần có lịch sử của họ, dạng cầm
tay. Và đó
là điều tôi cố gắng làm với cuốn sách tới của tôi.
Nhưng căng lắm đấy,
tôi tự nhủ tôi, làm sao sàng lọc từ đống rác lịch sử, [lịch sử Mít cùng
cuộc
chiến đỉnh cao của nó] với bao nhiêu là máu, là lệ, vào một tiếng nấc,
của vài
trang [Tin Văn], làm sao biến sự ghê rợn, điều tởm lợm, kinh hoàng
thành một điều
gì nhẹ nhàng ư ảo, [trên không gian net], chẳng ngon cơm một tí nào
đâu!
BOOK 49:
THE OLD MAN AND THE SEA
BY ERNEST HEMINGWAY
February 16, 2009
To Stephen Harper,
Prime Minister of Canada,
From a Canadian writer,
With best wishes,
Yann Martel
Dear Mr. Harper,
The famous Ernest
Hemingway. The Old Man and the Sea is one of those works of
literature that most everyone has heard of, even those who haven't read
it. Despite its brevity 127 pages in the well-spaced edition I am
sending you it's had a lasting effect on English literature, as has
Hemingway's work in general. I'd say that his short stories, gathered
in the collections In Our Time, Men
without Women and Winner Take
Nothing, among others, are his greatest achievement and above
all, the story "Big Two-Hearted River" but his novels The Sun Also Rises, A Farewell to Arms and
For Whom the Bell Tolls are more widely read.
The
greatness of Hemingway lies not so much in what
he said as how he said it. He took the English language and wrote it in
a way that no one had written it before. If you compare Hemingway, who
was born in 1899, and Henry James, who died in 1916, that overlap of
seventeen years seems astonishing, so contrasting are their styles.
With James, truth, verisimilitude, realism, whatever you want to call
it, is achieved by a baroque abundance of language. Hemingway's style
is the exact opposite. He stripped the language of ornamentation,
prescribing adjectives and adverbs to his prose the way a careful
doctor would prescribe pills to a hypochondriac. The result was prose
of revolutionary terseness, with a cadence, vigor and elemental
simplicity that bring to mind a much older text: the Bible.
That combination is not fortuitous. Hemingway was
well versed in biblical language and imagery and The Old Man and the Sea can be
read as a Christian allegory, though I wouldn't call it a religious
work, certainly not in the way the book I sent you two weeks ago, Gilead, is. Rather, Hemingway uses Christ's passage
on Earth in a secular way to explore the meaning of human suffering.
"Grace under pressure" was the formulation Hemingway offered when he
was asked what he meant by "guts" in describing the grit shown by many
of his characters. Another way of putting that would be the
achieving of victory through defeat, which matches more deeply, I
think, the Christ-like odyssey of Santiago, the old man of the title.
For concerning Christ, that was the Apostle Paul's momentous insight
(some would call it God's gift): the possibility of triumph, of
salvation, in the very midst of ruination. It's a message, a belief
that transforms the human experience entirely. Career failures, family
disasters, accidents, disease, old age-these human experiences that
might otherwise be tragically final instead become threshold events.
As I was thinking about Santiago and his epic
encounter with the great marlin, I wondered whether there was any
political dimension to his story. I came to the conclusion that there
isn't. In politics, victory comes through victory and defeat only
brings defeat. The message of Hemingway's poor Cuban fisherman is
purely personal, addressing the individual in each one of us and not
the roles we might take on. Despite its vast exterior setting, The Old
Man and the Sea is an intimate work of the soul. And so I wish upon you
what I wish upon all of us: that our return from the high seas be as
dignified as Santiago's.
Yours
truly, Yann Martel
ERNEST HEMINGWAY
(I899-1961) was an American journalist, novelist and short story
writer. He is internationally acclaimed for his works The Sun Also Rises, A Farewell to Arms,
For Whom the Bell Toll and his Pulitzer Prize-winning novella, The Old Man and the Sea.
Hemingway's writing style is characteristically straightforward and
understated, featuring tightly constructed prose. He drove an ambulance
in World War I, and was a key figure in the circle of
expatriate-artists and writers in Paris in the 1920s known as the "Lost
Generation.” Hemingway won the Nobel Prize in Literature in 1954.
Tây đặc một thời.
BONJOUR
TRISTESSE BY
FRANCOISE SAGAN
June 25,2007
To Stephen Harper,
Prime Minister of Canada,
From a Canadian writer,
With best wishes,
Yann Martel
Dear Mr. Harper,
From London, England, I'm sending you an English translation of a
French novel. In this novel people smoke, people get slapped in the
face, people drink heavily and then drive home, people have nothing but
the blackest coffee for breakfast, and always people are concerned with
love. Very French d’une certaine epoque.
Bonjour
Tristesse
came out in France in 1954. Its author, Francoise Sagan, was nineteen
years old. Immediately she became a celebrity and her book a bestseller.
More than that: they both became symbols.
Bonjour
Tristesse
is narrated in the first person by seventeen year-old Cecile. She
describes her father, Raymond, as "a frivolous man, clever at business,
always curious, quickly bored, and attractive to women." The business
cleverness is never mentioned again, but clearly it has allowed Raymond
to enjoy freely his other attributes, his frivolity, curiosity, boredom
and attraction, all of which revolve around dalliances of the heart and
loins. He and his beloved daughter share the same temperament and they
are in the south of France for the summer holidays with Elsa, his
latest young mistress. This triangle suites Cecile perfectly and she is
assiduous at pursuing her idle seaside pleasures, which come to include
Cyril, a handsome young man who is keen on her.
But all is ruined when her father invites Anne to stay with them. She's
an old friend of the family, a handsome woman her father's age, made of
sterner, more sober stuff. She starts to meddle in Cecile's life.
Worse, a few weeks after arriving, fun Elsa is dumped when Raymond
starts a relationship with Anne. And finally, not long after, Anne
announces that she and her father are planning to get married. Cecile
is aghast. Her serial frolicker of a father and Anne, husband and wife?
She, Cecile, a stepdaughter to Anne, who will work hard to transform
her into a serious and studious young person? Quel cauchemar!
Cecile sets to work to thwart things, using Elsa and Cyril as her
pawns. The results are tragic.
After the grim work of the Second World War and the hard work of the
post-war reconstruction, Bonjour Tristesse burst onto the
French literary scene like a carnival. It announced what seemed like a
new species, youth, la jeunesse, who had but one message: have
fun with us or be gone; stay up all night at a jazz club or never come
out with us again; don't talk to us about marriage and other boring
conventions; let's smoke and be idle instead; forget the future who's
the new lover? As for the tristesse of the title, it was an
excuse for a really good pout.
Such a brash, proudly indolent attitude, coming with an open contempt
for conventional values, landed like a bomb among the bourgeoisie.
Francoise Sagan earned herself a papal denunciation, which she must
have relished.
A book can do that, capture a time and a spirit, be the expression of a
broad yearning running through society. Read the book and you will
understand Zeitgeist. Sometimes the book will be
one a group strongly identifies with - for example, On the Road,
by Jack Kerouac, among American youth - or, conversely strongly
identifies against - Salman Rushdie's The
Satanic Verses among some Muslims.
So that too is what a book can be, a thermometer revealing a fever.
Yours truly,
Yann Martel
FRANCOISE
SAGAN (1935-2004),born Francoise Quoirez, was a novelist, playwright
and screenwriter. Sagan's novels centre around disillusioned bourgeois
characters (often teenagers) and primarily romantic themes; her work
has been compared to that of J.D. Salinger. The writer Francois Mauriac
described her as "a charming little monster." Her oeuvre includes
dozens of works for print and performance. She suffered a car accident
in 1957, an experience that left her addicted to painkillers and other
drugs for much of her life.
Yann
Martel
Sự lớn
lao của Hemingway không hệ tại nhiều ở điều ông nói mà ông nói điều đó như thế nào. Ông nắm tiếng Anh và viết nó một cách mà trước
đó chưa từng có ai viết. So sánh hai ông, Hemingway, sinh năm 1899 và
Henry James, mất năm 1916, khoảng cách 17 năm giữa họ đó mới ngỡ ngàng,
tương phản làm sao, ở trong văn phong của họ. Với James, sự thực, cái
rất giống, chủ nghĩa hiện thực, hay bất cứ cái từ gì mà bạn muốn gọi,
thì được hoàn thành bằng một thứ tiếng Anh ê hề, đầy ra đó, tha hồ mà
xài. Hemingway, ngược hẳn lại, tước bỏ trong văn phong của ông mọi trò
‘bầy biện cho nó sang, đồ hàng mã, đồ dởm, thùng rỗng kêu to, hoành
tráng, sự lạm dụng tu từ… ‘, và sử dụng những tính từ và trạng từ cho
thơ xuôi của ông, theo cái kiểu mà một tay 'đốc tưa' ghi đơn thuốc cho
một người nghi là bịnh. Hiệu quả là một thứ thơ xuôi cực kiệm từ, với
một nhịp điệu, sự cường tráng, và sự cực giản khiến chúng ta nhớ tới
một bản văn cực kỳ già, cực kỳ cổ xưa: Thánh Kinh.
Từ
những bản văn của Hemingway móc nối tới… Thánh Kinh, đừng nghĩ là tôi
‘cường điệu’.
Hemingway quả là đã thấm nhuần ngôn ngữ và hình ảnh Thánh Kinh, và Ngư
Ông
Và Biển Cả có thể được đọc như là một ám dụ Ky tô, tuy nhiên, tôi
chẳng dám
coi nó là một tác phẩm tôn giáo, hẳn nhiên không phải theo cái kiểu của
cuốn
sách mà tôi vừa mới gửi thủ trưởng hai tuần trước đây, Gilead.
Hemingway
sử dụng những ngày Chúa ghé trọ trần gian theo
cách muôn thuở của riêng ông, để khai triển,
khám phá, thám hiểm ý nghĩa của những khổ đau của con người.
‘Ân
sủng dưới sức ép’ là
chữ của Hemingway, khi bị tra hỏi về sự gan góc, lì lợm của những nhân
vật của
ông. Một cách rất riêng Hemingway để lèm bèm về ‘hoàn tất chiến thắng
qua thất
bại’. Gấu này đã ‘bàng bạc’ nhận ra điều này – và, có thể là do đọc
Hemingway
mà có được – khi phán, Miền Nam có công với lịch sử ‘thông qua sự thất
trận’ của
họ! Tuy nhiên, khi viết như vậy, là Gấu vẫn còn ‘hoang tưởng’ về cuộc
thống nhất
đất nước, cả giống Mít xúm vào xây dựng một cái nhà Mít to đùng, bây
giờ thì ‘ô
hô ai tai’ rồi!
Vinh quang,
chiến thắng thông qua thất bại, nhờ thất bại mà có được, ‘con người có
thể bị
huỷ diệt nhưng không thể bị đánh gục’, cuộc đi câu ‘mang về không
phải con cá mà là bộ xương khổng lồ của nó’, thấm đẫm tinh thần Ky Tô
giáo của
Ông Già Santiago [Gấu Già đó ư?] lạ làm sao, cũng là cuộc phiêu lưu mà
điểm tận
cùng là nhà tù VC của cả một miền đất: Gấu đã chẳng viết về nhà thơ NXT
và tập
thơ nhờ đi tù VC mà có được, về TTT mà những vần thơ ẩn mật của ông,
nhờ té núi
khi vác nứa mà ngộ ra? (1)
(1)
Trong bài phỏng vấn, Thơ Giữa
Chiến Tranh và Trại Tù (đã đăng trên
VHNT), nhà thơ Thanh Tâm Tuyền cho rằng: "làm thơ trong trại cải tạo,
đó
cũng là trở về với thơ ca bình dân. Chế độ lao động trong trại, đó là
một ngày
căng thẳng tám tiếng, không có ngày nghỉ cuối tuần; mỗi tù nhân có
riêng một vũ
trụ: một chiếc chiếu; chừng năm, sáu chục tù trên dưới hai lớp, gói gọn
trong tấm
"toan" trên trăm tù. Viết là một xa xỉ: chỗ ngồi, thời gian viết. Với
nhịp tù hối hả như vậy, cái lạnh, cái đói… ai dám nghĩ đến sáng tạo?
Ngay cả
thiên tài, hay một sức mạnh siêu nhiên cũng không thể vượt qua những
"trói
buộc" này."
"Tuy nhiên người Việt nói, "làm thơ", không
ai nói "viết thơ". Như vậy, người ta có thể làm thơ bất cứ ở đâu
("Thơ ở đâu xa" là tựa đề tập thơ của thi sĩ, sau khi ra tù), trong bất
cứ vị trí nào: đi, đứng, nằm, ngồi, thức. Thơ gặp anh không cần hò hẹn,
không định
rõ ngày giờ… Nó chỉ yêu cầu bạn: hãy giữ tiếng nói chơn chất của mình.
Tiếng
nói này, sau đó, sẽ quyết định cuộc đời của riêng nó".
Những kinh nghiệm làm thơ trong trại tù của thi sĩ làm chúng
ta hiểu được, sự khác biệt giữa những dòng thơ của chính Thanh Tâm
Tuyền, trước
và sau trại tù; giữa "đỉnh cao" của thơ tự do "khi còn tự
do", như trong "Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy", và của "thơ ở
trong tù" như trong "Thơ Ở Đâu Xa" : nhà thơ hết còn là một vị
phù thuỷ của chữ nghĩa, giản dị chỉ là một tiếng nói chơn chất:
"Trong tôi còn lại chi? Gia đình, bạn bè. Những bài
thơ, chắc chắn rồi, đã được đọc, được ghi thầm. Đúng một lúc nào đó, ký
ức
nhanh chóng bật dậy, đọc, cho mình tôi, những bài thơ. Luôn luôn, ở đó,
bạn sẽ
gặp những tia sáng lạ. Thời gian của điêu tàn làm mạnh thơ ca… cõi thơ
êm đềm
ngự trị bên trên sự bình thản của vũ trụ."
....
Còn những dòng thơ nhẹ nhàng, thanh thoát của Nguyễn Xuân Thiệp,
là do đằng sau ông có cả một đồng đội, cả một chân lý, lẽ phải, chính
nghĩa mà
chỉ khi vào tù ông mới có được.
"Chuyện Kể Năm 2000"
For concerning
Christ, that was the Apostle Paul's momentous insight (some would call
it God's
gift): the possibility of triumph, of salvation, in the very midst of
ruination. It's a message, a belief that transforms the human
experience
entirely.
Về chuyện liên quan tới Chúa
Ky Tô ở đây, đó chính là giây phút
đốn ngộ của
Apostle Paul (có người gọi là quà của Thượng Đế): khả thể về chiến
thắng, về
cứu vớt, ở ngay chính trái tim của điêu tàn. Đó là thông điệp, niềm
tin chuyển
hoá toàn thể kinh nghiệm nhân loại.
Vậy mà ‘ô nhục’
ư?
*
Thời gian của
điêu tàn làm mạnh thơ ca.
Le temps des
ruines renforce la poésie.
Cõi thơ êm đềm
ngự trị ở bên trên sự bình thản của vũ trụ.
Cet état
poétique paisible règne sur le calme
de l'univers.
THANH
TAM
TUYEN: La poésie entre la guerre et le camp
Thơ giữa chiến
tranh và trại tù
Trong khi
suy tư về chuyến đi câu và cuộc gặp gỡ với con K của Gấu Già, tôi bèn
tự hỏi,
liệu có thể có một chiều hướng chính trị, như là Gấu áp dụng vào Miền
Nam VN và
cuộc thất trận của nó, và sau cùng tôi đi đến kết luận, nhảm, làm đếch
gì có tí
chính trị nào trong Ngư Ông Và Biển
Cả!
Trong chính
trị, chiến thắng tìm đến chiến thắng [kẻ thù nào cũng đánh thắng, như
mấy anh
VC từng bốc phét], và thất trận thì chỉ mang đến thất trận dài dài, và
tận cùng
bằng cuộc tháo chạy vĩ đại!
Cái thông điệp của ông già nghèo khổ làm nghề đánh
cá người Cu Ba, của Hemingway thì hoàn toàn riêng tư, cá nhân, nó gửi
tới con
người cá nhân là mỗi một trong chúng ta, chứ không phải những vai trò
mà chúng
ta phải ôm lấy.
Mặc dù hùng vĩ trong dàn dựng, nào biển cả mênh mông, nào
con cá kẻ thù xứng đáng, nào, nào…
Ngư Ông Và Biển Cả, tuyệt vời thay, chỉ là một
tác phẩm rất ư là riêng tư, thầm kín, của… linh hồn.
Và tớ mới
mong ước làm sao: Cầu chúc cho tất cả chúng ta: rằng cái chuyến đi câu,
ra mãi tít
ngoài biển cao, gặp con K rồi trở về, thật là bảnh, thật là hách, thật
là xứng đáng,
như của... Gấu Già Santiago!
Hà, hà!
BOOK 18
METAMORPHOSIS
BY FRANZ
KAFKA
December 10,
2007
To Stephen Harper,
Prime
Minister of Canada,
A cautionary
tale of sorts,
From a
Canadian writer,
With best
wishes,
Yann Martel
Dear Mr.
Harper,
The book
that accompanies this letter is one of the great literary icons of the
twentieth century. If you haven't already read it, you've surely heard
of it.
The story it tells of an anxious, dutiful travelling salesman who wakes
up one
morning transformed into a large insect is highly intriguing, and
therefore
entertaining. The practical considerations of such a change the new
diet, the
new family dynamic, the poor job prospects, and so on are all worked
out to
their logical conclusion. But that Gregor Samsa, the salesman in
question,
nonetheless remains at heart the same person, the same soul, still
moved by
music, for example, is also plainly laid out. And what it all might
mean, this
waking up as a bug, is left to the reader to determine.
Franz Kafka
published Metamorphosis in 1915. It
was one of his few works published while he was alive, as he was racked
by
doubts about his writing. Upon his death in 1924 of tuberculosis, he
asked his
friend and literary executor, Max Brod, to destroy all his unpublished
works.
Brod ignored this wish and did the exact opposite: he published them
all. Three
unfinished novels were published, The
Trial, The Castle and Amerika,
but in my opinion
his many short stories are better, and not only because they're
finished.
Kafka's
life, and subsequently his work, was dominated by one figure, his
domineering
father. A coarse man who valued only material success, he found his
son's
literary inclinations incomprehensible. Kafka obediently tried to fit
into the
mold into which his father squeezed him. He worked most of his life,
and with a
fair degree of professional success, for the Workers' Accident
Insurance
Institute of the Kingdom of Bohemia (doesn't that sound like it's right
out of,
well, Kafka?). But to work during the day to live, and then to work at
night on
his writings so that he might feel alive, exhausted him and ultimately
cost him
his life. He was only forty years old when he died.
Kafka
introduced to our age a feeling that hasn't left us yet: angst. Misery
before
then was material, felt in the body. Think of Dickens and the misery of
poverty
he portrayed; material success was the road out of that misery. But
with Kafka,
we have the misery of the mind, a dread that comes from within and will
not go
away, no matter if we have jobs. The dysfunctional side of the
twentieth
century, the dread that comes from mindless work, from constant,
grinding,
petty regulation, the dread that comes from the greyness of urban,
capitalist
existence, where each one of us is no more than a lonely cog in a
machine, this
was what Kafka revealed. Are we done with these concerns? Have we
worked our
way out of anxiety, isolation and alienation? Alas, I think not. Kafka
still
speaks to us.
Kafka died
seven months into the public life of Adolf Hitler - the failed Munich
Beer Hall
Putsch, in which the ugly Austrian corporal had prematurely tried to
seize
power, took place in November of 1923 - and
there is something annunciatory about the
overlap, as if what Kafka
felt, Hitler delivered. The overlap is sadder still: Kafka's three
sisters died
in Nazi concentration camps.
Metamorphosis
makes for a fascinating yet grim read. The premise may bring a
black-humored
smile to one's face, but the full story wipes that smile away. One
possible way
of reading Metamorphosis is
as a cautionary tale. So much alienation in
its
pages makes one thirst for authenticity in one's life.
Christmas is
fast approaching. I'll see with the next book I send you if I can't
come up
with something cheerier to match the festive season.
Yours truly,
Yann Martel
Franz KAFKA
(1883-1924) was born in Prague, Bohemia (now the Czech Republic), and
is
considered one of the most influential authors of the twentieth
century. Much
of Kafka's work is disturbing, dealing with nightmarish situations and
dark
themes including alienation, dehumanization and totalitarianism, a
literary
style now known as "Kafkaesque." He is best known for his novella Metamorphosis
as well as for two of his novels, The
Trial and The Castle,
which were
published posthumously. He earned a doctorate in law and wrote in his
spare
time, spending most of his working life at an insurance company.
Cuốn sách kèm theo thư này là
một trong những thánh tượng lớn, của
văn chương thế kỷ 20. Nếu thủ trưởng chưa đọc, thì hẳn cũng đã nghe
nói về
nó, chắc chắn như vậy. Câu chuyện cuốn sách kể - về một anh bán hàng
rong âu
lo, khắc khoải, lúc nào cũng không quên bổn phận của mình, một buổi
sáng thức
dậy thấy biến thành một con bọ lớn – thì thật là ly kỳ, và do đó, thú
vị. Những
cân nhắc thực tiễn về một sự thay đổi như thế - chế độ ăn khem, kiêng
mới, động
lực gia đình mới, những viễn tượng liên quan tới cái công việc bán hàng
rong
nghèo, và vv - tất cả đều được tính đếm để đi đến kết luận hợp lý.
*
Three
unfinished novels were published, The Trial, The Castle and Amerika,
but in my opinion his many short stories are better, and not only
because
they're finished
Đúng
y chang Gấu, chỉ đọc được, và chỉ đọc những truyện ngắn của Kafka.
Không làm
sao đọc hết một truyện dài của ông, dù bao phen thử ép xác
Jews, Poles
& Nazis: The Terrible History
June 24,
2010
by Timothy
Snyd
US Holocaust
Memorial Museum/Miles and Chris Laks Lerman
The sisters
Renia, Rosalie, and Chanka Laks, from a prominent Jewish family in
Wierzbnik,
Poland. Rosalie Laks—whose testimony appears in Christopher Browning’s
Remembering Survival—said that when their father was pushed into a
gutter and
kicked repeatedly by a German during the early days of the Nazi
occupation, ‘This was the
first time I understood what the war was all about.’ All
the sisters survived the war and are still alive
*
Kafka died
seven months into the public life of Adolf Hitler - the failed Munich
Beer Hall
Putsch, in which the ugly Austrian corporal had prematurely tried to
seize
power, took place in November of 1923 - and there
is something annunciatory about the overlap, as if what Kafka
felt, Hitler delivered. The overlap is sadder still: Kafka's three
sisters died
in Nazi concentration camps.
Martel
“This
was the first time I understood what the war was all about.”
Kinh
nghiệm trên, Gấu đã từng trải qua: Lần đầu tiên Gấu thấy người ta đánh
người
ta, và hiểu được ‘thế nào là’ cuộc chiến Quốc Cộng, là cái lần thấy tay
quận
trưởng một quận Tề ở quê Sơn Tây của Gấu, đá vào một tay du
kích
Việt Cộng, bị Bảo Chính Đoàn, tiền thân của
quân lực VNCH, tóm được. Tay quận trưởng đang đá tới tấp, chợt ngước
mắt lên, thấy
cái nhìn khiếp đảm của thằng cu Gấu, bèn ngưng đá, ra lệnh đem tên du
kích đi
chỗ khác, chắc là đem đi giam.
Cái
tay quận trưởng có liên quan tới Gấu. Cũng thê lương lắm, khi nào cảm
thấy bớt thê lương, Gầu sẽ kể tiếp
Bữa đó, Gấu lên đồn, ở ven đê
làng Vân
Xa, quê ngoại của Gấu để học, lớp học do quận trưởng làm thầy giáo.
Sau, đọc
truyện The Guest, của Camus,
là nhớ lại cảnh trên. (1)
(1)
Nhưng cú ‘bức
tử’ Camus, chính là Cuộc Chiến Algérie. Là một
anh Tây
mũi lõ ở thuộc địa, [an Algerian Frenchman], ông bị sức ép của tình yêu
của ông
dành cho thế giới Địa Trung Hải này, và sự dâng hiến mình cho nước
Pháp. Một
khi ông nhìn ra sự giận dữ, Tây mũi lõ hãy cút về nước, và cuộc nổi dậy
hung bạo
từ đó mà ra, ông không thể chọn thái độ chống đối nhà nước của Sartre,
bởi vì
những bè bạn của ông bị giết bởi những người Ả rập - những tên "khủng
bố",
như báo chí Pháp gọi – trong cuộc chiến giành độc lập. Ông đành chọn
thái độ im
lặng. Trong bài ai điếu thật cảm động về người bạn cũ của mình, khi Camus mất, Sartre đã khai triển những chiều sâu nhức
nhối mà Camus giấu kín chúng bằng sự im lặng
đầy cao ngạo, đầy phẩm giá
của ông.
Bị ép buộc phải chọn bên, Camus thay vì chọn,
thì
khai triển ‘địa ngục tâm lý’, trong Người Khách, The Guest.
Truyện ngắn tuyệt hảo mang tính chính trị này diễn tả chính trị, không
như là một
điều mà chúng ta hăm hở vồ lấy nó, theo cái kiểu đường ra trận mùa này
đẹp lắm,
nhưng mà là một tai nạn chẳng sung sướng tí chó nào, mà chúng ta bắt
buộc phải
chấp nhận.
Thật khó mà 'phản biện' ông, về điều này, nhất là Mít chúng ta!
Pamuk: Albert Camus
Nếu có tí mắc míu giữa NNT và
Camus, có thể, là qua truyện ngắn Người Khách.
Câu chuyện một anh giáo làng tại một vùng xôi đậu, ngày Quốc Gia, đêm
VC. Tay
giáo làng này một bữa đang dậy học thì được một ông cảnh sát Ngụy tới
nhờ giữ
giùm một anh VC nằm vùng, trong khi ông ta lên tỉnh xin thêm chi viện,
để giải
giao về tỉnh. Khi ông cảnh sát đi rồi, tay giáo làng bèn cởi trói cho
anh VC
nằm vùng, giúi cho 10 ngày luơng thực [đám sĩ quan Ngụy sau đi trình
diện cải
tạo, phải mang theo 10 ngày lương thực, là do chuyện này mà ra], và chỉ
hướng
trốn vô rừng, không ngờ đúng hướng đó, có Ngụy quân đang nằm sẵn!
Và khi anh giáo làng nhìn lại tấm bảng đen, thì đã có hàng chữ phấn
trắng: Mi
bán chiến sĩ giải phóng cho Ngụy, mi phải thường mạng!
Kafka
mất 7 tháng, sau khi viên cai đội Hitler toan tính nắm quyền lực vào
tháng
11/1923, nhưng thất bại. Có một điềm gở ở 7 tháng dư ra này: như thể
điều mà
Kafka dự cảm thì Hitler phân phối. Quãng thời gian dư thừa còn làm buồn
bã thêm,
khi chúng ta nghĩ tới ba chị em của Kafka, chết trong trại tập trung.
Ui
chao, Gấu lại nghĩ đến Brodsky. Khi ông mất, năm 1996, Tolstaya than
thở, phải
chi ông sống thêm được 4 năm thì thế kỷ 20 đã có một thành tựu vẹn toàn.
Kafka giới
thiệu với thời đại của chúng ta một cảm nghĩ, mà cho dù ông đi rồi, cảm
nghĩ này
vẫn không chịu rời bỏ chúng ta: ‘angst’ [tiếng Đức, tạm dịch bằng những
từ
như âu lo,
xao xuyến, bất an, sợ sệt, anxiety, angoisse…]. Trước đó, sự nghèo khổ,
cơ cực,
misery, thì chỉ xẩy ra trong ‘đời thường’, mang tính vật lý, vật chất.
Hãy nghĩ
tới Dickens, thí dụ, và sự nghèo đói, cơ cực ông miêu tả, và sự thành
công về vật
chất là con đường thoát ra khỏi. Nhưng với Kafka, chúng ta có sự cơ cực
của tâm
hồn, nỗi âu lo, xao xuyến từ bên trong chúng ta hành hạ chúng ta, và
không chịu
bỏ đi, cho dù chúng ta kiếm ra việc làm, hết còn đói khát khổ sở!
Hoá Thân đem đến cho người đọc sự
‘ngỡ ngàng
u ám’, a fascinating yet grim read. Một nụ cười khôi hài đen, nụ cười
biến mất
theo từng trang sách, chỉ còn khuôn mặt méo xệch. Một trong những cách
đọc nó,
là coi đây là như một cảnh báo. Quá nhiều vong thân trên tí ti trang
sách khiến
người đọc khao khát một sự chân thực cho cuộc đời của mình.
Yann
Martel
BOOK 9:
CHRONICLE OF
A DEATH FORETOLD
BY GABRIEL
GARCIA MARQUEZ
August 6, 2007
To Stephen
Harper,
Prime
Minister of Canada,
From a
Canadian writer,
With best
wishes,
Yann Mattel
Dear Mr.
Harper,
When I found
a used copy of the latest book that I'm sending you, I was pleased that
it was
a hard cover - a first after eight paperbacks - but I was disappointed
with the
cover artwork. (1). Surely, Chronicle
of a Death Foretold, the short novel
by the
great Gabriel Garcia Marquez, deserves better than this awkward job.
Who chose
the purple? It's all so hideous. But you can't judge a book by its
cover, isn't
that right?
Which is a
nice way of broaching the topic of cliches.
A cliché, to
remind you, is a worn, hackneyed phrase or opinion. At one time,
perhaps in the
Middle Ages among monks slowly copying books by hand in a monastery,
the notion
that nothing of substance can be judged by its surface, expressed in
terms of a
bound stack of paper and its protective shell, have seemed like a
dazzling
revelation that had the monks looking at each other in amazement and
rushing
out to sing in full-throated worship to
urbi et orbi: "Praise be to
God! A book can't be judged by its cover! Hallelujah, hallelujah!"
But now,
even among people But now, even among people who don't read a book a
year, it's
a cliché, it's a lazy, thoughtless way of expressing oneself.
Sometimes
clichés are unavoidable. "I love you" a sentence that is foundational
to the well-being of every human being, the "you" being another
person, a group of people, a grand notion or cause, a god, or simply a
reflection in the mirror is a cliche. Every actor who has to say the
line
struggles to deliver it in a way that makes it sound fresh, like Adam
saying it
for the first time to Eve. But there's no good way of saying it
otherwise and
no one really tries to. We live very well with "I love you" because
the syntactical simplicity of it one each of subject, verb, object,
nothing
else nicely matches its intended truthfulness. So we happily blurt out
the
cliché, some of us repeating it several times, for emphasis, or some of
us
saying it all the time, for example at the end of every phone call with
a
family member. Lovers at a balcony, sons and daughters at war,
dervishes
whirling they're all living "I love you" in a way that is not clicked
but essential.
But
otherwise clichés should be avoided like the West Nile virus. Why?
Because they
are stale and flat, and because they are contagious. Convenient
writerly
shortcuts, hurried means of signifying "you know what I mean," clichés
at first are just a froth of tiny white eggs in the ink of your pen,
incubated
slowly by the warmth of your lazy fingers. The harm to your prose is
slight,
and people are forgiving. But convenience, shortcuts and hurry are no
way to
write true words, and if you are not careful-and it is hard work to be
careful-the eggs multiply, bloom and enter your blood.
The damage
can be serious. The infection can spread to your eyes,
to your nose, to your tongue, to your ears, to your skin, and worse: to
your
brain and to your heart. It's no longer just your words, written and
spoken,
that are conventional, conformist, unoriginal, dull. Now it's your very
thoughts and feelings that have lost their heartbeat. In the most
serious
cases, the person can no longer even see or feel the work directly, but
can
only perceive it through the reductive, muffling filter of cliché.
At this
stage, the cliché attains its political dimension: dogmatism. Dogmatism
in
politics has exactly the same effect as the cliché in writing: it
prevents the
soul from interacting openly and honestly with the world, with that
pragmatism
that lets in fresh all the beautiful, bountiful messiness of life.
The cliché
and dogmatism two related banes that all writers and politicians should
avoid
if we are to serve well our respective constituencies.
As for the
Garcia Marquez book, I got it for you because of your recent trip to -
and
renewed interest - in Latin America. The man's a genius.
Yours truly,
Yann Martel
GABRIEL
GARCIA MARQEZ (b. 1927) is an internationally acclaimed novelist, short
story
writer, screenplay writer, memoirist and journalist. During his long
literary
career, he has been credited with popularizing the "magical realism"
writing style. Marquez, nicknamed "Gabo," sets his stories in Latin
America and often addresses the themes of isolation, love and memory.
His best-known
works are One Hundred Years of
Solitude and Love in the Time
of
Cholera. He is also well
known for his political activism. He received the Nobel Prize in
Literature in
1982. Raised in Colombia, he now lives
in Mexico City.
*
The cover
features an unappealing drawing of a bride. She looks like a stiff
porcelain
doll.
*
Cách đọc Một
cái chết được báo trước, của Yann Martel, thật lạ, và có vẻ như
chẳng ăn nhập gì
tới câu chuyện của Garcia Marquez, về một thanh niên trong một làng
nhỏ, bị đe
dọa làm thịt, hầu như tất cả mọi người trong làng đều được biết, vậy mà
nó cứ xẩy ra, chẳng
hề có một toan tính ngăn chặn, hoặc cảnh báo, như Gấu đọc đã lâu rồi
còn nhớ được.
Martel cho biết, ông gửi tác phẩm trên cho thủ trưởng Canada, nhân
chuyến đi của
ông này tới khu vực Mỹ Châu La Tinh, và những quan tâm mới của thủ
tướng Canada
về vùng đất này, nhưng liệu đúng như thế?
BOOK 45:
FICTIONS
BY JORGE
LUIS BORGES
December 22,
2008
To Stephen
Harper,
Prime
Minister of Canada,
A book you
may or may not like,
From a
Canadian writer,
With best
wishes,
Yann Martel
Dear Mr.
Harper,
I first read
the short story collection Fictions,
by the Argentina writer Jorge Luis Borges
(1899-1986), twenty years ago and I remember not liking it much. But
Borges is
a very famous writer from a continent with a rich literary tradition.
No doubt
my lack of appreciation indicated a lack in me, due to immaturity.
Twenty years
on, I would surely recognize its genius and I would join the legions of
readers
who hold Borges to be one of the great pens of the twentieth century.
Well,
that change of opinion didn't take place. Upon rereading Fictions I was as
unimpressed this time around as I remember being two decades ago.
These stories
are intellectual games, literary forms of chess. They start simply
enough, one
pawn moving forward, so to speak, from fanciful premises-often about
alternate
worlds or fictitious books-that are then rigorously and organically
developed
by Borges till they reach a pitch of complexity that would please Bobby
Fischer. Actually, the comparison to chess is not entirely right. Chess
pieces,
while moving around with great freedom, have fixed roles, established
by a
custom that is centuries old. Pawns move just so, as do rooks and
knights and
queens. With Borges, the chess pieces are played any which way, the
rooks
moving diagonally, the pawns laterally and so on. The result is stories
that
are surprising and inventive, but whose ideas can't be taken seriously
because
they aren't taken seriously by the author himself, who plays around
with them
as if ideas didn't really matter. And so the flashy but
fraudulent erudition of Fictions. Let me give you one
small
example, taken at random. On page CS of the story "The Library of
Babel," which is about a universe shaped like an immense, infinite
library, appears the following line concerning a particular book in
that
library:
He showed his find to a
traveling decipherer, who told him that the
lines were written in Portuguese; others said it was Yiddish. Within
the
century experts had determined what the language actually was: a
Samoyed-Lithuanian dialect of Guarani, with inflections from classical
Arabic.
A
Samoyed-Lithuanian dialect of Guarani, with inflections from classical
Arabic?
That's intellectually droll, in a nerdy way. There's a pleasure of the
mind in
seeing those languages unexpectedly juxtaposed. One mentally jumps
around the
map of the world. It's also, of course, linguistic nonsense. Samoyed
and
Lithuanian are from different language families the first Uralic, the
second
Baltic-and so are unlikely ever to merge into a dialect, and even less
so of
Guarani, which is an indigenous language of South America. As for the
inflections from classical Arabic, they involve yet another impossible
leap
over cultural and historical barriers. Do you see how this approach if
pursued
relentlessly, makes a mockery of ideas? If idea mixed around like this
for show
and amusement, then they ultimately reduced to show and amusement. And
pursue
approach Borges does, line after line, page after page. His book is
full of
scholarly mumbo-jumbo that is ironic, magical, non-sensical. One of the
games
involved in Fictions is: do you get the references? If you do, you feel
intelligent; if you don't, no worries, it's probably an invention,
because much
of the erudition in the book is invented. The only story that I found
genuinely
intellectually engaging, that is, making a serf thought-provoking
point, was
"Three Versions of Judas,” in which the character and theological
implications of Judas are discussed. That story made me pause and
think. Beyond
the flash, there I found depth.
Borges is often described as a writer's writer.
What this is supposed to mean is that writers will find in him all the
finest qualities
of the craft. I'm not sure I agree. By my reckoning a great book
increases
one's involvement with the world. One seemingly turns away from the
world when
one reads a book but only to see the world all the better once one has
finished
the book. Books, then, increase one's visual acuity of the world. With
Borges,
the more I read, the more the world was increasingly small and distant.
There's
one characteristic that I noticed this time around that I hadn't the
first
time, and that is the extraordinary number of male names dropped into
the
narratives, most of them writers. The
fictional world of Borges is nearly exclusively male unisexual. Women
barely
exist. The only female writer mentioned in Fictions are Dorothy Sayers,
Agatha
Christie and Gertrude Stein, the last two mentioned in "A Survey of
Works
of Herbert Quain" to make a negative point. In “Menard, Author of the
Quixote," there is a Baroness de Bacourt and a Mme Henri Bachelier
(note
how Mme Bachelier's name is entirely concealed by her husband's). There
may be
a few others that I missed. Otherwise, the reader gets male friends and
male
writers and male characters into the multiple dozens. This is not
merely a
statistical feminist point. It hints rather at Borges's relationship to
the
world. The absence of women in his stories is matched by the absence of
any
intimate relations in them. Only in the last story, "The South," is
there some warmth, some genuine pain to be felt between the characters.
There
is a failure in Borges to engage with the complexities of life, the
complexities of conjugal or parental life, or, indeed, of any other
emotional
engagement. We have here a solitary male living entirely in his head,
someone
who refused to join the fray but instead hid in his books and spun one
fantasy
after another. And so my same, puzzled conclusion this time round after
reading
Borges: this is juvenile stuff.
Now why am I sending you a book that I don't
like? For a good reason: because one should read widely, including
books that
one does not like. By so doing one avoids the possible pitfall of
autodidacts,
who risk shaping their reading to suit their limitations, thereby
increasing
those limitations. The advantage of structured learning, at the various
schools
available at all ages of one's life, is that one must measure one's
intellect
against systems of ideas that have been developed over centuries. One's
mind is
thus confronted with unsuspected new ideas.
Which is to say that one learns,
one is shaped, as much by the books that one has liked as by those that
one has
disliked.
And there is also, of course, the possibility that
you may love Borges.
You may find his stories rich, deep, original and entertaining. You may
think
that I should try him again in another twenty years. Maybe then I'll be
ready
for Borges.
In the meantime, I wish you and your family a merry
Christmas.
Yours
truly,
Yann Martel
Jorge Luis
Borges (1899-1986) was an Argentinean poet, short story writer,
anthologist,
critic, essayist and librarian. In his writings, he often explored the
ideas of
reality, philosophy, identity and time, frequently using the images of
labyrinths and mirrors. Borges shared the 1961 Prix Formentor with
Samuel
Beckett, gaining international fame. In addition to writing and giving
speaking
engagements in the United States, Borges was the director of the
National
Library in Argentina, ironically gaining this position as he was losing
his
eyesight.
|