|
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Thúy
Hà Lê
November 18,
2014 · Hoang Cau,
Vietnam · Edited
·
Mỗi lần tôi vào một nhà vệ sinh cũ kỹ,
âm u nhưng sạch sẽ không chê vào đâu được ở khu đền thờ Nara hay Tokyo,
tôi lại
thấy thán phục những hiệu quả phi thường của kiến trúc Nhật Bản. Phòng
khách có
thể mang nét duyên dáng riêng nhưng nhà vệ sinh Nhật mới đúng là nơi
thư giãn
tâm hồn. Nó luôn nằm tách biệt với ngôi nhà chính, ở tận cùng của hành
lang,
trong một khu rừng hương hoa với lá cây và rêu. Không từ ngữ nào có thể
diễn tả
cái cảm giác một người đang ngồi trong nguồn sáng lờ mờ, phơi mình
trong ánh sáng
yếu ớt phản chiếu từ cánh cửa trượt dán giấy, đắm chìm trong suy nghĩ
hoặc nhìn
đăm đắm ra khu vườn. Tiểu thuyết gia Natsume Soseki xem những chuyến đi
ra nhà
vệ sinh buổi sáng là niềm vui lớn, ông gọi đó là “niềm khoái cảm sinh
lý”… Tôi
thích ngồi lắng nghe tiếng mưa rơi nhè nhẹ ở trong một nhà vệ sinh như
thế, với
những cửa sổ dài và hẹp nằm ngang mặt đất; ở đó có thể nghe được thật
gần tiếng
mưa rơi xuống từ mái chìa và cây cối, thấm xuống mặt đất sau khi dội
vào lớp đế
của cây đèn đá và làm tươi mới lớp rêu trên những tảng đá giậm bước..
Tôi ngờ
rằng đây là nơi mà các nhà thơ haiku qua năm tháng đã nghĩ ra nhiều ý
thơ tuyệt
vời… (Ca tụng bóng tối – In praise of shadows, 陰翳礼讃 Junichiro
Tanizaki, 1933)
Cuốn này, cc 1994, GCC mượn thư viện về
đọc, hồi mới qua Xứ Lạnh, làm nghề bán bảo hiểm nhân thọ, - thì cũng để
chiều lòng
cô bạn ngày nào, ông chồng của cô là 1 tay trong nghề, vả chăng, cũng
cần có 1
nghề làm, để lo cho mấy đứa nhỏ còn kẹt lại ở Lào, tính bỏ luôn ba cái
trò viết
lách… - mê
quá, bèn đi 1 đường về nó, khi làm nghề
viết muớn cho ông chủ NMG, cc 1997, giữ mục Tạp Ghi. Và khi thôi viết,
đã đi 1
đường từ giã băng VH, với những ông bạn thân như Trúc Chi, Tạ Chí Đại
Trường -
nhờ viết muớn cho tờ VH mà quen được - bằng những dòng viết về nhân vật
Hương Cơ,
một nhân vật của Trúc Chi.
Em của GCC, hồi nào, đọc bài viết, mê lắm, có mail
khen!
Tôi vốn
không có thói quen
cất giữ báo Việt, thí dụ tờ Văn Học.....
[Nhớ là, Trúc Chi đọc, bật cười, phách lối thật!]
"Ngày
mai là ngày hôm
qua", đó là câu mở đầu cuốn tiểu thuyết "Gặp gỡ ở Westphalie"
của nhà văn Đức, Gunter Grass. Sau Cuộc Chiến Lớn 1939-45, những gì còn
lại của
nước Đức của ông chỉ là những điêu tàn, và một nền văn chương đã phát
sinh từ
đó: văn chương của những mảnh vụn, và phản ứng của một nhà văn trước
những mảnh
vụn đó: Làm thế nào, sau Hitler, những ngòi bút Đức viết lại sự sống,
Vũ Trụ
Luận? Làm thế nào con chim phượng hoàng thò cái mỏ của nó ra khỏi biển
lửa?
Heinrich Boll, Nobel văn chương (1972), nhà văn người Đức cùng thời với
ông, đã
viết: Chúng ta chẳng có bất cứ lý do gì để mà hổ thẹn về một nhãn hiệu
như
thế... Chúng ta nhìn sự vật như nó là, với con mắt trần tục, thường
không hoàn
toàn khô, và cũng không hoàn toàn ướt, nhưng mà là ẩm, bởi vì đừng
quên, từ
La-tinh diễn tả ẩm là humor, diễu cợt*. Nếu Grass không thể chọn một
văn phong
nào khác, ngoài văn phong ẩm (theo tôi có thể giải thích văn phong của
Phạm Thị
Hoài trong Marie Sến), ông cũng không thể nào chọn lựa những đề tài
khác: những
đề tài của tôi đã có sẵn, đã được "chỉ định": chế độ Nazi, hậu quả
của nó (theo như người viết được biết, đề tài, nhân vật trong Marie
Sến, đều
"thực" cả, tác giả của nó không hề hư cấu ra những nhân vật như thế).
Nguyễn Tuân, trong
một truyện
ngắn, cho rằng trăng mười bốn hơn trăng rằm: trong cái chưa chín có cái
chưa
tàn lụi. Nghe nói ở bên Nhật, có những cảnh chùa dở dang: cứ để dành
một khoảng
trống cho tín đồ nhập vào. Đây là sự khác biệt rất cơ bản giữa Đông và
Tây.
Charles Moore, trong lời giới thiệu tác phẩm Ca Ngợi Bóng Tối (21) của
nhà văn
Nhật Tanizaki, cho rằng đồng minh mãnh liệt nhất (the most powerful
ally) của
chúng ta (Tây phương) là ánh sáng. Dẫn Louis Kahn, một nhà kiến trúc:
'Mặt trời
chẳng bao giờ hiểu được nó tuyệt vời như thế nào, cho tới khi nó ngã
xuống bức
tường của một tòa nhà'; do đó việc xây nhà dựng cửa (là một trong những
đòi hỏi
cơ bản, đòi hỏi trú thân, nối kết, quần tụ với nhau, cho dù theo kiểu
ăn xổi ở
thì với nơi chốn thuộc về con người, hay con người thuộc về nó, nhưng)
đối với
chúng ta, cái nhà phải tương hợp với mặt trời, đồng minh số một, phải
giúp đồng
minh ban ánh sáng. Và ông cho rằng Tây phương đã "tá hoả" khi nghe
chuyện ca ngợi bóng tối và bóng đen; và đã sững sờ thích thú khi nhận
ra rằng,
nhạc sĩ, ở đâu đâu cũng thế thôi, tạo nên những âm thanh của họ, là để
nắm bắt
sự im lặng, và kiến trúc sư, khi tạo ra nhà cửa, là để ôm lấy quãng
không.
Thành thử cái thuyết tài mệnh
tương đố mà Nguyễn Du vin vào đó để làm khổ cô Kiều, là nằm trong
truyền thống
Đông-phương: không phải ông Trời ghen cái đẹp, mà là: ông Trời chỉ đẹp,
khi té
xuống, khi nhập vào một con người luân lạc như Kiều. Với Hương Cơ của
Trúc Chi,
tiếng đàn, trong chín phần hư cần một phần thực, và phần thực này, chỉ
có cuộc
đời - cuộc nồi da nấu thịt, củi đậu đun hạt đậu, chúng ông "chơi"
chúng mày... - mang lại cho nó thôi.
"Một
chuyến đi" hay quá bác Quoc
Tru Nguyen,
em thích cả đoạn Kafka btw, em nghe In praise of shadow lâu rồi, có đọc
trích đoạn tiếng Anh qua 1 số tác phẩm khác nhưng không nghĩ là chưa
từng được dịch ra tiếng Việt (ít ra là SG cũ đã phải dịch rồi chứ). Bản
dịch này là của my cousin, cá nhân em rất thích, nếu có điều kiện em
xin thay mặt dịch giả tặng bác 1 bản
Tks. NQT
V/v Kafka:
Walter
Benjamin, trong bài
viết về Kafka (16), nhận xét: "điều lạ là, đàn bà nòi đĩ ở trong truyện
Kafka không hề tỏ ra đẹp (these whorelike women never seem to be
beautiful)...
Hơn thế nữa, cái đẹp ở trong thế giới Kafka thường chỉ xuất hiện tại
những nơi
u tối nhất - ở giữa đám "tề nguỵ" (cho phép tôi liều lĩnh dịch chữ
"accused persons" như vầy, cho đúng với "tinh thần bài
viết"!)... "Vụ Án cho thấy những thủ tục là vô hy vọng đối với tội
nhân, vô hy vọng ngay cả khi họ có hy vọng để trắng án. Có thể chính
cái gọi là
vô hy vọng đã làm lộ ra cái đẹp ở nơi họ; chỉ có họ là được ông ưu ái"
(17). Benjamin nhớ lại một cuộc trò chuyện giữa Max Brod (18) và Kafka.
"Tôi nhớ lại", Brod viết, "một lần trò chuyện với Kafka, bắt đầu
bằng Âu-châu ngày-này và sự suy tàn của nhân loại. 'Chúng ta là những
tư tưởng
hư vô, những tư tưởng tự sát vốn đến từ cái đầu của Thượng Đế', Kafka
nói. Điều
này thoạt đầu làm tôi (Brod) nhớ tới ý niệm Gnostic (19), về cuộc đời:
Thượng
Đế chỉ là một ác thần. Thế giới: Sự Sa Ngã của Người. 'Ô, không phải
đâu,'
Kafka nói, 'thế giới chúng ta chỉ là một cơn xấu tính, bad mood, của
Thượng Đế,
một ngày xấu của người.' 'Vậy thì có hy vọng ở bên ngoài cái thế giới
mà chúng
ta biết'. Ông mỉm cười. 'Ôi, nhiều hy vọng, hằng hà sa số hy vọng -
nhưng không
cho chúng ta, dù chỉ một'. Những
lời nói này đã tạo cây cầu tới những
nhân vật
thực là kỳ quái của Kafka: những kẻ độc nhất đã thoát ra ngoài cái vòng
tròn
gia đình, chỉ với họ may ra có thể có hy vọng. Những kẻ không
phải là
loài vật;
ngay cả giống lai hoang (hybrids), hay nhân vật giả tưởng như Cat Lamb
hay
Odradek cũng không luôn; họ vẫn còn ở trong cái vòng tròn gia đình. Không phải
ngẫu nhiên mà Gregor Samsa thức giấc như là một con bọ ở trong nhà bố
mẹ, mà
không ở một nơi nào khác, và cái con vật khác thường nửa mèo nửa cừu
đó, là
thừa hưởng từ người cha. (Một nhân vật) Odradek như thế là mối
quan tâm
của
người cha trong gia đình. "Những kẻ trợ giúp", tuy nhiên, là ở bên
ngoài vòng tròn này. (The "assistants", however, are outside this
circle). (20).
Note:
Những dòng chót
- Tâm, trong Bếp Lửa của TTT, khi chạy thoát ông bố Bắc Kít, xứ Bắc
Kít, viết cho
Thanh - khép lại cuốn Bếp Lửa, cái gì gì, buộc vào quê hương, là phải
ruột thịt,
bạn bè không thôi, chưa đủ, có thể là từ Kafka, mà, có thể, khi đó TTT
chưa đọc
Thanh,
Không
ngờ Thanh còn nhớ đến anh.
Anh
cảm động khi đọc thư. Anh tưởng nơi quê hương không còn
ai nhớ đến anh nữa. Đôi lúc anh vẫn ân hận rằng anh không buộc với xứ
sở một dây
liên lạc nào ngoài anh ra. Nguời ta gặp nhau ở ngoài phố rồi quên nhau
ngay, thì
ở quê hương hay một phương trời nào khác gì nhau.
Một
hôm tình cờ anh nghe đài phát thanh và được gặp giọng hát
Thanh.
Vẫn
giọng ấy. Trở về mái nhà xưa. Anh định viết cho Thanh nhưng
anh nghĩ biết đâu, Thanh chẳng đã quên anh rồi như mọi người. Được thư
Thanh
anh phải cám ơn Thanh nhiều.
Thanh
lại sống một mình. Nga đã lấy chồng. Chắc Nga thôi viết
văn rồi nhỉ? Bên này anh cũng có người bạn gái là văn sĩ nổi danh.
Thanh hát lại
là phải, anh đã chẳng nói thế sao? Vợ chồng Minh vẫn mạnh khỏe, được
mấy cháu rồi?
Hãy nói với Minh lấy tên anh đặt cho một đứa con của Minh để anh được
đinh ninh
anh còn nhiều liên lạc với quê hương.
Chúng
ta là những người sinh ra để đi một mình suốt đời.
Thanh hãy can đảm nhận lấy điều ấy. Đi một mình suốt đời khó nhọc đấy
chứ. Không
có một sự gì ràng buộc ta, thật là bất hạnh.
Những
buổi trời lạnh, tự sửa soạn bữa ăn lấy, anh nhớ Thanh
hơn hết. Anh chỉ còn có Thanh và chắc Thanh chỉ còn có anh. Hãy cho anh
sự tin
tưởng khi anh có dịp trở về quê hương, anh đã có sự ràng buộc, ấy là
Thanh. Không
phải những người bạn. Bạn chưa đủ. Buộc vào quê hương phải là những
người cùng
máu mủ với mình.
Chúng
ta phải tự tạo lấy sự ràng buộc nhau để cùng bám chặt
quê hương, nếu không chúng ta sẽ mất trong sự quên lãng.
Anh
yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng.
Tâm
Viết
xong tại Thủ Dầu Một
vào
tháng 10-1956
Sài
Gòn Ngày
Nào Của Gấu
Epilogue
The Other
THIS book
has not been a self-portrait. I leave such a portrait to my friends and
enemies. All the same, I did find myself for many years in search of
someone
who called himself Graham Greene.
When I
bought Edward Thomas's Collected Poems more than fifty years ago, one
poem
called 'The Other' haunted me, though I didn't know why. It was not one
of
Thomas's best poems. It told of a traveller who along his road, at this
inn or
that, continually stumbled on the trace of someone exactly like himself
who had
preceded him along the same route.
I learnt his
road and, e'er they were
Sure I was
I, left the dark wood
Behind,
kestrel and woodpecker,
The inn and
the sun, the happy mood
When first I
tasted sunlight there.
I travelled
fast, in hopes I should
Out run that
other, what to do
When caught,
I planned not, I pursued
To prove the
likeness, and if true
To watch
until myself I knew.
The poem
ends,
He goes: I
follow: no release
Until he
ceases. Then I also shall cease.
[suite]
Graham Greene: Ways of Escape
Tên Gấu Khác
Có bao
nhiêu tên Gấu?
Cuốn sách
này đếch phải 1 thứ tự thuật. Gấu để cho mấy tên bạn quí làm cái cú
này.
Bạn
quí thì cũng cẩm như kẻ thù.
Tuy nhiên,
nói cho cùng, trong bao nhiêu năm tháng, Gấu Cà Chớn quả có cái hăm he,
ngông
cuồng, cà chớn, đi tìm 1 thằng cha Gấu Cà Chớn, khác, “Je est un
Autre”, như ông
anh nhà thơ của GCC đã từng.
GCC ra hải
ngoại, gặp lại cô bạn, cô phù dâu ngày nào, nhờ đó, làm được mấy bài
thơ, viết
được tí truyện ngắn, nhưng, nếu không có cái cơ may đọc cuốn trên, cái
gì gì, Đài
Gương Soi Đến Dấu Bèo [L'Inespérée, dịch ra tiếng Mít chẳng phải thế
sao?], thì
vô phương!
Thành ra, số
phận 1 bài viết, không phải chỉ là cái viễn ảnh của nó ở trong đầu bạn,
mà
còn do cơ
may ông Trời ban cho bạn.
Bài thơ Biển của GCC, cũng nhờ gặp lại cô bạn
mà làm được,
nhưng cái cơ may của nó, là ở câu nói của ông bạn đời của cô, khi giải
thích, bãi
biển này là bãi biển giả, cát ở đây, là từ nơi nào mang tới, chứ ở đây
không có
cát!
Bữa đó đó, cũng
những ngày mới qua Xứ Lạnh, mò vô 1 thư viện ở Toronto, mò tới khu sách
Tẩy, và tình
cờ cầm cuốn sách trên lên, tình cờ lật đúng trang, có những câu,
và nhìn ra bài viết ở trong đầu:
Anh viết kể
từ khi em đọc
Chữ sao muộn
màng so với cuộc đời của chúng ta
Nhớ, có lần cô bạn phán,
đọc vậy đủ rồi.
Viết về ta đi!
Cõi
Khác
1996
"J'écris depuis que tu me lis
Les mots sont en retard sur nos vies"
Christian Bodin (L'inespérée)
(Tôi viết kể từ khi em đọc
Chữ sao muộn màng so với đời sống của chúng ta)
Đau khổ nhất
là những ngày cô
bạn đi lấy
chồng. Vẫn những ngày tháng ngây ngô bên mớ máy móc, nghe tiếng người
nói xôn
xao từ những thành phố xa lạ phía bên ngoài địa ngục, qua đường dây
điện thoại
viễn liên, mơ màng tưởng tượng chiến tranh rồi sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ
hạnh
phúc, hạnh phúc... Hết còn nỗi ngây thơ tưởng mình ở trên cao, trên tận
đỉnh
cồn, thấy hết, hiểu hết. Vẫn những đêm dài điên cuồng đuổi theo bóng
mình sợ
hãi trốn sâu dưới đáy địa ngục, trong những hang cùng ngõ hẻm thành
phố, chạy
hoài, chạy hoài, không còn nơi để ghé, không còn chỗ để ngừng... Chỉ
mong gặp
lại những hồn ma quen, những gã phóng viên người Nhật, người Mỹ, hai gã
chuyên
viên Phi Luật Tân, để hỏi coi họ có còn luyến tiếc đất nước này hay
không, chỉ
muốn la lớn, tôi yêu em, tôi yêu em, cho cả thế giới, cả loài người đều
nghe...
Cho người chết gật đầu thông cảm.
Cũng trong cuốn Đài Gương Soi Đến Dấu Bèo, GCC khui ra được 1 câu, thần
sầu, áp dụng cho bài viết, cho tập truyện ngắn của 1 bạn văn
Và tôi cứ tưởng tượng ra cậu học trò ngày xưa, đã nói với cô giáo như
thế này:
"Đó là một điều cô dậy em, tâm hồn của em. Cô dậy em rất nhiều điều.
Trước tiên, cô đã nhốt em trong nụ cười của cô, như người học trò trong
lớp học tháng tám. Rồi cô trả em về thế gian, với bổn phận viết về nó,
như nó là: đen rợn người ở bên trên, trong trắng nhiệm mầu ở bên dưới .
"C'est une chose que tu m'as apprise, mon âme. Tu m' as appris beaucoup
de choses. Tu m'as d'abord enfermé dans ton rire comme un écolier dans
la classe au mois d'aout, puis tu m'as rendu au monde avec pour devoir
de l'écrire comme il est: affreusement noir en dessus, miraculeusement
pur en dessous."
(Christian Bobin, L'inespérée).
Đen một cách ghê rợn, phải chăng là những ngày dài, trước, trong, và
sau trại tù?
Trong trắng nhiệm mầu, là "vầng trăng thơ ấu mãi"?
NQT
BRODSKY
THROUGH THE EYES OF HIS CONTEMPORARIES
Brodsky qua mắt những người cùng thời với ông
Ông thi sỡi có yêu Đất Mẹ?
Ông tình nguyện đi hay ông là một gã lưu vong? Tại sao ông chẳng bao
giờ trở về, ngay cả để viếng thăm? Ông là một tín hữu Ky tô, theo bất
cứ nghĩa nào của từ này? Là một tên Do Thái có nghĩa gì không, đối với
ông? Ông vẫn là và luôn là một nhà thơ Nga, hay thực sự, là một người
Nga, trong bất cứ một ý nghĩa nào có thể chấp nhận được của từ này? Tại
sao ông rao giảng chuyện thờ phụng ngôn ngữ, và theo đường hướng nào
ông thờ phụng nó? Tại sao ông lèm bèm hoài về ‘đế quốc’? Tại sao ông cứ
cố tình tự mình dịch thơ mình qua tiếng Anh, và kết quả của cái việc
dịch đó có khá không?
Cùng với sự sợ hãi, sự
kính trọng, và một tình yêu chân thực, những cuốn sách này còn chứa
đựng một số những nhận xét thật tới, chưa từng có, về Brodsky, về cả
hai, con người và nhà thơ. Về nhà thơ, có nhận xét của Pyotr Vail:
“Pushkin là tất cả về, như thế nào, chúng ta muốn là; Brodsky là tất cả
về, như thế nào, chúng ta thực sự là”. "Pushkin was all about how we wanted to be;
Brodsky was all about how we really are".
Về con
người, Annelisa Allleva đưa ra những nhận xét ‘gay gắt, nhức nhối’, thí
dụ, “Ông ta ăn cắp tình yêu của nhân dân để giấu diếm sự bất an của
mình”. "He stole other people's
love in order to hide his insecurity".
Derek
Walcott nhào lộn cả hai nhận xét trên, thành:
Joseph [Huỳnh Văn] Brodsky đếch thèm để ý đến sự tách biệt giữa thiên
hướng nhà thơ và đời của ông. Ông là thí dụ đẹp nhất mà tôi biết về một
người, là một nhà thơ, theo một cái nghĩa nhà nghề của từ này.
"I was only too glad to be the handmaid of genius, and to be taken for
granted": Tớ thật hạnh phúc được là người hầu của thiên tài, và được
đảm bảo như vậy. Brodsky phán.
CHESS
Jorge Luis Borges
I
In their serious corner,
the players
move the gradual pieces. The board
detains them until dawn in its hard
compass: the hatred of two colors.
In the game, the forms
give off a severe
magic: Homeric castle, gay
knight, warlike queen, king solitary,
oblique bishop, and pawns at war.
Finally, when the players
have gone in,
and when time has eventually consumed them,
surely the rites then will not be done.
In the east, this war has
taken fire.
Today, the whole earth is its provenance.
Like that other, this game is for ever.
II
Tenuous king, slant
bishop, bitter queen,
straightforward castle and the crafty pawn –
over the checkered black and white terrain
they seek out and enjoin their armed campaign.
They do not realize the
dominant
hand of the player rules their destiny.
They do not know an adamantine fate
governs their choices and controls their journey.
The player, too, is
captive of caprice
(the sentence is Omar's) on another ground
crisscrossed with black nights and white days.
God moves the player, he,
in turn, the piece.
But what god beyond God begins the round
of dust and time and dream and agonies?
-Translated
by ALASTAIR REID
Ở cái góc nghiêm trọng của
họ,
Những kỳ thủ di chuyển những quân cờ.
Cái bàn cờ cầm giữ họ tới sáng
Bằng cái la bàn cứng cỏi của nó:
Lòng thù hận giữa hai màu cờ,
Một, cờ máu,
Và một, cờ ba que.
Trong cuộc chơi, là luật
chơi,
Một ma thuật nghiêm ngặt:
Lâu đài Hô me, kỵ sĩ xám, nữ hoàng thiện chiến, hoàng đế cô đơn,
giám mục xiên xẹo, và những con tốt lao vào cuộc chiến
Sau cùng, khi những kỳ thủ
đã nhập cuộc,
Và khi thời gian đã thiêu đốt cả đám
Rõ ràng là chẳng cần gì đến những nghi thức
[Bàn giao cái con khỉ, chúng ông lấy hết rồi,
Minh gà tồ còn gì mà bàn giao?]
Ở phía Ðông, lửa chiến
tranh bừng bừng
Ngày hôm nay, trọn trái đất thuộc về nó,
Như cái khác, trò chơi này là thiên thu, bất tận.
II
Hoàng đế tế nhị, giám mục
xiên xiên, nữ hoàng cay đắng,
Lâu đài thẳng thắn, và anh cu Sài láu cá –
Trên mảnh đất đen trắng của cái bàn cờ
Tất cả hăm hở tìm tòi, và sung sướng tận hưởng những chiến dịch…
Ðiện Biên, Mùa Hè Ðỏ Lửa, thí dụ.
Họ đâu có nhận ra,
Cái bàn tay thống trị của những thế lực quốc tế bửn thỉu,
Và hơn cả thế nữa,
Là những luật chơi của định mệnh.
Họ đâu có biết cái số phần cứng như gang thép,
Trấn ngự, cai quản những lựa chọn và kiểm tra những hành trình của họ
Kỳ thủ kia ơi, mi thì cũng
bị cầm giữ bởi tính bất thường
(Câu này thuổng Omar) trên một mảnh đất khác,
Ðan chéo nhau bằng những đêm đen, và ngày trắng.
Ông Giời di chuyển những
kỳ thủ, và tới luợt họ,
Di chuyển quân cờ
Nhưng Giời nào, ngoài Giời lại có Giời?
Thứ Ông Giời bắt đầu vòng luân hồi
Của bụi, thời gian, và những cơn hấp hối?
*
ECHECS
Ils sont
seuls à leur table austere. Le tournoi
Alterne ses
dangers; lentes, les pieces glissent.
Tout au long
de la nuit deux couleurs se haissent
Dans le
champ agencé qui les tient sous sa loi.
Radieuse
magie où joue un vieil effroi,
Des destins
rigoureux et parés s'accomplissent :
Reine en
armes, brefs pions qui soudain s'anoblissent,
Fou qui
biaise, tour carrée, ultime roi.
Le rite se
poursuit. Il reste ; il faut qu'il reste
Même si le
pied branle à la table déserte,
Même quand
les joueurs seront cherchés en vain.
Le profond
Orient nous légua cette guerre
Dont la
flamme aujourd'hui fait le tour de la terre;
Et comme
l'autre jeu, ce jeu n'a pas de fin.
II
Tour droite,
fou diagonal, reine acharnée,
Roi
vulnérable, pions qu'achemine l'espoir,
Par les
détours fixés d'un ordre blanc et noir
Vous
cherchez, vous livrez la bataille obstinée.
Mais qui de
vous sent sa démarche gouvernée ?
La main ni
le joueur, vous ne sauriez les voir;
Vous ne
sauriez penser qu'un rigoureux pouvoir
Dicte votre
dessein, règle votre journée.
Le joueur, ô
Khayam ! est lui-même en prison,
Et c'est un
échiquier que l'humain horizon:
Jours blancs
et noires nuits, route stricte et finie.
La piece se
soumet à l'homme, et l'homme à Dieu.
Derriere
Dieu, qui d'autre a commencé ce jeu
De
poussière, de temps, de rêve, d'agonie?
J.L. Borges.
[Bản tiếng
Tây của IBARRA, Gallimard, 1970]
Thời gian quen Joseph
Huỳnh Văn, Gấu tình cờ vớ được 1 bài thơ, bản tiếng Tây, của Borges;
một bài thơ nói về hạnh phúc. Ðọc thích quá, Gấu bèn dịch, đưa cho anh
đọc, và 1 tay nữa, nhạc sĩ Vũ Ngọc Giàu, tình cờ gặp lần đầu ở quán cà
phê Bà Lê Chân, của Huy Tưởng.
Ðó có lẽ là lần đầu tiên Gấu biết tới Borges.
Sau này, ra hải ngoại, đọc Borges, Gấu cố kiếm bài thơ cũ, mà không làm
sao kiếm ra. (1)
Khi biết tin anh mất, và có số điện thoại của gia đình,
Gấu có gọi về hỏi thăm, và chia buồn, bà xã của anh có nhắc tới đám bạn
quen từ trước 1975 mà chị còn nhớ, và nhân đó, chị nhắc tới bài thơ về
Hà Nội, mà ông chồng đang làm, chưa xong, cho tới khi anh đi, và chẳng
ai còn biết được nó ra làm sao, dù ai cũng gật gù, hay, hay lắm.
Trong một bài viết về anh,
Gấu có nhắc tới câu chuyện này, Hà Nội anh chưa từng nhìn thấy [vì có
bao giờ tính ra thăm đâu, chắc thế], và bài thơ dang dở về nó.
(1) Kiếm ra rồi. Dịch rồi,
đâu đó, trên TV
Avigdor
Arikha: Samuel Beckett au verre de vin, 1969
Beckett bên ly rượu vang
Beckett in
Love
Avigdor
Arikha: Samuel Beckett au verre de vin, 1969
Beckett bên ly rượu vang
Beckett in
Love
“If
you do not love
me I shall not be loved.”
“Nếu
em
không thương anh, thì chẳng có ai thương anh”.
The Swiss tennis champion Stan Wawrinka
has the words “Ever tried. Ever failed. No matter. Try again. Fail
again. Fail
better” tattooed in blue ink on the inside of his left forearm. The
lachrymose
ending of Israel Horovitz’s recent movie My Old Lady has Kevin
Kline
paying his respects at a tombstone on which are engraved the words “If
you do
not love me I shall not be loved.” The first of these quotations is
from Samuel
Beckett’s late prose piece Worstward Ho, the second from his
1936 poem
“Cascando.”
In their original contexts, they do not
work quite so well as motivational mottoes or sentimental consolations.
“Fail
better” (which I recently saw on a recruitment advertisement for a
financial
services company) is followed a few lines later by a reminder that, for
Beckett, the phrase is an exhortation, not to keep trying until you
succeed but
to keep failing until you fail completely: “Fail again. Better again.
Or better
worse. Fail worse again. Still worse again. Till sick for good. Throw
up for
good.” This doesn’t quite work on an athlete’s arm. As for “If you do
not love
me I shall not be loved,” it is quickly followed by another bout of
verbal
nausea:
the churn of stale words in the heart again
love love love thud of the old plunger
pestling the unalterable
whey of words
We are unlikely to see that on a
Valentine’s Day greeting card anytime soon.
Beckett loved tennis and his sense of
humor might have been gratified by the joke that contemporary culture
is
playing on him, making his enactments of futility themselves futile by
reading
them as cheerleaders’ chants. And he would have recognized the ironies
involved
in this transformation of wretchedness into celebration, for he faced
them in
his own lifetime, not least in the years after the utterly unexpected
success
of Waiting for Godot in the mid-1950s, which brought him money
and fame.
Success was not what Beckett had bargained for: his compact with the
Muses
stipulated that he must embrace, as his biographer James Knowlson
summarizes,
“poverty, failure, exile, and loss.” Instead of failing better, he was
now
succeeding worse.
Once upon... a sea
Trân trọng giới
thiệu.
Lần đầu chú bé di cư vừa
mới mất Hà Nội, ngu
ngơ, rụt rè làm quen phố phường, con người Sài Gòn, qua tấm bản đồ cầm
trên
tay. Khi đó lực lượng Bình Xuyên còn đang làm chủ thành phố. Tin theo
bản đồ,
chú bé băng qua một con lộ, không ngờ khu đó là một đồn binh. Người
lính gác bắt
thằng nhỏ đứng suốt buổi, lâu lâu, buồn buồn, lên cò súng lách cách,
tao bắn bỏ
mày.
Lần khác, là
một buổi sáng lang thang trên con phố Bonnard, gần chợ Bến Thành, nhìn
thấy một
người đàn ông đánh đập thật dã man một người đàn bà, không quên bài học
công
dân giáo dục, hôm sau là ngày đi thi Trung Học Đệ Nhất Cấp, chú băng
qua đường,
chạy vô bót Lê Văn Ken, ngay kế bên nhà thương Đô Thành, níu áo một ông
cảnh
sát. Bị ăn bạt tai, bị sỉ vả, chú bé khăng khăng đọc cho hết bài học
Công Dân
giáo dục thuộc nằm lòng, ông cảnh sát điên tiết, xách tai thằng bé Bắc
Kỳ di cư
buớng bỉnh, kéo xềnh xệch, từ đường Bonnard qua bùng bình Chợ Sài Gòn,
tới nhà
giam Quận Nhất, nằm phía sau rạp Đại Nam, đường Trần Hưng Đạo, khu Cầu
Ông
Lãnh. Khóc lóc, năn nỉ tới gần nửa đêm, ông cai ngục thương tình thả
ra, cho kịp
ngày mai đi thi!
Một lần tôi vào xóm chơi
bời, đi theo
một đứa con gái vào một căn phòng nhỏ, hôi hám, chật hẹp. Ngọn đèn dầu
le lói
chiếu sáng căn phòng đỏ lờ đờ. Khi tôi quay lại nhìn, cô gái nằm trên
giường,
thản nhiên chờ đợi, chẳng thèm để ý tới tôi. Đúng lúc đó, tôi chợt nhớ
đến một
buổi tối ở nhà T. Lúc đó T. đang ngủ. Nàng ngồi choàng dậy, thảng thốt
nói:
"Không, ai dậy anh làm vậy?" Tôi cười gượng gạo: "Đó chỉ là khám
phá bản thân, khám phá thân thể em và anh." Tôi nói gần như thét với
đứa
con gái: "Cởi quần áo ra!" Sự hổ thẹn theo tôi tới tận lúc đó.
Những Con Dã
Tràng
Bà cụ C. khi
đọc Những Con Dã Tràng, truyện ngắn đầu tay của Gấu, được ông anh nhà
thơ khen
um lên, bèn lắc đầu, thằng này bịnh, chắc là cụ muốn nói đến cái đoạn
trên. Tuy
nhiên một anh bạn phán, khủng khiếp nhất, sex nhất, là cái xen đánh đu:
Bấy giờ gió thổi mạnh,
cành lá xào xạc
ở phía trên đầu. Đám phi lao ngập ngừng chuyển mình, nửa muốn phụ họa
gió, nửa
muốn kéo dài giấc ngủ im lìm buổi trưa. H. cùng đứa em đánh đu ở phía
trước.
Hàng cây che khuất tầm nhìn của tôi. Mỗi lần chiếc đu trở lui về phía
sau, thân
hình người con gái lại hiện ra giữa hai thân cây phi lao, rồi lại mất
đi một
cách đều đặn. Tiếng cười giòn, nhẹ và ấm vọng tới chỗ chúng tôi. Rồi
gió thổi mạnh
làm át đi tất cả; trong gió có những con vật bé li ti, những chiếc lá
cây, và
những hạt cát.
Sau này, Gấu
đọc Steps, của Jerzy Kosinki, có 1
truyện, trong có đoạn, y chang đoạn trên, nhưng bịnh hơn nhiều, tuyệt
hơn nhiều.
Cảnh cái đu tới, rồi lui, rồi lui, rồi tới, được tái tạo, qua 1 tấm
gương.
GCC hăm he
hoài với chính mình, phải chôm, giới thiệu với độc giả TV. Cái đoạn này
còn làm
GCC nhớ đến 1 ông bạn trong Thất Hiền, là Phạm Năng Cẩn, có người yêu
là cô Phượng,
hình như vậy. Cô này, bạn học cùng lớp, thường đóng học phí giùm cho
bạn Cẩn,
GCC kể đâu đó rồi. Trước khi cô lấy chồng, hẹn gặp bạn Cẩn ở 1 phòng
khách sạn.
Bạn Cẩn mừng quá, sướng run lên, và khi gặp, cô ra lệnh, anh quay mặt
đi, khi nào
tôi cho phép thì hãy quay lại. Và khi Cẩn quay lại, thì nhìn thấy cặp
oản trắng
nõn của cô qua tấm gương trong phòng.
Tuyệt, nhỉ! (1)
GCC đọc Steps,
qua bản tiếng Tây, Les Pas, Những Bước Chân, khi còn
nhà sách Xuân
Thu, còn Sài Gòn. Cuốn khủng khiếp của ông, là The Painted Bird,
GCC
cũng đọc, qua bản tiếng Tây, dịch là Con
Chim Sặc Sỡ, L'oiseau Bariolé.
Trên TV cũng đã giới thiệu Jerzy Kosinski. Ông sau tự tử.
(1)
GCC biết đến
Jerzy Kosiński rất sớm từ những ngày còn Sài Gòn, khi cuốn sách của ông
nổi
đình nổi đám, và được tờ Văn
nhắc tới, và dịch cái tít theo bản tiếng Tây là
Loài Chim Dị Chủng, L'Oiseau bariolé, và liền sau đó,
nghĩa là, liền sau khi cày
thêm 1 job cho UPI, Gấu bèn ghé Xuân Thu tậu 1 cuốn của ông, cũng thật
là bảnh, Les Pas, bản tiếng
Tây của Steps.
Đúng là thần
sầu.
Thần sầu hơn
nữa, là, 1 cái truyện ở trong đó, rất giống trường hợp đã xẩy ra với
bạn Phạm
Năng Cẩn, 1 trong Thất Hiền của Gấu.
Bạn còn nhớ
ông bạn Cẩn này, hồi đi học, sống nhờ ông anh, có bà chị dâu tàn khốc,
và do đó,
thường là quên đóng học phí, và được 1 em học cùng lớp thương, cứ nhét
tiền vào
trong vở bạn Cẩn, trả học phí giùm.
Sau em đi lấy chồng, và trước khi đi lấy chồng
hẹn gặp bạn Cẩn ở.... khách sạn.
Ui chao bạn
Cẩn tới, sợ run, mừng run, và em ra lệnh, anh quay mặt đi chỗ khác.
Cẩn không chỉ
quay mặt đi chỗ khác, mà còn nhắm kín cả hai mắt. Khi em ra lệnh, quay
mặt lại,
và mở mắt ra, thì Cẩn nhìn thấy cái lưng trần của em và hai trái táo bự
ơi là bự, ở trong gương!
Cẩn chỉ được
hưởng hương, hưởng hoa, trước khi em đi lấy chồng.
Trong Les Pas
có 1 truyện tương tự, nhưng khủng hơn nhiều, bịnh hơn nhiều, chứ không
thanh
cao, trong trắng như trong trường hợp của bạn Cẩn.
Gấu Cà Chớn cũng gặp 1
trường
hợp tương tự bạn Cẩn. Trước khi lấy Gấu Cái, cũng 1 em đến gặp, tự động
phơi hến
ra, như cái em trong bài thơ của Sebald, cho anh đấy, hàng "zin", anh
nhìn hai cái
núm vú đỏ hỏn của em thì biết, nhưng chỉ với điều kiện, phải lấy em,
phải bỏ cái
cô có bầu với anh.
Gấu không thể
bỏ Gấu Cái, thế là đành lắc đầu, dù rất thèm!
Hà, hà!
Cô này, lần
Gấu về lại Sài Gòn, gặp lại. Có chồng, nhưng bỏ nhau đã nhiều năm, 1
mình lo
cho đàn con. Gấu rủ đi chơi, OK, nhưng tới khi đề nghị kiếm… khách sạn
thì cô lắc
đầu, ngày trước, còn zin, cho không anh, anh chê, bây giờ nát bấy như
quê hương
mỗi người chỉ có một, có đáng gì nữa, nhưng chỉ sợ anh già rồi, chẳng
làm gì được,
hến của tôi lại thẹn thêm một lần nữa.
Dã man thật.
Mà có thể
thế
thật!
Marlene Dietrich by
David Levine
GABRIELE ANNAN
Girl From Berlin
Originally published
February 14,1985, as a review of Marlene Dietrich's ABC, Ungar Marlene
D. by Marlene Dietrich. Grasset (Paris) Sublime Marlene by Thierry de
Navacelle. St. Martin's
Marlene Dietrich:
Portraits 1926-1960, introduction by Klaus-Jurgen Sembach, and epilogue
by losefvon Sternberg. Schirmer/Mosel; Grove Marlene a film directed by
Maximilian Schell, produced by Karel Dirka. Dietrich by Alexander
Walker. Harper and Row
Among the rarities
Schell has to show is a scene from Orson Welles's Touch of Evil (1958),
in which Dietrich was only a guest star. She plays the madame of a
Texas brothel, Welles a corrupt, alcoholic police chief on the skids.
He comes into the brothel and finds her alone at a table in the hall.
"You've been reading the cards, haven't you?" [he says].
"I've been doing the accounts."
"Come on, read the future for me."
"You haven't got any."
"Hm ... what do you mean?"
"Your future's all used up. Why don't you go home?"
Dietrich's voice is deadpan, but it breaks your heart all right with a
Baudelairean sense of the pathos of human depravity, degradation, and
doom.
“Cô gái từ Berlin” là 1
bài viết về nữ tài tử điện ảnh người Đức, Marlene Dietrich.
Trong phim “Cánh Đồng
Bất Tận", em đóng vai 1 bướm Xề Gòn, buồn buồn ngồi bói Kiều. Một tên
cớm Bắc Kít bước vô, ra lệnh:
-Coi cho ta 1 quẻ về tương lai.
Ngài đâu còn?
-Mi nói sao?
Tương lai của Ngài xài hết rồi, sao Ngài không về lại xứ Bắc Kít của
Ngài đi?
Giọng em bướm trong Cánh Đồng Bất Tận mới dửng dưng, bất cần đời làm
sao, nhung 1 tên Mít nào nghe thì cũng đau thốn dế, khi nghĩ đến 1 xứ
Mít tàn tạ sau khi Bắc Kít chiếm trọn cả nước.
Đúng là THNM!
Nga Hoàng Đỏ xây dựng Đế
Quốc Xô Viết quyền lực thứ nhì thế giới bằng cách làm thịt dân của
mình, chừng 20 triệu, cỡ đó. Từ tên trộm cướp cách mạng, le bandit
révolutionaire, biến thành 1 tên bạo chúa khùng. Đại Khủng Bố mỗi ngày
làm thịt 16 ngàn người.
Đế quốc VC như hiện giờ,
"cũng" đã được xây dựng lên, bằng cách làm thịt dân Mít của nó.
Cuộc chiến chống Pháp đúng ra không xẩy ra. Nó xẩy ra là vì VC muốn như
thế, nếu không thế không sao làm thịt lũ Việt gian được. Việt gian là
những kẻ không theo VC, những đảng phái quốc gia như VNQD D, thí dụ.
Cuộc chiến chống Mỹ cũng không thể xẩy ra, và nó xẩy ra vì Bắc Kít muốn
như thế.
Thơ để làm gì
Tưởng niệm Samuel Beckett
13 Tháng Tư 1906 – 22
Tháng Chạp 1989
Anne Atik
Người đàn ông đọc Kinh
Thánh
Tới và đi giữa hai ngày thánh
Ông thực sự cũng chẳng để ý nhiều đến chi tiết này
Thứ Sáu Tốt, ngày ông sinh
Và Giáng Sinh, ngày ông ngỏm
Đời ông ư? Một cuộc hành hương, với nụ cuời của người lữ hành, về những
gì mà ông nhìn thấy trên đường và viết về, ngủ vùi, tuổi tác, và hy
vọng và uể oải
Rồi nhìn, và viết về, quằn quại trên đường, tuổi tác và hy vọng và, nức
nở bất lực,
Thời sự
Orwell's
World
Top 12 of 2014. No.10:
it is now 65 years since George Orwell died, and he has never been
bigger.
His phrases are
on our lips, his ideas are in our heads, his warnings have come true.
How did this happen? By
Robert Butler
In a piece in Politico,
Timothy Snyder, professor of history at Yale, advises, “To understand Putin, read Orwell.” By Orwell, he means “1984”:
“The structure and the wisdom of the book are guides, often
frighteningly precise ones, to current events.” This is just the top
end of the range. Barely a minute goes by when Orwell isn’t namechecked
on Twitter. Only two other novelists have inspired adjectives so
closely associated in the public mind with the circumstances they set
out to attack: Dickens and Kafka. And they haven’t set the terms of
reference in the way Orwell has. One cartoon depicts a couple, with
halos over their heads, standing on a heavenly cloud as they watch a
man with a halo walk towards them. “Here comes Orwell again. Get ready
for more of his ‘I told you so’.” A satirical website, the Daily Mash,
has the headline “Everything ‘Orwellian’, say idiots”, below which an
office worker defines the word as “people monitoring everything you do,
like when my girlfriend called me six times while I was in the pub with
my mates. That was totally Orwellian.”
Viết
[from Blog NL]
Bếp Lửa, "miêu tả không
khí Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia
lìa hoặc cái chết. Lập tức có phản ứng của những nhà văn cách mạng.
Trong một bài điểm sách trên Văn Nghệ, một nhà phê bình hỏi tôi: "Trong
khi nhân dân miền Bắc đất nước ra công xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân
vật trong Bếp Lửa đi đâu?". Tôi trả lời: "Anh ta đi đến sự huỷ diệt của
lịch sử," mỗi nhà văn là một kẻ sống sót.
Tác phẩm thứ nhì của tôi, Ung Thư (1970) có thể coi như tiếp nối Bếp
Lửa. Ung Thư là chấp nhận giữa "vô thường", và chút hơi ấm của nỗi chết
(l'existence de notre acceptation entre la vanité et la tièdeur de
mort). Cuốn sách chẳng bao giờ được in ra...
TTT trả lời Le Huu Khoa, trong Thơ giữa chiến tranh và Trại Tù
“Thơ Thanh Tâm Tuyền
phải được đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến tranh' của một thành phố
mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay khung cảnh
ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của ông.”
Quỳnh Giao.
Hai cái tít Ung Thư, và
Nỗi Chết Không Rời, như trên cho thấy, là từ câu của Malraux, GCC nhớ
đại khái, hình như trong La
Voie Royale, mais accepter vivant la vanité de son existence, comme
un cancer, vivre avec cette tièdeur de mort dans la main.
Tuy nhiên, cái tít Mắt Bão, tên một cuốn tiểu thuyết mà ông tính viết,
như trong thư riêng gửi “đảo xa” của nhà thơ, cho biết, là của… Gấu!
Nhớ, lần ngồi Quán Chùa, GCC nói với ông anh, mình sẽ viết 1 cuốn tiểu
thuyết đặt tên là Mắt Bão, trung tâm của bạo động, nhưng bất động, đúng
cái cảnh GCC ở trên đỉnh cồn, là Đài Liên Lạc VTD thoại quốc tế, gửi
hình chiến sự trên toàn cõi Miền Nam, đi khắp nơi trên toàn thế giới,
tức là ngồi ở mắt bão..., ông anh gật gù, gợi ý thêm, mi phải đọc
sách... địa
lý, thì mới khui ra được những cái tít thần sầu.
Chắc là thấy thằng em chẳng viết viếc [làm đệ tử Cô Ba mà viết khỉ gì
nữa], ông anh bèn lấy cái tít và tính viết giùm thằng em chăng?
Chắc là không, vì cuốn mà ông tính viết, như thư riêng gửi “đảo xa” cho
thấy, thì vẫn là thời của ông, và Hà Nội, trước 1954.
Một câu hỏi, có tính 'tâm linh', liên quan tới cái việc cắt bỏ những
năm tháng cải tạo của TTT, trong đời ông, khi đưa cây thơ TTT vô Văn
Miếu.
Liệu đây là một việc làm tuyệt vời, theo nghĩa, thơ của ông, nhất là
những dòng thơ ở đâu xa, khi hoàn thành, là hoàn toàn thoát ra khỏi cõi
đó, cõi tù, hay hơn cả cõi đó, cõi đời?
Chúng, như hạc vàng "đi mất từ xưa", như rồng "được điểm nhãn", "nhất
khứ bất phục phản"?
Theo cái nghĩa mà Bonnefoy nói về thơ, D.M. Thomas nhận định về Dr.
Zhivago.
Hay, TTT nói về cõi thơ tù.
“ ...There
is another, more recent poetry which aims at salvation. It conceives of
the Thing, the real object, in its separation from ourselves, its
infinite otherness, as something that can give us an instantaneous
glimpse of essential being and thus be our salvation, if indeed we are
able to tear the veil of universals, of the conceptual, to attain to
it".
["Có một thứ thơ khác, gần đây thôi, nhắm sự cứu rỗi. Nó cưu mang Sự
Vật... trong sự tách rời của nó ra khỏi chúng ta... trong cõi khác vô
cùng của nó... nếu cần phải xé toạc bức màn vũ trụ, bức màn quan niệm
để có cho được."
Bonnefoy
Borges
Conversations
Conrad, Melville and the
Sea
Khi nhớ
quê hương, kẻ thì "thương nhớ đồng quê", người nhớ Sài Gòn, còn tôi,
tôi nhớ biển...
Lèm bèm về
biển là phải lôi hai ông này ra. Ông thứ nhất là..
Borges: Joseph Conrad?
Và ông thứ nhì là tác giả Cá Voi Trắng.
Borges: Đúng như thế. Nhưng hai ông này chẳng có gì giống nhau. Conrad
trau giồi thứ văn nói. Lẽ tất nhiên chúng là những câu chuyện của vì
phong nhã Marlow, người kể của hầu hết những câu chuyện. Về ông kia,
thì là Herman Melville, trong Cá Voi Trắng… một cuốn sách gốc, tuy
nhiên nó có hai nguồn, Shakespeare và Thomas Carlyle.
Trong Cá Voi Trắng, đề tài của nó: cái trắng khủng, the dread of the
whiteness. Thoạt đầu ông ta có thể nghĩ là, con cá voi trắng, con vật
đã xẻ thịt vì thuyền trưởng, được lọc riêng ra, từ những con cá voi.
Rồi ông ta phải nghĩ là, tốt nhất nên làm khác đi, bằng cách làm cho nó
thành trắng, tức cái tư tưởng, trắng là một màu cực khủng. Thường thì
chúng ra gán cho màu đen, với sự ghê rợn. Đen, rồi đỏ, như máu, thí dụ.
Nhưng Mleville bèn phán, trắng mới khủng, mà khủng thực. Có lẽ ông ngửi
ra điều này, từ 1 cuốn sách ông đang đọc.
Tôi nghi, ông ta kiếm ra điều này, là do đọc Poe, cuốn Chuyện Kể của
Arthur Gordon Pym. Bởi là vì đề tài của những trang chót, bắt đầu bằng
nước ở những hòn đảo, thứ nước thần kỳ, sau cùng bật ra cái trắng
khủng. Điều này còn giải thích Miền Bắc Cực đã từng bị xâm lăng bởi
những con vật khổng lồ màu trắng. Pym phán, bất cứ cái gì trắng gây
khiếp sợ. Và Meilville bèn chôm liền. Thú vị là, có 1 chương mang tên
“Cái Trắng Của Cá Voi”, trong đó, ông lèm bèm về trắng thì rất ư là
khủng khiếp.
Pham Nguyen Truong
Fidel Castro ngoẳn củ tỏi có thể là bịa
nhưng ít nhất đã có 36 người bất đồng chính kiến được ra tù là thật. http://news.mail.ru/politics/20685602/
Trận đánh
sau cùng của nhà độc tài Fidel Castro (1)
[Người Nữu Ước,
July 31, 2006]
Hoá ra với
ông thần này, cũng có cả một núi chuyện tiếu lâm.
Trước đây, là về sự bất tử.
Một lần, ông
được Bác Hồ biếu, một Cụ Rùa ở Hồ Gươm.
Đệ tử ghé
tai thì thầm, tuổi thọ của rùa, cao lắm chừng vài trăm năm.
Ông bèn lắc
đầu nói:
-Nhận, đến
lúc nó... đi, là mình buồn lắm, vì lỡ quấn quít với nó rồi!
Bây giờ, là về
Người
đi, ừ nhỉ,
Người đi thực!
Xác Người bầy
ra, đệ tử sắp hàng viếng thăm.
Đầu tiên là
Ngài Bộ Trưởng Ngoại Giao.
Ngài cúi đầu hơi bị lâu, ông đứng kế chờ hoài, khều
nhẹ:
-Mi làm chi
kỳ rứa? Hắn chết rồi mà?
-Thì tao biết
rồi, nhưng làm sao biểu cho hắn ta biết? (a)
Cuộc trả thù thần sầu của ông em Castro
Luôn nấp dưới
bóng ông anh, với cái nick “thằng em bé bỏng”. Nhưng Raul thực sự, là
ai?
Kẻ làm hòa với Mẽo? Kẻ muốn đem hòn đảo nhiệt
đới ra khỏi thiên đàng CS, hay, trước tiên, là kéo gia đình mình ra
khỏi Ngày
Phán Xét của lịch sử?
Gấu Cà Chớn
đã phán rồi, cá nhân nào cũng được Ông Trời ban cho 1 cơ may.
Cơ may của Đại
Thi Sĩ Kinh Bắc, là, “tao đéo viết”, khi Tố Hữu ra lệnh viết Tự Kiểm.
Của ông
Nobel Toán, là cầm cái bửu bối Nobel, dí dí vào Lăng Bác, hô, “Biến!”
Cơ may của Gấu, thì nhỏ bé
thôi,
là, không bỏ... Gấu Cái!
Hà, hà!
Tờ “Điểm Văn”,
điểm cuốn tiểu sử của Xì: A Georgian Caliban. Có 1 câu, lạ, ông ta có
khẩu
súng, và sử dụng nó. Bèn nhớ tới
Bác. Cũng có khẩu súng, cũng sử dụng nó, nhưng chối hoài.
Di chúc của Bác Lê, không
phải do Bác Lê viết mà bà vợ của ông ngụy tạo. Bà vợ nhận xét Xì tàn
bạo quá, để có
quá nhiều quyền lực, và để làm 1 nhà bếp sửa soạn những món ăn quá
nóng, “too
rude” to have gathered too power and to be a “cook who will prepare hot
dishes” .
Ông số 2, quen tay, bèn chôm liền:
Người Việt
vs Saigon Nhỏ
Tụi này cực bửn. Có vẻ như
chúng rất hả hê, trong khi bên nào thắng thì Mít hải ngoại đều nhục cả!
[Thuổng thơ Nguyễn Duy]
Note: Mới nhận mail của "Ông số 2": Tao đâu có chôm của mi?
Tưởng Niệm
Mai Thảo
Gió O
Trong bài viết
về Mai Thảo, của Hồ Nam, tức Vương Tân, ông cho biết bút hiệu Nhi của
MT, là từ
tên 1 em, Nhi, không phải Nhị, như Gấu lầm, trong viềt về ông.
Hồ Nam đã từng
viết 1 bài về Gấu, trong đó, ông coi truyện ngắn của Gấu thua của
Nguyễn Nhiệp
Nhượng.
Không phải vậy.
Hai thứ truyện ngắn đó
không thể so sánh. Của
Gấu, dù giả tưởng thế nào, thì cái nền của nó, là đời thực, là cuộc
chiến, là
thần chết đang hăm he gọi tên từng đứa, qua lệnh... nhập ngũ.
Còn
của NNN, hư ư ảo ảo,
rất giống thứ truyện của Julien Green, mà có lẽ ông chưa từng
đọc.
Gấu vs Hồ
Nam
Bài viết của
Hồ Nam, rất nhiều chi tiết sai. Nguyễn Tiến Văn không quen biết gì với
nhóm Tập San
Văn Chương, anh cũng không viết văn bao giờ, cho tới bây giờ.
Một thứ
mastermind, đệ tử của Nguyễn Đức Quỳnh, mê làm chính trị, không phải
văn chương,
như Gấu nghĩ.
Tập San Văn Chương ra đời rất lặng lẽ, đâu có như Hồ Nam viết.
Tờ
Nghệ Thuật, như Gấu biết, là của Vũ Khắc Khoan, tiền làm báo, của Râu
Kẽm, như
chính ông sau này xì ra, trong lần tranh cử với Thiệu, 500 ngàn, như
Gấu còn nhớ
được.
Đam mê trò chơi văn chương mà gán cho Gấu, sợ cũng không đúng. Gấu chưa
từng coi nó là trò chơi, chán thế! (1)
(1)
Gấu này cứ
trở đi trở lại với kỷ niệm, cái lần vô một thư viện Bắc Mỹ, tình cờ cầm
cuốn
Ngôn ngữ và Câm lặng của Steiner lên, và nhìn ra cái trang Tin Văn sau
này.
Nhân ngày 30
Tháng Tư năm nay, 2008, Gấu tự hỏi chính mình, "huyễn hoặc nào đưa đến
huyền
thoại Tin Văn", mô phỏng bạn hiền DT.
Và, làm sao
"giải hoặc"?
Chỉ đến những
ngày cuối đời, như ngày này, Gấu mới hiểu ra ngọn ngành.
Huyễn hoặc
khủng khiếp mà cuốn sách gây ra ở nơi Gấu, chính là hình ảnh nhà văn
Tam Ích,
tà tà xếp những cuốn sách của ông thành một chồng, rồi tà tà leo lên,
tròng cái
thòng lọng vô cổ, rồi bye bye cuộc đời, sau khi đưa chân đá đổ chồng
sách.
Trong cái chấn
động mà những trang sách, những dòng chữ của Steiner gây nên ở nơi Gấu,
có hình ảnh của Tam Ích, như trên!
Cùng với
hình ảnh đó, là lời than của ông: Tuổi trẻ của tôi đúng là thật tuyệt
vời, nếu
tôi không vớ phải những cuốn sách viết về Lò Thiêu.
Nếu như thế,
Tam Ích đi theo Cộng Sản, là cũng giống như Koestler, khi gia nhập Đảng
Cộng Sản
Đức: Hitler ante portas? (2)
(2) Mấy chục
binh đoàn VC đang chờ ở cửa ngõ Sài Gòn!
*
Marx lật ngược
triết học Hegel, ra chủ nghĩa Marx.
Nếu như thế,
Gấu lật ngược kinh nghiệm Tam Ích, ra trang Tin Văn, mà ở dưới nền của
nó, là
'huyễn hoặc': Giả như dân Mít chúng ta, nhất là đám Yankee mũi tẹt biết
đến Lò
Thiêu, liệu có để xẩy ra Lò Cải Tạo?
*
Note: Một độc
giả Tin Văn, mail, đưa ra một 'huyễn hoặc' thật là hắc ám:
Giả như dân
Mít biết đến Lò Thiêu, và bèn hành xử y chang ông "Ba X" nào đó, thì
mất mẹ giống Mít ư?
Ui choa thế
thì khủng khiếp quá! NQT
Mai
Thảo
Obituary:
Billie Whitelaw
Ai điếu BW: Giọng Thầy
Her
master’s voice
ALL that could be seen was her
mouth. A mouth that opened and closed convulsively, clenching its
teeth, flickering its tongue, like some glutinous, repulsive sexual
object. Out of it came a stream of wild, jumbled reminiscences, faster
and faster
Tiểu sử
Kafa, bản chung quyết, gồm hai cuốn, "Những năm quyết định, decisive
& Những
năm đốn ngộ". Bìa dầy, khổ lớn, cả hai cuốn xấp xỉ hai
ngàn trang.
Đây là món quà đầu năm của Gấu
Cà Chớn.
Thèm lâu rồi, từ khi mới xuất hiện, đọc, toàn những bậc tổ sư, ca thấu
trời!...
Bức hình nổi tiếng của
Khaldei, được Tolstaya nhắc tới trong bài viết "Chính uỷ biến mất": Tay
viên sĩ quan quả có tới hai cái đồng hồ!
Những người
muôn năm cũ...
Tiếng Cười và Sự
Quên Lãng
From
Russia With Love
Văn
Học Ngụy vs Văn Học VC
Trang VHNT
trên net đầu tiên ở hải ngoại, là của Phạm Chi Lan. Bao nhiêu người
viết thành
danh, từ đó, nhờ nó.
Do bịnh PCL
phải đóng cửa.
Rồi tới những
trang khác, của lũ Ngụy, thí dụ của Bà Huệ, tuy có hơi tí khùng, nhưng
lương
tâm thẳng băng, vưỡn thường xuyên có mặt, không khi nào dọa, nay đóng
mai đóng,
nay tạm biệt, nỗi buồn nhỏ, mai đi xa, nỗi đau to!
Nay khép lại,
mai… mở ra?
Hai lần mở, là
hai lần chửi bới, “đánh”, hết người này, tới người khác, bằng đòn ngầm,
đòn khốn
nạn, toàn là những người đã từng tin tưởng, đã từng cộng tác, làm sao
không chết?
Mà, không lẽ
Bắc Kít đều là… như thế, tất cả?
Nếu không phải
như thế, thì hãy chỉ cho GCC một trang net văn học Bắc Kít đàng hoàng,
không đố
kỵ,
không to miệng. Một trang net thật bình thường, chuyên về văn học, dịch
thuật, thời sự Mít.
Gấu đã từng
hy vọng như thế, khi talawas mới xuất hiện, bèn xung phong, nhỏ máu đầu
ngón
tay, viết đơn xin làm thằng hầu, với 1 loạt bài, mà chính Sến còn phải
mừng rỡ,
cám ơn rối rít.
Vậy mà còn
có người than khóc?
TẠI SAO GỌI LÀ "VĂN HỌC ĐÔ THỊ MIỀN
NAM"?
Nhân cuộc hội thảo về văn học Miền Nam
1954-75 được tổ chức tại California
trong hai ngày 6 và 7 tháng 12 năm 2014 vừa qua, tôi không khỏi nghĩ
ngợi về
một thuật ngữ mới xuất hiện ở Việt Nam mấy năm gần đây: “văn học đô thị
miền
Nam”.
Note: Mới
cái
con
khỉ. Từ này, có từ đời nảo đời nào rồi, có thể là cùng với sự xuất
hiện của
MTGP. Tên VC nằm vùng NBC, trùm ổ VC tại Mẽo đã sử dụng nó, cùng với
nhóm từ “hang
ổ cuối cùng của Ngụy”, là Sài Gòn.
Tên này, nhờ Ngụy cho đi du học, và
do học dốt,
nên phải bỏ tiền ra đút lót mới thoát chết, thay vì đời đời
cám ơn
Ngụy, thì lại quay chửi.
Ngay cả đám nhà văn Ngụy, mấy đấng thực sự cầm
súng,
nhưng viết dở như hạch, thì cũng có cách nhìn này, chúng ông mới là nhà
thứ thiệt,
đâu phải lũ Sài Gòn?
Nhưng gọi là
cái chó gì cũng được, bởi là vì nó chết rồi. Muốn tái sinh nó mới khó.
Tên K này
gọi nó là bất hạnh, còn bửn hơn nhiều so với cụm từ văn học đô thị.
Tribute
to Bùi Ngọc Tấn
A French
essayist has said: ‘What is terrible when you seek the truth, is that
you find
it.’ You find it, and then you are no longer free to follow the biases
of your
personal circle, or to accept fashionable clichés. "What is terrible
when
you seek the truth.... "
A dictum to
be pinned above every writer's desk.
Sunsan
Sontag: The Case for Victor Serge
Một anh Tẩy
phán: Cái khủng khiếp nhất, khi anh tìm sự thực, là khi anh tóm được nó
Câu này phải
dán ở bàn viết của mỗi anh nhà văn, nhất là nhà văn VC!
Gấu tính đi
bài này, mấy lần rồi. Nay nhân BNT đi xa, có lẽ đành phải dịch nó,
không phải
cho BNT, mà cho những tên như ông, cũng sắp đi như ông!
Unextinguished
The Case for
Victor Serge
"After
all, there is such a thing as truth."
- The Case
of Comrade Tulayev
How to
explain the obscurity of one of the most compelling of
twentieth-century
ethical and literary heroes, Victor Serge? How to account for the
neglect of The
Case of Comrade Tulayev, a wonderful novel that has gone on being
rediscovered
and reforgotten ever since its publication, a year after Serge's death
in 1947?
Is it because no country can fully claim him? "A political exile since
my
birth"-so Serge (real name: Victor Lvovich Kibalchich) described
himself.
His parents were opponents of tsarist tyranny who had fled Russia in
the early
1880s, and Serge was born in 1890 "in Brussels, as it happened, in
midjourney
across the world," he relates in his Memoirs of a Revolutionary,
written
in 1942 and 1943 in Mexico City, where, a penurious refugee from
Hitler's
Europe and Stalin's assassins at large, he spent his last years. Before
Mexico,
Serge had lived, written, conspired, and propagandized in six
countries:
Viết
Bác này hay
chê….
Còn trẻ, Gấu đọc ai, nếu
không ưa, không hợp, thì thường là bỏ qua, và chính vì bỏ qua, vờ, nên
đã
bị Duyên
Anh chửi ròng rã gần 1 năm trời trên nhật báo Sống.
Vờ, không nhắc tới Duyên
Anh, chưa nói chê, mà đã bị chúng đánh đòn hội chợ.
Rồi khi mới
ra hải ngoại, báo nào cũng viết, mặt dầy, không cần mời, vẫn bị chúng
chửi, nào
talawas, nào Hạ Bộ, nào Da Mùi.
Gấu bắt đầu
chửi, là khi đã quá thất vọng về văn chương Mít, và, bèn thay đổi
policy, chửi, thật
dữ, may ra có thay đổi.
Cái vụ Gấu
chửi đám nhà văn lính Ngụy, là có lý do: Chính chúng có phần lỗi, quá
nặng, trong
cuộc chiến, do cái thứ văn chương lính tráng, viết đã dở, mà hơi chút
là vãi nước đái ra
Liệu có ai tò mò đếm coi nhà văn cận thị nặng, thám báo thám biếc, đã
bỏ
ra bao nhiêu dòng, để viết, chỉ về cái hành động, ngưng chiến tranh 1
tí, để… lau kính?
[Ý này, Gấu diễn lại 1 câu nói của
NMG về văn của THT]
V/v Viết dở
như hạch, và hơi 1 tí là vãi nước đái ra.
GCC đọc lại
dòng trên, và kỳ cục làm sao, bất giác nhớ tới bài viết ngắn của
Bolano, trong “Trong
ngoặc”, về Gunter Grass.
Bolano đọc
"Thế Kỷ Của Tôi", của Grass, và chê, như kít, so với "Cái Trống Thiếc",
cũng của
Grass, như … Trời!
GCC post dưới
đây, và dịch sau.
GRASS'S
CENTURY
From a
writer like Gunter Grass, one expects a masterpiece even on his
deathbed;
though by all indications My Century (Alfaguara) will be only the
second-to-last of his great books. It's a collection of short stories,
one for
each year of the century now behind us, in which the great German
writer examines
the frequently tortured fate of his country. From the first soccer
teams to
World War I, from the economic crisis of the twenties to the rise of
Nazism,
from World War II and the concentration camps to the German Miracle,
from the post-war
period to the fall of the Berlin Wall, everything has a place in this
book,
which manages to seem short though it's more than four hundred pages
long,
perhaps because the succession of horrors, the succession of disasters,
and the
human instinct for survival despite everything make it feel that way:
the
century has exhaled. The Grass of this book, of course, isn't the Grass
of The Tin
Drum or of Dog Years or The Flounder, to mention just three of his
great and
all-encompassing works. Here we have before us a crepuscular and
fragmentary
Grass, as merited by the occasion, and also a seemingly (though only
seemingly)
weary Grass, who embarks on the review of his German century, which is
also the
European century, with the convict of having traversed an enduring
piece of
hell and also with the certainty, the old and maligned and magnificent
certain:
the Enlightenment, that human beings deserve to be say even though
often they
aren't saved. We're exiting the twentieth century marked by fire.
That's what
Grass tells us. And he tells it in some wonderful stories, alive with
humor and
pain written as if by a young man of thirty, full of energy and with a
long
life ahead of him.
Từ 1 nhà văn
khổng lồ như Grass, người ta hy vọng 1 cuốn khổng lồ, ngay cả khi ông
đang hấp
hối nằm trên giường, chờ chết. Tuy nhiên, dù có thổi như Tố Hữu thổi
Xì, thì cuốn
“Thế Kỷ Của Tôi”, chỉ đáng... chùi đít!
Me-xừ Grass của cuốn này, không phải me-xừ Grass của Cái Trống Thiếc….
Sờ, rờ
Tên K này bị
ám ảnh bởi cái mu của Nguyệt Nga.
Hắn đã từng viết về đề tài này, trong
1 bài
viết trên Văn Học, thời Gấu mới làm công cho ông chủ NMG.
Mấy câu ca
dao Nam
Bộ, là để chọc quê Đồ Chiểu. Một lương tâm Nam Kít, OK. Chở bao nhiêu
đạo, thuyền không khẳm. Họ yêu cả hai nhân vật của Đồ Chiểu, nhưng
họ tức
cười về thái độ của LVT, qua câu thơ, khoan khoan ngồi đó chớ ra, nàng
là phận gái
ta là phận trai. Và họ bèn làm ca dao, chọc quê, mà cũng để khuyên nhủ
Đồ Chiểu, đừng cương quá!
Và nếu như
thế, thì phải là 1 từ thật tới, thật đã, mới đúng.
Nghĩa là, không phải
sờ, không
phải rờ, mà là... bờ.
Ở đây là phải... bóp!
Gấu, khi đó,
đã đi 1 bài, nhân bài của tên K, để viết, về 1 đề tài khác, và đề
tài này, hiện đang sôi
động trên net, đường về gian nan
TATYANA
TOLSTAYA
Photo Booth: Josef Koudelka’s “Invasion
Prague 68”
Bạn phải tưởng tượng ra
1 em văn công DTH, thay vì ngồi xuống vệ đường Sài Gòn, và khóc, thì
mang theo
1 cái máy camera, và chụp.
TV sẽ dịch bài này, sau.
Vào
ngày 21, Tháng Tám, 1968, ở Prague, Josef Koudelka - một người đàn ông
với cái
camera, nửa đêm nhận được cú phôn của bạn, cho biết, xe tăng Xô Viết đã
vượt
biên giới vô Czechoslovakia. Cùng lúc, là những phi cơ vận tải với
những binh
đoàn nhảy dù, xe tăng nhẹ, pháo.. hạ cánh xuống phi trường
Ruzyne, ngoại vi
Prague. Ðây là 1 phần của lực lượng sau cùng bao gồm hơn 250 ngàn binh
sĩ thuộc
Hiệp Ước Warsaw, mỗi người lính là 1 khẩu AK, và lời bảo đảm của thượng
cấp,
chuyến đi này không phải là "xẻ dọc TS ăn cướp MN", mà là 1 đáp ứng lời
kêu gọi
“giải phóng” MN của MTGP!
Mùa
Xuân Praque đã chấm dứt như thế đó: Một cú đặt cọc cho mớ võ khí nặng
sau cùng
đã đào mồ chôn Ðế Quốc Xô Viết.
Tôi
rời Quân đội Tháng Chạp 1969. Trở lại Moscow bằng xe lửa. Ðó là ban
đêm. Chúng
tới ga Belorussky Rail Terminal, và đi bộ dọc theo phố Tverskaya Street
nhắm hướng
Kremlin. Chúng tôi đều có hơi ruợu và, ba hoa, có phần hung
hăng. Chúng tôi gặp một ông già, một cựu binh từ Ðệ Nhị Thế
Chiến.
-Sao
tụi mi la lớn thế?
Ông ta hỏi chúng tôi.
-Tụi
tôi vừa giải phóng Prague.
Ông
già quạt lại:
-Câm
miệng, thằng ngu. Mi không biết cả những gì mà mi đang nói đó.
Và
đó đúng là một lời phán lương thiện nhất về cuộc xâm lăng Prague mà tôi
đã từng
nghe được.
-Ðảng
không dạy mi cách ăn xin hử?
-Không. Ðảng chỉ dạy chúng ông cách ăn cướp.
|