*




*

Thế Kỷ Khùng Của Tớ

Khởi đầu của con đường đưa tới Mùa Xuân Prague, được ghi dấu ở trong hồi ức của tôi, bằng cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Skvorecky, Những kẻ hèn nhát, Les Lâches, xuất bản năm 1956, và được đón nhận bằng một trận lửa thù từ giới chức nhà nước. Cuốn tiểu thuyết trình bầy một khởi đầu lớn lao của văn học đó, nói về một điểm khởi đầu lớn mang tính lịch sử: một tuần lễ của Tháng Năm 1945, trong đó, sau sáu năm bị Đức chiếm đóng, nước Cộng Hòa Tiệp lại ra đời. Nhưng tại sao lại hận thù như thế? Cuốn tiểu thuyết cực kỳ chống cộng, cực kỳ phản động? Không đâu, làm gì có chuyện đó! Skrorecky thuật câu chuyện một anh chàng trẻ tuổi mê khùng mê điên nhạc jazz  (như Skvorecky), bị cuốn hút vào cơn lốc vài ngày của một cuộc chiến chấm dứt với đoàn quân Đức quỳ gối đầu hàng, trong khi kháng chiến Tiệp vụng về tìm kiếm nó, và trong khi người Nga ùa tới. Chẳng có tí chống cộng, nhưng mà là một thái độ, một không khí không chính trị, và, vui như tết: tự do như khí trời, nhẹ như tơ trời, không ý thức hệ một cách rất ư là bất lịch sự, vô lễ, hỗn láo, impoliment.

Rồi thì, chỗ nào cũng thấy khôi hài, tiếu lâm, một thứ tếu tếu, cà chớn không hợp thời, không đúng lúc. Điều này khiến tôi nghĩ rằng trên khắp các phần đất của thế giới, con người cười không giống nhau. Làm sao nghi ngờ chất hài của Bertolt Brecht? Nhưng ông chuyển thể thành kịch trình diễn tác phẩm Người lính can đảm Chveik cho thấy, ông chẳng hiểu gì về chất hài của Hasek. Tiếu lâm của Skvorecky (cũng như của Hasek hay của Hrabal) là tiếu lâm của những người ở xa quyền lực, chẳng màng quyền lực, và coi Lịch sử như một mụ phù thuỷ già, mù, mà những phán bảo đạo đức của nó làm họ bật cười. Và tôi coi thật có ý nghĩa, chính cái tinh thần không-nghiêm trọng, bài-đạo đức, bài-ý thức hệ đã mở ra, vào lúc rạng đông của những năm 60, một thập kỷ lớn lao của văn hóa Tiệp (vả chăng, thập kỷ cuối cùng mà người ta có thể gọi là lớn lao)

Kundera: Gặp Gỡ

Klima thuộc trào lưu này, như trong bài điểm cuốn hồi ký trên tờ TLS 19 & 26 Dec 2014, cho thấy: Văn chương bảnh nhất cuối thế kỷ của Czech, nổi loạn chống đòi hỏi ngoại văn chương, của cả hai, một chính thức, của nhà nước, và một không chính thức. Nó cố tìm một không gian không bị nhiễm độc bởi cả hai, và trên tất cả, vứt vô thùng rác, những đòi hỏi mang tính mệnh lệnh của chính trị: một cuộc chiến đấu, mà tiểu thuyết chính nó, trình diễn, chống lại thứ văn chương người chứng bằng tính khinh bạc của người nghệ sĩ.

Một cách nào đó, chúng ta bàng bạc thấy tình thần này ở nhóm Mở Miệng.

*

Tờ TLS số này còn bài điểm cuốn tiểu sử của Havel cũng thật thú.

GCC vưỡn chửi đám cực kỳ thông minh Bắc Kít, óc tên nào cũng bị thiến 1 mẩu, chính mẩu có lương tri con người, thanh thử, một khi thời cơ tới tay, thì bèn vờ. Tay Nobel Toán được Trời cho ra đời đâu phải để lấy Nobel, nhưng mà là để cầm cái bửu bối đó, dí vô lăng Bác, hô, biến! 
Đại thi sĩ Kinh Bắc, đâu phải chỉ để làm thơ Kiều Loan, Tìm Lá Diêu Bông, mà là để phán, tao đéo viết, khi Tố Hữu bắt viết Tự Kiểm, rồi tha!

Havel cũng phán như thế, trong 1 câu thật là tuyệt vời, được cái tay điểm sách trích dẫn:

"I remind myself of what [Jan] Patocka once told me: the real test of a man is not how well he plays the role he invented for himself but how well he plays the role that destiny has assigned to him." So Vaclav Havel remarked in 1986 in a conversation later published in English as Disturbing the Peace (1990), the nearest thing we have to an autobiography (not excluding To the Castle and Back, essentially a collage of reminiscences and presidential instructions). This "test" is also the central dilemma confronting any biographer of the dissident playwright who in 1989 took the centre stage of the "Velvet Revolution" that changed his country, the world and his own life. It accounts for the lasting fascination with Havel's character and story, but also for some of the contrasting - and not always satisfactory - attempts to come to terms with them.

Thử nghiệm thực sự của người đàn ông không phải là, như thế nào, hắn chơi vai trò hắn phịa ra cho chính hắn, nhưng, như thế nào hắn chơi thật bảnh cái vai trò mà số mệnh trao cho hắn.
Chơi thật bảnh vai trò được số phận trao cho: Brodsky đã từng chơi tuyệt hảo vai trò của ông, ở toà án Liên Xô, như David Remnick kể lại trong bài viết, Ở Trên Đỉnh, At The Pitch, mà Tin Văn đã giới thiệu.

Bằng kinh nghiệm riêng tư của mình, bằng cuộc đời thê lưong của mình, Gấu suy ra, bất cứ ai, bất cứ 1 con người, thì cũng được Thượng Đế trao cho một "cơ may" như thế, mà nếu bạn vờ, là kể như đời của bạn vứt đi.
Cái tên Nobel Toán bây giờ có viết cái đéo gì thì cũng chẳng ai tin nữa.

Sakharov, cũng thế. Cha đẻ bom nguyên tử của Liên Xô, sứ mệnh, số mệnh của ông đó ư? Không phải. Số mệnh của ông, là đạp đổ hết, nói không với nhà nước, chấp nhận tù đầy lưu vong.

"Không có chiến thắng nào mà không có thể đảo ngược, không có thất bại nào là chung quyết. Đó là điều làm cho cuộc đời xứng đáng để cho chúng ta sống, nó".

Note: Khi NBC được Nobel Toán, GNV đã mơ mòng tưởng tượng ra, một cú tương tự như trên.
“Chàng” đứng giữa Bắc Bộ Phủ, Ba Đình, Lăng Bác H… dõng dạc cảnh cáo:
"Không có chiến thắng nào mà không có thể đảo ngược, không có thất bại nào là chung quyết. Đó là điều làm cho cuộc đời xứng đáng để cho chúng ta sống, nó". (1)
Ui chao, mừng hụt! NQT

Trường hợp Sến, cũng xêm xêm ông Nobel Toán. Vào đúng cái lúc nhân loại cần nhất, với chỉ 1 cá nhân, như trong cas của Brodsky [ai cho phép mi là thi sĩ vs ai cho phép ta đứng vào hàng ngũ nhân loại: Ông Giời!], (2) thì Sến làm hỏng, do….  ngu quá, coi cái tôi của mình là số 1 trong thiên hạ.
Óc của Sến cũng mất một mẩu, nhưng, thay vì vờ, thì làm hỏng!
Nhớ, thời điểm talawas xuất hiện, Chúa cũng nhìn về phía đó, và cầu nguyện, và hy vọng!
Rồi anh Đầu Bạc, xém mất mạng vì nó. Cái gì gì, sinh mệnh chính trị, nồi cơm, xém bể.
Cô em thi sĩ, bị bà chị sai thằng em, Trùm Kớm tố káo, đạo văn!

Đọc bài của bà Võ Thị Hảo vinh danh Sến trên RFA, (1) Gấu thấy buồn cười: Sến làm hỏng, không chỉ 1, mà tới 2 lần.
Quá tam ba bận. Còn lần nữa, chờ coi!
GCC đã viết nhiều về Sến, trong bài "Tại sao ghét talawas", thành ra, thôi, cho qua!

(2)

Tòa án: Công việc của anh?
Brodsky: Tôi làm thơ, tôi dịch thuật. Tôi tin rằng...
Tòa án: Không có "Tôi tin rằng". Đứng thẳng lên. Không được dựa vào tường. Trả lời Tòa án như đã được chỉ định. Nào, bây giờ anh làm việc toàn thời gian phải không?
Brodsky: Tôi nghĩ tôi có một việc làm toàn thời gian, vâng.
Tòa án: Trả lời rõ rệt.
Brodsky: Tôi làm thơ. Tôi nghĩ chúng sẽ được xuất bản. Tôi tin tưởng rằng...
Tòa án: Tòa không cần biết tới chuyện "Tôi tin rằng". Hãy trả lời, tại sao anh không làm việc?
Brodsky: Tôi làm việc, tôi làm thơ.
Tòa án: Tòa không quan tâm tới chuyện đó. Tòa quan tâm tới xí nghiệp mà anh làm việc.
Brodsky: Tôi có hợp đồng với nhà xuất bản.
Tòa án: Hợp đồng có cho anh đủ tiền để nuôi sống bản thân không? Hãy kể chúng ra, cho biết rõ ngày tháng, số tiền.
Brodsky: Tôi không nhớ rõ. Luật sư của tôi giữ những hợp đồng đó.
Tòa án: Tòa hỏi anh.
Brodsky: Ở Moscow, hai cuốn sách dịch thuật của tôi đã được in.
Tòa án: Kinh nghiệm làm việc của anh?
Brodsky: Nhiều hay ít...
Tòa án: Tòa không quan tâm đến chuyện nhiều hay ít.
Brodsky: 5 năm.
Tòa án: Anh làm việc ở đâu?
Brodsky: Trong xưởng thợ. Với đoàn thám hiểm...
Tòa án: Đại khái, chuyên môn của anh là gì?
Brodsky: Thi sĩ, dịch giả.
Tòa án: Ai chỉ định anh là thi sĩ? Ai cho anh vào hàng ngũ những thi sĩ?
Brodsky: Chẳng ai cả. Ai cho tôi vào hàng ngũ nhân loại?
Tòa án: Anh có học về cái đó không?
Brodsky: Học về cái gì?
Tòa án: Để trở nên thi sĩ. Anh không hề cố gắng học xong trung học, nơi mà người ta sửa soạn cho anh, người ta dậy anh...
Brodsky: Tôi không tin chuyện này liên quan đến học vấn.
Tòa án: Như vậy là thế nào?
Brodsky: Tôi nghĩ... vậy thì, tôi nghĩ, điều đó đến từ ông Trời.

*

Trong túi luôn thủ sẵn cái bàn chải đánh răng. Cớm VC Tchèque tới lúc nào là đi lúc đó. (a)

Bọ Lập nằm ấp

Tôi tin là như vậy. Tôi mong bắt thêm nhiều người nữa, càng nhiều càng tốt. Đi tù là một trải nghiệm thú vị trong đời một con người. Tù chính trị dưới chế độ cộng sản nữa. Biết đâu sau đó bạn sẽ trở thành nhà văn, nhà thơ, họa sĩ chả biết chừng!

Hẹn sớm gặp anh, blogger Nguyễn Ngọc Già, dù ở bất cứ đâu.

Lê Công Định

Bắt càng nhiều càng tốt, sắp đến lúc rồi!
Hôm kia làm việc với cơ quan an ninh, tôi được thông báo sẽ chịu biện pháp nặng hơn nếu vi phạm lệnh quản chế lần nữa. Tôi trả lời rằng, "cùng lắm sẽ bị bắt tiếp thôi, tôi luôn sẵn sàng!"

Note: Gấu cũng mơ mơ hồ hồ tin như thế!
Cái cú bắt quả tang BL có thể là giọt nước làm tràn. Vì đấng này thuộc lề phải, khôn tổ cha, theo nghĩa, không dễ gì phạm luật chơi thật tàn khốc, dã man do VC đặt ra, nghĩa là, thật khó ghép anh vào thành phần phản động.
Bắt LCD lần thứ nhì là ô hô ai tai, có thể nghĩ như thế, nên hồi này ông viết cực tới!

Congrat.

Lần trước ông bị bắt, Tin Văn đi 1 đường chia lửa thật là đẹp. Đến độc giả, cũng khoái chí, hà, hà!


Le cas LVD

Trên trang Facebook, bạn Khương Duy, trong ban biên tập tạp chí Phía Trước, có viết câu này, xin mượn để kết bài viết: "Chết vì Tố Quốc? Quá muỗi! Sống vì Tổ Quốc, ấy mới là chuyện đáng làm!"
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của nhà báo Việt Kiều Vũ Quý Hạo Nhiên, hiện sống tại California, Hoa Kỳ. Ông cũng là chủ trang blog Bolsavik và từng làm việc cho nhật báo Người Việt ở quận Cam.
BBC

Note: Câu trên, chắc là thuổng Steiner:

To die for others is difficult enough.
To live for others is even harder.

Chết vì người đã khó,
Sống vì người còn khó hơn.

G. Steiner: Errata


Kẻ Lạ


GCC's Novel

*

Tiệm sách Xuân Thu, đường Tự Do, 1956. Phải đến đầu thập niên 1960, Gấu mới bén mảng tới đây. Đậu Tú Tài Hai, 1958. Ra trường Bưu Điện, đi làm, 1960, cỡ đó...

*

Hình Manhhai [net]



Torture, writes Améry, has "an indelible character". Whoever was tortured, stays tortured.
Sebald: Chống Lại Sự Không Thể Đảo Ngược: Về Jean Améry, trong Lịch sử tự nhiên về huỷ diệt

[Against the Irreversible. On Jean Améry. On the natural history of destruction, nhà xb Vintage Canada].

Améry viết, tra tấn có cái tính quái dị, không thể tẩy xoá đi được, là: Ai đã từng bị tra tấn, là suốt đời bị tra tấn.
Câu này, theo Gấu tôi, đọc [đảo] ngược lại, vẫn có nghĩa.
Rằng, kẻ tra tấn, là cứ thèm tra tấn suốt đời!

Cớm VC thú câu này lắm!


Sự hiện diện của những tạp chí tả khuynh này nói lên cái gì? Theo tôi, nó nói lên tính cách mở của văn học miền Nam. Chỉ có trong khung cảnh của một xã hội mở mới có thể có những sản phẩm văn hóa “ngược dòng” như thế.

Trần Doãn Nho

Không phải. Viết như thế là vơ vào. Là nói tốt cho văn học Miền Nam trước 1975.
Lũ này là VC nằm vùng, phải gọi đích danh như vậy mới đúng.

Ông này, rồi ông BVP, Gấu đều quen, và đều khá thân, có thể nói như vậy, khi cùng viết cho tờ Văn Học của NMG.
Nhưng chẳng ai viết nổi 1 bài essay ra hồn, và Gấu cứ tự hỏi chính mình, tại làm sao lại như thế, và sau cùng vỡ ra, họ đều đã có thời đi học, đã từng đỗ đạt, và không làm sao quên được ông thầy, hình ảnh đứa học trò, là họ, và mảnh bằng mà nhờ đó, họ sống, và trên tất cả, bài luận mẫu, nhờ nó, họ viết.
Những gì sau này họ viết, thí dụ như trên, là bản sao của bài luận mẫu của ông thầy ngày nào.

Lũ này đều là VC nằm vùng, sau 1975 chúng đều ló mặt chuột ra cả, làm sao mà gọi là chính sách mở của văn học Miền Nam? Rõ nhất là trường hợp Vũ Hạnh, bị tố cáo đích là VC nằm vùng, Cớm Ngụy bắt, sau phải thả, là vì không có chứng cớ, mà luật pháp Ngụy ngu như thế. Thế là PEN Ngụy ra lệnh thả, phải thả! (1)
Đây là cái gót chân Achille của nó. Cái chết của văn học Miền Nam, đúng như Gấu đã phán, trong bài viết về Võ Phiến, trích dẫn sau đây, nhưng sau này, khi đã thấm nọc độc Lò Thiêu, thì Gấu vỡ ra thêm. Miền Nam, trong cuộc chiến, vẫn nghĩ Bắc Kít, mũi tẹt da vàng, là Mít như họ.
Không phải. Khi chúng gọi Ngụy, là chúng không coi là người, chứ đừng nói, là Mít. Đây là cách gọi của Nazi với Do Thái.
Bởi thế, chỉ đến khi lũ Ngụy đi tù, khi bị Bắc Kít đối xử, như Nazi đối với Do Thái - giải phát chót - như Gulag của Xì, thì chúng nó – trong có Gấu nhe - lại có lại được phẩm giá làm người.
Đây là đòn “hồi mã thương” thần sầu, hay nói như Camus, khi trích dẫn Holderlin: Chỉ ở nơi chốn đó mới có được cứu rỗi!

…. Bởi vì, văn chương Miền Nam, bản chất của nó, không mắc mớ gì đến tinh thần chiếm đoạt, tranh ăn thua, còn Miền Bắc, vẫn nằm trong dạng khai hoá, vẫn tự coi như là quyền năng chính thống, theo kiểu, cần dậy cho mày một bài học, và phải trả bằng xương máu, bằng đất đai: Đấy là ý nghĩa của nhiệm vụ khai hoá! Một cách nào đó, nếu chúng ta nhìn ra tương quan dây mơ dễ má, giữa Cách Mạng Pháp, và chủ nghĩa Cộng Sản, cùng lúc chúng ta nhận ra tính thực dân của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa: đây vẫn là một thứ văn chương quyền lực. Nhìn theo cách thế đó, chúng ta còn nhận ra tính giai đoạn của dòng văn chương phản kháng ở trong nước. Nó phải qua đi, để lộ ra con người với ngôn ngữ, những lời nói lành lặn của nó... (a)

Một bài viết dài thòng, y chang bài của Thầy Phúc, làm đám con nít, học trò như mấy Thầy ngày nào, mê ơi là mê, kám ơn rối rít, thế là Thầy sướng điên lên!
Thảm thật. Cả 1 cõi phê bình, cả một kho tàng là văn học thế giới đều mở ra đối với hai Thầy, welcome hai Thầy, và hai Thầy đều lắc đầu quầy quậy!
Thiếu trầm trọng sự tưởng tượng, từ đó, sáng tạo.
Thiếu tưởng tượng là bỏ mẹ.
Cứ như bò nhai lại, bài luận ngày nào, khi còn mài đũng quần trên ghế nhà trường!

Đề tài tôi trình bày trong buổi hội thảo hôm này là “Tính văn học trong văn học miền Nam”.
Chắc có người cho rằng chữ dùng nghe có vẻ không mấy thích hợp. Và thừa. Đã nói về một nền văn học, sao còn đặt vấn đề “tính văn học”?
Xin thưa ngay: lý do khiến tôi sử dụng nhóm từ “tính văn học” là vì văn học miền Nam trước đây được nhà cầm quyền nhìn với một nhãn quan chật hẹp và độc đoán. Họ gọi văn học miền Nam là “văn học thực dân mới”, “văn học đồi trụy”, “văn học phản động” hay sau này, gọi một cách nghe lịch sự hơn nhưng có vẻ xách mé, là “văn học đô thị”.[1] Toàn là những nhóm từ tiêu cực. Văn học thực dân mới là gì? Là thứ văn học chỉ dành để phục vụ chế độ thực dân. Văn học phản động là gì? Là chống lại đất nước, chống lại dân tộc. Văn học đồi trụy là gì? Là hư hỏng, xấu xa. Vì thế, văn học miền Nam được xem là “nọc độc”. Và những người viết lách được gọi là “những tên biệt kích văn nghệ.” Nghĩa là gì? Nghĩa là phi-văn học. Là một nghịch đảo với văn học xã hội chủ nghĩa, văn học yêu nước và văn học tiến bộ. Do cách hiểu hạn chế đó, nhà nước Cộng Sản đã tìm cách tiêu diệt văn học nền văn học này sau chiến thắng tháng 4/1975.

TDN

Đọc, sao tiếu lâm quá!
Tại làm sao thằng VC nói này, gọi nọ mà phải quan tâm?
Viết là viết.
Chỉ 1 câu đó, là đủ vứt bài viết vô thùng rác rồi.
Cả 1 nền văn học bảnh tỏng như thế, mà tên K kêu là “bất hạnh”, bởi là bị VC, “mi làm phiền ta quá”, nào đồi trụy, nào nô dịch, nào phần thư.
Rồi còn “thư ngỏ thư nghiệc” nữa chứ!

Mấy đấng này đúng là "tự hạ mình thái quá"!

Bất giác lại nhớ đến lần viết thư ngỏ gửi... Grass. Chờ hoài, chờ hoài, đếch thấy “feedback”, “réaction” con mẹ gì hết, bèn nghĩ, hay là đánh động phía mũi tẹt biết đâu dội qua phía mũi lõ. Thế là gửi đăng VB, rồi gửi bạn quí, khi đó làm tờ Việt Mercury, bạn đếch quyết định được, bèn trình Xếp trực tiếp, cũng Mí., Tên này phán, phải viết lại, nêu ra những chi tiết, những sự kiện, phải viết bằng cái giọng ăn xin ăn mày mới được!
Gấu cáu quá, bèn chửi um lên, tao viết cái thư này cho thằng Grass, cũng nhà văn như tao, để lèm bèm về nước Đức, cũng bị chia cắt  như xứ Mít, cũng có Lò Thiêu, Lò Cải Tạo như nhau, rồi nhân câu chuyện, nhờ ông ta tí chuyện nhỏ. Đâu phải tao viết thư cho...  Tòa Án Đức?
Grass, nhà văn nhớn, không nhớn làm sao được Nobel, hiểu ra liền tù tì: Ông Gấu đừng quan tâm, để tôi biểu mấy thằng đàn em của tui lo!

Cả 1 cuộc hội thảo, hóa ra chỉ là để đôi co với VC? Đường về gian nan là sao? Về làm gì? Về đâu?
Giả như có 1 cái gì còn lại của văn học Miền Nam trước 1975, thì đó là ở phía trước nó, chứ về làm cái chó gì, mà gian nan mới chẳng gian nan?
Không hiểu bằng 1 cách nào, Gấu mơ hồ nhận ra điều này, có thể  trong tâm niệm của Gấu, là âm thầm 1 ước vọng, để hết cuộc chiến đã, mình sẽ…. bắt đầu viết. Chính vì thế mà Gấu vất mẹ thùng rác, tất cả nhửng gì đã viết ra trước 1975, ngoại trừ tập truyện ngắn Những Ngày Ở Sài Gòn.

Quá trễ rồi, Daniel Weissbort, tác giả cuốn “Từ Nga về với Tình Yêu, From Russia With Love”, nói về bạn mình là thi sĩ Brodsky, khi ông nhắc tới đề nghị của Tolstaya, ông có thể về theo kiểu incognito.

Quá trễ rồi, bởi là vì Brodsky đã nhập vào được với ngôn ngữ và văn học của nước chấp nhận ông.
Theo nghĩa đó, làm đéo gì có đường về gian nan?
Đám này, đã dốt, mà tâm trí thì lại chỉ muốn đầu hàng VC, viết lách gì được?
NQT


Trong bài phỏng vấn “Ðặt lại giá trị văn học miền Nam 1954-1975 trong lịch sử văn học Việt Nam” (7) do báo Người Việt thực hiện, nhà văn Phạm Phú Minh đã có một phát biểu quan trọng. Ông phát biểu như thế này:
Nói chung đảng Cộng Sản có một đường lối văn nghệ [khác] được chỉ thị từ Liên Xô và Trung Cộng, và tất cả những gì không phù hợp với đường lối này thì đều bị phê phán là lạc hậu, phản động, bị cấm đoán và tiêu hủy; các nhân vật văn hóa như Phạm Quỳnh, Nguyễn Tường Tam đều bị miệt thị nặng nề. Ngay bài “Bình Ngô Ðại Cáo” của Nguyễn Trãi khi in lại trong cuốn Lịch Sử Việt Nam cũng bị Trường Chinh và Tố Hữu gạch bỏ một câu vì không phù hợp thế giới quan của đảng Cộng Sản. Họ không cần những gì dân tộc Việt Nam hãnh diện là những “thành tựu” của mình về văn hóa, họ chỉ cần những gì phù hợp với đảng Cộng Sản để xây dựng một thế giới khác theo trí tưởng tượng (bệnh hoạn) của họ. Và đó là thảm họa cho văn hóa nước Việt Nam của chúng ta.

Source

Không phải thế. Chẳng mắc mớ đến Liên Xô, Trung Cộng, mà là do Vẹm quyết định, cả về hai mặt, chính trị và văn hóa.

PQ bồi Tẩy, Việt Gian, thịt. Nhất Linh, Quốc Dân Đảng, thịt. Đối với Vẹm, thằng nào không phải Vẹm, có tí tên tuổi, là thịt. Đâu phải hai ông này, còn nhiều người khác, bảnh sợ còn hơn cả hai ông này, thí dụ, Nhượng Tống cũng bị Vẹm thịt. Rồi Ngô Tất Tố….

Gấu đã nói rồi, thằng VC quá tởm, chúng chủ động gây ra cả hai cuộc chiến để thủ lợi. Cuộc chiến chống Pháp, làm thịt sạch mọi tầng lớp trí thức, cách mạng đéo phải VC ở Miền Bắc, pha lê hóa xã hội, xong mới hô hào chống Pháp. Pháp thời gian đó, quá mệt mỏi, nhục nhã vì bị Nazi đô hộ, không có lòng nào, sức lực nào để gây chiến tại xứ Mít, mới xin lại được từ Đồng Minh. Lịch sử bây giờ rõ như ban ngày, chúng năn nỉ VC đừng gây chiến, hãy vô Liên Hiệp Pháp….  Cuộc chiến chống Mẽo còn thê thảm hơn nhiều, chúng biến cả Miền Nam thành bãi chiến trường, thành kẻ thù của cả dân Mít, trừ dúm MTGP!


(1)

So với VC, khi bắt BL:

Vợ nhà văn Nguyễn Quang Lập, blogger vừa bị bắt hôm 06/12/2014, không đồng ý với tuyên bố của Bộ Công an nói chồng của bà bị 'bắt quả tang'.
Trang tin điện tử của Bộ Công an hôm thứ Bảy nói: "Ngày 06/12/2014, Cơ quan An ninh điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh đã bắt quả tang, ra lệnh khám xét khẩn cấp và tạm giữ hình sự đối với Nguyễn Quang Lập, sinh năm 1956...
"Cơ quan An ninh điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh đang tiếp tục điều tra làm rõ hành vi vi phạm pháp luật của Nguyễn Quang Lập để xử lý theo quy định của pháp luật."
Trao đổi với BBC hôm 07/12, bà Hồ Thị Hồng, vợ ông Lập, nói: "Bắt quả tang cái gì, đang viết văn thì bắt quả tang viết văn à? Anh ấy đang ngồi viết văn...

"Anh ấy bảo với tôi là anh đang hoàn thành hai cuốn tiểu thuyết cho xong, sợ là ít hôm nữa già quá, mệt quá viết không nổi, thì anh phải viết trong lúc này, còn sức khỏe thì anh phải viết cho xong chương II cuốn tiểu thuyết cho xong việc, nếu không càng lớn anh càng yếu đi, anh không viết nổi.
"Anh đang ngồi viết văn thôi, viết ở trên máy mà ông vẫn thường thường ngồi sáng tác... Khi bước vào nhà tôi, họ bảo 'bọn tôi là bên bảo vệ lên phòng xem phòng cháy, chữa cháy'.
"Họ chỉ mào đầu nói như thế, nhưng 7-8 người ập ngay vào, lao thẳng vào phòng khách, rồi phòng ngủ nơi phòng làm việc của chồng tôi đang làm.
"Ông đang ngồi viết một tập tiểu thuyết, ông ấy vẫn còn đang sáng tác, ông bảo để hoàn thành cuốn tiểu thuyết ấy," vợ của blogger khẳng định.


Có nước nào bắt người khốn nạn như nước VC?
Lũ VC chúng làm nhục tất cả lũ Mít, vì những hành động khốn nạn như thế. Bịa đặt 1 cái cớ, vô nhà dân, rồi vu cho đủ thứ tội, bắt quả tang!
Giả như lúc đó BL đang ngồi ị, thì sao?
Vả chăng, viết văn thì cũng là ị vậy!

Độc giả không quen với cách bắt người của VC, có thể ngạc nhiên. Tại sao lại phải bịa ra 1 cái cớ.
Đây là phòng trường hợp phi tang, như khi Cớm Liên Xô bắt nhà thơ Osip Mandelstam, cho 1 thằng bạn quí của ông tới nằm vùng sẵn trong nhà, chờ tới giờ.

Bắt Bùi Ngọc Tấn, cũng xêm xêm, như ông viết:

&

Hành Quân Đêm

 …. Ðể tôi kể cho ông nghe. Ông xem có thằng nào như thằng T.H. không. Ðầu năm 1968 thời gian ông đang rất gay go, còn tôi ở Hội Văn nghệ Hà Nội cũng đang điêu đứng vì bị nghi vấn có dính líu đến một vụ gián điệp, bị gọi hỏi nhiều lần, không được viết, không được in. Chỉ làm thủ quỹ, hàng tuần xách bị đi căng-tin mua bánh kẹo cho anh em. Trong cơ quan có hai ông nằm điều dưỡng ở Quảng Bá là ông T.H. và ông Huỳnh Tâm. Ông Huỳnh Tâm là tổ trưởng sáng tác bị dãn phế quản, không bao giờ ra khỏi cổng trạm điều dưỡng vì quá lo cho sức khoẻ. Thế mà hôm ấy dù mắc thêm bệnh viêm kết mạc, đau mắt nặng vẫn lù lù từ Quảng Bá về đền Ngọc Sơn, nói với tôi: "Bố cậu T.H. bị ô-tô kẹp chết ở Hải Phòng. Ông là thủ quỹ. Ngày mai mang tiền thay mặt anh em xuống viếng." Sau đó chánh văn phòng Hội Văn nghệ cũng chính thức giao nhiệm vụ cho tôi về Hải Phòng. (Nhân vật này đã đưa một bài thơ của tôi sang công an, tôi sẽ nói với ông sau.) Cơ quan từ chính quyền tới Ðảng, công đoàn đều rỗi việc. T.H. lại là người rất gần có thể nói là xoắn xuýt với lãnh đạo. Thế mà không ai đi. Lại cử tôi. Tôi hiểu ngay. Ðiệu hổ li sơn đây. Người ta cần tôi đi. Ðể khám buồng tôi ở. Làm gì có chuyện bố thằng T.H. chết. Nếu chết thật thì đã chẳng đến lượt tôi đi viếng. Sáu giờ chiều thằng T.H. lại dẫn xác đến đền Ngọc Sơn. Nó bảo nó đến ngủ với tôi để sáng mai cùng đi một thể. Chà chà! Không cho mình xoay xở cái gì mặc dù chẳng có gì cần đối phó xoay xở. Sáng hôm sau chúng tôi lên tầu về Hải Phòng. Rồi đi bộ về nhà thằng T.H. Ðến cửa nhà nó thấy bố nó đang ngồi tiện gỗ ở sân. Tôi bảo nó: "Bố mày không chết đâu T.H. ạ. Thôi tao đi đây." Mặt nó tái đi. Ông đừng nghĩ nó tái mặt vì bố nó vẫn sống, nó ngượng với mình. Không đâu. Nó tái mặt vì mình về Hà Nội ngay trong khi chưa khám xong nhà mình thì thành ra nó chưa hoàn thành nhiệm vụ. Mình bảo: "Bình tĩnh. Mai tao mới về Hà Nội. Tao còn ở chơi Hải Phòng đã. Cứ yên tâm." Thế rồi tôi đến nhà ông.
Bùi Ngọc Tấn: Rừng Xưa Xanh Lá [Trích diễn đàn Talawas]

Hồi Ký của Nadezhda, viết về chồng là nhà thơ Osip Mandelstam, Hy Vọng Chống Lại Hy Vọng,  cũng mở ra bằng một vụ công an xét nhà trong đêm, và sau đó bắt ông chồng.

Cũng có một “ông bạn nhà văn”, như “có thằng nào như thằng T.H”, là me-sừ David Brodski, một dịch giả, ngay từ buổi chiều đã mò tới, và nhất định không chịu từ giã khổ chủ. Bữa đó chủ nhân lại có hẹn với nhà thơ Akhmatova, và trong nhà chẳng còn có gì ăn. Ông chồng đi qua nhà hàng xóm kiếm cách vay mượn tí đồ nhắm, cũng một cách đuổi khéo nhà dịch thuật, nhưng ông này nhẵng nhẵng đòi đi theo nhà thơ thăm dân cho biết sự tình. Ông chồng mang về được một quả trứng cô đơn [the solitary egg]. Nhà dịch thuật lại ngồi xuống, và cứ thế đọc thơ, những dòng thơ Sluchevski và Polonski, là  hai thi sĩ    chàng chịu nhất [không có gì mà nhà dịch thuật không biết, từ hai nền thi ca thế giới, là Nga và Pháp]. Chàng cứ thế đọc đi đọc lại, nào khúc này, nào đoạn nọ… Chỉ mãi tới nửa đêm thì gia chủ mới nhận ra tại sao có cái sự lỳ lợm như vậy.

Khi nào tới thăm chúng tôi, Akhmatova cũng ngồi nơi xó bếp. Để “vinh danh” nhà thơ, và, như người Việt mình nói, “cho nó đỡ tủi”, chúng tôi dùng một miếng vải dầu phủ lên cái lò ga, làm thành một cái bàn nhỏ tiếp khách. Chúng tôi gọi cái xó bếp của mình là “giáo đường”, gợi ý từ một nhận xét của một người bạn của nhà thơ, là Narbut, khi nhìn thấy nữ thi sĩ ngồi trong xó bếp, đã thốt lên: “Làm gì ở đây, sao giống như một nữ thần ngoại giáo trong một giáo đường?”.

Akhmatova và tôi chui vào giáo đường, để ông chồng của tôi một mình chịu trận với nhà dịch thuật mê thi ca. Chừng một giờ đêm, bất thình lình có tiếng gõ cửa. “Họ tới là vì Osip”, tôi nói, và đi ra mở cửa.

Tôi cứ nghĩ, họ sẽ nói một câu, thí dụ như: “Bà mạnh khoẻ không?”, hoặc “Đây có phải là nhà của Mandelstam?”, hoặc một câu đại loại. Hoá ra là họ không có cái thói quen phí thì giờ với những câu mang tính nghi lễ. Hay là những công an chìm trên thế giới đều như vậy, tôi tự hỏi.

Chẳng thốt một lời, chẳng một chút ngần ngại, như những tay lành nghề đã từng đánh quen trăm trận, “nhanh như chớp”, họ tiến thẳng vào trong, vuợt qua tôi [không xô, không đẩy, may quá!). Và căn phòng trong thoáng chốc, đầy người, người lo kiểm tra giấy tờ cá nhân, người mò mẫn, rờ nắn thân thể kiểm tra vũ khí.

Chồng tôi từ căn phòng khách bước ra, và hỏi: “Mấy ngài tới là vì tôi?” Một tay công an chìm, người lùn lùn, nhìn M. [Mandelstam], với một nụ cười mà chẳng ra nụ cười, nói: “Giấy tờ?”. M. lấy giấy tờ từ trong túi quần ra. Sau khi kiểm tra xong, anh ta đưa cho M một lệnh bắt. M. đọc, và gật đầu.

Theo thuật ngữ của giới công an chìm, thì đây là những cuộc hành quân đêm, “night operation”.  Như bà vợ nhà thơ đuợc biết sau đó, những đấng bạn dân “chìm”, họ luôn luôn tin tưởng, trong những cuộc hành quân đêm như thế, họ dễ dàng đụng độ với những kẻ thù của cách mạng, của nhân dân. Và những con cái của họ, lại càng tin hơn nữa, rằng những ông bố đáng kính yêu của chúng đều là những đấng anh hùng. Và rất nhiều truyền thuyết về những cuộc hành quân đêm lãng mạn, hào hùng.. như vậy đã được chuyền tai nhau, chính bà vợ nhà thơ đã từng nghe kể, rằng con gái một đấng Chekist quan trọng [Nhân viên Cheka, mật vụ. Những thời kỳ sau đó, Cheka biến thành OGPU, GPU, NKVD, MVD, MGB, và sau chót KGB], kể, bằng một cái giọng hết sức hãnh diện, mà không kém phần thương yêu, lo lắng cho người cha của cô, trong cuộc hành quân đêm bắt tên nhà văn phản động Isaac Babel [tác giả Kỵ Binh Đỏ], tên này đã chống cự, “làm bị thương nặng một trong bốn người của chúng ta”. Rằng cha của cô rất yêu con cái, rất yêu thú vật, mỗi khi về nhà, ông thường ôm con mèo đặt nó vào lòng mình, ông luôn luôn nói với cô con gái, đừng bao giờ thừa nhận mình đã làm một điều gì tầm bậy, luôn luôn nói, “không”, trong những trường hợp như thế đó. Người cha của gia đình, yêu vợ con, yêu con mèo, con chó, người bạn dân sẽ “không bao giờ tha thứ cho những kẻ mà ông ta tra hỏi, về cái chuyện, họ thú nhận, họ đã làm những việc phản cách mạng, phản nhân dân, làm… nguỵ!”

-“Tại sao họ lại làm như vậy”, cô con gái hỏi, như lập lại lời ông bố.

-“Hãy nghĩ tới những khó khăn, những ‘gian khổ’ mà họ đem lại cho nhân dân, cho chính họ, và cho chúng ta”, cô gái nói thêm.

“Chúng ta” ở đây, là những người tham dự những cuộc hành quân đêm, có bác hay không có bác [Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân], với những lệnh bắt người, lệnh tra tấn, lệnh tống giam, lệnh cải tạo…, và khi không hành quân đêm, khi rảnh rỗi, kể cho con cái nghe, về những nguy hiểm mà họ đã phải trực diện với kẻ thù của  nhân dân, và con cái của họ chăm chú nghe, bồi hồi cảm động, càng thương bố bao nhiêu, càng yêu quí chế độ, càng thù ngụy bấy nhiêu… Bà vợ nhà thơ kể lại, cứ mổi lần nghe một câu chuyện như vậy, là bà nghĩ  đến cái lỗ hổng toác hoác ở nơi cái sọ của nhà văn Isaac Babel.

Như vậy đấy, họ trang bị tới tận răng, ùa vào căn hộ của chúng tôi trong đêm 13 tháng Năm 1934. Sau khi đọc lệnh, và chắc chắn chẳng có ma nào dám kháng cự, họ lục soát căn hộ. Nhà dịch thuật mê thơ ngồi một đống ở trong chiếc ghế bành, bất động như một khúc gỗ, bộ mặt cố làm ra vẻ giận dữ, bị thương tổn. Khi tôi [bà vợ nhà thơ] hỏi anh ta, liệu M. có thể mang theo vài cuốn sách, anh trả lời một cách thô lỗ: “Hãy để M. tự làm lấy.” Tới gần sáng, khi chúng tôi đã đuợc phép đi lại một cách tự nhiên trong căn hộ, nhà dịch thuật đứng bật dậy, xin phép mấy bạn dân: “Tôi có thể đi tiêu tiểu”, người chỉ huy cuộc hành quân đêm nói bằng một giọng khinh miệt, “Anh có thể về nhà”. “Ông nói sao?” “Nhà”, anh ta lập lại, và quay lưng, bỏ đi.

Đám mật vụ rất ghét những “con mắt của nhân dân”, tức những chỉ điểm dân sự, như nhà dịch thuật. Chẳng có chi nghi ngờ: Brodski đã được lệnh luôn luôn bám sát chúng tôi, đề phòng trường hợp tụi này tẩu tán, xé, đốt bỏ bất cứ một bản thảo nào, khi nghe tiếng gõ cửa. (b)

Chính là vì những mắc mớ nhơ bửn như thế, mà Cớm VC dùng từ "quả tang", khi bắt BL.


Vợ của nhà văn Nguyễn Quang Lập cho biết không có chuyện chồng bà “nhận tội” và “xin khoan hồng” như tuyên bố mới đây của công an TP HCM (c)

“Họ nói thế cho có cái cớ, chứ làm sao anh Lập phải nhận tội. Anh Lập là người vô tội, không có tội. Chỉ yêu đất nước làm sao mà có tội? Anh ấy là một con người yêu đất nước và làm cho đất nước tốt lên. Một con người như thế mà làm sao lại bắt anh?”.

Đúng như thế, nhưng theo Gấu, có tội, theo cái ý, xây tháp Babel, OK, nhưng đừng có trèo lên, của Kafka.
Lũ Bắc Kít VC đều rất yêu nước, đó là sự thực. Gấu chẳng lèm lèm nhiều lần, giống Mít được Trời cho có mặt trên còi đời này, để thực hiện giấc mơ đốt sạch Trường Sơn cũng phải đốt, đánh một trăm năm cũng phải, chết trăm triệu cũng OK.
Nhưng trèo lên Tháp Babel, là bỏ mẹ!
Tên Nobel Toán mà chẳng yêu nước ư? Yêu nước đến nỗi, đếch thèm biết đến lũ Ngụy, mà nếu biết, thì cũng yên chí, cũng Việt Gian, bán nước cả thôi.
Chỉ có VC yêu nước. Khi Bọ Lập còn là VC, chúng OK. Khi Bọ Lập thấy VC khốn nạn quá, nói không được, là a lê hấp, nằm ấp!
Tất cả những người dân Mít đều yêu nước, nhưng yêu nước, phải được hiểu là, yêu VC.
Những LCD, Điếu cày...  mà không yêu nước ư?
Yêu nước, như họ, như thế, là đéo yêu VC!
Bắt!


Torture, writes Améry, has "an indelible character". Whoever was tortured, stays tortured.
Sebald: Chống Lại Sự Không Thể Đảo Ngược: Về Jean Améry, trong Lịch sử tự nhiên về huỷ diệt

[Against the Irreversible. On Jean Améry. On the natural history of destruction, nhà xb Vintage Canada].

Améry viết, tra tấn có cái tính quái dị, không thể tẩy xoá đi được, là: Ai đã từng bị tra tấn, là suốt đời bị tra tấn.

Câu này, theo Gấu tôi, đọc [đảo] ngược lại, vẫn có nghĩa.
Rằng, kẻ tra tấn, là cứ thèm tra tấn suốt đời!

Cớm VC thú câu này lắm!

Nobel 2014

Modiano cập nhật

 Modiano update. Readers may recall that our visit to Foyles the day after the award of the Nobel Prize to Patrick Modiano yielded not one of his books. Now, a special display has been mounted in the French department, with a poster of the newly prosperous author above a table supporting several titles, including a ten novel omnibus, if you like that kind of thing. Six more rest on the shelves. In the general fiction department, you may still purchase the two books in English we mentioned last time, The Search Warrant and Suspended Sentences.
    A reader tells us that the available books in English by Modiano are outnumbered by books about him. There are, he says, six studies of his work in print, ranging from the straight-talking Patrick Modiano by Alan Morris to A Riffater-rean Reading of Patrick Modiano's "La place de l'étoile": Investigating the family crime by Charles O'Keeffe. "Riffaterrean'' refers to the late serniotician Michael Riffaterre. Meanwhile, the quirks of Modiano continue to give pleasure. Picking up Un Pedigree, a memoir, the other day we read, "Je suis né le 30 juillet 1945, à Boulogne- Billancourt ... ", which sent us back to the close of Quartier perdu, a novel, in which the narrator fills out a hotel registration form with "ma vraie date de naissance: 25 juillet 1945. Et même l'endroit exact où je suis né: Boulogne-Billancourt". What's five days to a writer of noir métaphysique?
    Near the end of Dans le Café de la jeunesse perdue, we meet "Jimmy Campbell, unchanteur anglais", a café regular. This caught the interest because we are familiar with a singer of the same name-though not "anglais". Who doesn'tknow Blind James Campbell of Nashville, who recorded many tracks with his "Friendly Five" in 1963? They include "I Am So Blue When It Rains" which, translated into French, would make a pleasing Modiano title.

JC

TLS Nov 28, 2014

What's five days to a writer of noir métaphysique?

Trong Un Pedigree, một hồi ức, Modiano phán, tớ sinh ngày 30 Tháng Chín, năm 1945.
Nhưng khi điền phiếu đăng ký khách sạn Xề Gòn, để trình Cớm VC, ông viết, tớ sinh ngày 25 Tháng Chín, 1945, ngày sinh đúng của tớ!

Năm ngày là chi đối với 1 nhà văn Nobel, chuyên viết về "đen siêu hình": Đô hộ?

Bữa trước chúng tớ có bố cáo, đếch có 1 cuốn sách nào của Modiano, tại tiệm sách số 1 ở London. Tình hình bi giờ khá hơn nhiều, nhưng 1 độc già TLS cho biết, sách viết về Modiano nhiều hơn sách của Modiano!



Tribute to Bùi Ngọc Tấn

Đọc bài viết, và nhìn bức hình đám tang của Bùi Ngọc Tấn, trên Văn Vịt, thấy thê lương vô cùng: Chỉ có mấy vòng hoa, và những vòng hoa phản động, thì băng rôn đều bị gỡ bỏ. VC khuyến cáo, chỉ được khóc trong nội bộ gia đình, đéo được khóc lớn. Thế là cả lũ nhà văn VC đéo thằng nào dám chường mặt ra trước ống kính máy ảnh, máy quay phim.
Không lẽ bạn mình nằm xuống, mà không khóc. Lũ khốn không dám khóc, thì Gấu Cà Chớn đi 1 đường khóc BVVC [Bạn Văn VC] của Gấu vậy.
Nên nhớ Gấu là tên đầu tiên điểm “Chuyện Kể Năm 2000”, trong bài điểm đã tiên tri ra được, cái điều sau này BNT thú nhận, ông cám ơn VC đã bắt giam ông, bởi là vì nhờ chính sách pha lê hóa xã hội Miền Bắc như thế, mà làm thịt được lũ Ngụy, đưa chúng đi cải tạo mút mùa lệ thuỷ, và đuổi thằng Yankee mũi lõ ra khỏi xứ Mít, và bi giờ chúng đang năn nỉ nhà nước VC chúng ta, cho chúng quay lại!


Lê Công Định

Như đã nói, cộng sản là chế độ phong kiến hiện đại, nên nó bám rễ sâu rộng trong lòng những xã hội vừa thoát khỏi đêm trường phong kiến ngàn năm.
LCD

Người rành rẽ về chủ nghĩa CS theo Gấu, là Hannah Arendt. Bà gọi nó bằng 1 cái tên tổng quát hơn, chủ nghĩa toàn trị. Và một khi gọi như thế, thì ít nhất, chúng ta thấy được hai cái nguồn của nó, mà LCD nhìn ra 1, chủ nghĩa phong kiến Á Châu, ở Nga, ở xứ Mít, thí dụ, và cùng nó, là Cái Ác Châu như Tolstaya vạch ra.
Chính vì thế mà ở xứ Mít, Miền Nam, ở quá xa mặt trời, không bị ảnh hưởng, cho đến năm 1975, khi bị Bắc Kít đô hộ.
Nguồn thứ nhì đẻ ra Cái Ác Nazi.
Đây là những vấn đề rất ư là rắc rối, không đơn giản như LCD phán. Xin trình ra bài viết của Arendt:

Thực vậy, đây là nỗi khốn khó của thời đại chúng ta, mắc míu lung tung, đan xen lạ lùng giữa xấu và tốt, đến nỗi, nếu không có "bành trướng để bành trướng" của những tên đế quốc, thế giới chẳng bao giờ trở thành một; nếu không có biện pháp chính trị "quyền lực chỉ vì quyền lực" của đám tư sản, cái sức mạnh vô biên của con người chắc gì đã được khám phá; nếu không có thế giới ảo vọng, thiên đường mù của những phong trào toàn trị, qua đó, những bất định thiết yếu của thời đại chúng ta đã được bầy ra một cách thật rõ nét, như chưa từng được bầy ra như vậy, thì làm sao chúng ta [lại có cơ hội] bị đẩy tới mấp mé bên bờ tận thế, vậy mà vẫn không hay, chuyện gì đang xẩy ra?
Và nếu thực, là, trong những giai đoạn tối hậu của chủ nghĩa toàn trị, một cái ác triệt để xuất hiện, (triệt để bởi vì chúng không thể suy diễn ra, từ những động cơ có thể hiểu được, của con người), thì cũng thực, là, nếu không có chủ nghĩa toàn trị, chúng ta có thể chẳng bao giờ biết được bản chất thực sự cơ bản, thực sự cội rễ, của cái ác.
Chủ nghĩa bài Do Thái (không phải chỉ có sự hận thù người Do Thái không thôi), chủ nghĩa đế quốc (không chỉ là chinh phục), chủ nghĩa toàn trị (không chỉ là độc tài) – cái này tiếp theo cái khác, cái này bạo tàn hơn cái kia, tất cả đã minh chứng rằng, phẩm giá của con người đòi hỏi một sự đảm bảo mới, và sự đảm bảo mới mẻ này, chỉ có thể tìm thấy bằng một nguyên lý chính trị mới, bằng một lề luật mới trên trái đất này; sự hiệu lực của nó, lần này, phải được bao gồm cho toàn thể loài người, trong khi quyền năng của nó phải được hạn chế hết sức nghiêm ngặt, phải được bắt rễ, và được kiểm soát do những thực thể lãnh thổ được phân định mới mẻ lại.
Chúng ta không còn thể cho phép chúng ta giữ lại những cái gì tốt trong quá khứ, và đơn giản gọi đó là di sản của chúng ta, hay loại bỏ cái gì là xấu, giản dị coi đó là một gánh nặng chết tiệt mà tự thân chúng sẽ bị thời gian chôn vùi trong lãng quên. Cái mạch ngầm của lịch sử Tây phương sau cùng đã trồi lên trên mặt đất, và soán đoạt phẩm giá của truyền thống của chúng ta. Đây là thực tại chúng ta sống trong đó. Đây là lý do tại sao mọi cố gắng chạy trốn cái u ám của hiện tại, bằng hoài vọng một quá khứ vẫn còn trinh nguyên, hay bằng một sự lãng quên có dự tính về một tương lai tốt đẹp hơn: tất cả những cố gắng như vậy đều là vô hiệu.
Arendt

'Vấn đề của giáo dục Việt Nam là sự tha hóa'
NBC

Nhảm. Nếu phán như thế, thì đúng là tên mù sờ voi.
Mọi vấn đề của Mít đều là sự tha hóa, Gấu cũng có thể phán như thế, mô phỏng tên tinh số 1 Bắc Kít.
Tên này, sau khi được Nobel Toán, mở blốc mở biếc, GCC tò mò đọc, thì mới hỡi ơi. Hắn viết về cuộc chiến, như là giữa VC, mà theo hắn, là toàn thể xứ Mít, chống lại Mẽo xâm lược. Hắn không hề có 1 tí ý niệm gì về Ngụy, sự hiện hữu của cả 1 chế độ như thế, đếch có. Đây là do ngay từ nhỏ, hắn được học bổng của Tẩy, qua Tẩy, chúi mũi vô học, mù tịt về tất cả.
Cái chết của giáo dục Mít, chính là do cái nền học vấn đặt trên nền tảng thù hận, mà ảnh hưởng tới mãi bây giờ, trong đó 1 có hiện tượng thật là rõ ràng: Không 1 tên Bắc Kít nhỏ 1 giọt nước mắt cho lũ Ngụy hết. Chúng thù lũ Ngụy đến không thèm nghĩ rằng, có lũ Ngụy ở trên đời, làm sao mà mong 1 giọt nước mắt, dù cá sấu. Chúng thù Ngụy còn hơn cả kẻ thù truyến kiếp là Tẫu, nên mới lạy lục Tẫu, cung phục Tẫu, để lấy cho được Miền Nam.
Cũng trên cái nền tảng thù hận đó, 1 tên nhà văn như Bọ Lập chẳng hạn, đừng mong hắn viết 1 dòng về Ngụy, và vẫn tự hào về sự nghiệp chống Mỹ đả Ngụy kíu nước, như mọi tên nhà văn VC.
Nếu suy nghĩ như thế, thì phải chấp nhận VC như là bây giờ.
Chỉ có 1 cách suy nghĩ triệt để, là xổ toẹt tất cả, bởi là vì sự thực rõ ràng như vậy: Hai cuộc chiến thần thánh đúng ra không xẩy ra. Cả hai xẩy ra, là vì Việt Minh muốn nó xẩy ra, đề thu gom tất cả về tay chúng.
Còn say mê đắm đuối với thành quả cách mạng, là còn chết.
Lũ Ngụy đếch cần chúng khóc vì Ngụy. Nhưng cần 1 xứ Mít hết VC. 

Một khi đặt 1 tên chăn trâu, học lớp 1, 1 tên y tá dạo ngồi lên đầu lên cổ cả 1 đất nước thì cần gì giáo dục? Đây là cái điều mà Tolstaya chỉ ra, lấy cái Cái Ác Bắc Kít, lấy những tên bần cố nông làm lực lượng chủ yếu thành phần nồng cốt xây dựng Cách Mạng, thì lại càng phải chết. Một con khỉ mặc đồ veston thì vẫn là con khỉ, như LCD phán!

Milosz phán, về Brodsky:

Trong một tiểu luận, Brodsky gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính ông, cũng là 1 thi sĩ của văn hóa, và hẳn là vì lý do này, ông tạo sự hài hòa với dòng sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống người, khám phá ra quá khứ như là một mê cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu vô mê cung, chúng ta khám phá ra cái gì sống sót quá khứ là kết quả của nguyên lý phân biệt dựa trên đẳng cấp. Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống rác tìm đồ ăn, [ui chao lại nhớ Giàng Búi], là thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng hoại thoái hoá bị kết án phải tuyệt diệt. Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là khoảnh khoắc thần tiên còn hoài hoài.

Như thế, văn hóa, giáo dục còn dựa trên/làm nên đẳng cấp. Làm đéo gì có con người bình đẳng cá mè một lứa như VC suy nghĩ.
Những tên chóp bu của chế độ VC đều vô văn hóa cả thì làm sao mà khá cho được!
Chế độ Ngụy làm gì có 1 thằng ăn mày về văn hóa, bằng cấp, học vấn, kỹ năng làm bộ trưởng, thí dụ? 

Nếu Cái Ác Bắc Kít, Cái Ác Á Châu, mà chủ nghĩa CS là thuốc bổ của nó, cho tầng lớp nồng cốt xây dựng Đảng VC, những đấng chăn trâu, y tá dạo, Trọng Lú… thì Cái Ác Nazi lại nảy sinh từ tầng lớp tinh anh số 1 của Đức Quốc. Nazi là con đẻ của thời kỳ Soi Sáng của Âu Châu.
Như 1 hệ luận, Steiner bèn phán, Văn Hóa Đéo Làm Tăng Tính Người.
Một đấng như...  Nobel Toán mà...  vô văn hóa ư?
Ngoài cái chuyên môn, tên này mù tịt về tất cả, nhất là về nỗi đau của Mít.  

George Steiner: Văn hoá không làm tăng tính người.
(La culture ne rend pas plus humain)

Làm sao sống với ý nghĩ, rằng con người, mặc dù những tiến bộ bề ngoài, vẫn bị tù hãm trong bản tính cực kỳ dã man? Một con người dù văn hóa nở rộ nhưng vẫn không văn minh? G. Steiner từ bao lâu nay, vẫn coi đây là chủ đề suy tư, người ta có thể thấy ông u uất, bi quan, âu lo… Ông là như thế đó. Nhưng ngày nay, liệu chúng ta có được một chọn lựa nào khác, ngoài việc nối lại tư tưởng bi đát? Trong một châu Âu từ nay vắng bóng Thượng Đế, tin vào Quỉ Sứ chẳng phải là tốt hơn sao, để còn có cơ may xiết cổ nó?

-Thất bại của Âu châu văn minh, phải chăng đối với ông, là thất bại của văn hóa?

Đúng thế. Học vấn, văn hóa mang tính triết học, văn học, âm nhạc không ngăn chặn được điều ghê gớm tởm lợm. [Trại tù, lò thiêu] Buchenwald chỉ cách khu vườn của Goethe chừng vài cây số. Trong Đệ Nhị Chiến, ở Munich, khi thính giả bước vào thính phòng, nghe trình diễn một chuỗi nhạc tuyệt vời của Debussy, họ có thể nghe thấy những tiếng la thét của những con người bị tống xuất tới [trại tù] Dachau, kế ngay đó. Chẳng có một nghệ sĩ nào đứng bật dậy, nói: "Tôi không thể chơi nhạc. Tôi sẽ làm ô nhục mình, ô nhục Debussy, ô nhục âm nhạc." Cuộc chơi đâu có mất đi, dù chỉ trong một chốc một lát, tính thiên tài của nó! Âm nhạc đâu có nói: không!



TATYANA TOLSTAYA

*

Yiyun Li: Lắng nghe là Tin tưởng

Tờ The New Yorker có mục “Thế Giới Nội”, dành cho đám nhà văn mũi lõ tập tành viết Tạp Ghi như…  GCC.
TV đã giới thiệu bài của Tolstaya, nay thêm bài của nữ văn sĩ Tầu Yiyun Li.
Đọc loáng thoáng đã mê rồi:

Có lẽ giấc mơ của tôi sau cùng đếch phải giấc mơ Mẽo.... Phịa ra cuộc đời qua cái việc lắng nghe, hóng chuyện... cho phép “ai đó” sở hữu thường trực hồi ức.
Perhaps my dream, in the end, was not an American dream, and my fantasy not a teen-age girl's fantasy of love. It's the intensity of one's imagination that creates a romance. Eavesdropping and decoding underscore only what does not belong to one. Inventing through listening-and inventing knows no abstinence-allows one to own a memory permanently. •


GCC's Novel

Trong ngoặc

Note: Tay Bolano này, đọc, thấy có cái gì đó, giống PCT, tếu thế, nhưng một PCT thực, trong khi PCT Mít thì lại là đồ dởm!
Có vẻ như nhà văn Mít, nói chung, thì đều như thế.
Bi giờ thì mới thấm câu của Hoàng Ngọc Hiến, cái nước mình nó thế!
GCC hình như cũng mới mê Bolano đây thôi, có thể là từ lần đọc bài thơ của ông viết về… BHD, hà hà!

BORGES AND THE RAVENS

I'm in Geneva and I'm looking for the cemetery where Borges is buried. It's a cold autumn morning, although to the east there's a glimpse of sun, a few rays that cheer the citizens of Geneva, a stubborn people of great democratic tradition. The Plainpalais, the cemetery where Borges is buried, is the perfect cemetery: the kind of place to come every afternoon read a book, sitting across from the grave of some government minister. It's really more like a park than a cemetery, all extremely manicured park, every inch well-tended. When I the keeper about Borges's grave, he looks down at the ground, nods, and tells me how to find it, not a word wasted. There’s no way to get lost. From what he says it's clear that visitors always coming and going. But this morning the cemetery is literally empty. And when I finally reach Borges's grave there’s no one nearby. I think about Calderon, I think about the English and German Romantics, I think how strange life is or, rather: I don't think anything at all. I just look at the grave the stone inscribed with the name Jorge Luis Borges, the date of his birth, the date of his death, and a line of Old English verse. And then I sit on a bench facing the grave and a raven says something in a croak, a few steps from me. A raven! As if instead of being in Geneva I were in a poem by Poe. Only then do I realize that the cemetery is full of ravens, enormous black ravens that hop up on the gravestones or the branches of the old trees or run through the clipped grass of the Plainpalais. And then I feel like walking, looking at more graves, maybe if I'm lucky I'll find Calvin's, and that's what I do, growing mot and more uneasy, with the ravens following me, always keeping within the bounds of the cemetery, although I suppose that one occasionally flies off and goes to stand on the banks of the Rhone or the shores of the lake to watch the swans and ducks, somewhat disdainfully, of course.

Roberto Bolano: Between parentheses

 THE WOMEN READERS OF WINTER

During the winter they seem to be the only ones brave enough to venture out into the icy cold. I see them at the bars in Blanes or at the station or sitting along the Paseo Maritimo by the water, alone or with their children or a silent friend and always carrying some book. What do these women read? wondered Enrique Vila-Matas a few years ago. Whatever they can. Not always great literature (though what is great literature?). Sometimes it's magazines, sometimes the worst best sellers. When I see them walking along, bundled up, buffeted by the wind, I think about the Russian women who fought the revolution and who endured Stalinism, which was worse than winter, and fascism, which was worse than hell, and they always had books with them, when suicide would have been the logical choice. In fact, many of those winter readers ended up killing themselves. But not all of them. A few days ago I read that Nadezhda Yakovlevna Khazina, exceptional reader, author of two memoirs, one of them called Hope Against Hope, and wife of the assassinated poet Osip Mandelstam, took part, according to a recent biography, in a threesome with her husband, news that inspired astonishment and disappointment in the ranks of her admirers, who took her for a saint. I, however, was happy to hear it. It told me that in the middle of winter Nadezhda and Osip didn't freeze and it confirmed for me that at least they tried to read all the books. The saintly readers of winter are women of flesh and blood, and they couldn't be braver, Some, it's true, committed suicide. Others endured the horrors and returned to their books, the mysterious books that women read when it's cold and it seems as if winter will never end.

Roberto Bolano

Note: Bài này thú quá. Đúng giọng cà chớn của Gấu Cà Chớn. Sẽ đi 1 đường dịch liền, để tặng nữ độc giả của Tin Văn, nhân dịp SN GCC!

Nữ độc giả của mùa đông

Vào mùa đông, có vẻ như chỉ có họ, là những người, đủ can đảm, để “ai đi ngoài băng giá”: Tôi nhìn thấy họ, ở những ba ở Blanes, hay ở nhà ga, hay ngồi dọc Paseo Maritimo, kế bên dòng nước, một mình, hay với nhóc của họ, hay với 1 người bạn, và luôn luôn, với cuốn sách nào đó.
Đờn bà đọc, OK, nhưng họ đọc cái giống chi, “nhẩy”?
Cách đây vài năm, Enrique Vila-Matas đã lầu bầu 1 câu hỏi như thế. Thì bất cứ cái gì họ có thể. Không phải luôn luôn, thứ văn chương nhớn (nhưng nè, văn chương nhớn là cái đéo gì vậy, hà, hà!]
Khi thì tạp chí, khi thì sách bán chạy nhất, thứ tệ nhất. Khi tôi nhìn họ dảo bước, co dúm người vì gió, tôi nghĩ tới những phụ nữ Nga chiến đấu cuộc cách mạng và chịu đựng chế độ Xì Ta Lin, tệ hại hơn mùa đông, chế độ Phát Xít, tệ hại hơn địa ngục và họ vưỡn có sách cùng với họ, khi mà tự tử là cách lựa chọn bảnh nhất, hợp lý nhất. Sự thực, rất nhiều độc giả của mùa đông đó chấm dứt, cả đọc lẫn họ, bằng tự tử. Nhưng không phải tất cả họ. Cách đây vài ngày, tôi đọc mẩu tin, Nadezhda Yakovlevna Khazina, một nữ  độc giả đặc biệt, tác giả của hai hồi ký, một có cái tên là “Hy Vọng Chống Lại Hy Vọng”, vợ của nhà thơ Osip Mandelstam, bị Xì làm thịt, theo một cuốn tiểu sử mới đây cho biết, bà đã tham dự 1 trò chơi ba người, cùng với ông chồng. Một mẩu tin như thế gây ngỡ ngàng và bất bình, trong số những người ái mộ bà, vì họ vốn coi bà là vì thánh. Tôi, khi đọc mẩu tin đó, thì lại cảm thấy rất ư là hạnh phúc. Bởi là vì nếu như vậy, thì là kệ cha mùa đông, kệ mẹ giá lạnh, cả hai ông bà, súng ống, bãi đáp….   thì đều OK cả, nó xác nhận với tôi, ít ra cả hai đã cố đọc tất cả những cuốn sách. Những độc giả thánh nữ của mùa đông là những phụ nữ bằng xương bằng thịt, bằng máu bằng huyết, và họ can đảm rất mực, không ai có thể can đảm hơn. Một vài người tự tử, đúng như thế. Những người khác chịu đựng những điều ghê rợn, khủng khiếp, và trở lại với những cuốn sách của họ, những cuốn sách bí ẩn mà phụ nữ đọc khi trời lạnh, và có vẻ như mùa đông sẽ chẳng bào giờ chấm dứt.

MY GIFT TO YOU

My gift to you will be an abyss, she said,
but it will be so subtle you'll perceive it
only after many years have passed
and you are far from Mexico and me.
You'll find it when you need it most,
and that won't be
the happy ending,
but it will be an instant of emptiness and joy.
And maybe then you'll remember me,
if only just a little.
Roberto Bolano
The Paris Review Summer 2012

Xuống phố, đổi phim, ghé tiệm sách, mua số The Paris Review có bài thơ tuyệt vời của Bolano, tả đúng tâm sự Gấu, đúng cái cảnh tình cờ gặp lại Em, khi Em đi chợ Bến Thành, về, và “kín đáo” nói cho biết, tại làm sao Em vờ Gấu, và chọn một anh bồ, cùng học Y Khoa. (1)

Quà BHD tặng Gấu

Quà ta tặng mi sẽ là 1 vực thẳm, em nói
Nhưng nó "tế vi" đến nỗi mi không thể nào nhận ra
Chỉ sau thật nhiều năm, có khi, chỉ sau khi ta đi xa rồi,
Và cả hai đều chạy ra khỏi cả hai quê hương Bắc Kít và Nam Kít rồi
Thì lúc đó mi mới tìm thấy món quà ta tặng mi
Khi mà mi cực cần đến nó
Và chắc chắn không phải là một kết thúc hạnh phúc
Nhưng sẽ là một thoáng chốc của sự trống rỗng và niềm vui.
Và có thể, chỉ lúc đó mi mới nhớ ta,
Và mới hiểu cái gọi là "mono no aware",
“Nỗi buồn cháy da, cháy thịt khi ta đã đi ra khỏi đời của mi".
Nhưng cũng chỉ được 1 tí tí.


*

Kẻ nào tính xin tí huyết... Francois ?

Qui veut la peau du pape François ?

Đọc bài này, thì cũng nên đọc thêm bài này, về Dalai Lama, tớ có lẽ là tên Phật Sống cuối cùng!

Dalai Lama concedes he may be the last

Đức Giáo Hoàng mà còn bị hăm he, xin tí huyết, thì có ai chúng chừa!
Đức Phật Sống phán, làm sao biết, nếu cứ còn, thì sẽ có lúc đụng 1.... Quỉ Sống!

Hà, hà!



Bảo Ninh vs Remarque

Đừng chơi trội. Hãy chân thật. Bởi vì bạn đâu phải cái rốn của vũ trụ. Còn có rất nhiều người khác. Thành thử cái chuyện trèo lên bục cao, tới giữa sàn diễn, tới giữa vùng ánh sáng kia, là thể nào cũng đụng chạm tới phần của kẻ khác, những người không chịu trèo. Chuyện, bạn lỡ dẫm lên chân của kẻ khác, đâu có nghĩa, bạn tha hồ đạp lên đầu lên vai họ?
Joseph Brodsky: Nói chuyện với sinh viên [Speech at the Stadium]

Ngay từ những ngày cuộc chiến “chưa” hứa hẹn những điều khủng khiếp, Mậu Thân chưa xẩy ra, Đại Lộ Kinh Hoàng chưa có… đọc 1 cuốn tiểu thuyết với cái air “bất hạnh, da vàng, nhược tiểu…” Gấu đã lên tiếng báo động rồi. Thế rồi cuộc chiến tàn khốc xẩy ra, rồi tù đầy cải tạo, và, chính ở những nơi chốn đó, văn chương Miền Nam tìm ra sinh lộ, đúng như câu thơ của Holderlin, mà Camus cực mê, chỉ ở những nơi chốn hiểm nguy, thì mới có cứu rỗi. [But where there is danger, there grows also what saves: Nhưng ở đâu có hiểm nguy, ở đó chồi cứu chuộc nẩy lên].

Vậy mà đến bây giờ, vẫn có những tên ngu si đần độn, gọi văn chương Miền Nam, là văn chương bất hạnh!
Một tên học hành không ra gì, VC không ra VC, Ngụy không ra Ngụy, 1 câu tiếng Anh không dịch nổi, tiếng Pháp thì mù, điếc, câm... đặc, vậy mà ngồi chủ tọa 1 cuộc diễn đàn nhìn lại VHMN trước 1975!

Ian Buruma, trong bài viết mà Tin Văn tính dịch giới thiệu độc giả, Những niềm vui và những rủi ro khi khoe bất hạnh, “The Joys and Perils of Victimhood”, viết:

… Finally, and I think this goes to the heart of the matter, we should recognize that truth is not just a point of view. There are facts that are not made up but real. And to pretend there is no difference between fact and fiction, or that all writing is fiction, is to paralyze our capacity to distinguish truth from falsehood. And that is the worst betrayal of Primo Levi and all those who suffered in the past. For Levi's fear was not that future generations would fail to share his pain but that they would fail to recognize the truth.

Sau cùng tôi đi thẳng vào cốt lõi của vấn đề. Sự thực không phải chỉ là quan điểm - mi nói bất hạnh, ta nói không phải - Có những sự kiện, không phải được phịa ra, dựng đứng lên, nhưng mà là sự thực. Và giả đò chẳng có khác biệt giữa sự kiện và giả tưởng, mọi cái viết đều là giả tưởng, là làm tê liệt khả năng phân biệt giữa sự thực và giả trá. Và đó là sự phản bội tồi tệ nhất đối với Primo Levi và tất những người đã đau khổ trong quá khứ. Bởi là vì nỗi sợ của ông, không phải những thế hệ tương lai sẽ thất bại trong cái việc chia sẻ nỗi đau của ông, nhưng họ thất bại, không nhận ra sự thực.

Một nền văn chuơng bất hạnh mà có những nhà văn, nhà thơ như TTT, Bùi Giáng, Tô Thuỳ Yên.... ?
Một nền văn chương bất hạnh mà sao cả nước bây giờ nâng niu, tìm đọc?
Cái chuyện kẻ thắng hành hạ nó, phần thư nó, là niềm hãnh diện của nó, làm sao mà có thể gọi là bất hạnh?
Đúng là 1 lũ ngu đần, làm nhục cả hải ngoại lẫn trong nước. NQT

Coetzee, viết về Brodsky, về những chuyến đi mang tính tự thuật của ông [in his autobiographical journeys], ông không hề nhắc tới vụ án nổi tiếng, bị nhà nước gán cho tội ăn bám xã hội, và kết quả là bản án lưu đầy nội xứ, lao động cải tạo, ở mãi mạn bắc, và Coetzee giải thích, cái sự im lặng này có tính cân nhắc, deliberate: Tao đéo khoái cái trò phô ra cho người đời thấy, những vết thương của ta, tao đéo bao giờ bất hạnh, thi sĩ đéo bao giờ là nạn nhân.
Hiểu chưa, lũ ngu?
Nếu một nhà thơ, đéo bao giờ là nạn nhân, thì một nền văn học như của Miền Nam trước 1975, đéo bao giờ bất hạnh!
Bằng mọi giá, tránh cho bằng được, cái khốn nạn, ngu si, tự ban cho mình cái thế giá nạn nhân, ông khuyên nhủ sinh viên [At all cost try to avoid granting yourself the status of the victim]



P.D. James

Obituary: P.D. James

Murder most intricate

Phyllis Dorothy (P.D.) James, Baroness James of Holland Park, crime writer, died on November 27th, aged 94

Nữ hoàng trinh thám Anh mất, thọ 94 tuổi


Bọ Lập đi nằm ấp

Walter Benjamin nhận xét, không phải tự nhiên mà cái cú Hóa Thân - đang là người, buổi sáng ngủ dậy, thấy biến thành bọ - xẩy ra ở nhà, mà không ở nơi quán trọ, với 1 tên suốt đời chạy long nhong để bán hàng, nuôi thân, nuôi gia đình. Anh chàng tên Tâm, trong Bếp Lửa, của TTT,  lưu vong, viết thư về cho em gái ở nơi quê nhà, buộc vào quê hương, không phải bạn bè, mà phải là máu mủ. Nhà văn Mẽo, Philip Roth, trong 1 lá thư viết cho bạn, được dùng làm epitaph cho bài viết “Hãy nhìn về phía nhà mình, hỡi Thiên Thần”, trong "Roth Unbound”, của Claudia Roth Pierpont, viết: Kafka mới khôn khéo làm sao khi để cho cái cú Hóa Thân xẩy ra trong gia đình.
Gia đình ở đây đứng như là, stands for, [gạch đít, trong nguyên tác], cái nhận ra, điều mà chúng ta trông mong từ gia đình, the recognizable, we know just what to expect from the family.

Thành ra không thể nói, Bọ Lập không biết, ông sẽ bị "gia đình" bắt nằm ấp. Ông biết, và nói cho bạn của ông, là, gia đình sẽ cho ông đi nằm ấp.
Gia đình, của ông, với chúng ta, lũ Ngụy, là cái địa ngục VC, những người như Bọ Lập, hay Tướng Về Hưu, hay Quái Vật Siêu Nhân Anh Hùng Núp, làm nên.

Đếch có Ngụy, đếch có Gấu Cà Chớn ở trong “gia đình” đó!

Có thể lũ Bắc Kít sẽ rất ư là bực mình, khi lũ Ngụy cứ khăng khăng nghĩ rằng là văn học miền nam trước 1975, của chúng, bảnh hơn nhiều so với Bắc Kít. Nhưng quả là nó bảnh hơn, nhưng, do đâu, vì lý do gì?
Ở đây, chính là cốt lõi của cái gọi là Cái Ác Bắc Kít. Điều này, không phải Gấu nói, mà là Brodsky nói.

Coetzee, viết, trong 1 lá thư ngỏ, gửi Vaclav Havel, Brodsky đề nghị tông tông Havel vứt mẹ cái quan điểm, chủ nghĩa CS Đông Âu bị hải ngoại đặt để, mà nó nằm trong tim, trong hồn, trong não Đông Âu, 1 thứ tội tổ tông. Và cái sự tái giáo dục nó, là phải bằng thức ăn hàng ngày, với những liều lượng của Proust, Kafka, Faulkner, hay Camus.

Cái làm cho văn chương miền Nam trước 1975, bảnh như vậy, là do như thế: Nó được tiêm thuốc chủng độc CS, từ những liều lượng như trên! 

Though On Grief and Reason intermittently alludes to, and sometimes directly addresses, Brodsky's own exile/immigrant status, it does not, except in an odd and inconclusive exercise on the spy Kim Philby, address politics pure and simple. At the risk of oversimplifying, one can say that Brodsky despairs of politics and looks to literature for redemption.

Thus, in an open letter to Vaclav Havel, Brodsky suggests that Havel drop the pretense that Communism in Central Europe was imposed from abroad and acknowledge that it was the result of "an extraordinary anthropological backslide" whose basis was no more and no less than original sin. As president of the Czech state, Havel would be well advised to operate on the premise that man is inherently evil; the reeducation of the Czech public might begin with doses of Proust, Kafka, Faulkner, and Camus in the daily papers (On Grief, pp. 218-22).
(Elsewhere Brodsky criticizes Aleksandr Solzhenitsyn on the same grounds: for refusing to accept what his senses plainly tell him, that humankind is "radically bad"; Less Than One, p. 299.)

Coetzee: The Essays of Brodsky [in Stranger Shores]

*

Bao giờ thì Bọ Lập quay về nhỉ? Khi biết tin Bọ Lập bị bắt, tôi lại nhớ Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình… Lẽ nào con người hát và viết, nói điều mình nghĩ lại có thể là tội phạm? Hơn nữa, đó lại là những con người yêu nước. Buổi chiều dừng chân trú cơn mưa ở vỉa hè, chợt thấy nơi đó bày bán những cây gậy bằng tre. Tôi nhìn địa chỉ và ghi lại. Biết đâu Bọ Lập khi bước ra, ông vẫn cần một cây gậy mới để đi cùng, trong vòng vây thương mến của mọi người chào đón ông.

Tuấn Khanh

Nếu những người như Bọ Lập không thể là tội phạm, thì lũ Ngụy là tội phạm vậy!
Cái địa ngục Mít bây giờ, như thế đó, là có sự đóng góp của Bọ Lập.
Ông đẻ ra lũ người bắt ông bây giờ, làm sao nói, không tội phạm?

NQT 

Con thuyền của anh Lập, dập dìu sóng vỗ khi nào, là một con thuyền lẻ loi. Lật bởi sự tồi tệ của thể chế chính trị. Chìm bởi sự đơn độc của chính nó giữa vài ba con thuyền đơn độc khác. Đắm bởi sự bạc bẽo của phần lớn chúng ta.

Note: Đây là câu văn của Sến, trong bài viết về Bọ Lập, được VOA trích dẫn
Đọc, thấy...  tếu quá!
Bà này viết văn, vưỡn kênh kiệu như mọi “khi nào”!

*

Hãy đốt cuốn sách này!

Trong cuốn này, có hai bài viết, bảnh nhất, theo GCC, thì đều mở ra bằng 1 ý của Kafka.

Bài của người chủ biên, Toni Morrison [cuốn sách nhỏ, mỏng dính, nhưng do PEN Mẽo xb], Peril: Hiểm Nguy. Có 1 câu bảnh nhất, tặng Bọ Lập thì chàng sướng điên lên được, dù đang nằm ấp:
Cuộc đời và tác phẩm của một nhà văn đếch phải là một món quà cho nhân loại. Chúng là sự cần thiết của nó.

Peril

Toni Morrison

Authoritarian regimes, dictators, despots are often, but not always, fools. But none is foolish enough to give perceptive, dissident writers free range to publish their judgments or follow their creative instincts. They know they do so at their own peril. They are not stupid enough to abandon control (overt or insidious) over media. Their methods include surveillance, censorship, arrest, even slaughter of those writers informing and disturbing the public. Writers who are unsettling, calling into question, taking another, deeper look. Writers-journalists, essayists, bloggers, poets, playwrights-can disturb the social oppression that functions like a coma on the population, a coma despots call peace; and they stanch the blood flow of war that hawks and profiteers thrill to.
    That is their peril.
    Ours is of another sort.
    How bleak, unlivable, insufferable existence becomes when we are deprived of artwork. That the life and work of writers facing peril must be protected is urgent, but along with that urgency we should remind ourselves that their absence, the choking off of a writer's work its cruel amputation, is of equal peril to us. The rescue we extend to them is a generosity to ourselves.
    We all know nations that can be identified by the flight of writers from their shores. These are regimes whose fear of unmonitored writing is justified because truth is trouble. It is trouble for the warmonger, the torturer, the corporate thief, the political hack, the corrupt justice system, and for a comatose public. Unpersecuted, unjailed, unharassed writers are trouble for the ignorant bully, the sly racist, and the predators feeding off the world's resources. The alarm, the disquiet, writers raise is instructive because it is open and vulnerable, because if unpoliced it is threatening. Therefore the historical suppression of writers is the earliest harbinger of the steady peeling away of additional rights and liberties that will follow. The history of persecuted writers is as long as the history of literature itself. And the efforts to censor, starve, regulate, and annihilate us are clear signs that something important has taken place. Cultural and political forces can sweep clean all but the "safe," all but state-approved art.
    I have been told that there are two human responses to the perception of chaos: naming and violence. When the chaos is simply the unknown, the naming can be accomplished effortlessly-a new species, star, formula, equation, prognosis. There is also mapping, charting, or devising proper nouns for unnamed or stripped-of-names geography, landscape, or population. When chaos resists, either by reforming itself or by rebelling against imposed order, violence is understood to be the most frequent response and the most rational when confronting the unknown, the catastrophic, the wild, wanton, or incorrigible. Rational responses may be censure, incarceration in holding camps, prisons, or death, singly or in war. There is however a third response to chaos, which I have not heard about, which is stillness. Such stillness can be passivity and dumbfoundedness; it can be paralytic fear. But it can also be art. Those writers plying their craft near to or far from the throne of raw power, of military power, of empire building and counting-houses, writers who construct meaning in the face of chaos must be nurtured, protected. And it is right that such protection be initiated by other writers. And it is imperative not only to save the besieged writers but to save ourselves. The thought that leads me to contemplate with dread the erasure of other voices, of unwritten novels, poems whispered or swallowed for fear of being overheard by the wrong people, outlawed languages flourishing underground, essayists' questions challenging authority never being posed, un-staged plays, canceled films-that thought is a nightmare. As though a whole universe is being described in invisible ink.
    Certain kinds of trauma visited on peoples are so deep, so cruel, that unlike money, unlike vengeance, even unlike justice, or rights, or the goodwill of others, only writers can translate such trauma and turn sorrow into meaning, sharpening the moral imagination.
    A writer's life and work are not a gift to mankind; they are its necessity.

TM

Bài viết của TM quả là hách xì xằng, mở ra cuốn sách nhỏ, với cái tít thật chửi bố nhật ký ĐTT gì gì đó: Hãy đốt cuốn sách này!

Có vài thứ chấn thương viếng thăm con người, sâu quá, tàn bạo quá… chỉ lũ khốn kiếp là nhà văn mới chuyển dịch được nó, và biến đau buồn thành cái có ý nghĩa, làm nhọn hoắt trí tưởng tượng về mặt đạo hạnh.

Nadine Gordimer, trong bài viết Witness: The Inward Testimony, trích dẫn Kafka, nhà văn nhìn, giữa những điêu tàn, nhiều điều, và trong nhiều điều đó, có những điều khác những điều người trần mắt thịt nhìn thấy [tạm dịch cụm từ, the writer sees among ruins “different (and more) things than others…”], it is a leap out of murderers ‘row, it is a seeing of what is really taking place [đó là cú vọt ra từ dẫy sát nhân, đó cái nhìn cái thực sự xẩy ra], và từ ý đó, bà đưa ra cái ý nội chứng (inward testonomy), mà chỉ nhà văn nhà thơ mới làm được: A leap from muderers’row that only the poet can make.

Bài viết của Nadine Gordimer cũng quá khủng, Gấu “loay hoay hì hục” [chữ của TTT] đọc hoài, mà cũng chưa vỡ ra được: Cái nhìn vọt ra từ dẫy sát nhân!

Bài của David Grossman, nhà văn Do Thái, “Viết trong bóng tối”, GCC đọc cùng với cuốn sách cùng tên của ông, cũng khởi từ một ngụ ngôn của Kafka, “A Little Fable”: Khi tên ăn thịt sống khép lại gần bạn, thì thế giới của bạn nhỏ mãi lại, và cùng với nó, là cái ngôn ngữ diễn tả nó, when the predator closes in on you, your world does get smaller. So does the language that describes it.

Đây là thực trạng của thế giới văn chương…  VC. Những đấng nhà văn của nó, đã không đọc, và đọc thì cứ quanh quẩn mãi ở những tác giả…. vô hại, thế giới cứ thế nhỏ mãi đi, chưa kể tên ăn thịt sống, là nhà nước của chúng, do chúng bắt buộc chọn, sau khi làm thịt Ngụy: cái sự cả triệu người “viu” trang Quê Choa, là 1 thảm họa - "bất hạnh" thuổng tên K -  chứ đâu phải hãnh diện?

GCC tin chắc Bọ Lập mừng quá, khi bị VC cho nằm ấp, như vậy, là ta trốn được trang Quê Choa!

Do ít đọc, ánh lửa ma trơi nhoáng lên rồi tắt ngấm, từ lâu rồi, với nhà văn nhớn NQL.

Franz Kafka

A Little Fable

"Alas," said the mouse, "the whole world is growing smaller every day. At the beginning it was so big that I was afraid, I kept running and running, and I was glad when I saw walls far away to the right and left, but these long walls have narrowed so quickly that I am in the last chamber already, and there in the corner stands the trap that I must run into."

     "You only need to change your direction," said the cat, and ate it up.

Nguyễn quang Lập (đứng dậy, chống hai tay vào hông cho đỡ nóng):
Tôi muốn hỏi lại, các anh đã bị đưa ra khỏi Hội Nhà Văn ba năm, sau đó thành ba mươi năm. Tại sao khi người ta yêu cầu các anh viết đơn để được vào lại, thì các anh lại viết? (1)

Note: Bảnh thật!

Cái hiểm nguy mà Morrioson báo động, ở về phía chúng ta, nhà văn, là, ngay cả đến ánh lửa ma trơi cũng đã tắt ngúm từ đời nào rồi: rằng cái cuộc sống của chúng ta mới thảm hại làm sao, nếu đếch có tác phẩm nghệ thuật. Rằng cuộc sống và tác phẩm của nhà văn phải được bảo vệ, điều này thì thực là khẩn thiết, nhưng song song với khẩn thiết này, là 1 khẩn thiết mà chúng ta phải nhắc nhở chúng ta, là sự thiếu vắng cái ánh lửa ma trời hiếm hoi kia, và đây mới là nỗi hiểm nguy của chúng ta:

How bleak, unlivable, insufferable existence becomes when we are deprived of artwork. That the life and work of writers facing peril must be protected is urgent, but along with that urgency we should remind ourselves that their absence, the choking off of a writer's work, its cruel amputation, is of equal peril to us. The rescue we extend to them is a generosity to ourselves.











Fantasy realism

A brief survey of the short story: Italo Calvino
A writer of dizzying ambition and variety, each of his stories is a fresh adventure into the possibilities of fiction

In a lecture delivered in New York in the spring of 1983, Italo Calvino remarked that "most of the books I have written and those I intend to write originate from the thought that it will be impossible for me to write a book of that kind: when I have convinced myself that such a book is completely beyond my capacities of temperament or skill, I sit down and start writing it".

Tất cả những gì tôi viết ra thì đều từ cái ý nghĩ, mình làm sao mà viết nổi cái thứ này, và khi tôi đinh ninh là quá sức mình, cái việc viết 1 cuốn như thế đó, tôi bèn ngồi xuống bàn và viết


Ôi chao giọng Huế

TATYANA TOLSTAYA

Under Kafka's Spell


“My homeland was a feeling, and that feeling was mortally wounded…What we swore to uphold no longer exists… There was a world for which it was worth living and dying. That world is dead”.
Sándor Márai: The Candles Burn Down

Quê Bắc của tớ là một cảm nghĩ, và cảm nghĩ này bị thương tổn trầm trọng… Điều mà tớ quyết tâm gìn giữ cho bằng được, thì đếch còn nữa…
Có một cõi Bắc Kít thật đáng sống, đáng chết vì nó. Cái cõi đó ngủm củ tỏi mất rồi.


*

*

*

Nhân vụ Hồ Duy Hải, chết thế 1 tên đại ác VC nào đó.

Simenon không hề quen biết Jean Cau, cựu thư ký của Sartre. Nhưng khi nghe tên này OK với án tử hình, bèn bực quá, sao mi ngu đến như thế, ta khinh bỉ mi!
Mi quên, quyền dược sống của con người. Nhưng có thể mi mê... Nazi/Bắc Kít và lý tưởng Nazi/Bắc Kít, giống dân số 1 trên thế giới: Một dân tộc thánh, cực kỳ thông minh!
Jean Cau phán: Tớ chọn án tử hình, vì nó không tàn nhẫn so với giam giữ. Thà chặt mẹ cái đầu, còn hơn giam hãm con người dài dài trong 1 cái cũi!
Tuy nhiên, khi Brodsky hỏi ông via của mình, về cái chế độ Gulag của Xì và Lò Thiêu Người của Hitler, ông bố trả lời, ông chọn Lò Thiêu:

(1)

Nói trộm viá hai cụ, thằng con của hai cụ chỉ mong, hai cụ đừng trông mong nhiều quá. Có lẽ bà cụ tôi làm được điều này, nhưng đây là do bản tính dịu dàng của cụ, và về điều này, ông cụ thường chẳng bỏ qua một dịp nào, để mà chọc quê, “Tự [hào phóng] về mình thì dễ ợt, bà nó ơi, Marusya ạ.”
Còn về phần ông cụ, tôi nhớ lần hai cha con cùng tản bộ, một buổi chiều vàng nắng tại Vườn Mùa Hạ, khi tôi đã tròn mười chín, hoặc đôi mươi. Hai cha con ngừng lại nơi khoảnh vườn ban nhạc hải quân, Marine Brass Band, đang chơi mấy điệu luân vũ cổ, ông cụ muốn bấm vài bô hình ban nhạc này. Mờ mờ sáng, tối, chỗ này, chỗ nọ, là mấy bức tượng cẩm thạch trắng phủ lên những bóng dâm vằn vèo, người đi lại trên những lối đi sỏi cát, trẻ nô đùa nơi hồ bơi, và hai bố con nói về chiến tranh và những người Đức. Đưa mắt nhìn ban nhạc, tôi thấy mình đang hỏi ông cụ, trong hai trại tù, theo bố, cái nào khốn kiếp hơn cái nào: trại tù của người Đức, hay là của chúng ta?
“Về phần bố,” ông trả lời, “Thà rằng bố ra tro liền tù tì, trong một cái lò thiêu người, còn hơn là cứ thế ngắc ngoải, chết không chết, mà sống cũng chẳng xong, cứ kéo dài một cái chết chậm, và trong khi chết chậm như thế, khám phá ra ý nghĩa của tiến trình mười năm trồng cây, trăm năm trồng người.”
Và ông bấm liền mấy bô hình.


Nhà văn và tên bồi

Gấu nhớ là có đọc đâu đó, người tình Lara của Pạt là nhân viên KGB, nhưng đọc bài viết trên TLS, không phải.

Số phận Lara thật là thê lương, sau khi Pạt mất. Và nhân vật nữ này quả đúng là tượng trưng cho nước Nga nát tan vì Cách Mạng: Liệu chúng ta có thể coi cái cú em Phương bị 1 bầy Bộ Đội Cụ Hồ bề hội đồng ở ga Thanh Hoá, như là 1 lời tiên tri - trù ẻo đúng hơn - và sau đó, trong "Cánh Đồng Bất Tận", nó biến thành…  hiện thực?

Awarded the Nobel Prize for Literature in 1958, he was compelled by the Kremlin to renounce it. The Komsomol leader, Vladimir Semichastnyi, contrasted him unfavorably with a pig which would never foul its own sty. Pasternak, ailing in health for years, speculated that the KGB might try to poison him. But he stuck to his guns; and although he gave way to Khrushchev on secondary matters, he took satisfaction in the lasting damage he had done to the Soviet order. What he could not do was protect Olga Ivinskaya from persecution. When he died in 1960, her vulnerability was absolute and she was arrested. Even if she had not been involved in the practical arrangements for publication abroad, the KGB would probably still have gone after her. Indeed, Pasternak had intimated that she was the model for the novel's heroine, Lara.

Ở Miền Nam, một nhân vật nữ như Lara, thấp thoáng trong Hà, trong “Sau Cơn Mưa” của Lý Hoàng Phong. Ngay từ bài điểm sách đầu tay trên nhật báo “Dân Chủ”, Gấu đã đưa cái nhìn này, khi coi “Sau Cơn Mưa” là bản phác, esquisse, cho một cuốn tiểu thuyết sẽ có, giống như “Bác Sĩ Zhi Và Gồ” của Pạt.
Nhưng thay vì Zhi Và Gồ, thất bại, thì là Kiệt, bị bắn chết, trong “Một Chủ Nhật Khác”, và thay vì Lara, thì là Hiền, biệt tích đâu đó, trong trí tưởng của Kiệt, như khi anh nói với vợ, Thùy, anh đưa cô ta tới đó, rồi trở về với em.

Calvino coi “Bác Sĩ Zhi Và Gồ” là 1 Odyssey của thời đại chúng ta:

… The exceptions are the chapters evoking Zhivago's final wanderings through Russia, the horrific march amongst the rats: all the journeys in Pasternak are wonderful. Zhivago's story is exemplary as an Odyssey of our time, with his uncertain return to Penelope obstructed by rational Cyclops and rather unassuming Circes and Nausicaas.

Trong ba người đàn ông vây quanh Lara, cả hai đấng Zhivago, và Người Thép Strelnikov, đều là những kẻ thất bại, không xứng với Em, như Calvino nhận định. Xứng với em theo ông, là cái tên khốn nạn, bồ của bà mẹ của em:

During the civil war in the Urals, Pasternak shows us both men as though they were already destined for defeat: Antipov-Strelnikov, the Red partisan commandant, terror of the Whites, has not joined the Party and knows that as soon as the fighting is over he will be outlawed and eliminated; and Doctor Zhivago, the reluctant intellectual, who does not want to or is not able to be part of the new ruling class, knows he will not be spared by the relentless revolutionary machine. When Antipov and Zhivago face each other, from the first encounter on the armed train to the last one, when they are both being hunted in the villa at Varykino, the novel reaches its peak of poignancy.


hồ đình nghiêm viết:

Erich Maria Remarque là nhà văn có số lượng người đọc nhiều nhất trong thế kỷ 20. Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh là tác phẩm trác tuyệt, người lính qua văn chương của E.M. Remarque là biểu tượng của sự mất mát, tang hoang, mất niềm tin, cô đơn cùng cực. Trong giao thông hào ở tuyến đầu hay ngồi tàu hoả về phép tận hậu phương. Đúng như Trần Vũ nhận xét, tiểu thuyết của ông tựa một cái kính vạn hoa luôn có sự biến hoá mỗi lần đọc lại và tôi ngờ rằng cái hấp lực ấy đã tạo ra một phiên bản khác, phủ chụp xuống Bảo Ninh khi viết cuốn Nỗi buồn chiến tranh. Tôi cũng cả tin, nếu Trần Vũ viết về đề tài chiến tranh, tôi nghĩ Trần Vũ sẽ đẩy lùi Bảo Ninh vào bóng tối.

Hoàng Đại Dương viết:

Tôi bất chợt tìm thấy Trần Vũ có nét lãng mạng như tướng Patton, tuy sinh sau Đệ Nhị Thế Chiến, anh vẫn còn hơi thở của cuộc chiến tranh này!

Source


Note: Cái sự so sánh Bảo Ninh với Remarque, và đánh giá ông này hơn ông kia, theo Gấu hơi bị nhảm.
Một trong những lý do, là, hai cuộc chiến mà hai tác giả đụng phải khác nhau.
Trên Tin Văn cũng đã đề cập tới cả ba, nghĩa là, với cả cuốn Người Mỹ Trầm Lặng của Graham Greene:

Chuyện mấy anh Mẽo hay nhắc tới Greene khi viết về Ẩn, và Ẩn, khi thú nhận, mình học từ ông thầy Xịa cách luyện chó để trị cảnh sát, tất cả đều có nguyên nhân sâu xa của chúng.
Norman Sherry, trong bộ ba khổng lồ, Cuộc Đời Greene, của ông, có đưa ra nhận xét, anh phóng viên Mẽo nào, trên đường tới Việt Nam, vào những năm tháng nóng bỏng đó, đều lận lưng một bửu bối, là cuốn "Người Mỹ Trầm Lặng."
Trong truyện ngắn, gần như là một thứ tự truyện, Cõi Khác, Gấu đã lầm, khi nghĩ rằng, mấy anh Mẽo này mơ tưởng viết một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam có vóc dáng "Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh" của Remarque.
Tại sao lại có sự "lầm lẫn" như thế? Liệu có phải Greene hơn Remarque? Gấu vẫn thường tra vấn mình, và sau cùng, nhân đọc một số tác giả, trong số đó, có Steiner, Benjamin, Milosz... và ngộ ra là:

Sau Remarque, hay rõ hơn, sau Đệ NhấtThế Chiến, không thể có một Mặt Trận Miền Tây nào, cho bất kỳ một cuộc chiến nào.
Remarque là nhà văn chấm dứt  thứ tiểu thuyết viết về chiến tranh như cuốn của ông. (1)

Đây là điều những nhà phê bình nước ngoài nhận ra, khi đọc "Nỗi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh, và coi nó cao hơn "Mặt Trận Miền Tây". Cao hơn không phải là do Bảo Ninh có tài hơn, mà là, chiến tranh, con người, ở trong "Nỗi Buồn Chiến Tranh" khác với chiến tranh, con nguời như được miêu tả trong "Mặt Trận Miền Tây."

Tiếp theo đó, cũng thế, số phần của Greene, là phải viết "Người Mỹ Trầm Lặng". Những so sánh nhắc nhở tới ông, là vì ai cũng muốn được như... ông.

Toan tính rõ rệt nhất, và, thất bại rõ rệt nhất, là trường hợp cuốn "Thời Gian Của Người" của Nguyễn Khải. Nó thất bại, là do muốn hay hơn cả "Người Mỹ Trầm Lặng", theo nghĩa, lọc bỏ hết cái xấu xa, cái ác quỉ, của cả con người lẫn cuộc chiến, và nhất là của con người, như là một tên điệp viên. Nó thiếu cái phần sự thực cay đắng, chua chát nhất, ở một nhà văn Ky Tô như Greene, [so với một nhà văn Cộng Sản như Khải], khi ông tuyên bố:
“Tôi phải kiếm cho ra một tôn giáo để đo lường cái phần quỉ ma ở nơi tôi”.

Nhân vật Quân [hoá thân của Ẩn,] trong "Thời Gian Của Người" "thánh thiện quá" [theo nghĩa "thép đã tôi thế đấy"], nhà văn như Nguyễn Khải, một lòng một dạ biết ơn Đảng, viết dưới ánh sáng của Đảng, thành thử chỉ đẻ ra một thứ phẩm, đúng như Gide nói. [Những tình cảm tốt đẹp đẻ ra một thứ văn chương tồi].

Một cách nào đó, cuốn "Người Mỹ Trầm Lặng" có một vị thế [position,status], của cuốn "Bóng Đêm Giữa Ban Ngày" của Koestler.
Nó cũng chứa trong nó, vụ án của thế kỷ.  (1)

Không giống như "Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh", đây là một cuốn tiểu thuyết không chỉ về chiến tranh. Một cuốn sách về chuyện viết, về tuổi trẻ mất mát, nó còn là một câu chuyện tình đẹp, nghẹn ngào [Lời giới thiệu của Geoff Dyer trên tờ Independence, in lại trong bản dịch tiếng Anh của Nỗi Buồn] (2)


Nhưng phải là Ngụy cơ, thì mới thấy sự khác biệt giữa 1 Bảo Ninh, và 1, Trần Vũ, giả như anh chơi cuốn tiểu thuyết về cuộc chiến Mít.
Cái vị thế của Trần Vũ, sẽ là của 1 số tác giả mà Ian Buruma đề cập tới và quan tâm, như trong lời giới thiệu về ông, trong cuốn "Ác Kịch". Tất cả những tác giả này, thì đều quan tâm, dính [affected] tới phát xít, và những hậu quả khủng khiếp của nó, và tất cả đều nhìn vào vực thẳm và làm ra nghệ thuật từ điều họ nhìn thấy, all “looked into the abyss and made art of what they saw”.

Bảo Ninh không làm sao ở được vào 1 vị thế như thế, để viết. Trước mắt anh chỉ có vinh quang, làm gì có vực thẳm.
Chỉ 1 khi anh dám phán, tao tởm cuộc chiến đó, thì may ra! NQT

Trong lời giới thiệu "Ác Kịch", Ian Buruma viết:

The question of how a civilized, highly educated people, like the Germans in the 1930s, could follow a murderous demagogue into an abyss of moral depravity will never let go of me. But I am well aware that those Germans who followed Hitler were not unique. There are no eternal good guys or bad guys. Nor do I do take the easy cynical view that there is an evil Nazi in all of us, waiting to get out. I am convinced, however, that many people, if given the opportunity to wield absolute power over other human beings, will abuse it. Unlimited authority, often cloaked in the moralism of a great cause, leads invariably to the torture chamber. A way to deal with our fearful fascination with power and cruelty and death is to act it out vicariously, in art. Hence the title of this book. This is not to say that all great art or drama has to deal with these sinister themes. But the art and drama that interest me most reveal something of what lies beneath the varnish of what we call civilized behavior. Which is one reason, I suppose, why I love the German art of the 1920s. My favorite artists of that time, such as Max Beckmann, George Grosz, or Ernst Ludwig Kirchner, witnessed the barbarism of which man is capable with their own eyes, in the trenches and field hospitals of World War I and later in the streets of Berlin, a capital made skittish by the horrors of war, poverty, crime, and moral collapse. They looked into the abyss and made art of what they saw.

Theo GCC, giả như Trần Vũ viết về cuộc chiến Mít, thì sẽ ở trong 1 tâm trạng như thế.

Chúng ta đã thấy bàng bạc điều này, khi anh viết về Ác Quán Mãn Doanh, HPNT: Nhìn vào tên Đại Ác, vào vực thẳm Mậu Thân, mà ra nghệ thuật!




Bạn đọc buộc phải… thông minh

Từ chối trả lời phỏng vấn liên quan đến vấn đề dịch thuật, nhưng dịch giả Phạm Nguyên Trường (SN 1953, tên thật: Phạm Duy Hiển, giải thưởng Dịch thuật 2012 của Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh) đồng ý cho phép chúng tôi trích các ý kiến trong trang mạng xã hội của ông về vấn đề sách dịch và dịch sách tại Việt Nam hiện nay. Theo ông Trường, dịch thuật có ba nguyên tắc “cứng”: Từ đổi từ, dịch nghĩa, dịch văn phong trong đó sáng tạo như thể tôi muốn dịch vậy. Dịch thật hay chưa hẳn đã tốt, vì người dịch như vậy chỉ là kẻ theo đuôi xuất sắc mà thôi. Một người sáng tạo vụng về còn hơn người chỉ là cái bóng khéo léo. “Trong mọi trường hợp, khi khó dịch, hãy cứ thận trọng từ đổi từ. Còn người đọc thông minh phải biết liên kết lại. Người đọc đừng đòi hỏi hay và đúng quá, bởi đó là cách ăn sẵn kiểu vua chúa, cứ muốn người ta dọn sẵn ra hết cho mình. Đòi hỏi đúng nhiều quá trong bản dịch là thiếu bao dung” - ông Trường đưa ra quan điểm của mình.
Một điều tra “bỏ túi” của chúng tôi cho thấy: Trước tình cảnh nhiều sách ngoại bị dịch thảm như hiện nay, không muốn để những cuốn sách dịch thảm trở thành những vật trang trí xa hoa và vô dụng trên kệ sách gia đình, để tiết kiệm ngân quỹ gia đình, có nhiều độc giả sau khi bị trở thành nạn nhân của một số sách bị dịch sai, hỏng, muốn trở thành độc giả thông minh đối với mảng văn học dịch, chỉ còn biết đối phó bằng cách thụ động “vui vui” như sau: Thỉnh cầu, mong mỏi dịch giả dịch đúng, hay; tẩy chay, thôi, không đọc sách. Chỉ còn biết ao ước là có một khả năng… siêu nhiên như của một số nhân vật trong bộ phim siêu nhân họ từng xem, có mắt thần, hay tay thần, chỉ cần nhìn, chạm tay vào cuốn sách dịch nào, là biết ngay chất lượng hay - dở, để quyết định mua hay không mua sách. Hay “bạo động” là cùng nhau lập hội bảo vệ quyền lợi độc giả khi mua phải một cuốn sách dịch sai, dịch “rởm”.

Note: Đọc mẩu trên, GCC thú thực, chẳng vỡ ra được điều gì.
Khó hiểu nhất là cái điều kiện bắt độc giả phải “thông minh”!

Câu này nữa:
Một người sáng tạo vụng về còn hơn người chỉ là cái bóng khéo léo.
Ý tác giả muốn nói gì ở đây, "Gấu Ngu" này không làm sao hiểu nổi!
Ba nguyên tắc cứng? Cứng thì như thế, còn mềm thì sao?

PNT, hình như còn ký PMN, khi viết cho talawas?
Nếu đúng, thì Người đã lầm, khi coi cái tít cuốn “Đêm Giữa Ngày”, là của VTH, trong khi ông này thuổng của Koestler!
Đây là kẻ ăn cắp biến thành chủ nhân, mà chủ nhân thì lại biến thành kẻ ăn cắp!
Lịch sử cái tít này cũng ly kỳ lắm, như trên Tin Văn từng lèm bèm về nó. Thời gian đó đó, K đang nằm nhà tù của Ăng Lê, cô bạn của ông, dịch qua tiếng Anh, chơi cái tít như trên. Gửi bản vỗ cho K coi, ông khoái cái tít, nhưng lầm nguồn, từ thơ của tay A, thí dụ, trong khi của 1 tay khác.
Cái tình trạng dịch sai như trong nước hiện giờ, theo Gấu bắt buộc phải xẩy ra, và nó làm nhớ tới trường hợp dịch sai của 1 bà dịch giả, chuyên dịch tác phẩm của Nga qua tiếng Anh. Bà này dịch sai quá, bị tới 2 đấng nổi tiếng là Nabokov, và Brodsky, than thấu trời. Nhưng không có bà này là bỏ mẹ rồi. Nhờ bà dịch sai, mà lịch sử văn học Tây phương thay đổi hẳn đi. Hemingway đã từng thú nhận, hồi ở Paris, biết tới văn học Nga, là nhờ bà này. Trước, cứ nghĩ truyện ngắn của Katherine Mansfield là số 1 thiên hạ!

Trường hợp Mít, bi giờ, y chang, theo GCC.
Người mù ở trong hang Pác Bó, bò ra ánh sáng, "sai còn hơn không" [thuổng thơ NTN, "có còn hơn không"!]

Hà, hà!

Chiến Dịch 

Xin nói ngay, "chiến dịch" ở đây, có nghĩa, Những cuộc chiến dịch thuật, The translation wars, tên bài viết của David Remnick trên tờ Người Nữu Ước, số đề ngày 7 Tháng Một, 2005, về vấn đề dịch văn chương Nga, đặc biệt là hai ông Tolstoy và Dostoevsky.
Do đọc bài của một tác giả trên talawas, phạng dịch giả CVD, Hai Lúa bỗng nhớ đến bài viết của Remnick kể trên.
Chuyện dịch sai, và được chỉ cho biết những sai sót, theo tôi, là đại vạn hạnh cho người dịch. Nhưng cái đại vạn hạnh này, chỉ là đại vạn hạnh, một khi người chỉ ra sai sót kia thực tình muốn cho bản dịch trở nên hoàn hảo hơn, chứ không phải nhân dịp, mượn cớ sửa sai, để phạng tới tấp dịch giả.
Bài viết của Remnick nhằm vinh danh một chuyên gia dịch Nga văn sang tiếng Anh. Bà này dịch nhanh, dịch khoẻ, dịch nhiều. Nhưng than ôi, bà dịch sai khủng khiếp, và bị hai ông nhà văn, nhà thơ nổi tiếng số một thế giới, là Nabokov và Brodsky phạng tơi bời. Nhất là Nabokov!
Nếu không có Garnett, những nhà văn Nga [những "Rooshians", như Ezra Pound đã từng gọi] của thế kỷ thứ 19 chẳng thể nào có một ảnh hưởng nhanh chóng đến chóng mặt tới văn chương Mỹ đầu thế kỷ 20. Trong "A Moveable Feast" Hemingway đã chẳng mừng đến phát điên lên, khi khám phá ra kho tàng văn học Nga, trên những giá sách của Sylvia Beach (1). Trước đó, ông nghe người ta truyền tụng, Katherine Mansfield là đệ nhất văn sĩ chuyên viết truyện ngắn, nhưng sau khi đọc Chekhov, ông thấy bà này cũng... "xoàng"!
Bà Garnett dịch dở đến nỗi, như Remnick cho biết, trở thành nhân vật chính trong một tác phẩm châm biếm,"Anh em nhà Karamavov Ngu Dốt", "The Idiots Karamazov"!
Remnick viết, "Tội nghiệp bà Garnett!. Những dịch giả sau khi chết đi, vẫn còn khổ sở cay đắng vì sự vô ơn của người đời. Nhưng có khi chưa đến kiếp sau, mà kiếp này đã gặp họa: Trước khi Vua James can thiệp, những nhà dịch thuật Anh, chuyên dịch Kinh Thánh, đôi khi còn bị tín đồ đóng cọc thiêu chết, hay bị thắt cổ cho chết, hay như trong trường hợp William York Tyndale, được hưởng cả hai!"

Note:

Cuốn này, bản dịch đầu tiên xuất hiện ở Miền Nam, là của Mẽo, qua Phòng Thông Tin Huê Kỳ, ngay sau 1954, tiếp theo đợt di cư khổng lồ, cùng vài cuốn khác nữa, thí dụ "Tôi chọn tự do". Sau đó, còn mấy bản dịch nữa, chứ không phải chỉ có Tội Công Thành. Thí dụ, bản của Thạch Trung Giả, "Số Không Đến Vô Tận"
Đây cũng là một trong những cuốn sách vỡ lòng của Gấu này.
*
Người dịch cho rằng sẽ rất hợp lý nếu chuyển ngữ tên tác phẩm này thành "Đêm giữa ban ngày" nếu như trước đó chưa có một tác phẩm đã rất nổi tiếng cùng tên của nhà văn Vũ Thư Hiên.
PMN

VTH hẳn đã đọc "Đêm Giữa Ban Ngày", bản dịch cuốn của Koestler, những ngày sau chiến thắng 30 Tháng Tư, vô Miền Nam thu gom chiến lợi phẩm và khi ông viết cuốn của ông, chắc hẳn đã tự coi mình, cũng một thứ… tội công thành?
Ui chao một cái tên chôm từ của một tác phẩm có trước đó, mà lại ảnh hưởng ngược lại, như vậy sao?
Theo Gấu, không phải tự nhiên, tình cờ, mà VTH chơi [chôm] cái tít Đêm Giữa Ban Ngày!

Liệu chăng, đây cũng là một kinh nghiệm đọc Koestler sau 1975?
 
NQT

Về những lời phán loạn cào của nhà dịch giả PNT, về người đọc phải thế này, thế nọ, xin giới thiệu lời phán "không loạn cào cào",của Nabokov:

Trong bài viết "Hãy Bước Qua Lằn Ranh Này", Rushdie trích "Ghi chú về dịch thuật" của Nabokov, qua đó, nhà văn Nga này cho rằng, có "ba bậc quỉ ma" [three grades of evil], trong thế giới lạ kỳ dịch thuật.
Bậc thứ nhất, không đến nỗi tà ma cho lắm, là do thiếu hiểu biết, hiểu sai. Cái này tha thứ được. Vì làm người có nghĩa là phải có lỗi lầm.
Bậc thứ nhì dẫn tới Địa Ngục, "The next step to Hell", là thiến vô tư, thoải mái những chữ, những đoạn, mà dịch giả không hiểu nghĩa , hay cảm thấy, chúng có vẻ mù mờ, tối tăm, hay thô bỉ, dơ dáy, tục tĩu đối với những độc giả mà người dịch mường tượng ra ở trong đầu.
Bậc thứ ba, tội ác tệ hại nhất trong dịch thuật, là dịch giả muốn "làm tốt", sửa đổi, improve, nguyên tác, "đánh bóng, minh họa" nó, sao cho tác phẩm đi đúng luồng, phục vụ yêu cầu của nhân dân [to conform to the notions and prejudices of a given public: phù hợp với quan niệm và định kiến của một tầng lớp công chúng nhất định].
Vấn nạn dịch

Ở đâu ra cái tít "Đêm giữa Ngọ", của Koestler?

Từ Milton, nhưng không phải do tác giả chọn, như những dòng sau đây, trong Kẻ Lạ Ở Quảng Trường cho biết:

Chính là khi ở Pentonville mà tôi nhận được bản in thử của Darkness at Noon, và lần đầu tiên biết được cái tít tiếng Anh của cuốn sách - dựa trên một trích dẫn từ Milton, mà Daphne đề nghị, và tôi rất thích. Đúng là một sự trớ trêu, ở trong tình trạng tù đọc bản in thử của một cuốn tiểu thuyết về một người đàn ông ở trong tình trạng tù. Nhưng tôi may mắn hơn, vì ở tù ở Pentonville thì chắc chắn hơn hẳn ở Lubianka [nhà tù nổi tiếng của Liên Xô].
Đêm giữa Ngọ, cái tít đúng là như vậy.
Ngọ, Noon ở đây, là chỉ hiện tượng nhật thực, giữa trưa mà trời đất đen thui.
*
"...O dark, dark, dark, amid the blaze of noon,
Irrecoverably dark, total eclipse
Without all hope of day!"
Nguồn

Nobel 2014

*

*

Patrick Modiano a recu un cadeau empoisonné de la part du comité Nobel. Passe encore qu'il soit assailli par les reporters du monde entier et qu'il doive sacrifier, s'il réussit à se faire violence, au rituel du discours de remerciement lors de la remise officielle à Stockholm, lui qui a déjà tant de mal  s'exprimer des que l'auditoire dépasse trois personnes. Le sale coup est ailleurs: dans le communiqué officiel par lequelles académiciens suédois ont justifié leur choix. Deux mots sont à retenir : « mémoire » et « Occupation ». Pas de problème pour le premier. Le second est plus regrettable, ramenant encore et encore ses livres aux années noires. Bien sur elles n'en sont pas absentes; bien sur avec elles il a crée son propre poncif; et nul doute qu'elles le hantent d'autant plus qu'il ne les a pas vécues, étant ne au lendemain de la Libération. Mais, en inscrivant ce mot dans ses attendus, le comite Nobel la réduit. Car son univers dépasse et transcende depuis longtemps la période 1940- 1944 : son dernier roman en témoigne, ainsi que Le Magazine litteraire l'annoncait le mois dernier en couverture et dans ses colonnes.
    Mais basta! Disons que ce malentendu est la rancon de la gloire et que le reste, une fois tues les trompettes de la renommée, demeure ce qui nous importe le plus: la littérature, En l'espèce une oeuvre compacte, d'une remarquable homo-geneité, issue d'une plume qui n'a cessé de creuser le même sillon depuis quarante ans, insensible aux modes, à l'air du temps, aux pressions de la librairie. Romancier et non écrivain et encore moins homme de lettres, eut dit Simenon, dont on en a fait l'héritier, à juste titre. Romancier parce que bon qu'à ca, eut dit Beckett, et il faut le prendre comme un compliment. II y a du ressassement dans cette obsession pour une époque. Mais il faut saisir qu'elle lui permet avant tout de creuser ce qui lui est le plus cher : l'ambiguité des situations, la confusion des sentiments, le flou des atmosphères, tout ce qui fait notre indécision en temps de paix comme en temps de guerre.
    Le quinzième lauréat francais des Nobel ajouterait : « Oui c'est bizarre ... » Car sa prose poétique releve d'un art tout musical. Comme une chanson : toujours le même refrain mais avec un autre point de vue. On a connu de plus noirs ressacs. Le sien, pour n'être pas toujours lumineux, est nimbé d'une grace qui a partie liée avec la nostalgie sans être mélancolique. Une prouesse. On appelle cela « la magie Modiano » faute d'en avoir pu définir ou dessiner les contours. Quant a en expliquer le mécanisme, autant y renoncer, et c'est tant mieux. Rejouissons-nous de ce que des académiciens suédois, plutôt bien inspirés depuis une quinzaine d'annees, l'aient couronné. Déjà traduit dans une trentaine de pays, il y sera désormais également lu. Murakami, Roth et quelques autres patienteront. Avec le sacre de Patrick Modiano, des centaines de milliers de lecteurs à travers le monde, c'est tout le mal qu'on leur souhaite, vont decouvrir une certaine France .•

Nobel 2014: Phần thưởng cho 1 nhà văn nguyên chất, dòng dã 40 năm trời, đào xới, chỉ có 1 đường cày!
Một món quà tẩm thuốc độc từ Uỷ Ban Nobel!

Tiểu thuyết gia thôi. Không phải nhà văn, cũng không phải "văn nhân", homme de lettres, như Simenon phán, và Modinano, rõ ràng là đệ tử của ông ta, chưa kể 1 ông khác nữa, là Beckett.
Món qùa tẩm thuốc độc ư? Thì đúng như thế. Một khi đưa vô danh sách đen, như danh sách những tên nhà văn Ngụy, phản động đồi trụy, ở đây là vòng hoa Nobel, hai từ "mémoire:, và "Đô hộ", "mémoire" thì không sao nhưng "Đô hộ", độc quá! Vả chăng, một khi trình ra như thế, là khoanh vùng Modiano, bởi và là vì ông đã vượt quá cái khúc quanh 1940-1944 này rồi.
Nhưng thôi, bỏ đi tám, trở về với con cừu của chúng ta: văn chương....

.....

Viện Hàn Lâm Thụy Điển vinh danh Patrick Modiano, một “Proust của thời chúng ta”. “Thật là khích lệ”, ông nhà văn bí ẩn phán, và, trước khi tắt ngọn đèn sân khấu, the limelight, tuyên bố, tặng giải thưởng cho đấng cháu trai của mình.
Patrick Modiano là 1 cái tên quen thuộc, như mớ rau mớ dưa, với dân Tẩy, với 30 cuốn tiểu thuyết kỳ kỳ, sách thiếu nhi, kịch bản phim, lời nhạc… Tác phẩm của ông được dịch ra 36 thứ tiếng nhưng hầu như vô danh trong giới nói tiếng Anh, bởi là vì rất ít tác phẩm của ông được dịch ra tiếng này. Những nhà xb của ông hy vọng giải Nobel trao cho ông sẽ thay đổi tình hình. Trong khi chờ đợi, Đại học Yale University Press đi 1 đường chào mời “Những câu văn bị treo: Ba tiểu thuyết”, sẽ ra mắt độc giả năm tới.
Tác phẩm của Modiano “ám ảnh”, obsessively, [“cay đắng” hay hơn, vì đúng là từ Sến mắng “iêu” Gấu, sao anh cứ “cay đắng” mãi như thế, hà, hà!] nhìn lại, cú Nazi độ hộ Tẩy, thời Đệ Nhị Chiến, ném [dọi] ánh sáng lên những vùng u tối, hẻo lánh của cuộc xung đột. Những giả tưởng đầu tay của ông tố cáo đám nằm vùng, bợ đít, cộng tác, ăn cơm Tẩy thờ Nazi, và vai trò của đám khốn kiếp này, trong cái vụ đẩy Do Thái vô Lò Thiêu.  
Ông ra đòn này trước khi đám sử gia nhập cuộc. [Sau này, thế nào đám sử gia Mít cũng sẽ lôi những cú GCC tố cáo Cái Ác Bắc Kít ra, để tìm nguyên nhân cuộc chiến Mít!].
Những tác phẩm sau, chi ly hơn, về những rắc rối đa đoan, của 1 thời kỳ vưỡn còn ám ảnh dân Tẩy.

*

Tại sao Âu Châu lại có thể là lò cừ văn hóa và một sàn diễn của cái man rợ tồi tệ đến như thế?
Tại làm sao lại có 1 giống dân ưu việt đến như thế. Hitler đã từng phán, Do Thái phịa ra ý thức, lương tâm (1)
(1)

Exemple : « Ce qui me fascine, c'est le mystère de l'excellence intellectuelle juive. II ne faut pas être hypocrite: en sciences, le pourcentage de Nobel est écrasant. II y a des domaines dans lesquels il y a presque un monopole juif. Prenez la création du roman américain moderne par Roth, par Bellow, par Heller et tant d'autres. Les sciences, les mathématiques, les médias aussi. .. Est-ce qu'il y a le fruit de la pression terrible du danger? Est-ce que le danger est le père de l'invention et de la création? J'ose le croire. Le judaisme est la seule religion qui ait une prière spéciale pour les families dont les enfants sont des savants. Cela me remplit d'une joie et d'un orgueil fou. [ ... ] Non vraiment, quand Hitler déclare "Ie Juif a inventé la conscience", il a parfaitement raison. [ ... ] Le mystère de ce qui attise la haine chez le non-Juif, c'est je crois que le Juif a signé un pacte avec la vie. II semble y avoir une négociation millenaire entre le Juif et la vie elle-même, le rnystère de la vitalité humaine. "

Thầy của Gấu phán về Do Thái của Thầy mới bảnh làm sao. Trò cũng có những ý nghĩ tương tự về gốc Bắc Kít của nó, nhưng cái kết luận của Thầy và của Trò ngược hẳn nhau:
Những tên Bắc Kít cực kỳ thông minh, là thể nào não của chúng cũng bị thiến mất 1 mẩu, đúng mẩu có lương tri của con người.
Thầy, Do Thái đã ký 1 hòa ước với đời sống, và chính vì thế mà dân Do Thái bị thù ghét! 


Nghiên cứu hậu thực dân ở Việt Nam:
một nhu cầu thực tế hay một giả vấn đề?
Nguyễn Hòa (a)  

Du nhập một lý thuyết nào đó từ nước ngoài và vận dụng để nghiên cứu văn học Việt Nam là công việc bình thường trong hoạt động khoa học. Song dù bình thường thì khi du nhập và vận dụng, người nghiên cứu vẫn cần xem xét sự tương thích giữa lý thuyết với thực tiễn văn học; vì nếu không có sự xem xét đó, sản phẩm nghiên cứu sẽ chỉ là “hư cấu chủ quan”, chẳng hạn như việc gần đây một số tác giả sử dụng các khái niệm “trung tâm”, “ngoại vi”,… của Chủ nghĩa hậu thực dân làm công cụ lý thuyết để nghiên cứu văn học Việt Nam. (2)

Note: Theo GCC, đây không phải “giả vấn đề”, mà 1 vấn đề có thực, xẩy ra cho bất cứ 1 nền văn minh nào, như Brodsky đã từng viện dẫn. Rõ rệt nhất, là trong thời gian chiến tranh, văn chương Miền Nam nở rộ, trong khi Miền Bắc sơ cứng, giáo điều, lại thêm 1 nền giáo dục hận thù, trồng người 100 năm, làm hư hoại không biết đến bao nhiều đời, bao nhiêu thế hệ... và bây giờ, có thể nói, văn chuơng Mít mới có khởi đầu, từ đứt đoạn đó.
Không phải tự nhiên mà trong nước đào bới cái thứ văn học mà VC gọi là "nô dịch", của Ngụy.
Từ tro than, con phượng hoàng tái sinh, là vậy.
Tuy nhiên, phải có người thực sự quan tâm, theo dõi, và có khả năng đụng vô những đề tài này. Theo GCC, Nguyễn Hòa với Hải Ngọc không làm được chuyện này. Hải Ngọc, như Gấu có đọc vài bài dịch trên Blog của xừ này, có tí trình độ ngoại ngữ, tiếng Anh, nhưng mù tịt về mọi kiến thức khác. Ông ta dịch sai mấy từ quan trọng, trong 1 bài dịch Paz, GCC nêu lên trên Tin Văn, ông ta len lén sửa, đếch cám ơn Gấu con mẹ gì hết.
Một thái độ như thế là hư rồi.
Viết ra có người đọc, đã sướng rồi, có người mất công chỉ những thiếu sót, quá sướng, vậy mà cũng vờ, không chỉ vờ cám ơn, mà còn len lén sửa!

Theo GCC, VC không có thói quen "cám ơn" như Ngụy, trong những trường hợp như vầy.
Hồi Gấu viết cho Chợ Cá Bá Linh, Sến kêu 1 tên, đè bài viết của Gấu ra sửa, đéo thèm xin phép Gấu, rồi để tên hắn vô, thêm dòng "hiệu đính", ra ý, tao "hiệu đính" bài của tên Ngụy đấy!
Ỏ Sài Gòn, trước 1975, một việc làm như vậy là của tay tổng thư ký. Chuyện thường ngày ở bất cứ 1 toà soạn nào, và khi làm như thế, họ thông báo cho tác giả.
Nếu OK, họ đăng, không, trả lại bài viết cho tác giả.
Làm gì có trò "hiệu đính" mất dậy như thế.
Từ "hiệu đính" chỉ được dùng, khi, chính người viết yêu cầu, 1 đàn anh. Một cử chỉ, truyền thống...  rất ư là đẹp của Miền Nam trước 1975.

Sai lầm của Hải Ngọc, khi dịch Paz, là không có kiến thức phổ thông, về quang học.
Bài dịch Zizek cho thấy, ông không có chút hiểu biết về triết học. “Nhà Tra Tấn”, nguyên tác, đổi mẹ thành “Phòng Tra Tấn”, dịch như thế thì quá nhảm!
Quá ngu, đúng hơn. Nếu là "phòng", thì Zizek mất công viết làm mẹ gì!
Phòng tra tấn, thì đầy ra ở xứ Mít, chuyện nhỏ.
Nhà tra tấn ngôn ngữ mới là chuyện lớn. Đây là chữ của Heidegger.
Theo GCC sở dĩ Nhã Cô Nương bị chúng lấy lại cái cần câu cơm, là vì đụng vô vấn đề này, dám ca ngợi biên cương, ngoại vi... tức lũ Ngụy. Tay Nguyễn Hòa, cũng 1 thứ mù dở biết gì mà viết mới lách?
Đây là đánh người ngã ngựa, cực tởm.
NQT

Có tới hai nghiên cứu hậu thực dân ở xứ Mít.
Một, với tụi mũi lõ.
Và 1, với Yankee mũi tẹt, như Gấu đang làm.

Hồi giữ trang VHNT cho tờ Tiền Tuyến, do TTT giao lại cùng mớ bài vở, mày coi, rồi sửa, rồi đăng cho họ, Gấu đã làm cái việc hiệu đính cho hai đấng, sau đều có tiếng tăm trong chốn giang hồ. Một, là Nguyễn Mai. Gấu gần như viết lại tất cả những bài viết của anh, lý do là, chưa quen viết cái thứ gọi là điểm sách, tuy có những nhận xét rất tới. Ui chao, anh mừng quá, và sau đó, trả ơn Gấu, khi Gấu dính Cô Ba, bằng cách giới thiệu Gấu với ông Nhàn, chủ nhà xb Vàng Son, phụ trông coi bài vở cho tờ báo Thiếu Nhi của ông, và dịch sách. Nhờ dịch sách cho ông Nhàn, Gấu thoát chết ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa, vụ này kể nhiều lần rồi. Một tay nữa, cực nổi tiếng ở hải ngoại, sau 1975, tác giả của bản danh sách 12 tên nhà văn Ngụy phản động, đồi trụy, ngay sau 30 Tháng Tư 1975, trên tờ Tin Sáng, trong đó, Gấu đứng hàng thứ bẩy!
Thảo Trường, khi còn sống, nghe chuyện này, thú quá, hỏi Gấu, này, trong 12 tên đó, có tớ không, hà, hà?
*

Cam On

Monday, December 1, 2014 12:12 PM 

    Xin cảm ơn và chúc sức khỏe ! 

Theo GCC, VC không có thói quen "cám ơn" như Ngụy, trong những trường hợp như vầy. 
Hồi Gấu viết cho Chợ Cá Bá Linh, Sến kêu 1 tên, đè bài viết của Gấu ra sửa, đéo thèm xin phép Gấu, rồi để tên hắn vô, thêm dòng "hiệu đính", ra ý, tao "hiệu đính" bài của tên Ngụy đấy!
Ỏ Sài Gòn, trước 1975, một việc làm như vậy là của tay tổng thư ký. Chuyện thường ngày ở bất cứ 1 toà soạn nào, và khi làm như thế, họ thông báo cho tác giả. 
Nếu OK, họ đăng, không, trả lại bài viết cho tác giả. 
Làm gì có trò "hiệu đính" mất dậy như thế. 
Từ "hiệu đính" chỉ được dùng, khi, chính người viết yêu cầu, 1 đàn anh. Một cử chỉ, truyền thống...  rất ư là đẹp của Miền Nam trước 1975.

Đa tạ
Merry Christmas and Happy New Year to you & family
Long time no mail.
Take Care
NQT



Tàn Sát: Cuộc sống và Cái Chết của Công Xã Paris, 1871

Mr Merriman’s tale grows tangled at times, leaving readers to find their path through the thickets. The great merit of “Massacre” is to focus attention on the enormity of the moral outrage perpetrated by a modern state and a supposedly civilised society against its own citizens. In Mr Merriman’s retelling, the Paris Commune is a reminder that the worst villainies are possible once you have dehumanised your opponent.

Một khi mi gọi chúng là Ngụy, thì mi mới là kẻ khốn kiếp.
Tụi Ngụy chưa từng dùng 1 từ nào khiếm nhã để gọi lũ Bắc Kít.
Nào, thằng Thiệu, thằng Kỳ, thằng Diệm...
Ngược lại lũ Ngụy gọi Bác Hồ, Già Hồ:

Cụ Ngô thống nhất sơn hà
Già Hồ chia sẻ nước nhà thành hai!

Khẩu hiệu những ngày 1954 tại Hà Nội!

PD James, queen of crime fiction, dies aged 94

Fellow authors lead tributes to PD James

My hero: PD James (1920–2014) by Val McDermid

Tana French's top 10 maverick mysteries

From PD James to Patricia Highsmith and Donna Tartt, the novelist picks the books that defy all the thriller's conventions - but remain thrilling
Tana French trained as an actor at Trinity College, Dublin, and has worked in theatre, film and voiceover. Her first novel, In the Woods, won a Mystery Writers of America Edgar award earlier this year, and her second - The Likeness - has just been published.
Trong mấy cuốn mà bà/cô Tana French này lọc ra để mà đi một đường tản văn Thứ Sáu này, thì có tới ba cuốn Gấu đã từng đọc, hoặc coi phim, chuyển từ tiểu thuyết, thí dụ The Talented Mr Ripley, của Patricia Highsmith. Phim này đã từng được Tây làm, với tài tử Alain Delon: Plein Soleil, đạo diễn cũng thật bảnh, René Clément, mới được Mẽo remake.


*

The Quiet German
Người Đức Trầm Lặng
Cuộc lên voi của người đàn bà quyền lực nhất thế giới
The astonishing rise of Angela Merkel, the most powerful woman in the world.
Bà, bi giờ, mỗi tay nắm 1 ông, và giữ cho Âu Châu thẳng hàng.

Note: Bài về người đàn bà lạnh lùng, tính toán như ma, nữ thủ tướng Đức, quá dài, Gấu đếch thèm đọc.
Post cho Sến, hà hà!

Bài viết của David Remnick, về Havel, mới thú.

Comment December 1, 2014 Issue

Havel in Jerusalem

By David Remnick

Có một câu, của Havel, thật tuyệt:         

I am the kind of person who would not be in the least surprised if, in the very middle of my Presidency, I were to be summoned and led off to stand trial before some shadowy tribunal, or taken straight to a quarry.... Nor would I be surprised if I were to suddenly hear the reveille and wake up in my prison cell, and then, with great bemusement, proceed to tell my fellow prisoners everything that had happened to me in the past six months.... The lower I am, the more proper my place seems; and the higher I am, the stronger my suspicion that there has been some mistake.

David Remnick viết:

It is hard to ward off despair when looking at the cast of political players in this drama: the cynical, the racist, the exhausted. For Havel, though, despair was indeed an unforgivable sin. In his first New Year's address to the Czech people, Havel admitted that the years of oppression had led them to live in a "contaminated moral environment. “Occupation, resentment, terror, and religious hatred have done the same in a place where despair is a constant shadow. Moral leadership, a moral generosity in politics, will not resolve every question-to suppose that it will is a form of sentimentality-but it is an essential part of what is required in Jerusalem and beyond.

-David Remnick

*

Trong túi luôn thủ sẵn cái bàn chải đánh răng. Cớm VC Tchèque tới lúc nào là đi lúc đó.

Quái làm sao, GCC lại nhớ đến tay soạn nhạc người Nga, Shostakovich, thời gian thất sủng, không dám ngủ ở trong nhà, mà ở hành lang, chờ KGB tới bắt, để vợ con khỏi phải nhìn thấy cảnh tượng này.
Trên TLS số mới có 1 bài hay lắm về ông, đúng hơn, về cái thế đi hai hàng của ông. Để thủng thẳng TV giới thiệu độc giả, coi có giống đám sĩ phu Bắc Hà không.  (1)

Vargas Llosa vs Vaclav Havel
Vaclav Havel

The Freedom Tower
Tháp Tự Do
Tôi phải thú nhận là, không biết có nên nói ra điều này không, vào lúc này: Tôi cực kỳ thù ghét cái tháp đôi ở Trung Tâm Thương Mại Thế Giới. Chúng là một thứ kiến trúc ngu đần hết chỗ nói, chẳng có một tư tưởng nào ở đằng sau nó. Hơn thế nữa, chúng làm hỏng bầu trời thành phố: Chúng ngoi lên, chẳng ra làm sao, vượt ra khỏi khối thuỷ tinh đẹp đẽ Manhattan. Đúng là hai công trình được dựng lên vì lợi nhuận, với bất cứ giá nào: bất cần để ý hình dạng của chúng sẽ ra làm sao, chỉ cần làm sao có thật nhiều phòng ốc, trong một không gian cực kỳ nhỏ hẹp.
Tôi đã có lần ăn tối ở một nơi ở trên đỉnh, và tôi khám phá ra rằng cả một khối công trình kiến trúc như thế đó, cứ thế đung đưa nhè nhẹ. Và tôi coi đây như là một dấu hiệu, có một điều gì không đúng, có một điều gì xẩy ra ở đây ngược hẳn lại với lẽ thông thường, với sự tự nhiên. Một con thuyền, một cái tầu có thể đong đưa. Nhưng một toà nhà đừng nên đong đưa, rún rẩy, cho dù nhẹ nhàng cỡ mấy. Từ trên đó nhìn xuống, thấy thật ngu si đần độn, ảm đạm. Nó không còn là một cái nhìn xuống bên dưới, từ một căn nhà chọc trời, và còn lâu mới là một cái nhìn từ trên máy bay, xuống cõi trần.
Và đây là điều tôi sợ: rằng, vì thế giá [làm sao tao có thể thua thằng chó nào], mà, họ sẽ xây dựng một cái gì đó còn cao hơn cả cái cũ, ở ngay chỗ đó, một cái gì đó sẽ làm hư hoại Nữu Ước, hơn cả cái cũ nữa, rằng, họ sẽ sẵn sàng ăn thua đủ với khủng bố, cho dù phi lý, cho dù ngu xuẩn tới cỡ nào; và sau cùng, ai sẽ thắng, những tên cuồng tín tự sát, hay là một cái tháp còn cao hơn cả Tháp Babel?
Bạn phải uýnh lộn với khủng bố bằng quân đội, bằng cảnh sát, bằng tình báo; với những cảm tình viên của khủng bố, thì bằng chính trị, bằng khoa học có tính chính trị, bằng xã hội học, bằng tâm lý học. Nhà cửa, bìu đình, xây lên để làm giầu thêm mái ấm gia đình, đâu phải để làm cho chúng cù lần thêm. Tại sao không thể xây những bìu đình mới hòa nhập với những cái hiện có, với không gian bầu trời?
Cũng theo ý nghĩ đó, tôi không nghĩ là tại mảnh đất khởi từ con số không này [Ground Zero] lại mọc lên những công trình làm nhớ tới vụ đánh bom. Điều đã xẩy ra tại đây cần tưởng niệm, [làm sao không?], nhưng phải theo cái nghĩa gừng cay muối mặn, tức là vừa phải, có tình, có lý, giống như Đài Tưởng Niệm những người đã ngã xuống tại Việt Nam, hay tại Triều Tiên,
ở Washington, hay giản dị, chỉ là một khoảng không gian rộng, một căn phòng rộng, nó làm gợi nhớ tai ương, và cùng lúc ôm lấy nó, cưu mang nó, ở trong lòng không gian rộng lớn này.
Vaclav Havel


Vaclav Havel: Vĩnh Biệt Chính Trường
Đọc “Cao Bồi”, có thời ngăn ngắn, bạn xì phé của Gấu Cà Chớn, Làm Bồi Mẽo, cũng như GCC, Giết Mẽo, Mê Mẽo, Mê Tiền Mẽo…. trên Blog “Yêu & Ghét SCN” chán chết. Thà đọc cái này, thú hơn nhiều:
The Spy Who Loved Me
An undercover surveillance operation that went too far.
Russia
A wounded economy
It is closer to crisis than the West or Vladimir Putin realise
Khủng hoảng đến đít rồi!
Quá cả mức Tây Phương, và ngay cả me-xừ Pu Tin, có thể nghĩ tớ

The Case of  BNT

/ 3,144 203.57 KB 2,138 1,884


/phe_binh/phe_binh_la_gi.html 580 22.05 KB 174 174


/Tho_Poetry/trang_tho_ctc.html 186 2.42 KB 130 140


/GT/vnch.html 97 22.29 KB 90 89


/tgtp_02/Yann_Martel.html 77 67.89 KB 18 17


/new_daily_poetry/ 56 184.78 KB 9 22


/GT/tong_van_binh_do_kh.html 46 11.66 KB 36 35


/thoi_su/nobel_2013.html 46 94.02 KB 15 15


/Notes_New/ 44 569.16 KB 14 18


/thoi_su/Vo_Phien_Cas.html 44 61.85 KB 6 29



43 134.45 KB 34 35



43 437 Bytes 16 16


/GT/tho_nbs.html 42 57.62 KB 33 2


/tap_ghi_5/gach_bac_ho.html 42 20.53 KB 35 35


/thoi_su/ 40 81.65 KB 1 12


/Tuong_niem/why_tqc.html 38 33.37 KB 27 26


/new_daily_poetry/Feu_Khoa_Huu.html 37 23.09 KB 4 13


/GT/quach_tuong_tieu_muoi.html 37 16.69 KB 29 29


/Gossip/gossip_can_trong.html 37 23.68 KB 31 30


/thoi_su/nobel_2010.html 35 86.73 KB 13 14


/Ky/le_disparu.html 35 114.69 KB 29 10


/Viet/how_write_a_sentence.html 35 32.77 KB 3 17


/Al/ 34 50.49 KB 5 6


/pv/nth.html 34 14.27 KB 27 28


/Day_Notes/

Đây là Top Ten của tháng này. Thường, đầu tháng GCC mò vô, tìm bài lạ, trong rừng Tản Viên!

Note: Bài viết này, tháng nào cũng lọt vô Top Ten, vì, có thể, nó được Wiki Mít nhắc tới.
Đám này, theo Gấu, toàn VC, đếch thèm nhắc tới Ngụy.

Bài viết, đúng là di chúc của Văn Cao. Khi Văn Cao mất, tờ Time loan tin, và trích 1 câu trong bài Tiến Quân Ca, tức Kuốc Ka của VC, "thề phanh thây uống máu quân thù", ra ý, không có quốc ca của bất cứ một nước nào lại “máu” đến như thế. Nhưng câu ghê gớm nhất, theo GCC, là câu “Đứng vùng lên gông xích ta đập tan”, vì nó tiên tri 1 xứ Mít như bi giờ: Cái gông xích ta không thể đập tan, là do ta quàng lên ta, đích thị của VC. Của Cái Ác Bắc Kít.
Sở dĩ VC tính đổi quốc ca, là vì bài viết này. Văn Cao viết nó, để cho cả thế giới biết, khi chúng biểu tao làm Quốc Ca, khi tao tính viết, thì chúng kêu, khoan đã, đi làm thịt 1 thằng Việt Gian đã.
Cái quốc ca của Vẹm đầy máu của Mít làm thịt Mít.
Quân thù của VC... là Mít, bởi là vì, ai "đéo" theo Vẹm thì đều là Việt Gian, là Ngụy cả!
Cả hai cuộc chiến đều do ông VC phịa ra rồi thực hiện, để làm thịt những tên Mít đéo theo chúng!
Thằng Tẩy đã từng năn nỉ Vẹm - chúng là nạn nhân của Nazi, đâu phải Đồng Minh cái con mẹ gì - chúng mời, đúng hơn, Mít vô Liên Hiệp Pháp, chúng đâu muốn đánh nhau, nhưng Vẹm lắc đầu, không đánh mày thì làm sao làm thịt lũ Việt Gian VNQDĐ?
Thằng Mẽo cũng thế, chúng tao chỉ muốn kiếm 1 thằng Mít đéo theo Tẩy, đéo theo CS, đâu có muốn dầy xéo xứ Mít. VC lắc đầu, không nhử mày vô xứ Mít, làm sao ăn cướp Miền Nam?
Khủng thật.

Chỉ 1 mình ông phán, tao có mặt, và tao đã giết người.
Còn lại là 1 lũ không mặt, ẩn mặt.
Viết về Văn Cao đúng nhất, là… Kundera.

« Ce n'était pas seulement le temps de l'horreur, c'était aussi le temps du lyrisme! Le poète régnait avec le bourreau ".

Đâu chỉ là thời của ghê rợn, của CCRD, của Đấu Tố, của Nhân Văn Giai Phẩm, mà còn là thời của thơ ca trữ tình, Mặt Trời Chân Lý Chói Qua Tim, Đường Ra Trận Mùa Này Đẹp Lắm.
Thời Của Văn Cao: Thi sĩ lên ngôi trị vì cùng với đao phủ.


Nhặt những vụn vặt

Note: Đọc cái này thì GCC lại nhớ ra cái kia: "Hồn Ma Cũ" của BNL

Gòa không, Gòa không?

Bình Nguyên Lộc là nhà văn Miền Nam thân cận nhất đối với thằng bé di cư-tôi ngày nào. Tôi làm quen với Sài-gòn là qua ông. Cái trò ngồi quán nhâm nhi ly hồng trà, ngóng chờ hồn ma cũ, trong khi tương lai đang đợi ở một ngã tư nào đó, là do ông, phần nào.
Ông già tôi khi còn sống, đặt cho tôi một biệt hiệu: thằng Mõ Phố. Ông làm nghề dậy học, cứ bị đổi trú sở hoài. Nghe nói Tây không ưa ông. Thằng con, ngay những giờ phút đầu tiên đến đất lạ đã lân la làm quen, từ người đến cảnh. Chưa kịp làm quen người bố, ông đã bị đảng phái thủ tiêu.
Mõ Phố vào Nam, việc đầu tiên, mua một tấm bản đồ thành phố Sài-gòn, rồi "khốn khổ khốn nạn vì nó". Chả là, thằng nhỏ tin theo bản đồ, lần theo đường chỉ, đụng ngay một đồn Bình Xuyên. Thành phố những ngày đầu di cư, bản đồ nào "cập nhật hóa" cho nổi! Người lính gác, chắc chỉ muốn cho thằng nhỏ Bắc-kỳ một bài học, bắt đứng đó đến chiều tối; mỗi lần buồn buồn, anh lên cò súng lách cách, hăm: Tao bắn bỏ mày! Anh ta làm sao biết thằng nhỏ bị gắn khằn trong trí tưởng, hình ảnh một ông bố bị cột đá bỏ sông.
Truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc lúc đó rất ăn khách, và những tờ nhật báo tại Sài-gòn thường in kèm như phụ trương. Bạn mua tờ báo, mở ra, truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc là một "cahier" khổ nhỏ kẹp ở giữa.
Nhớ đến ông, tôi nhớ đến một người viết khác, ông anh rể của tôi, Nguyễn Hoạt.
Nguyễn Hoạt thuở mới vào cũng ham viết tiểu thuyết về miền nam. Cuốn Trăng Nước Đồng Nai của ông kể lại việc kiếm cơm miền nam bằng nghề dậy học tại Biên Hòa. Ông quá mê thằng nhỏ xe "lô" (location), mời chào khách: Gòa không, Gòa không? (Hòa không, Hòa không?). Ông tả những cô gái miền nam tự nhiên đến nỗi mặc "đồ ngủ", leo cây, hái trái!
Ông chú Th. của tôi cười ngất, buông một câu: Bộ nó tưởng gái miền nam "dễ dzô" lắm sao? Bà thím tôi ngồi kế bên cười tủm tỉm. Hai người sắp thành ba người, mới lo làm đám cưới! Nhân đó, ông hỏi tôi thường đọc ai, tôi nói: Cháu mê Bình Nguyên Lộc. Ông gật gù, trúng ý. Trên bàn là một tờ báo hàng ngày, với truyện ngắn mới nhất của ông.
Ông chú này, tôi đã nhắc tới, nhân đi tìm "cái tên", cho một cuộc chiến. Gọi là chú, vì cùng học với ông già. Ông thi rớt, bỏ vào Sài-gòn lập nghiệp từ khi còn "nước Nam-kỳ", "tân thế giới" của những chàng trai xứ Bắc. Bà thím gốc xa xưa Tiều, rất hiền. Bà kể lại, kỷ niệm lấy chồng. Ổng nói, nếu ngày đó, tôi "hỏng" chịu cưới, bà tính sao? Đành ôm bầu, đẻ con, chịu làm "gái ngoan" chứ làm sao giờ! Kỷ niệm dù sao cũng vui. Buồn: những ngày làm ăn khá giả, khi chưa xẩy vụ di cư, bà sợ nhất cảnh đếm tiền mỗi lần ông đưa về. Sau bà nghĩ ra một cách thật giản dị: dùng đấu, để đong, như đong gạo!
Là một thương gia giầu có nhưng có thể do bỏ miền bắc, ông lại càng tin vào một "mùa Thu" mà ông đã không có dịp được thưởng thức khí hậu. Mãi sau này, ân hận, nhưng cũng may, mất trước khi mất miền nam, không phải chứng kiến cảnh kiểm kê tài sản.

Cô con gái thứ của ông là mối tình đầu của tôi.

Tôi mê cô cùng lúc mê Bình Nguyên Lộc. Thương thằng nhỏ con người bạn học, ông chú kêu tôi về làm trợ giáo cho mấy đứa con ông. Không hiểu ông có một vầng trăng thề nào không, khi rời xứ Bắc, vì mấy cô con gái đều mang tên người đẹp cung Quảng. "Đệ nhị tiểu thư" được cưng nhất, nhưng không vì vậy mà bớt sợ bố. Ông là một "hung thần" trong gia đình.

Lần cuối, tôi tới thăm nhưng "vô ý" mang luôn đôi dép dính bùn vô nhà. Cô hoảng quá la lớn: Anh để dép bên ngoài! Tôi quay ra, dép theo luôn. Mãi sau này, khá trộng tuổi, cô mới lấy chồng. Bây giờ hình như hai vợ chồng ở Úc. Không hiểu khi chọn tôi làm "trợ giáo" cho mấy đứa nhỏ, ngoài chuyện thương đứa nhỏ mồ côi, ông chú tôi có bị ảnh hưởng Bình Nguyên Lộc hay không?

Nếu miền nam của Sơn Nam là một miệt vườn, hoặc "trước" thuở miệt vườn, một hình bóng cũ; miền nam trong Bình Nguyên Lộc, là cảnh nhập nhằng kẻ chợ, người quê. Những nhân vật của ông cũng nửa quê nửa tỉnh. Đây là lý do theo tôi, dân Sài-gòn rất mê ông, nhất là những độc giả "nhựt trình". Trong tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc đã manh nha một Sài-gòn sắp sửa biến mất, như một miền nam biến thành huyền thoại, ở Sơn Nam. Người ta tự hỏi mấy cô gái trong Đò Dọc, lo chạy giặc Tây giạt về một xóm quê, suốt ngày lóng ngóng không biết làm gì, suốt đời chờ đợi một người lái "đi xem heo", họ sẽ sử sự ra sao, sau này, khi quân đội Mỹ và đồng minh đổ xô tới...

Nhận định văn ông, ở một số người viết:

-... không thành công ở truyện dài... đầy rẫy đối thoại, vết tích còn lại của những tiểu thuyết đăng báo từng kỳ... nhưng thái độ sống đã là tấm gương sáng cho tôi (Nguyễn Văn Sâm).
-... xét về toàn thể thì đến nay một thành công của Đò Dọc (có kết cấu linh động, kỹ thuật song suốt, xây dựng tâm lý ý nhị, hành văn trôi chẩy, đối thoại duyên dáng hơn cả) vẫn không đủ sức để cứu vãn giá trị cho sự nghiệp văn chương thiên về lượng hơn về phẩm đó... vốn dĩ ông đã tỏ ra khá xem nhẹ cái công phu viết văn rồi. (Cao Huy Khanh).
Trong lời giới thiệu Tuyển Tập, Võ Phiến trân trọng những bận tâm "khác", (ngoài cõi văn?): Đồng Nai là bận tâm của một dòng họ, Phù Sa là bận tâm của cả miền Nam... mối bận tâm thứ ba bao trùm cả dân tộc. Ông gọi: Bình Nguyên Lộc, một nhân sĩ trong làng văn.

Những nhận định cho thấy, Bình Nguyên Lộc không được coi như là "một nhà văn".

Ở đây, có nhiều vấn đề: hoặc thể văn đối thoại là một tiền-văn chương. Hoặc nó không đủ lực để chuyên chở những rắc rối đa đoan của tâm lý con người, sự chuyển biến của một xã hội, như xã hội miền nam trước cơn bão chiến tranh. Hoặc tác giả như Bình Nguyên Lộc không đủ khả năng làm bật nó ra, nhưng ở trong ông vẫn bàng bạc một nỗi lo: xã hội xuống cấp, "về chiều", "đồi trụy", và đây đúng là những bận tâm của một người viết, khi chọn lựa hình thức văn chương: tiểu thuyết. Như Georges Lukacs định nghĩa: tiểu thuyết, một thế giới về chiều, nhân vật chính, một anh chàng ù lì (passif), do ý thức quá rộng, mà thế giới về chiều quá chật không làm sao thỏa mãn. Điều này giải thích tại sao Bình Nguyên Lộc thành công trong những truyện ngắn: Đây là nơi trú ẩn của ông, trong những hồn ma cũ, trong hình bóng một cô đào hát cậu bé đã một thời mê mệt (Tình Thơ Dại), trong nỗi Thèm Mùi Đất...
Anh chàng ký giả nhựt trình trong Hồn Ma Cũ giải thích: chàng đã ghiền không khí ở đây, ghiền cả thời gian nữa... cho đến cái dơ bẩn của tiệm này chàng cũng yêu... Nhưng đúng ra là chàng đang rình... nó đây rồi:

Thình lình Kỳ ngây người ra: chàng vừa thấy người cha đứa bé rót cà-phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa mà uống. Cảnh này, chàng đã thấy rồi... trời ơi... lâu lắm... những hai mươi năm về trước...

Cảnh này, thằng bé Bắc-kỳ ngày xưa cũng đã thấy rồi, khi miền nam đã đổi chủ.
Bữa đó, hai vợ chồng từ rẫy lên chợ (chợ Cai Lậy). Bà vợ xà ngay vô một gánh bún, hay cháo lòng heo trong lúc anh chồng xớn xát kiếm một ly cà-phe túi. Khi quay lại anh thấy bà vợ đang thong thả lật phía bên trong chiếc gấu quần, hài lòng lau miệng...

Trời ơi, nó đây rồi, bấy lâu nay anh tìm kiếm hoài lúc đó mới hiểu ra, tình yêu là gì...

Nguyễn Quốc Trụ

Đọc lại cái viết này, cảm khái chi đâu, khi nghĩ đến cảnh gái Nam Bộ xếp hàng cho anh Hàn, anh Tẫu xem hàng....
VC làm nhục đất nước đến cùng cực, mà vưỡn có những tên bợ đít chúng. 

Hình Bóng Cũ

Trong những tác phẩm của Sơn Nam, có một, ít được nhắc tới, nhưng đối với cá nhân người viết, có lẽ đây là cuốn hay nhất của ông: Hình Bóng Cũ. Những tác phẩm như Hương Rừng Cà Mâu, Chim Quyên Xuống Đất... là một Miền Nam sau này, hoặc vẫn tiếp tục còn đó, tuy đã tang thương dâu bể. Hình Bóng Cũ là một Miền Nam đã mất hẳn, như một Viễn Tây của lịch sử Hoa Kỳ. Ở đó, huyền thoại lấn át thực tại, và khi huyền thoại biến mất, nó kéo theo cùng với nó, những con người nửa hư nửa thực. Tất cả biến thành thần. Những vị phúc thần (anges gardiens).

Tôi đọc cuốn sách đã lâu. Sau cố tìm gặp lại nhưng không thể. Như thể cái duyên giữa cuốn sách và tôi đã trọn vẹn: Một đứa bé di cư, một mình xuống tầu há mồm vào Nam tìm gặp Hòn Ngọc Viễn Đông, vô tình khám phá viên quặng làm nên hòn ngọc đó.

Câu chuyện một xóm nhỏ, có một "thầy ký nhựt trình", như dân trong xóm vẫn thường trầm trồ về một anh chàng ngụ cư. Bản thân anh ta lâu lâu có một bài thơ được nhà báo thương tình đăng lên, thay vì để trống một khoảng nhỏ.

Một bữa có một bà tới kiếm, tính mướn anh viết hồi ký cho "bả". Người đàn bà ôm trong mình cả một kho tàng. Đã từng là đào hát, chủ gánh, sau bỏ hết, gá nghĩa cùng một ông tây thuộc địa, một trong những người khai phá ra những cánh đồng thẳng cánh cò bay, tiền thân của những ông Hương, ông Cả trong những cuốn tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, tiền thân của những cô Ba, cô Tư trong những câu chuyện ngồi lê đôi mách, cà kê, dê ngỗng của một số tác giả Miền Nam hiện nay. Một nhân vật kiểu Faulkner, sự tàn bạo, dã man không thua, số người bị giết do ông, bởi chính ông chắc cũng không kém. Người đọc chỉ đoán lờ mờ những chi tiết "thực" đó. Chỉ lờ mờ biết được quá khứ của một Lọ Lem một bữa biến thành Công chúa Thuộc địa. "Bả" có cay đắng khi phải "bó thân về với triều đình", khi phải đồng hóa Miền Nam với chủ nghĩa thực dân khai hóa... nào ai biết được. Tất cả chỉ là những "tầng kiến giải" về một huyền thoại. Về một Hình Bóng Cũ.

Người xưa thường nói, nếu vẽ rồng chớ có "điểm nhãn". Vẽ mắt rồng, bữa nào hứng lên, rồng vàng, hạc vàng... bay mất, để trơ lại một thành Thăng Long mất cả Gươm Thiêng lẫn Rùa Thần, một Hoàng Hạc Lâu biến thành tiệm chả cá Lã Vọng...

Tôi nghĩ, Sơn Nam đã quên lời dặn đó của cổ nhân, khi viết Hình Bóng Cũ.

Mối tình đầu của tôi với Miền Nam ngày xửa ngày xưa chỉ có vậy. Số mệnh khiến tôi suốt đời lẽo đẽo chạy theo mối tình đầu đó, khăng khăng cứng đầu, cố biến nó thành hiện thực. Sau này, đọc những nhà văn Miền Nam, cũng là để cố tìm lại chút văn minh, "tư tưởng man rợ" (pensée sauvage, chữ của C. Lévi- Strauss), của một thuở miệt vườn.

Nhưng có lẽ không giản dị như vậy, Miền Nam, mối tình đầu, và tôi.

Ngay từ khi học trung học ở Hà-nội, đọc Tô Hoài, tôi đã cố mường tượng ra một "nước Nam Kỳ" xa xôi, chốn đầy ải, nơi trốn chạy của những anh đàn ông, con trai "Bắc Kỳ" của một Xóm Giếng, một Trăng Thề, một Quê Người - một làng Nghĩa Đô đã không còn là quê mình - nên đành hy sinh đi làm phu đồn điền cho Tây, nếu không may thì làm phân bón cây cao su, còn may ra thì lại có phen áo gấm về làng. Có thể khi xuống tầu há mồm vào Nam, giấc mơ của chú bé di cư vẫn chỉ là giấc mơ cũ kỹ đó. Giấc mơ của một Nguyễn Hoàng về một Hoành Sơn nhất khoảnh, hay khiêm tốn hơn, một tương lai bên ngoài lũy tre làng.

Khi còn ở Trại Cấm, nhân có một cán bộ Cộng Sản thất sủng, bị anh em đồng chí tính cho đi mò tôm, nên đành phải vượt biển, và được đậu thanh lọc, rồi sau đó xẩy ra một cuộc tranh luận gay gắt giữa một số người. Người cán bộ đã nói thẳng ra một điều: tại sao các anh không giải phóng chúng tôi, tại sao các anh tạo ra tình cảnh cả nước phải đi ăn mày tình thương của toàn thể nhân loại... Khi lấy được Miền Nam, có thể giấc mơ muôn đời của Miền Bắc đã được thực hiện: Giải phóng cho chính mình, rồi sau đó, cho cả nước. Đối với lịch sử, Miền Nam chỉ có công: Thất trận.

Qua đây, đọc những nhà văn hải ngoại, tôi nhận thấy chỉ có dòng văn chương chứa đựng tư tưởng "miệt vườn" là không bị cuộc chiến làm xấu đi, huỷ hoại, hoặc tiêu diệt. Như là một đối trọng với gánh nặng hội nhập.

Ở trong nước, dòng văn chương hiện thực tiền chiến, ở những tác giả như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Tô Hoài... đã đầu tư hết mọi ước mơ, hoài vọng và năng lực cho những ngày đầu cách mạng, đã hy sinh hết cho Đảng, dù có phải đốt cháy cả dẫy Trường Sơn, đã bị kiểm thảo, học tập nghị quyết, học tập cách ngồi, cách suy tư, cách đi thực tế, cách viết dưới ánh sáng của Đảng... cuối cùng nhường chỗ cho dòng văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa, chết bất đắc kỳ tử ngay những ngày đầu chiến thắng Miền Nam.

Độc giả trong nước bây giờ đổ xô tìm đọc những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh... là cũng nằm trong ý nghĩa đó: Tha hóa không phải chỉ ở đây, vào lúc này. Chất nghĩa khí, cõi công bằng, tình bà con lối xóm... vốn đầy rẫy trong những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh là những hình bóng cũ mà người dân hai miền đang trân trọng.

Nguyễn Quốc Trụ



“Cái nón nhà văn DoThái Mẽo chẳng có nghĩa gì đối với tôi”, Roth phán, trong bài viết "America Amok", “Mẽo Khùng”, hay “Khùng Mẽo”, khi trả lời phỏng vấn liền sau khi cho xb American Pastoral. “Nếu tôi không phải là nhà văn Mẽo, tôi đéo là cái gì hết.”

Một nhà văn Mít, thì cũng phải như thế.
Mít, Mít Mít, đéo có Bắc Kít, Nam Kít, trước sau 1975..... cái con mẹ gì hết!
Gấu chửi Bắc Kít để nó trở thành thứ Mít như thế, chứ không thù hằn gì Bắc Kít!

Có lần Gấu phán nhảm. Mít không cần sự thực về cuộc chiến, mà cần giả tưởng, bởi, chỉ giả tưởng mới làm nổi chuyện này.
Đừng hiểu theo nghĩa chung chung, cái kiểu, bằng lời dối trá tôi nói lên sự thực, mà hiểu theo nghĩa cụ thể. Không 1 thứ gì khác làm được điều này, nhất là ba thứ hồi ký, kể cả hồi ký tù, Chuyện Kể Năm 2000, hay Bên Thắng Nhục, Đêm Hay Ngày….
TTT, khi viết Một Chủ Nhật Khác, trước khi cuộc chiến chấm dứt, chẳng đã nói về những người bỏ nước ra đi rồi trở về ư.
Đọc bài viết về cuốn American Pastoral, trong có nhắc lại 1 ý của Roth: Giả tưởng phịa ra ý thức, Fictions invents consciousness.
Tuyệt.
MCNK chẳng là ý thức được phịa từ giả tưởng ư? Cái ý thức [niềm ao ước, giấc mộng...] mà Steiner đã từng mơ ước, được chết ở Lò Thiêu cùng với những người cùng thế hệ ông.
Một cách nào đó, suốt cuộc chiến, Gấu đếch dám bỏ nước ra đi là vì thế!
Bà cụ Gấu cũng phán như thế: Chết cả đống còn hơn sống một người!

A[merican] P[astoral] là 1 cuốn tiểu thuyết mà đề tài của nó là cuộc chiến Mít. Nhân vật chính, 1 người đàn bà, đã cho nổ tung 1 tòa nhà để phản đối nó.

*

Tập tiểu luận, essays, được viết theo kiểu hồi ký, về Roth. Tác  giả, Claudia Roth Pierpont, là staff writer của tờ “Người Nữu Ước”
Đọc loáng thoáng bài "Những đứa trẻ của Kafka", nơi tiệm sách, thế là bèn bệ về.

Roth đụng vấn đề Do Thái, y chang Gấu đụng vấn đề Bắc Kít.
Bị chúng tấn công, "mi vưỡn viết những tác phẩm như thế, nếu mi sống ở Đức Nazi?", ông thề, tao đéo bao giờ viết về Do Thái nữa!

Trong cuốn này GCC tính giới thiệu với độc giả TV, "Những đứa trẻ của Kafka".
Roth viết, Kafka chết “sớm quá, đối với Lò Thiêu”, Kafka died “too soon for the holocaust”.

*

Cả 1 nền văn học VC, được, chỉ có cuốn này, [dù những chi tiết sai lầm về thám báo của nó, như THT chỉ ra!]
Nó đánh dấu chấm hết thật là đáng mừng, cái thứ văn chương chỉ có siêu nhân, hay quái vật, như anh hùng Núp của Nguyên Ngọc.
Trong khi Miền Nam, có muôn vàn thứ OK, nào truyện ngắn, nào truyện dài, chưa kể những thứ tạp nhạp như của THT!
Đó là sự thực.
Văn chương đâu phải trò đàn đúm!
GCC đâu có thù hằn gì ông THT?
Bài điểm sách của Gấu, ngày nào, viết về ông ta, và những nhà văn cầm súng như ông, là cả 1 hoài bão về 1 văn tài, về cả 1 thế hệ văn chương.


From Russia With Love

The Self Projected

Cái tôi phóng chiếu

"Nobody in a raincoat": "Chẳng là ai trong cái áo mưa"

Note: Bài viết này quả là hết xẩy con cào cào!
Chúng ta đã biết Brodsky ra tòa VC Liên Xô, và trả lời, khi chúng hỏi, Ai cho phép mi là thi sĩ?

Bài này thú vị hơn nhiều:
Chàng, qua Tây Phương, lần đầu đăng đàn phán về thơ, giữa cử tọa Tây Phương!
Tin Văn sẽ đi 1 đường dịch thuật liền, như món quà chờ...  Noel.
[Và chờ mail H/A]

IN THE OTHER hand, when Joseph left Russia, when he read for the first time in the West, at that poetry festival in London, he may well have been quite surprised at the enthusiasm of the audience. It is conceivable, even likely, that he had no inkling of what to expect. Of course, though still young, he was not new to the game. He had been translated, had become the object of what were in effect cultural pilgrimages, had been pilloried by the state, was close to the last of the great ones, Akhmatova. And then there were his readings in Russia (remember Etkind's description, cited above). I suppose he was already a cult figure, whatever that may mean, or well on his way to becoming one. So he was surely aware of the hallucinatory effect of his performances. Even so, there was no telling whether this would turn out to be exportable. Traumatized as Joseph evidently was, that first reading at the Queen Elizabeth Hall at once set him on the path. He gave reading after reading. He did not let the sound fade, or himself go out of fashion, be lost sight of. He kept himself, the sound of himself, current. In one respect, this can be seen as a triumph of the will to survive, though he may also have needed constant exposure of this sort to compensate for the loss of a native audience. And in any case, as we have seen, he regarded it as his particular mission - though he might have balked at putting it so grandly - to bring Russian to English. And beyond that, of course, was the larger mission, on behalf of Poetry itself. And there must have been a price to pay, that of privacy, of the seclusion most artists need. Still, he also had the invaluable knack of being just himself. And periodically, as at Christmas when he went to Venice, he became a "nobody in a raincoat".

    Or do I exaggerate? Was he, in fact, misled? Did he misunderstand the interest his person or presence aroused? Perhaps it was more a matter of curiosity. He had become a sort of institution, America's Poet-in-Exile. And as for his odd English, well, away with it, who cared really. It had seemed to me, from the start, that Joseph was a great improviser. He had not quite anticipated the reception he received, but he adjusted readily enough to it. And as for his style of reading, well, as noted, he claimed it was simply the way poetry was read in Russia. But even his disingenuousness worked to his advantage. So, perhaps it was all a kind of improvisation. He relied on the challenge of live situations, on his wit and his wits, on language itself. Joseph had faith. He adopted a casual manner, even though the delivery of the poetry was quite the opposite to casual. He resisted being turned into a monument, an institution, although he himself raised monuments to those he regarded as his mentors: Tsvetayeva, Mandelstam, Akhmatova, Frost, Auden.


The Case of  BNT

Suspended Sentences by Patrick Modiano – three novellas from the Nobel laureate

He has been hailed as a contemporary Marcel Proust, but Modiano’s investigations into the moral history of the occupation make him a pure original
Những câu văn bị treo: Được thổi là Proust hiện đại, nhưng những điều tra của Modiano vào cái phần đạo đức của lịch sử thời Pháp bị Đức đô hộ khiến ông bảnh hơn nguyên gốc, tức sư phụ của mình.

Đám Bắc Kít thử đi đường điều tra thời kỳ Bắc Kít đô hộ Nam Kít, kể từ 30 Tháng Tư 1975, coi có ra được tí tác phẩm nào không?
Đếch 1 giọt mắt cá sấu – chưa nói đến nước mắt thực, pure original, làm sao ra tác phẩm!

All his novels resemble crime stories, but the genre’s usual finale of clarification never occurs.
Tất cả những cuốn tiểu thuyết của ông đều có mùi trinh thám, nhưng khó mà gọi nó là cái thứ gì.


Nhặt những vụn vặt

Note: Đọc cái này thì GCC lại nhớ ra cái kia: "Hồn Ma Cũ" của BNL (1)

Gòa không, Gòa không?

Bình Nguyên Lộc là nhà văn Miền Nam thân cận nhất đối với thằng bé di cư-tôi ngày nào. Tôi làm quen với Sài-gòn là qua ông. Cái trò ngồi quán nhâm nhi ly hồng trà, ngóng chờ hồn ma cũ, trong khi tương lai đang đợi ở một ngã tư nào đó, là do ông, phần nào.
Ông già tôi khi còn sống, đặt cho tôi một biệt hiệu: thằng Mõ Phố. Ông làm nghề dậy học, cứ bị đổi trú sở hoài. Nghe nói Tây không ưa ông. Thằng con, ngay những giờ phút đầu tiên đến đất lạ đã lân la làm quen, từ người đến cảnh. Chưa kịp làm quen người bố, ông đã bị đảng phái thủ tiêu.
Mõ Phố vào Nam, việc đầu tiên, mua một tấm bản đồ thành phố Sài-gòn, rồi "khốn khổ khốn nạn vì nó". Chả là, thằng nhỏ tin theo bản đồ, lần theo đường chỉ, đụng ngay một đồn Bình Xuyên. Thành phố những ngày đầu di cư, bản đồ nào "cập nhật hóa" cho nổi! Người lính gác, chắc chỉ muốn cho thằng nhỏ Bắc-kỳ một bài học, bắt đứng đó đến chiều tối; mỗi lần buồn buồn, anh lên cò súng lách cách, hăm: Tao bắn bỏ mày! Anh ta làm sao biết thằng nhỏ bị gắn khằn trong trí tưởng, hình ảnh một ông bố bị cột đá bỏ sông.
Truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc lúc đó rất ăn khách, và những tờ nhật báo tại Sài-gòn thường in kèm như phụ trương. Bạn mua tờ báo, mở ra, truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc là một "cahier" khổ nhỏ kẹp ở giữa.
Nhớ đến ông, tôi nhớ đến một người viết khác, ông anh rể của tôi, Nguyễn Hoạt.
Nguyễn Hoạt thuở mới vào cũng ham viết tiểu thuyết về miền nam. Cuốn Trăng Nước Đồng Nai của ông kể lại việc kiếm cơm miền nam bằng nghề dậy học tại Biên Hòa. Ông quá mê thằng nhỏ xe "lô" (location), mời chào khách: Gòa không, Gòa không? (Hòa không, Hòa không?). Ông tả những cô gái miền nam tự nhiên đến nỗi mặc "đồ ngủ", leo cây, hái trái!
Ông chú Th. của tôi cười ngất, buông một câu: Bộâ nó tưởng gái miền nam "dễ dzô" lắm sao? Bà thím tôi ngồi kế bên cười tủm tỉm. Hai người sắp thành ba người, mới lo làm đám cưới! Nhân đó, ông hỏi tôi thường đọc ai, tôi nói: Cháu mê Bình Nguyên Lộc. Ông gật gù, trúng ý. Trên bàn là một tờ báo hàng ngày, với truyện ngắn mới nhất của ông.
Ông chú này, tôi đã nhắc tới, nhân đi tìm "cái tên", cho một cuộc chiến. Gọi là chú, vì cùng học với ông già. Ông thi rớt, bỏ vào Sài-gòn lập nghiệp từ khi còn "nước Nam-kỳ", "tân thế giới" của những chàng trai xứ Bắc. Bà thím gốc xa xưa Tiều, rất hiền. Bà kể lại, kỷ niệm lấy chồng. Ổng nói, nếu ngày đó, tôi "hỏng" chịu cưới, bà tính sao? Đành ôm bầu, đẻ con, chịu làm "gái ngoan" chứ làm sao giờ! Kỷ niệm dù sao cũng vui. Buồn: những ngày làm ăn khá giả, khi chưa xẩy vụ di cư, bà sợ nhất cảnh đếm tiền mỗi lần ông đưa về. Sau bà nghĩ ra một cách thật giản dị: dùng đấu, để đong, như đong gạo!
Là một thương gia giầu có nhưng có thể do bỏ miền bắc, ông lại càng tin vào một "mùa Thu" mà ông đã không có dịp được thưởng thức khí hậu. Mãi sau này, ân hận, nhưng cũng may, mất trước khi mất miền nam, không phải chứng kiến cảnh kiểm kê tài sản.
Cô con gái thứ của ông là mối tình đầu của tôi.
Tôi mê cô cùng lúc mê Bình Nguyên Lộc. Thương thằng nhỏ con người bạn học, ông chú kêu tôi về làm trợ giáo cho mấy đứa con ông. Không hiểu ông có một vầng trăng thề nào không, khi rời xứ Bắc, vì mấy cô con gái đều mang tên người đẹp cung Quảng. "Đệ nhị tiểu thư" được cưng nhất, nhưng không vì vậy mà bớt sợ bố. Ông là một "hung thần" trong gia đình.
Lần cuối, tôi tới thăm nhưng "vô ý" mang luôn đôi dép dính bùn vô nhà. Cô hoảng quá la lớn: Anh để dép bên ngoài! Tôi quay ra, dép theo luôn. Mãi sau này, khá trộng tuổi, cô mới lấy chồng. Bây giờ hình như hai vợ chồng ở Úc. Không hiểu khi chọn tôi làm "trợ giáo" cho mấy đứa nhỏ, ngoài chuyện thương đứa nhỏ mồ côi, ông chú tôi có bị ảnh hưởng Bình Nguyên Lộc hay không?
Nếu miền nam của Sơn Nam là một miệt vườn, hoặc "trước" thuở miệt vườn, một hình bóng cũ; miền nam trong Bình Nguyên Lộc, là cảnh nhập nhằng kẻ chợ, người quê. Những nhân vật của ông cũng nửa quê nửa tỉnh. Đây là lý do theo tôi, dân Sài-gòn rất mê ông, nhất là những độc giả "nhựt trình". Trong tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc đã manh nha một Sài-gòn sắp sửa biến mất, như một miền nam biến thành huyền thoại, ở Sơn Nam. Người ta tự hỏi mấy cô gái trong Đò Dọc, lo chạy giặc Tây giạt về một xóm quê, suốt ngày lóng ngóng không biết làm gì, suốt đời chờ đợi một người lái "đi xem heo", họ sẽ sử sự ra sao, sau này, khi quân đội Mỹ và đồng minh đổ xô tới...

Nhận định văn ông, ở một số người viết:

-... không thành công ở truyện dài... đầy rẫy đối thoại, vết tích còn lại của những tiểu thuyết đăng báo từng kỳ... nhưng thái độ sống đã là tấm gương sáng cho tôi (Nguyễn Văn Sâm).
-... xét về toàn thể thì đến nay một thành công của Đò Dọc (có kết cấu linh động, kỹ thuật song suốt, xây dựng tâm lý ý nhị, hành văn trôi chẩy, đối thoại duyên dáng hơn cả) vẫn không đủ sức để cứu vãn giá trị cho sự nghiệp văn chương thiên về lượng hơn về phẩm đó... vốn dĩ ông đã tỏ ra khá xem nhẹ cái công phu viết văn rồi. (Cao Huy Khanh).
Trong lời giới thiệu Tuyển Tập, Võ Phiến trân trọng những bận tâm "khác", (ngoài cõi văn?): Đồng Nai là bận tâm của một dòng họ, Phù Sa là bận tâm của cả miền Nam... mối bận tâm thứ ba bao trùm cả dân tộc. Ông gọi: Bình Nguyên Lộc, một nhân sĩ trong làng văn.
Những nhận định cho thấy, Bình Nguyên Lộc không được coi như là "một nhà văn".

Ở đây, có nhiều vấn đề: hoặc thể văn đối thoại là một tiền-văn chương. Hoặc nó không đủ lực để chuyên chở những rắc rối đa đoan của tâm lý con người, sự chuyển biến của một xã hội, như xã hội miền nam trước cơn bão chiến tranh. Hoặc tác giả như Bình Nguyên Lộc không đủ khả năng làm bật nó ra, nhưng ở trong ông vẫn bàng bạc một nỗi lo: xã hội xuống cấp, "về chiều", "đồi trụy", và đây đúng là những bận tâm của một người viết, khi chọn lựa hình thức văn chương: tiểu thuyết. Như Georges Lukacs định nghĩa: tiểu thuyết, một thế giới về chiều, nhân vật chính, một anh chàng ù lì (passif), do ý thức quá rộng, mà thế giới về chiều quá chật không làm sao thỏa mãn. Điều này giải thích tại sao Bình Nguyên Lộc thành công trong những truyện ngắn: Đây là nơi trú ẩn của ông, trong những hồn ma cũ, trong hình bóng một cô đào hát cậu bé đã một thời mê mệt (Tình Thơ Dại), trong nỗi Thèm Mùi Đất...
Anh chàng ký giả nhựt trình trong Hồn Ma Cũ giải thích: chàng đã ghiền không khí ở đây, ghiền cả thời gian nữa... cho đến cái dơ bẩn của tiệm này chàng cũng yêu... Nhưng đúng ra là chàng đang rình... nó đây rồi:

Thình lình Kỳ ngây người ra: chàng vừa thấy người cha đứa bé rót cà-phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa mà uống. Cảnh này, chàng đã thấy rồi... trời ơi... lâu lắm... những hai mươi năm về trước...

Cảnh này, thằng bé Bắc-kỳ ngày xưa cũng đã thấy rồi, khi miền nam đã đổi chủ.
Bữa đó, hai vợ chồng từ rẫy lên chợ (chợ Cai Lậy). Bà vợ xà ngay vô một gánh bún, hay cháo lòng heo trong lúc anh chồng xớn xát kiếm một ly cà-phe túi. Khi quay lại anh thấy bà vợ đang thong thả lật phía bên trong chiếc gấu quần, hài lòng lau miệng...
Trời ơi, nó đây rồi, bấy lâu nay anh tìm kiếm hoài lúc đó mới hiểu ra, tình yêu là gì...

Nguyễn Quốc Trụ


**

Tướng VNCH Ngô Quang Trưởng

*

Tướng Mẽo, Norman Schwarzkopf, viết, Trưởng là viên chỉ chỉ huy sáng giá nhất về mặt chiến thuật, mà tôi được biết, Truong was the most brillant tactical commander I'd ever known

[Báo Armchair General, Jan 2015]

Ông mất vì bịnh ung thư ngày 22 Tháng Giêng, 2007, tại Fairfax, Va, theo báo trên.


Ôi chao giọng Huế




Trường hợp Võ Phiến

GCC's Novel

*

Trên số Le Magazine Littéraire, Tháng Chín, 2009, có một bàn tròn văn học, giữa một số nhà văn lưu vong, do Tâm Văn Thi thực hiện.

Có giai thoại thú vị sau đây, do Atiq Rahimi, Goncourt 2008, kể, về Nasro Dinh, một nhân vật huyền hoặc của văn học nước ông, Afghanistan:
Một buổi tối, có người bắt gặp Nasro Dinh cầm một ngọn đèn, loay hoay tìm kiếm chìa khoá nhà của ông; người đó bèn kiếm phụ, và bất giác hỏi, nhưng ông mất nó ở đây hả, và ông ta trả lời, không phải ở đây, mà ở gần nhà tôi; vậy sao lại kiếm ở đây; ở đó, làm gì có đèn mà kiếm.
Câu chuyện trên tương tự câu của Adam Mickiewicz, Milosz trích dẫn, trong

Ghi chú về lưu vong:

Anh ta không tìm thấy hạnh phúc, bởi vì làm gì có hạnh phúc ở xứ sở của anh ta.
He did not find happiness, for there was no happiness in his country.

Adam Mickiewicz. Milosz trích dẫn

Lưu vong: Cách sử dụng
Hãy coi lưu vong là số kiếp, theo nghĩa một thứ bịnh không sao chữa lành, chỉ có cách đó mới giúp chúng ta vứt bỏ vào thùng rác những hoang tưởng về mình.

Lưu Vong: Khuôn Mẫu
Anh ta biết nhiệm vụ của mình, và nhân dân đang chờ đợi những lời nói của anh, nhưng anh bị cấm nói.
Bây giờ, ở nơi anh đang ở, anh tha hồ mà nói, nhưng chẳng ai thèm nghe, vả chăng, anh quên mẹ những gì anh phải nói.
Lưu vong: Thích nghi

Sau nhiều năm lưu vong, chúng mình bèn tưởng tượng đời mình như thế nào, nếu chẳng lưu vong.

Lưu Vong: Chán Chường

Cú đánh đầu tiên vào đầu một nhà văn lưu vong, đúng như Võ Phiến đã từng cảm nhận: Nhà văn lưu vong không đem theo được cùng với ông ta, độc giả thân thương của mình!
Như thế có nghĩa, cùng với sự mất tích độc giả, nhìn vào những trang viết cũ cứ như nhìn vào hư vô.. là chán chưòng, tuyệt vọng, là sợ đếch ai còn biết đến tên ta [loss of name], sợ thất bại, và những dằn vặt về đạo đức [moral torment].

Nhà văn lưu vong đau khổ bởi vì anh ta lúc nào cũng phải bám vào ý thức, thói quen tập thể. Có lẽ, anh ta, nhà văn như thế đó, chưa hề bao giờ học đứng bằng đôi chân của chính mình.
Anh ta có thể thắng, nhưng chỉ khi nào, trước đó, anh ta bằng lòng thua
[He may win, but not before he agrees to lose]

Lưu vong là lâm vào tình cảnh thật đáng ngờ, nếu nói về mặt đạo đức, bởi vì nó bẻ gãy kết nối của một con người với  đám đông, nói rõ hơn, nó tách một cá nhân ra khỏi một nhóm, và cá nhân này ngưng không còn chia sẻ kinh nghiệm của mình với những đồng nghiệp bị bỏ lại. Những dằn vặt về đạo đức phản ảnh sự vấn vương của anh ta với một hình ảnh hào hùng về chính mình, và anh ta phải, từng bước từng bước, đi tới một kết luận thật thê lương thật đau đớn, là:  thật khó mà làm được một việc có giá trị về mặt đạo đức, và càng thật khó, giữ cho được một hình ảnh không hề hoen ố về chính mình.
*
Lưu vong, thiên di, dời đổi, không liên quan tới ngày tháng, thống kê hay quota, nhưng tới những số mệnh của từng cá nhân con người.
Cuốn "Nouvelles Odysées" mở ra bằng những dòng trên.

Đây là một “anthologie” gồm những bản văn của nhiều tác giả ở Tây, toàn di dân, hay lưu vong, như Tahar Ben Jelloun, André Makine, Francois Cheng…
Trong lời tựa, Eduardo Manet viết: “Có nhiều lưu vong, di dân như có nhiều cát ở bãi biển”
Và họ đều ‘viết văn như hành lạc trong đau đớn bất lực" cả, Gấu mượn lời nhà đại phê bình để nói về…  cát ở bãi biển!
*
Gấu này, 'trâu chậm uống nước đục' [“Anh đi muộn quá, hết mùa biển động từ đời nào đời nào rồi”, một bà bạn văn đi trước, than thở giùm], và, muộn còn hơn không, và, cũng cố ‘hành lạc trong bất lực đau đớn’, được chừng ‘vài chục ngàn trang’ net, nắn gân tí tí Con Quỉ Bắc Kít, đi được một đường vĩnh biệt Bông Hồng Chẳng Hỏi Vì Sao, đi gặp kịp Con K, và vưỡn còn dư tí bonus “quĩ thời gian’, và tính sử dụng nó, vào việc 'trước trác', tệ lắm là ba cuốn tiểu thuyết, một, viết về cú trở về lại Đất Bắc, một, về Gấu Nhà Văn, và một, về Những Ngày Ở Thiên Đường Đỗ Hoà, nông trường cải tạo Vẹm!
Hà, hà!

*

Hồi ức thủng lỗ

A free man, when he fails, blames nobody.
(Được tự do rồi, thất bại, đừng ăn vạ ai)
(J. Brodsky, Phận lưu vong, The Condition We Call Exile

Of course, it's one hell of a way to get from Petersburg to Stockholm; but then for a man of my occupation the notion of a straight line being the shortest distance between two points has lost its attraction a long time ago.
(Lẽ dĩ nhiên, đường từ Petersburg tới Stockholm đi qua địa ngục, nhưng với một người nghề ngỗng như tôi, ý niệm đường thẳng - là đường ngắn nhất giữa hai điểm - đã mất sự quyến rũ của nó từ lâu rồi.)
(Brodsky: Diễn văn nhận Nobel văn chương)

Tôi không là di dân, mà cũng chẳng bị tống xuất.
Thế giới bị huỷ diệt không phải của tôi. Tôi chẳng hề biết nó.
(I neither emigrated nor was deported.
The world that was destroyed was not mine. I never knew it.
Henri Raczymow, 'Memory Shot through with Holes').

Cuốn Exile and Creativity, Gấu mua ngày 29 July, 1998, xưa rồi Diễm ơi, tại tiệm Britnell, xưa nhất Toronto. Tiệm này nay biến thành quán cà phê. Khi nó chết, cả thành phố năn nỉ đám con cháu chủ tiệm đừng bán, đừng bán [đừng đốt, đừng đốt!], nhưng họ lắc đầu, chán sách quá rồi!

Tiệm kế bên Toronto Reference Library. Đây là thư viện đầu tiên Gấu được cô giáo tại trung tâm tạm trú, shelter, đưa đi tham quan, liền sau ngay khi tới Toronto, từ trại tị nạn Thái Lan.
Một buổi tối, trong những ngày lạnh nhất kể từ 40 năm, như báo chí mô tả.
Vừa tới phi trường, tối 18.1. 1994, là được đưa đi lãnh quần áo lạnh, giấy bốt, rồi được xe chở từ phi trường, xuyên qua bão tuyết mù trời, tối thui, tới shelter. Ngay liền sáng hôm sau, bò ra bên ngoài, kiếm tiệm phở, không hề biết, tiệm chỉ mở cửa vào lúc 11 trưa! Về, chưa tới giờ làm việc, lại phải đứng ngoài trời tuyết, chờ nhân viên mở cửa cho vô!

Bất giác nhớ ký giả Lô Răng, một lần ngồi Quán Chùa, kể, lần ông đi Mẽo tu nghiệp, ở kế bên một bãi biển, đêm nghe tiếng sóng vỗ vào bờ, không hiểu sao, đều thành tiếng rao, Phở, Phở!
Sau đó, được đi ăn phở, cũng vài lần, rồi tới lần được cô bạn và ông chồng tới shelter thăm, chở đi ăn phở. Cô bạn cởi bao tay, bắt tay Gấu, tự nhiên như người văn minh, Gấu bắt tay, run bần bật, đúng như thế, khiến Gấu Cái “lại đâm bực”!


*

The Nobel Prize in Literature 1980
"who with uncompromising clear-sightedness voices man's exposed condition in a world of severe conflicts" (1)
Czeslaw Milosz
Poland and USA
b. 1911 d. 2004

(1)
Người mà, đầu óc sáng suốt, và không chịu thỏa hiệp, cất lên tiếng nói về thân phận con người, bị phơi bầy ra, trong một thế giới với những xung đột nặng nề.

Diễn văn Nobel

One of the Nobel laureates whom I read in childhood influenced to a large extent, I believe, my notions of poetry. That was Selma Lagerlöf. Her Wonderful Adventures of Nils, a book I loved, places the hero in a double role. He is the one who flies above the Earth and looks at it from above but at the same time sees it in every detail. This double vision may be a metaphor of the poet's vocation
Milosz: Nobel lecture

Cuốn sách được nhắc tới ở trên, [the] Wonderful Adventures of Nils, đã được Lý Quốc Sỉnh dịch ra tiếng Việt, với cái tên Những cuộc phiêu lưu trên lưng ngỗng, và là một trong những cuốn tuyệt vời thời mới lớn của Gấu.

Oe cũng nhắc tới nó, trong bài Diễn Văn Nobel của ông, và ông coi chuyến bay tới Thụy Điển lãnh giải là một cuộc phiêu lưu trên lưng ngỗng biến thành hiện thực.
Tại Đại Sảnh, Hàn Lâm Viện Thụy Điển, trong bài diễn văn "Nhật Bản, Những Người Hàm Hồ, và Chính Tôi", Oe đã nói nhiều về một con người Nhật khó mà bị chọc thủng dưới lớp mặt nạ, về dòng văn chương truyền thống được coi như dòng chính, và lên án nền chính trị ở đây; nhưng ông cũng xen vào đó những vấn đề mang tính cá nhân, kể cả món nợ của ông đối với gia đình mình. Đứng trước một rừng máy ghi âm, thu hình của các phóng viên, và thính giả, ông nhớ lại thời thơ ấu của ông, tại một làng "ngoại vi, bên lề", tại một xứ sở "ngoại vi, bên lề", và bằng cách nào ông đã tìm được cõi văn của mình, nhờ đọc "Những cuộc phiêu lưu trên lưng ngỗng." Trong khi đọc câu chuyện thần tiên, về một chú bé ngồi trên lưng ngỗng phiêu lưu khắp vùng Sandinavia, có thể ông mơ hồ cảm nhận hai giấc mơ, cũng thể gọi là hai điều tiên tri, về đời mình, tỏa ra từ những trang sách: một ngày nào tôi sẽ hiểu được ngôn ngữ của những loài chim, và một ngày nào khác nữa, tôi sẽ ngồi trên lưng một chú ngỗng bay tới miền đất thần tiên ở trong chuyện của Selma Lagerlof.
Cha và Con


Nguyễn Thị Hải Hà: Vụ “Nỗi Buồn Chiến Tranh” của Bảo Ninh, anh nhìn thấy cái vẻ phù phiếm của những kẻ muốn duy trì nhãn quan chiến tranh theo khả năng tái chế của họ. Anh phải nói như thế nào về những người Mỹ đã bảo trợ để in tác phẩm này trong khi họ lại không bảo trợ in một tác giả lính Miền Nam.
Trần Hoài Thư:  Quyển “Nỗi Buồn Chiến Tranh” của Bảo Ninh sở dĩ được đón nhận nồng nhiệt là vì từ mấy mươi năm chiến tranh và chế độ CS ở miền Bắc, cửa khép kín. Nay cánh cửa ấy mở ra. Còn miền Nam, nỗi buồn chiến tranh đã được nói quá nhiều, qua các bộ môn văn học nghệ thuật trong mấy mươi năm chiến tranh.... Nhiều đến độ nhàm chán.... (1)

Note: Nhận xét như thế này, là nhảm, theo GCC.

Cái từ “vụ”, affair, theo GCC cũng không nên có. Bởi là vì làm gì có “vụ”?
Nếu có là do ghen tài, sự thực là như thế.

THT, trích dẫn PVC khen NBCT là “trung thực”, rồi “phản biện”.
PVC theo Gấu, biết chó gì mà lôi ra ở đây?

“Nỗi Buồn Chiến Tranh” là 1 cuốn tiểu thuyết, thành ra không thể coi những sự kiện trong đó là sự thực được. Những chi tiết về thám báo, sai, theo THT, thì có ăn thua chi đâu với tính “sáng tạo” của nó?
Nabokov chẳng đã chửi nặng nề chuyện này rồi, TV cũng đã trích dẫn, đại khái, coi 1 cuốn tiểu thuyết là sự thực, thì đúng là chửi bố cả tiểu thuyết lẫn sự thực.
“Nỗi Buồn” cực bảnh ở chỗ, nó là 1 cuốn tiểu thuyết. Vậy là được rồi.
Trên TV cũng đã từng viết về nó, thành ra khỏi nhắc lại, ở đây.

Ở Miền Nam có 1 cuốn bảnh hơn NBCT, là cuốn “Một Chủ Nhật Khác”, của TTT, theo cách nhìn riêng của Gấu, nhưng hơn thua làm chi ở đây.

Nói nhiều về nỗi buồn chiến tranh đến nhàm chán, thì đúng là cả 1 mớ những tác phẩm của THT và những người như ông. Không một tác phẩm nào vượt lên được mức bình thường, thì làm sao không nhàm chán cho được.
Cái chuyện bảo trợ cũng nhảm. Cần gì bảo trợ. Nếu thằng Mỹ bảo trợ NBCT thì kệ cha nó. Chúng chẳng cho phép cả 1 ổ VC ở ngay Mẽo, phát tiền Mẽo cho VC đi du hí, rồi viết nhảm về Mít lưu vong, hoặc ngậm miệng ăn tiền, thì cũng có ai thèm nói tới đâu.
NQT

Theo như GCC được biết cuốn NBCT được cả thế giới đọc, được tụi Hồng Mao in ấn, bán áo ào, cần gì đến thằng Mẽo bảo trợ?
Tờ Guardian của tụi Anh còn hỏi tác giả của nó, bộ tịt ngòi rồi ư?
Không lẽ thế giới ngu quá, không nhận ra những nét không trung thực ở trong đó?  

V/v Hồ Anh Thái mô tả Ngụy tàn ác. Tên này đọc làm gì. Một tên Cớm VC, giả như hắn viết tốt về Ngụy thì Ngụy nhục, chứ hắn đâu có nhục.
Nhưng nói chung, gần như VC chẳng có 1 hành động tàn ác nào cả, so với Ngụy, và điều này Gấu cũng đã viết ra rồi. Cả cuộc chiến, chỉ có 1 cái hình VC chặt đầu 1 ông xã trưởng và đặt cái đầu lên bụng tử thi, để chặn bản án.
Ngay khi THT vừa mới viết, là Gấu đã cảnh cáo rồi. Thứ văn chương vãi nước mắt, thân phận nhược tiểu, da vàng, nỗi bơ vơ của bầy ngựa hoang, một thứ tâm lý con nít như thế, làm sao chịu đựng nổi con quỉ chiến tranh?
Khi Võ Phiến vừa mới viết truyện ngắn đầu tiên, đăng ở 1 tờ báo thủ công nghiệp, lem luốc, ở mãi Miền Trung, Sài gòn đã đọc rồi, ông đâu cần phải lặn lội từ ngoài đó vô, năn nỉ mấy tờ báo lá cải?
Viết dở rồi đổ vấy, tại thế này, tại thế nọ. Sống để viết, mà viết như thế ư?
NQT
Cuốn "Nỗi Bơ Vơ", tác phẩm đầu tay của THT, xb đúng thời gian Y Uyên mất, khi đó Gấu giữ mục điểm sách cho trang VHNT cuối tuần của tờ nhật báo quân đội VNCH, tờ Tiền Tuyến, do TTT phụ trách, sau ông chán giao cho GCC và HPA lo. Bị xúc động bởi cái chết của Y Uyên, đọc cái giọng rên rỉ của THT, Gấu bật ra cái ý "thần sầu", TTT gật gù khen "được, được":
Hãy cố mà sống sót cuộc chiến.
Đừng như... Y Uyên.
Một khi "qua con mê", bạn sẽ còn đụng 1 trận giặc, khác, dữ hơn nhiều, so với cuộc chiến Mít: Văn Chương.


Living without 'isms
''It's in literature that true life can be found. It's under the mask of fiction that you can tell the truth'

The idea behind it is that we need to bid goodbye to the 20th century, and to put a big question mark over those "isms" that dominated it
Sống đếch cần Ism!
Chính là trong văn chương mà đời thực có thể tìm kiếm thấy.

*

Note: Một bài phỏng vấn tuyệt vời. Tin Văn sẽ đi bản dịch trong những kỳ tới.
Tình cờ làm sao: Bạn phải đọc bài này cùng lúc với bài trên NYRB,
China: Humiliation & the Olympics TQ: Nhục Nhã & Olympics rồi suy ra trường hợp mấy anh Yankee mũi tẹt “Hà Lội ta hiên ngang ngửng đầu”, rồi đọc bài viết của DTH, "Trung thành với Đảng" là cái đếch gì, thì mới đã! NQT

Loyauté
par DUONG THU HUONG
Trung

Trung là đức tính đầu tiên của những triều đại phong kiến Đông phương đòi hỏi ở thần tử, phải trung với vua. Ngay từ khi nằm nôi, con nít Á Châu đã được học điều này. [Khi nghe tin Stalin chết, đứa trẻ con ngày nào ở trong Tố Hữu sống dậy, và thốt lên, "Tiếng đầu lòng con gọi Stalin", là do đó]. Ngay từ khi còn trẻ, với tôi, trung với vua được thay thế bằng trung với Đảng Cộng Sản. Từ Vua qua Đảng là một quá trình tự thân. Vào lúc 20 tuổi tôi lao vào cuộc chiến chống Mỹ. Thực tại thực địa làm tôi khám phá ra những trang quá đen tối, đến nỗi tôi lại phải mở ra cuốn tự vựng của mình, để tìm hiểu. Những từ ngữ hiện ra như những xác chết thối rữa, vì không được ướp formol. Tôi bước qua ngả đường nổi loạn.
Năm 1991, tên bộ trưởng Nội vụ đến gặp tôi trong nhà tù. Hắn hỏi tôi, sao dám chống Đảng. "Mi nghe đây bà nói đây này. Hơn hai triệu thằng CS bợ  lên một uỷ ban trung ương gồm ba trăm thằng. Rồi ba trăm thằng này bợ lên một bộ chính trị gồm 13 cái đầu ngu đần. Nếu ngất ngưởng ở trên đầu thế gian, là 13 tên ngu đần, bại hoại này, thì chẳng có lý do gì để mà bà trung thành với Đảng. Đảng đâu phải là ông Giời sống ở trên Giời. Đảng là một nhóm 13 tên. Tại sao bà lại phải trung với chúng?".
Vào lúc tên đồ tể vung búa chặt đầu con bò, trước khi xả thịt nó, là tôi hết còn tin vào chữ “trung”. Đúng ra, tôi đổi hướng nó: trung chỉ có nghĩa khi mình vận nó vào chính mình. Và như thế, con người tự do chọn lựa và đảm nhận những chọn lựa của mình. Kể từ lúc đó, “trung” không còn là một thánh tượng tôn thờ, cũng không phải là xác chết thối rữa. Nó trở thành bạn đường của tôi, cái bóng của tôi, hơi thở của tôi…. Phải mất ba chục năm làm giặc tôi mới hiểu và làm chủ được, ý nghĩa của một từ. Thật đau thương. Cũng vậy, tôi nghĩ, là nhà văn là  kẻ bị kết án khổ sai, bởi vì, trước khi sử dụng một từ, phải chiến đấu với những bóng ma của nó. Tôi chúc những nhà văn, những kẻ mơ mộng, những kẻ khùng điên, và những kẻ bị kết án một chiến thắng huy hoàng. DTH
*
Coetzee, trong bài viết về Joseph Brodsky, đã nhắc tới một nhận định của nhà thơ Olga Sedakova, theo đó, thành tựu lớn lao nhất của Brodsky, là đã "đặt một cái dấu chấm hết ở cuối trào lưu văn học Xô Viết."
Ông làm được vậy, theo Coetzee, là do, đã lấy lại cho văn học Nga cái chất quí hiếm mà nền kỹ nghệ văn hóa Xô Viết, nhân danh chủ nghĩa lạc quan, đã vứt vào thùng rác: Thân phận bi đát được làm người, hay, cảm nhận bi đát về đời sống, a tragic perception of life.
*
Áp dụng nhận xét trên, cộng vòng hoa Nobel, cho Cao Hành Kiện [lịch sử của một cá nhân chống lại lịch sử của một lũ, một bầy], cho "Nỗi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh:
Đây là tác phẩm của Miền Bắc, đầu tiên, cho Phù Đổng Thiên Vương, tức những anh Bộ Đội Cụ Hồ, được trở lại làm người.
Nghĩa là cũng biết...  sợ chết!
Và cũng biết phi cần sa [hồng hoang] như điên, cho bớt sợ!
Đây cũng là 1 cách đọc "Nỗi Buồn Chiến Tranh" của GCC.
Đâu có như THT, đố kỵ, phán ẩu:

Quyển “Nỗi Buồn Chiến Tranh” của Bảo Ninh sở dĩ được đón nhận nồng nhiệt là vì từ mấy mươi năm chiến tranh và chế độ CS ở miền Bắc, cửa khép kín. Nay cánh cửa ấy mở ra. Còn miền Nam, nỗi buồn chiến tranh đã được nói quá nhiều, qua các bộ môn văn học nghệ thuật trong mấy mươi năm chiến tranh.... Nhiều đến độ nhàm chán.... (1)

Được nói đến quá nhiều, hay là viết…  dở quá, thành nhàm chán?

Thời của THT, cũng là thời của Gấu, và của nhiều người như Gấu, và tên nào tên đó, đều có riêng cho mình 1 "dấu ấn": TTT có Tư, Cuối Đường, Dọc Đường….  Cung Tích Biền có Ngoại Ô Dĩ An và Linh Hồn Tôi, Ngọc Minh có Trăng Huyết, Ngụy Ngữ có Con Thú Tật Nguyền.... Trong những truyện ngắn đó, đều có bóng dáng của chiến tranh, của nỗi buồn do nó mang tới.
Đâu có tí nào nhàm chán?
THT thử kể 1 cái của ông, được nhiều người biết tới, coi!
Viết đã dở như hạch, mà còn thêm bịnh coi thường, đố kỵ người khác, không có tí khiêm nhường, làm sao khá cho được. NQT

*

Loyauté
par DUONG THU HUONG

La loyauté était la première des vertus louées par les dynasties impériales de l'Asie orientale. On apprenait à l'enfant au berceau que le devoir suprême était d'être loyal envers l'Empereur. Dans ma jeunesse, la « loyauté envers l'Empereur» a été remplacée par la« loyauté envers le Parti communiste ». Passer de l'Empereur au Parti allait de soi. À 20 ans, je m'étais engagée dans la guerre antiaméricaine. La réalité du terrain m'a fait découvrir des pages si noires que, pour comprendre, j'ai été obligée de rouvrir mon cahier de vocabulaire. Les mots m'apparurent alors comme des cadavres puants car ils n'étaient même pas conservés dans du formol. Je bifurquai vers le sentier de la révolte.
Quand, en 1991, le ministre de l'Intérieur est venu me rencontrer en prison, il m'a demandé comment j'osais m'opposer au Parti.« Voilà comment je vois le Parti », lui ai-je répondu: « Plus de deux millions de communistes se résument à un comité central composé de trois cents personnes. Puis les trois cents se concentrent en un bureau politique de treize têtes. Si au-dessus de tout ce monde, se trouvent treize imbéciles et treize pervers, il n'y a plus aucune raison pour que je reste loyale au Parti. Le Parti n'est pas Dieu vivant dans les cieux. Le Parti est ce groupe des treize. Pourquoi devrais-je observer une quelconque loyauté envers eux'?» À l'instar du boucher frappant la tête du bœuf d'un coup de marteau avant de le dépecer, j'avais détruit la signification réputée immuable du mot « loyauté ». À vrai dire, j'avais simplement réorienté son vecteur pour le tourner vers l'intérieur. La loyauté n'existe que si elle est dirigée vers soi. Ainsi l'homme est libre de choisir et assume ses choix. À partir de ce moment, le terme« loyauté» n'a plus été une statue vénérée, ni un cadavre pourrissant. Il m'est devenu un compagnon de route, mon ombre, ma respiration ... Il m'a fallu trente ans d'exercice du métier de rebelle pour que je maîtrise enfin la signification d'un mot. Cela a été dur et douloureux. Aussi je crois qu'être écrivain, c'est être condamné aux travaux forcés parce que, avant de se servir d'un mot, il faut avoir combattu ses fantômes. Je souhaite aux écrivains, aux rêveurs, aux fous et aux condamnés une éclatante victoire!
Après des années en résidence surveillée au Vietnam, l'auteur de Terre des oublis (éd. Sabine Wespieser) vit aujourd'hui en France.
Le Magazine Littéraire, Avril, 2008


NGÀY RA MẮT SÁCH

“Buổi ra mắt hai cuốn sách mới…. chiều nay đã kết thúc.” (1)

GCC đã nói rồi, tên này đếch biết viết tiếng Mít. Một buổi ra mắt sách thì tất nhiên phải kết thúc, không lẽ không….  kết thúc?
Thường ra, trong 1 thông báo như vầy, người ta viết, buổi ra mắt sách đã diễn ra "OK, thành công, tốt đẹp, thân mật.... cái con mẹ gì gì đó…. "
Nhân đó, có trớn, bèn đi thêm 1 đường cám ơn, thí dụ.
Viết 1 cái thông báo mà cũng không nên thân!
Câu nào GCC cũng thấy phải sửa hết!

Chán thế!

Nhân tiện, Gấu bèn thông báo:
Trang TV OK rồi.
Nestcape composer OK, trả tiền server, thêm 1 năm, OK.
Năm tới, tính sau, nếu chưa chịu đi xa.
Có tí lo, renew domain name, chuyện nhỏ.
GCC, sự thực, tính đóng cửa tiệm, nhưng cũng tiếc, hàng quán đang đông khách.
Thời kỳ mới mở trang TV, visit mỗi ngày là 30-50, mấy năm trời, Gấu cũng chẳng để ý, vì làm là làm, viết là viết.
Bây giờ, trung bình mỗi ngày là 600 visits, nhưng “thực” khách, chỉ 1 nửa con số đó.
Cũng quá ghê rồi. Những ngày "hot", con số visits là…  one thousand!

Tks all.
NQT

(1)

Một câu như trên, chỉ phán, sau trình diễn chót, như 1 thông cáo, cuộc chơi đến đây là chấm dứt,…
Tiếng Việt, viết như thế, dân nhà nghề gọi là sượng.
Lũ này, khi bị chất vấn về cái bảng hiệu “cửa hậu”, chúng đi 1 bài viết, “bản tin”, thay vì “giải đáp thắc mắc”!

Khả năng tiếng Mít của Vua Bịp, thì như trên, của Trùm Cớm, thì như sau đây:

Ý tưởng của anh Chu Hà về sự dị biệt / đối nghịch giữa “bên ni và bên nớ” (tức là miền Đông và miền Tây Hoa-kỳ) rất là thú vị. Tôi không ở Mỹ, nên không biết gì về điều này. Ở Úc, thỉnh thoảng tôi cũng nghe người ta nói về sự “kỵ rơ” giữa Sydney và Melbourne, nhưng tôi chưa thử tìm hiểu thấu đáo xem cái sự “kỵ rơ” này thực sự ra sao và ở mức độ nào.

HNT

"Kỵ rơ" là cái quái gì?

“rơ” là từ tiếng Tẩy, “jeu”. Nếu phiên âm qua tiếng Việt, thì có thể dùng từ “dzơ”, thí dụ, nhưng không thể “rơ”, vì sẽ phải uốn lưỡi khi đọc.
Khả năng tiếng Việt của “tay này” rất ư là tệ. “Fail” dịch ra tiếng Việt là "vấp ngã"! Hắn gọi những trường hợp, như Lê Công Định, chống nhà nước VC, bị VC bắt đi tù, là "vấp ngã", và cám ơn rối rít, không phải Lê Công Định mà sự vấp ngã của ông!
Vậy mà có thằng, cũng băng đảng hủi này, còn phổ thơ thổi, cám ơn sự vấp ngã của Lê Công Định!  (2)


  Ghi chú trong ngày

Isaiah Berlin

*

Tờ L'Express đọc hai tác phẩm song song.


Facebook dị ứng với viết ngắn.
Tên khùng K phán.

Tờ Người Kinh Tế, số Nov 8 2014, “ngứa”, đi 1 bài: Nó có bay được như....  Twitter không? Và bay cao cỡ nào?
Trong bài viết, có câu này, thật là tuyệt:
Cho tới bi giờ Twitter quan trọng nhiều, như là 1 sức mạnh văn hóa, hơn là thương mại.
Đúng cái ý mà GCC đã phán, khi phân biệt hai mạng xã hội nói trên: FB ô hợp quá.
So far, however, Twitter is a more important cultural force than a commercial one.

Twitter’s future

For all its success so far, the social-media firm may not achieve the scale many investors hope for


&

GCC có mấy số báo tuyệt vời về Simenon, đã tính không mua, nhưng lật lật, thấy bảnh quá, lại tha về!
Tôi nghi ông ta giống ... VC: Kẻ địch nào cũng đánh thắng [Je le croyais invincible. Alain Demouzon]

  Ghi chú trong ngày


**

Cuốn của Tolstaya, order, bữa nay về. Trong có tất cả những bài đã giới thiệu trên TV, đã từng đăng trên NYRB. Cố tìm bài “Những thời ăn thịt người”, Gấu đã từng đọc ở Trại Tị Nạn Thái Lan, bản dịch, đăng trên tờ Thế Kỷ 21, nhưng không thấy. (1)

(1) Kiếm ra rồi: Bài điểm cuốn của Robert Conquest: The Great Terror (Oxford University Press, 1990): “The Great Terror and the Little Terror”: Khủng Lớn & Khủng Nhỏ. Bài viết này, đọc ở Trại Tị Nạn Thái  Lan, mở ra cho Gấu một cái nhìn mới mẻ về xứ Bắc Kít.

Cuốn hồi ký của Pico Iyer cũng tuyệt lắm. Viết về sư phụ của ông, là Graham Greene, và nhân vật ông thật mê, là Người Mẽo Trầm Lặng, Pyle.
TTT biểu thằng em, trong 1 lần ngồi Quán Chùa, nhà văn An Nam chết non, cứ viết hết thời thanh xuân, là ngỏm. Về già Gấu nhận ra, nhà văn Mít chết non vì “đéo” có Thầy.
Thầy mũi lõ, không thể có, vì dốt quá, không đọc được chữ mũi lõ, Thầy mũi tẹt thì lại càng không có, vì, có thằng nào hơn tao đâu, mà Thầy mới lại chẳng Thầy!
Nên nhớ, nếu bạn thực tình mê văn chương, thực tình muốn có ngày trở thành nhà văn: Phải có Thầy!

Nguyễn Tuân mà chẳng xứng đáng là Thầy ư. Vậy mà Gấu đọc lũ nhà văn Mít, tên nào cũng chê ông!
Hẳn là có nhiều người bực mình, nhất là mấy đấng nhà văn cũng có tí tên tuổi, cũng có 1, hoặc 2 cái truyện ngắn được đời biết tới, chúng ông cũng nổi tiếng vậy, mà đâu cần Thầy.
Đúng như thế, và đây chính là cõi văn Mít, làng nhàng 1 lũ, áo thụng vái nhau, "đéch" cần Thầy!

*

Trong số báo The Paris Review, Writers at Work, Third Series, Alfred Kazin, trong bài giới thiệu, phân biệt, ra hai thứ phỏng vấn; phỏng vấn cổ điển, the classsic interview, nguồn, từ Plato's Dialogues, liên quan tới thứ văn chương của túi khôn, dành cho đại sư phụ, Wisdom Literature. Kẻ phỏng vấn đóng vai đệ tử, và bài phỏng vấn trở thành Bài Học Từ Bậc Thầy, a "Lesson From Master". Không phải thứ phỏng vấn trên tờ “The Paris Review”, Writers at Work. Thứ phỏng vấn này làm cho chúng ta hiểu vinh quang, danh vọng của nhà văn, the interview is our way of understanding his fame. Nhà văn ở phút nói thiệt, như bạn quí NXH hay nói.

*

Tập tiểu luận, essays

Đọc loáng thoáng bài "Những đứa trẻ của Kafka", nơi tiệm sách, thế là bèn bệ về.
Roth đụng vấn đề Do Thái, y chang Gấu đụng vấn đề Bắc Kít.
Bị chúng tấn công, "mi vưỡn viết những tác phẩm như thế, nếu mi sống ở Đức Nazi?", ông thề, tao đéo bao giờ viết về Do Thái nữa!

Hà, hà!

“Những thời ăn thịt người”, tức cái tít của bài tiếng Việt, trên tờ TK21, lấy từ bài viết. Bài thứ nhì mở ra cuốn sách của Tolstaya. [Bài đầu thú hơn: Đàn bà Nga. Sẽ giới thiệu sau].

Gấu đọc nó, thì bèn nghĩ ngay tới “tên điệp viên yêu chúng ta”, của Bass, đang ì xèo trong lũ Mít “chúng ta”. Cái tít của Bass, “The Spy Who Loved Us”, thuổng từ 1 cuốn về James Bond, “Tên điệp viên yêu chúng ta”, tuy nhiên, cái tít của Bass đểu hơn thế nhiều: US, ở đây còn có nghĩa là đô la Mẽo.

Ngay khi bài viết được đăng trên The New Yorker – GCC là người thứ nhất phát hiện ra, vì thường trực mua tờ này – là đã có hồi đáp từ độc giả của tờ báo, trong có 1 tay đã từng làm chung với PXA tại văn phòng Time ở Xề Gòn. Độc giả thì quá tởm về cái vụ đám ký giả Mẽo hùn tiền cho PXA, khi ông hạ mình viết thư xin họ, để cho con trai đi du học Mẽo.

Cái tởm ở dây được nhân hai, tởm 1 tên “bội tín” như thế [làm cho Time, đọc tin mật của Time, gửi cho VC, theo đường hầm Củ Chi, ra mật khu, báo cho VC đường đi nước bước của Mẽo, để làm thịt], và tởm & tức giận, vì hùn tiền cho nó, trong khi gia đình những người Mẽo có người thân bỏ mình tại Việt Nam, rất cần....

Lạ 1 điều là, cái việc chịu nhục viết thư xin tiền kẻ thù, của PXA, sau trở thành cái nhục chung của cả một lũ nhà văn VC: Chúng qua Mẽo, tới cái ổ VC tại Mẽo, là trung tâm WJC, ngửa tay lấy tiền Mẽo, để viết về lưu vong Mít, tức về cả 1 nửa nước đất nước mà chúng đã ăn cướp….

Nên nhớ, cả lũ này, chưa từng viết 1 dòng về Ngụy đi tù cải tạo mút mùa, về cả nước Mít chạy ra biển...., chúng lãnh tiền Mẽo, và chưa từng viết được 1 cái gì cho ra hồn về lưu vong Mít.
Nếu có chăng, thì là "Nếu đi hết biển", của tên VC Trần Văn Thuỷ, mà trên TV đã đi 1 loạt bài về nó.

Người tởm PXA nhất, chính là Time, cựu chủ của ông. Tờ báo không bao giờ nhắc tới ông nữa. chỉ đến lúc ông chết, mới đi 1 bản tin ngắn, nhắc tới châm ngôn của PXA, tôi không bao giờ loan tin ẩu. Nhưng cái châm ngôn này, phải hiểu nó, trong context của cuộc chiến Mít, liên quan tới vụ tung tin vịt cồ của VC, về vụ Diệm đầu độc tù Phú Lợi, nhân đó, thành lập MTGP.

PXA nói, tao không bao giờ loan tin ẩu, là theo nghĩa này.

https://fbcdn-profile-a.akamaihd.net/hprofile-ak-xap1/v/t1.0-1/e2/c0.0.50.50/p50x50/10399022_96507037654_484076_n.jpg?oh=607d4dec753e8dce54411248b5be9eae&oe=54ED2530&__gda__=1424697825_5e3c78d93b274c42057ba1cfaa3270da

Nguyen Hoang Linh

9 hrs ·

https://fbstatic-a.akamaihd.net/rsrc.php/v2/y2/r/K0srxReVLKP.png

·

Nguyen Thi Thanh Luu “Người ta cứ thấy học giả phương Tây quan tâm đến Việt Nam là hoa hết cả mắt, chưa cần biết nội dung hay dở thế nào. Các nhà Việt Nam học thực thụ ở phương Tây cũng cảm thấy khó chịu khi họ bị đánh đồng với những học giả nửa mùa và lối tung hô mù quáng của những người nổi tiếng song không phải chuyên gia”.

http://nhipcauthegioi.hu/modules.php?name=News&op=viewst&sid=4399

o    https://fbcdn-profile-a.akamaihd.net/hprofile-ak-prn2/v/t1.0-1/e2/c0.0.32.32/p32x32/1380274_3646597140004_1844869334_n.jpg?oh=189626ce078b54d266b2564feafd4a72&oe=54DF7936&__gda__=1424600181_cfa329bcb045bd6de1fc5e0b18cbaf11

Remove

Quoc Tru Nguyen Cuốn của Bass được quan tâm, khác hẳn mọi trường hợp nêu trên, vì nó liên quan tới cuộc chiến, tới kiểm duyệt, tới PXA một điệp viên VC nằm vùng trong Time... Làm gì có chuyện hoa cả mắt? Bass đã từng gặp PXA rồi mới viết cuốn sách, như thế nó liên quan tới sự thực cuộc chiến....

12 mins · Like · 1

Nếu như thế, thì sự quan tâm ở đây, còn liên quan tới Graham Greene và cuốn "Người Mỹ Trầm Lặng" của ông, và tới "Đọc GG, ở thế kỷ 21", như là 1 đề tài đang được TV bàn tới. Tới cuốn của Pico Iyer, đệ tử của GG....  Cuộc chiến đấu của ông ta để hiểu GG, như trang bìa trên cho thấy.
Chương 3 của "Người đàn ông ở trong đầu của tôi" mở ra mới tuyệt vời làm sao: Hoa cả mắt!

CHAPTER 3

Phuong means "phoenix," the author tells us on the opening page of The Quiet American; it stands for something that rises again and again from the ashes, whether those of warfare or of love. It stands for a country, you could say, that is still standing, and bustling about its business, even after being attacked by France and then by the United States, while having China on its doorstep; it stands for a spirit that never dies, too, and perhaps a figure-a situation, a setting-that arises again and again even as the rue Catinat becomes raucous Tu Do Street, and then "Simultaneous Uprising" Street. Phuong steps out of the milk bar and back into the road, to meet her aging English suitor, and a generation or two later another sylphlike beauty appears along a dark street in Saigon, after midnight, and tries to entice a newcomer in the terms of her new century.

Phượng nghĩa là...  Hải Âu [hà, hà!], hay Phượng Hoàng, tác giả nói với chúng ta, ngay ở trang đầu mở ra NMTL. Một cái gì từ mọc lên, mọc lên....  từ tro than, cho dù cái gì này, là cuộc chiến hay là tình yêu.... Nó còn đứng sừng sững như là 1 xứ sở, xứ Mít khốn khổ khốn nạn....
Từ tro than Catinat mọc lên Tự Do, mọc lên Đồng Khởi, nhưng Phượng thì muôn đời là... Phượng, cứ mỗi lần tái sinh là 1 lần lao vào lửa.

Tuyệt!


Cựu chủ viết về nhân viên cũ.

(1) DIED. Pham Xuan An, 79, Viet Cong colonel who worked during the Vietnam War as a highly respected journalist for TIME while spying for the communists—a double life kept secret until the mid-'80s; in Ho Chi Minh City. The first Vietnamese to become a staff correspondent for a U.S. news outlet, An said he was an "honest reporter" who did not spread misinformation. From his unique perch at TIME's Saigon bureau, the popular, plugged-in An was able to achieve feats for both sides, alerting the Viet Cong to the impending buildup of U.S. troops in the mid-'60s and secretly arranging for the release of American journalist Robert Sam Anson, captured in Cambodia by the Khmer Rouge.

[Tạm dịch: Từ trần. Phạm Xuân Ẩn, 79 tuổi, đại tá Việt Cộng, trong chiến tranh Việt Nam, là một ký giả rất được kính trọng của tờ Time, cùng lúc còn làm công tác gián điệp cho Cộng Sản - một cuộc sống kép được giữ kín cho tới giữa thập niên 1980, tại Thành Phồ Hồ Chí Minh. Người Việt Nam đầu tiên trở thành nhân viên chính thức, cho một tờ báo lớn của Mỹ, tại một trụ sở ở nước ngoài của nó. Ẩn nói, ông phục vụ như là một "thông tín viên lương thiện", theo nghĩa, không phao tin dởm. Giống như một con cú, đậu chót vót trên cao, từ vị trí độc nhất của mình ở tòa soạn báo Time, con người bình dân, giao thiệp rộng rãi, nằm vùng là Ẩn đó có thể hoàn thành những kỳ công cho cả hai bên, trong đó có việc báo động cho VC về những cuộc điều động quân đội Hoa Kỳ trong thời gian giữa thập niên 1960, và, bí mật dàn xếp với lực lượng Khờ Me Đỏ, để họ thả ký giả Mỹ Robert Sam Anson, bị bắt tại Cambodia.]


Hai cuốn về PXA, The Spy Who Loved Us, và cuốn The Perfect Spy, mỗi cuốn có một ‘ẩn dụ’ của riêng nó, chỉ ở nội cái tên, chưa nói đến nội dung tác phẩm.

The Spy Who Loved Us phỏng theo một cái tít của một trong những phim James Bond, và đây là câu chuyện về anh chàng 007 làm thịt một điệp viên KGB, và em KGB, người tình của tay bị giết, thề sẽ giết 007 để trả thù, sau cùng lại mê 007.
Us ở đây, vừa là Mẽo, vừa là đô la Mẽo, bởi vì PXA đã từng viết thư xin tiền cựu đồng nghiệp, tức đám ký giả Mẽo ngày xưa, để lo cho con trai đi du học Mẽo.

Còn cuốn kia, The Perfect Spy, sử dụng đúng cái tít của một cuốn tiểu thuyết của Le Carré, và cuốn này cũng có vấn đề, anh chàng điệp viên tuyệt hảo, bậc thầy này rất thù ông bố, người đã đẩy anh vào cái nghề khốn nạn, ông bố ở đây cũng là một bố kép, chỉ nước Anh, và chỉ ông bố ruột của Le Carré, một tay lường đảo bậc thầy.
Riêng cuốn The Spy Who Loved Us, khi còn là một bài báo, đăng trên The New Yorker, vì Gấu thường xuyên đọc tờ này, nên thấy nó trước tiên, và lôi về đăng trên Tin Văn, tính vừa dịch, vừa kèm vài chi tiết, kỷ niệm về PXA mà Gấu biết qua cái tên Cao Bồi, nhưng vì là tin sốt rẻo, báo chí đua nhau dịch, thế là Gấu chán, bỏ ngang.

Tuy nhiên, khi bài đăng trên The New Yorker, số báo liền sau đó, có phản ứng từ bạn cũ của PXA, và độc giả tờ báo. Gấu có scan sau đây.
Bạn cũ và độc giả trách đám ký giả Mẽo đã góp tiền gửi cho PXA, nhưng Gấu nghĩ khác!
Đó là cách tạ tội bảnh nhất, một điệp viên bậc thầy mới nghĩ ra được!
Đừng nghĩ đến chuyện tiền bạc ở đây, dù mấy chục ngàn đô.

PXA lừa bè bạn, tháng tháng lãnh tiền Time, tối tối lén coi tài liệu mật chuyển cho VC, báo trước những chiến dịch di chuyển lính Mẽo, để VC làm thịt họ.
Vậy mà khi công thành danh toại, PXA lại nhục nhã viết thư xin tiền bạn cũ, bởi vì ông nghĩ, chỉ còn mỗi cách đó, hạ nhục mình để tạ lỗi ngày nào.
Đám bạn hiểu ra, nên mới gom tiền cho PXA.
Gấu nghĩ ra điều trên là do đọc Le Carré.
Trong Gọi Người Đã Chết, bà vợ của Smiley bỏ chồng theo trai, và khi trai bỏ, viết thư năn nỉ chồng cho mình trở về lại.
Smiley lắc đầu chịu thua.
PXA chính là cái bà vợ bỏ chồng theo trai, [làm cho Mẽo, lãnh lương Mẽo, lừa Mẽo, đưa tin cho VC làm thịt Mẽo], và cái đám bạn cũ của PXA, là Smiley, gật đầu tha thứ cho PXA.

Thư độc giả, bạn cũ của PXA, The New Yorker
1 2 3

THE SAIGON SPY

Thomas A. Bass's profile of Pham Xuan An, the Time journalist who also spied for North Vietnam, includes an interview with Frank McCulloc, An’s boss at Time's Saigon bureau ("The Spy Who Loved Us," May 23rd). Bass writes, "McCulloch remembers An with tremendous fondness and respect, and he says it was a 'great pleasure,' in 1990, to organize a subscription fund, which raised thirty-two thousand dollars, to send An's eldest son .... to journalism school at the University of North Carolina, The list of subscribers to the fund reads like a Who's Who of Vietnam War reporters." It's easy to imagine the reaction this provokes among those of us who served in Vietnam and lost comrades there, friends whose families often faced serious financial difficulties after their deaths. Anyone who wonders why active-duty military personnel and veterans distrust the mainstream media need only read those two sentences.

David Clayton Carrad
Augusta, Ga.

I was a correspondent for Time in Vietnam, and I knew Pham Xuan An for nearly ten years. While spying for the North Vietnamese, An transformed 'Time's correspondents into an inadvertent worldwide network of spies for Hanoi. Time had high-level sources who often provided classified information on the condition that it would be kept secret and used only as background, The content of these confidential briefings was circulated internally in the weekly "Time memo," which was considered so sensitive that copies were numbered and returned after a reading by the editors. The memo contained much useless gossip, but also solid-gold insider reports from the White House, the State Department, and the Pentagon. The memo was also circulated to Time bureaus around the world, which were supposed to take equal precautions, An, as a Time reporter, had access to it. I often saw him taking notes from the Saigon bureau chief's confidential reports. These would have included briefings by Generals William Westmoreland and Creighton Abrams and Ambassadors Henry Cabot Lodge and Ellsworth Bunker, which often covered operations and strategy scheduled for weeks in the future. Then An would suddenly disappear without a word, presumably to brief his comrades in the tunnels of Cu Chi. I have always questioned the American journalists who insist on romanticizing An. It is one thing to have been against the Vietnam War-many of us were-but quite another to express unconditional admiration for a man who spent a large part of his life pretending to be a journalist while helping to kill Americans.

Zalin Grant
Paris, France

“The New Yorker”

Cá nhân tôi không thấy có nhu cầu để đọc về PXA nữa, sau khi đã đọc quá nhiều về ông ta. Thật ra, với tôi, cuộc đời PXA không khác lắm hàng trăm ngàn - có khi cả triệu - người Việt bị cấu xé giữa hai phe Nam Bắc. Bất cứ chọn theo phe nào sẽ bị bên kia nguyền rủa. Còn không chọn bên nào hay thậm chí chọn cả hai bên thì sẽ bị cả hai bên chụp đủ thứ tội lên đầu. Trịnh Công Sơn là một thí dụ. Phạm Xuân Ẩn có lẽ cũng thế thôi. Hay Phạm Duy. Còn nhiều nữa...

Blog Luong Le Huy (1)

Làm sao so sánh như vậy được. PXA là viên chức, 1 nhân viên tình báo của Bắc Bộ Phủ, nằm vùng, ở 1 cơ quan báo chí của Mẽo. Còn những người như TCS, như PD là dân thường. Chính kiến của họ cũng thay đổi theo tình hình, theo thời thế, và theo đủ thứ.

Với PXA là sự trung thành tuyệt đối với cái lý tưởng của ông, và theo đuổi nó đến tận cùng. Bởi thế mới có những câu hỏi về thái độ của ông, liên quan đến lòng trung thành, liên quan đến đạo đức làm người. Ba triệu người chết, có tội ông ở trong đó, bao nhiêu GI chết, có tội ông ở trong đó, khi là nhân viên của Time, đọc tài liệu mật, rồi lên Củ Chi trao cho VC như trong thư của độc giả Người Nữu Ước, và còn là bạn Ẩn ngày nào, tố cáo.

.... Nhục nhã nhất, là giết Mẽo, phản bội đồng nghiệp Mẽo như thế, vậy mà lại ngửa tay xin tiền cựu đồng nghiệp Mẽo, cho con đi du học Mẽo.


"Đại tá Edward Lansdale - người được coi là khuôn mẫu cho nhân vật chính trong Người Mỹ Trầm Lặng của Graham Greene".
Bass

Một anh Xịa cáo già như Lansdale làm sao lại có thể là nguyên mẫu cho một Mẽo gà mờ cù lần như nhân vật Pyle trong Người Mỹ Trầm Lặng?

Như Norman Sherry cho thấy, Pyle là tổng hợp của nhiều người. Có cả Lansdale trong số đó. Nhưng Sherry chứng minh, Pyle bản chất là một anh Hồng Mao: Pyle is straight out of a good quality public school - in essence he is  English.

Có thể Ẩn giống Pyle, theo nghĩa này, bản chất của anh   một Cộng Sản. Một người Bắc vô Nam trước 1954 và là một Cộng Sản, làm việc cho Bắc Bộ Phủ.

Đây là sự khác biệt giữa Trung [phi công ném bom Dinh Độc Lập] và Ẩn.
Trung là một con người, với lòng hận thù rất con người của anh. Có thể, chuyện anh ta theo CS chỉ giản dị như thế này: Tụi bây giết cha tao, tao thù tụi bay, tao theo Cộng Sản, chủ nghĩa đó tốt xấu tao đếch cần biết, nhưng chắc chắn, nhờ nó, tao sẽ trả thù được cho cha tao.
Ẩn, không. Anh chẳng thù hằn gì cái miền đất đã nuôi dưỡng anh, nhưng, có thể, anh tin rằng, miền đất này sẽ còn khá hơn thế nhiều, nếu nó được Bác và Đảng chăm lo. Cái tay Hoàng Tùng [?] dâng Đất Thục, cho, hết Tào Tháo đến Lưu Bị, đâu phải hắn là một tên phản quốc khốn kiếp! Hắn nghĩ rằng, như vậy là tốt cho Đất Thục!
Có thể Cao Bồi đã nghĩ như vậy, khi "nằm gai nếm mật", ăn cơm quốc gia, giả đò làm việc cho Mẽo, nhưng thực tình thì là một con ngựa Hồ hướng về, hí về... Đất Bắc! Tâm sự của anh là như vầy:
Từ thuở mang gươm đi dựng nước,
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long!


Rợp bóng Greene

Shades of Greene

Graham Greene, whose centenary is next month, was a more ethically complex novelist than is usually remembered, argues The Quiet American, his love story set in the chaos of 1950s Vietnam, shows him to be the greatest journalist there ever was.. 

Saturday September 18, 2004

The Guardian

12.10.2004

Nguyễn Quốc Trụ

Về bài dịch “Greene còn toả sáng”.

Có một câu Phạm Toàn sơ ý dịch ngược hẳn nghĩa. Câu này rất quan trọng, theo tôi.

Câu đó nguyên văn:

When Pyle interrogates Fowler as to what, if anything he believes, he says "Oh, I'm not a Berkeleian. I believe my back's against this wall. I believe there's a Sten gun over there." Pyle replies, "I didn't mean that."
Greene's work does mean exactly that.

Bản dịch:

Khi Pyle tra hỏi Fowler rằng anh có niềm tin không và anh tin vào cái gì, thì anh ta nói "Ôi, tôi đâu có là người (duy tâm chủ quan - ND) như Berkeley. Tôi tin rằng tôi đang tựa lưng vào bức tường này. Tôi tin rằng có khẩu tiểu liên nhăm nhăm đâu đó." Pyle nói lại, "Tôi không định hỏi điều đó."
Tác phẩm của Greene không hoàn toàn như vậy

Câu trên do sơ ý [thêm chữ “not”] mà thành ra ngược hẳn lại ý của toàn bài viết. Điều Zadie Smith ca ngợi nhất ở Greene, đây là một ký giả bậc thầy, một tay quan sát cận cảnh, “Với Greene, cái Ác nằm trong những chi tiết, nhưng sự cứu rỗi cũng ở đó”….., “Cái niềm hy vọng ông đem lại cho ta là kiểu hy vọng mà chỉ những ai quan sát cận cảnh mới có. Ông bảo vệ chúng ta bằng những chi tiết, và các chi tiết tiến hành cuộc chiến tử tế chống lại những ý tưởng to tát, mơ hồ, vô nhân tựa như những ý tưởng của Pyle.”

Bài của Zadie, đặt trọng tâm, là tác phẩm Người Mỹ Trầm Lặng của Greene, điều này rất có ý nghĩa, vẫn theo tôi. Cái Ác nằm ở trong chi tiết, và một những chi tiết đó, chính là cô gái người Việt với cái tên Phượng.

"Phuong," I said – which means Phoenix, but nothing nowadays is fabulous and nothing rises from its ashes. "Phượng", tôi nói, "Phượng có nghĩa là Phượng Hoàng, nhưng những ngày này chẳng có chi là huyền hoặc, và chẳng có gì tái sinh từ mớ tro than của loài chim đó".

Như vậy, một cách nào đó, tác giả đã tiên đoán ra được rằng, chẳng có gì tái sinh, chẳng có gì to lớn đàng hoàng hơn, cho dù cuộc chiến sẽ chấm dứt.

Ngay câu mà Zadie trích dẫn đó, đã tiên đoán nỗi lo sợ của Greene: “Tôi tin rằng tôi đang tựa lưng vào bức tường này. Tôi tin rằng có khẩu tiểu liên nhăm nhăm đâu đó.”

Dựa lưng vào tường, thì làm gì có bóng, nhưng lo vẫn lo, là những me-xừ Pyle kia vẫn làm khổ nhân loại, nói chung, và Việt Nam ngày nào, và Iraq ngày này, nói riêng: Người Mẽo chúng tôi tới với thiện ý cơ mà!
Thành thử vẫn còn rợp những bóng đen giữa ban ngày, mà là do những Thuợng Đế [Cái Tốt, tượng trưng là Ông Mẽo Pyle], chứ không phải do Ma Quỉ gây nên.
Không lẽ chúng ta lại mong, còn toả mãi bóng đen?

[Trích talawas]

14.10.2004

Phạm Toàn

Xin trân trọng cảm ơn ông Nguyễn Quốc Trụ đã nhặt hộ người dịch một hạt sạn “hơi bị to” – nói theo cách diễn đạt vui hiện thời ở Việt Nam. Đây ít nhất là lần thứ hai tôi bộc lộ cái tật xấu đau khổ đó. Một lần trước, dịch về triết học, nhìn chữ better beer lại khoái chí nhìn nhầm thành bitter beer, vì theo thói quen cứ nghĩ đã nói đến bia là nói nó đắng thì ngon mà! May mà lần đó có bạn Vàng Anh nhặt sạn giúp. Một lần nữa xin cảm ơn, và cho tôi sửa lại câu: 

Tác phẩm của Greene không hoàn toàn như vậy 

thành: 

Đó chính là tinh thần Graham Greene trong “Người Mỹ trầm lặng”. 

talawas: bản dịch của Phạm Toàn sẽ được sửa lại 1 ngày sau khi đăng thư này.


  Ghi chú trong ngày

&

*

*

Hãy đốt cuốn sách này!

May quá, có mấy bài đã giới thiệu trên TV, của Salman Rushdie [Ghi chú về Viết và Nước, Notes on Writing and Nation], David Grossman [Viết trong Bóng Tối]. Sẽ giới thiệu tiếp bài của Toni Morrison: Peril: Hiểm nguy

Peril

Toni Morrison

Authoritarian regimes, dictators, despots are often, but not always, fools. But none is foolish enough to give perceptive, dissident writers free range to publish their judgments or follow their creative instincts. They know they do so at their own peril. They are not stupid enough to abandon control (overt or insidious) over media. Their methods include surveillance, censorship, arrest, even slaughter of those writers informing and disturbing the public. Writers who are unsettling, calling into question, taking another, deeper look. Writers-journalists, essayists, bloggers, poets, playwrights-can disturb the social oppression that functions like a coma on the population, a coma despots call peace; and they stanch the blood flow of war that hawks and profiteers thrill to.
    That is their peril.
    Ours is of another sort.
    How bleak, unlivable, insufferable existence becomes when we are deprived of artwork. That the life and work of writers facing peril must be protected is urgent, but along with that urgency we should remind ourselves that their absence, the choking off of a writer's work its cruel amputation, is of equal peril to us. The rescue we extend to them is a generosity to ourselves.
    We all know nations that can be identified by the flight of writers from their shores. These are regimes whose fear of unmonitored writing is justified because truth is trouble. It is trouble for the warmonger, the torturer, the corporate thief, the political hack, the corrupt justice system, and for a comatose public. Unpersecuted, unjailed, unharassed writers are trouble for the ignorant bully, the sly racist, and the predators feeding off the world's resources. The alarm, the disquiet, writers raise is instructive because it is open and vulnerable, because if unpoliced it is threatening. Therefore the historical suppression of writers is the earliest harbinger of the steady peeling away of additional rights and liberties that will follow. The history of persecuted writers is as long as the history of literature itself. And the efforts to censor, starve, regulate, and annihilate us are clear signs that something important has taken place. Cultural and political forces can sweep clean all but the "safe," all but state-approved art.
    I have been told that there are two human responses to the perception of chaos: naming and violence. When the chaos is simply the unknown, the naming can be accomplished effortlessly-a new species, star, formula, equation, prognosis. There is also mapping, charting, or devising proper nouns for unnamed or stripped-of-names geography, landscape, or population. When chaos resists, either by reforming itself or by rebelling against imposed order, violence is understood to be the most frequent response and the most rational when confronting the unknown, the catastrophic, the wild, wanton, or incorrigible. Rational responses may be censure, incarceration in holding camps, prisons, or death, singly or in war. There is however a third response to chaos, which I have not heard about, which is stillness. Such stillness can be passivity and dumbfoundedness; it can be paralytic fear. But it can also be art. Those writers plying their craft near to or far from the throne of raw power, of military power, of empire building and counting-houses, writers who construct meaning in the face of chaos must be nurtured, protected. And it is right that such protection be initiated by other writers. And it is imperative not only to save the besieged writers but to save ourselves. The thought that leads me to contemplate with dread the erasure of other voices, of unwritten novels, poems whispered or swallowed for fear of being overheard by the wrong people, outlawed languages flourishing underground, essayists' questions challenging authority never being posed, un-staged plays, canceled films-that thought is a nightmare. As though a whole universe is being described in invisible ink.
    Certain kinds of trauma visited on peoples are so deep, so cruel, that unlike money, unlike vengeance, even unlike justice, or rights, or the goodwill of others, only writers can translate such trauma and turn sorrow into meaning, sharpening the moral imagination.
    A writer's life and work are not a gift to mankind; they are its necessity.

TM
Cuộc đời và tác phẩm của một nhà văn đếch phải là một món quà cho nhân loại. Chúng là sự cần thiết của nó. 


Việt Nam nhìn từ bên trong

Mãi đến khi tôi thực hiện chuyến du khảo Anh Quốc và Scotland tháng 6-2014, tôi mới được Trần Lê Quỳnh ở BBC London cung cấp cho bài báo nói trên in trên tờ Rolling Stone  của Anh ngày 29-05-1980 dưới tựa đề: The Vietnam Wars. Bản tiếng Anh dịch từ tiếng Spanish của Gregory Rabassa. Về nước, tôi đã cho dịch ngay bài báo này. Dù chỉ là một phóng sự viết sau một tháng ở Việt Nam, G.Marquéz đã chứng tỏ ông là một nhà văn lớn, tầm cỡ thế giới khi nhận ra bản chất của tình hình Việt Nam sau chiến tranh, đặc biệt là sau cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc tháng 2-1979. Đây là toàn văn phóng sự: Việt Nam nhìn từ bên trong của G.Márquez. Bản dịch của Phạm Mạnh Hào.
Chân thành cám ơn nhà báo, nhạc sỹ Trần Lê Quỳnh đã giúp tôi tìm được thiên phóng sự Việt Nam nhìn từ bên trong của nhà tiểu thuyết lừng danh mà tôi rất yêu thích!
Nhà văn Triệu Xuân sưu tầm, giới thiệu

Bài viết của GG, thiên VC thấy rõ, vì ông này vốn mê XHCN. Cuộc bỏ chạy ra biển khủng khiếp như thế mà ông không nhìn ra sự thực, tức bản chất của chế độ. Khi viết về anh Tẫu cũng không nhìn ra phần đóng góp lớn lao của “Đại Háng” cho cuộc chiến VC. Thua xa Graham Greene, khi ông phán, một khi cái nón tai bèo rớt xuống là phải chạy ngay về phía nước mắt, tức lũ Ngụy!
Theo GCC, Garcia Marquez, hay, ngay cả Graham Greene, nhìn cuộc chiến Mít, cũng chưa…  đạt.
Hiểu tới nơi, thì chỉ có, vưỡn theo Gấu, một, hai người.
Thí dụ Solzhenitsyn, khi, ngay từ những năm 1975, trên Đài truyền hình Tẩy, đã tuyên bố chắc nịch, Miền Bắc sẽ thôn tính Miền Nam, và đây là tranh chấp quyền lực giữa những đế quốc, không phải chiến tranh giải phóng dân tộc.
Hay Tolstaya, đây là Cái Ác Á Châu –Cái Ác Bắc Kít, với Mít - lên ngôi…
Cuộc chiến Mít, theo Gấu là 1 tội đại ác của Bắc Kít, vì những gì xẩy ra sau đó, khẳng định điều này.

Nhân bài viết, mời đọc thêm bài ai điếu trên Người Kinh Tế, Fred Branfman, exposer of America’s secret war in Laos, died on September 24th, aged 72: Người tung hê cuộc chiến bí mật ở Lào: Một sự thực bất tiện.
Cuộc chiến Mít cũng có nhiều sự thực bất tiện.
Thí dụ, không 1 tên Bắc Kít nào biết ơn anh Tẫu, khi họ giúp chúng làm thịt thằng em Nam Bộ.
Không 1 tên Bắc Kít nào nhỏ 1 giọt nước mắt cho Miền Nam....
The problem with the human race, he concluded, was that it blocked out pain. Uncomfortable facts, inconvenient truths, other people’s suffering, were all denied as long as possible: Chúng khóa cứng, chối bỏ, những đau khổ của họ, của lũ Ngụy....

Obituary: Fred Branfman

*

An inconvenient truth

Fred Branfman, exposer of America’s secret war in Laos, died on September 24th, aged 72

Singing against death

The problem with the human race, he concluded, was that it blocked out pain. Uncomfortable facts, inconvenient truths, other people’s suffering, were all denied as long as possible. And nothing was denied as vigorously as death, though he knew—from a brush with it when he was 48—that to face it squarely was also to draw from it life-affirming strength. This was the blown-open secret of his last years, spent in Budapest beside the Danube. But he had heard it first, like so much else, in Laos. A 14-year-old boy told him how he had sung in the ricefields, even as the planes passed over. “I felt that although I might have to die, it did not matter; that I just had to be happy in the midst of all the sadness of war, of the airplanes dropping bombs.”

Note: Tò mò, GCC gõ Google, lòi ra bài viết của GM, đếch cần phải qua tận Ăng Lê!

*

Con nít Xề Gòn.

Tác giả bức hình này, là Sếp UPI ngày nào của Gấu: Dirck Halstead

The Vietnam Wars

Fighting to reclaim its devastated country, Vietnam faces a hostile China and the threat of a defeated enemy within its borders

 

Tôi đã đăng trên website chuyên về Văn Chương Nghệ thuật www.trieuxuan.info bài: Đi tìm dấu vết chuyến thăm Việt Nam tháng 7-1979 của G[arcia] Marquez; đồng thời, tôi gửi email cho bạn bè đang sống, làm việc ở các nước như Hoa Kỳ, Pháp, Anh, Tâybannha, Hàlan, Bỉ, Đức, Italia… ra sức tìm bài Vietnam por dentro: "Việt Nam nhìn từ bên trong", phóng sự của G. Marquez viết sau khi đi Việt Nam về. Nhưng… vô vọng! Tôi chỉ tìm được đoạn giới thiệu trên báo bằng tiếng Spanish: Vietnam por dentro. La Redacción. 1979-12-22 01:00:00· COMENTARIOS DESACTIVADOS. Edicion Mexico…

Nhảm. Gấu có thấy bức hình đám Hội Nhà Thổ Mít ở Hà Nội, ngồi với GG, đâu đó. NQT

Thú thực, Gấu chưa có thì giờ đọc bài của GG. Cái tít, “những cuộc chiến Việt Nam”, thì có thể hiểu được, nhưng, “s đe dọa của một kẻ thù đã bị đánh bại ở bên trong”, là ai?
Không lẽ là lũ Ngụy bị nhốt ở trong Trại Cải Tạo?

Naipaul gọi GG là tên bất lương, không phải là không có lý. Luôn bợ đít những tên độc tài, trong có Castro. Một tên vô đạo đức nữa. Bà vợ Vargas Llosa, khi chồng có bồ, bèn tìm đến bạn chồng than thở. Không biết GG an ủi cỡ nào, mà ông chồng phát điên lên, thoi cho đến bất tỉnh nhân sự!
Tư cách của GG không làm sao so được với Vargas Llosa. Viết, cũng thua. Cái viết/biết của Vargas Llosa rộng hơn nhiều.

Note:

Bài viết cực nhảm. Cái nhìn của GG đúng là của 1 tên mê VC!

GG không đủ tài năng để nhìn ra sự thực: Kẻ nội thù của VC chính là... VC!

Dirck Halstead là người Gấu gặp, khi tính nhờ anh đưa cả gia đình đi Mẽo, thời gian 30 Tháng Tư 1975. Anh khi đó, làm cho Time, qua Việt Nam trở lại làm 1 phóng sự về di tản, ở 1 khách sạn ở đường Nguyễn Huệ. Đến, gặp 1 tay hippy, khác hẳn 1 Dirck cực kỳ bảnh bao ngày nào. Hỏi thăm bà xã, anh nói ly dị rồi. Anh quả có biểu Gấu, mi vác cái camera đi theo tao ra trực thăng, vì cơ quan DAO của Mẽo đóng cửa rồi, không còn máy bay C.130 nữa. Anh cũng đã có lần đề nghị, nếu Gấu muốn, thì tìm cách đưa ra khỏi Việt Nam, làm cho UPI tại Tokyo, vì anh rất quí cái tài chuyên viên kỹ thuật của GCC.



*

Cộng Hòa của Trí Tưởng Tượng

Cả xứ Cộng Hòa, em chọn được ba cuốn. Trong ba cuốn, Gấu chỉ chịu có một, đọc hồi mới lớn, “Trái tim là kẻ đi săn cô đơn”, của Carson McCullers. Em này, nổi đình đám với cuốn Đọc Lolita ở Teheran

Ghi chú trong ngày

Man Booker 2014

Gracious in victory

. The audience laughed when he said that he was particularly grateful to the Man group for their cheque—winners of the Man Booker receive £50,000 ($80,000). But when he was asked later what he planned to do with the money his reply was simple. “I’ll do what everyone else does with the money: live.” He had, he confessed, struggled to make a living as a writer. As recently as 18 months ago, in the midst of all those failed drafts of “The Narrow Road to the Deep North”, he had contemplated taking a job in the mines of northern Australia.
But this had only made the writer all the more optimistic about books and particularly novels. Responding to a question about fears for the future of a medium assailed by technology, Mr Flanagan called literature “one of the greatest inventions of the human spirit”. “I don’t share the pessimism of the age,” he continued. “Novels allow people to speak the truth. Rather than a dying medium, books are ever more pregnant with possibility.” 

Booker về tay Flanagan, tiểu thuyết gia Úc, với cuốn “The Narrow Road to the Deep North”.  Ông coi “văn chương là 1 trong những phát kiến lớn lao nhất của tinh thần con người”, và, không chia sẻ sự bi quan về nó vào lúc này. Tiểu thuyết cho phép con người nói lên sự thực. Không phải môi trường chết, sách bây giờ mang thai với khả thể, hơn lúc nào hết.

Gấu chẳng đã từng lèm bèm, chỉ giả tưởng mới nói lên sự thực, và chưa bao giờ xứ Mít cần nó đến như thế, vào lúc này. 1954 chúng ta có “Bếp Lửa”; 1975, có thể coi “Một Chủ Nhật Khác” đại diện cho nó, ở cả hai miền, thay vì “Nỗi Buồn Chiến Tranh”, không phải vấn đề “hay & dở”, nhưng MCNK tiên đoán ra được cú lưu vong & trở về.


*

Note: Báo nhà, số đặc biệt về lưu vong. Lưu vong, độc nhất, thứ thiệt, là nhà văn sống trong lãnh thổ của riêng anh ta: The only true exile is the writer who lives in his own country. Julio Cortázar.
TTT thì cũng phán như thế, ở ngay đầu tập thơ “Tôi không còn cô độc”!

100 Love Sonnets
a selection from the Morning, Noon, Afternoon and Night sequences

PABLO NERUDA

TRANSLATED BY GUSTAVO ESCOBEDO

II

Love, how many roads to reach a kiss,
what wandering solitude until your company!
The lonely trains go on rolling with the rain.
In Taltal spring has not dawned yet.

But you and I, my love, are together,
together from our clothes to our roots,
together through fall, through water, through hips,
until it is only you, only me together.

To think it took so many stones carried in the river,
the mouth of the water of Boroa,
to think that separated by trains and nations
you and I had simply to love each other,
with all in confusion, with men and women,
with the earth that brings Forth and teaches the carnations.

Em Yêu, Ừ, Em Yêu,
Phải bao nhiêu đường đất thì mới với được cú hôn của Em?
Phải lang thang qua bao nhiêu cửa ngục thì mới có Em trở thành cái bóng của Anh?
Những chuyến tầu hoàng hôn, xe lăn trong tim, khuất xa dần, biết đâu tìm, trong mưa
Xề Gòn lúc này Mùa Xuân chưa tìm thấy buổi sáng sớm của nó

Sự kiện hải ngoại mê Đèn Cù, sợ giống mê Đêm Giữa Ban Ngày ngày nào, nghĩa là, chỉ vì tò mò, muốn biết phía hậu trường Bắc Bộ Phủ.
Bởi là vì chỉ 1 đoạn trên cho thấy tác giả Trần Đĩnh không hiểu 1 chút nào, chủ nghĩa Mác Xít là cái gì, và nhà văn khác nhà viết sử, và càng khác, một ông chuyên nghề chấp bút cho mấy đấng VC bự. Trần Đĩnh hình như chuyên nghề này?
Trường hợp của Trần Đức Thảo làm nhớ tới trường hợp của những bậc thầy Mác Xít, thí dụ Lukacs, hay những nhà văn có thời mê Mác Xít, thí dụ, Jorge Semprun.

Ông này phán, tôi mất hết những xác tín, nhưng giữ lại những ảo tưởng. Tại sao như thế? Ấy là vì chủ nghĩa Marx chính là 1 trong những giấc mơ lớn lao nhất về 1 cõi người hoàn hảo nhất. (1)

Trường hợp Trần Đức Thảo, theo Gấu có gì giống trường hợp Lukacs. Steiner đã coi ông là 1 kẻ, đã từng ký một bản hợp đồng với Quỉ.  Cũng thế, là với TDT, theo GCC: Ông quá tin vào chủ nghĩa Marx, và tin cả điều, phải nhập thân vào đám đông ngu si dốt nát, thì từ đó, mới có thể thực hiện được nó.
Như Lukacs - từ bỏ hết, luôn cả giai cấp dòng dõi của ông, 1 thứ đại quí tộc – TDT bỏ Paris, trở về xứ Bắc Kít của mình, để phục vụ nó, hoàn thành giấc mơ lớn của nó.

Và ông thất bại.
Nhưng không có nghĩa, biến thành 1 tên ngớ ngẩn như TD mô tả, như ở trên cho thấy.

Nhà văn, ly khai hay không ly khai?

Trong cuốn Bodsky Gấu mới vồ được, đọc, cực thú. Những bài ngắn, mỗi bài đủ để đi một đường để đời trên Tin Văn, hà hà!
Nhân đang nóng hổi, bèn bàn về vụ nhà văn VC/NV, chưa bị bắt đã la ỏm tỏi.
Ông này, khi mới viết là Gấu đã không chịu nổi rồi. Tuy nhiên, ở đây, là nhận xét của Brodsky, không phải của Gấu.
Brodsky rất tởm cái gọi là ly khai, phản đối…. Ông phán, một khi bạn chọn bạn “là nhà văn”, thì hãy cố viết văn cho thật tới, chỉ chuyện đó, cũng lấy hết đời bạn rồi.
Quả đúng như thế.

Tay NV, này, rồi luôn cả Sến, thí dụ, viết lách có ra cái gì đâu, thế là bèn quay ra dấn thân, ly khai!
Sến thì đếch về được rồi, văn không ra gì mà ly khai cũng chẳng đi tới đâu.
Còn NV, cõi văn của ông ta, Gấu tởm, thực là vậy.
Ly khai thì chắc chẳng có đâu, dọa thiên hạ thôi.

Joseph, rejecting both mantle of freedom-fighter and that of feeble aesthete (despite the remarks about boredom), responds rather defiantly, provocatively, and perhaps equally exasperatedly: "It is all very simple, really. The point is that the person who seriously devotes himself to some sort of work - and in my case belles-lettres - has in any case plenty of problems and difficulties that arise from the work itself, for instance doubts, fears and worries, and this in itself taxes the brain pretty powerfully. And then again I must say that any kind of civic activity simply bores me to death. While the brain is thinking in political terms and thinks of itself as getting somewhere, it is all very interesting, attractive and exciting, and everything seems fine. But when these thoughts reach their logical conclusion, that is when they result in some sort of action, then they give rise to a terrible sense of disillusionment, and then the whole thing is boring."
He develops this: "I think that for the writer who first of all concerns himself with his own work, the deeper he plunges into it, the greater will be the consequences - literary, aesthetic and of course political as well."

Rõ ràng là, nếu Sến viết bảnh hơn, thì đã không quay qua "ni khai"!

Tiếc!

[Thuổng tên K]

Ý của Brodsky, sau được ông phát biểu trong diễn văn Nobel, và được Coetzee chỉ rõ ra, (1) là, Mỹ mới là Mẹ của Đạo Hạnh, "I think that for the writer who first of all concerns himself with his own work, the deeper he plunges into it, the greater will be the consequences - literary, aesthetic and of course political as well." Nhà văn thứ thiệt, thứ dám bỏ hết cuộc đời mình vào việc của riêng mình đó, càng nhấn sâu chừng nào thì hiệu quả lớn chừng đó, cả về mỹ cũng như là về chính trị.

Cái ý tưởng chính trị mới là đỉnh cao của văn chương của Gấu, là từ Brodsky mà ra.

Viết thì như kít, mà bầy đặt ly khai ly khiếc! NQT
(1)
“Trong diễn từ Nobel, Brodsky vạch ra một mỹ tín [aesthetic credo] mà cuộc sống đạo đức của dân chúng sẽ được xây dựng trên nền tảng đó. Mỹ học như ông nói, là mẹ của đạo đức, theo nghĩa, con người càng trọng mỹ tới đâu thì sàng lọc ra cái vô đạo tới đó. Và nếu như vậy, nghệ thuật tốt sẽ ở về phía của cái tốt. [Good art is thus on the side of the good]. Cái ác, cái tà ma, về mặt còn lại, ‘đặc biệt là cái ác chính trị, luôn luôn là một thứ văn phong tồi tệ” [Evil, on the other hand, ‘especillay political evil, is always a bad stylist”. On Grief… trang 49].”


Nhiều chi tiết lịch sử được ghi lại mà chính sử sẽ bỏ qua, trong đó có chuyện Lê Duẩn “trình bày về đề cương về vấn đề con người” riêng cho triết gia Trần Đức Thảo nghe (trang 435-441) và khi xin Giaó sư Thảo có ý kiến… thì:
“Ngơ ngác một lát, Thảo nói: – Tôi không hiểu gì cả.”
Thế là, Lê Duẩn vòng ra sau GS Thảo, vòng tay ôm GS Thảo nhấc lên, giộng xuống đất mấy cái cho hả giận… rồi bỏ vào trong nhà.
Sau đó, GS Trần Đức Thảo kể lại với Trần Đĩnh, Duẩn chẳng hiểu gì về chủ nghĩa Mác… Rồi Trần Đức Thảo thì thầm vào tai Trần Đĩnh: “Làm sao Duẩn lại Mác-xít được?”

Nguồn net

Thú thực đọc đoạn trên, GCC thấy...  buồn cười quá.

Trần Đức Thảo là 1 nhà Mác Học, đã từng cà khịa với Sartre [về triết học mác-xít, hiện tượng luận... lâu quá không nhớ rõ chi tiết], hai bên đưa nhau ra tòa, toà chưa xử thì bỏ về xứ Mít phục vụ CM, Bác Hồ phán, chú chỉ giỏi lý thuyết, bây giờ phải giỏi cả “thực hành”, bằng cách làm thằng bồi cho nhân dân!
Cỡ như ông, mà “mặc khải”, ngạc nhiên quá đỗi, và thì thầm vào tai TD, làm sao Lê Duẩn lại Mác Xít được?
Một thằng cà chớn như Gấu cũng biết tỏng ra rằng thì là, không có lấy 1 tên Mít VC nào biết gì về Mác xít.
Chủ nghĩa Mác đâu có dễ, nếu đúng thứ thiệt, ở những nhà Mác Học, thứ thiệt, như Lukacs, Henri Lefebvre, hay Trần Đức Thảo.
Viết lách như thế mà làm ồn lên, Đèn Kù!
Đèn chọt lét mới đúng.
Lũ bộ lạc Cờ Lăng này, cứ ngửi thấy mùi tiền là nhào dzô, chính chúng cũng đâu biết Mác xít là cái đéo gì!
Hà, hà!

Ui chao, Gấu Cà Chớn, lại nhớ những ngày mới lớn, ở Xề Gòn, vô thư viện Gia Long, mượn Biện Chứng Pháp Duy Vật, của TDT, nắn nót chép từng dòng chữ Tây, đếch hiểu lấy 1 dòng, vô cuốn tập, về tụng, như tụng Kinh Thánh!

Sự kiện hải ngoại mê Đèn Cù, sợ giống mê Đêm Giữa Ban Ngày ngày nào, nghĩa là, chỉ vì tò mò, muốn biết phía hậu trường Bắc Bộ Phủ.
Bởi là vì chỉ 1 đoạn trên cho thấy tác giả Trần Đĩnh không hiểu 1 chút nào, chủ nghĩa Mác Xít là cái gì, và nhà văn khác nhà viết sử, và càng khác, một ông chuyên nghề chấp bút cho mấy đấng VC bự. Trần Đĩnh hình như chuyên nghề này?
Trường hợp của Trần Đức Thảo làm nhớ tới trường hợp của những bậc thầy Mác Xít, thí dụ Lukacs, hay những nhà văn có thời mê Mác Xít, thí dụ, Jorge Semprun.

Ông này phán, tôi mất hết những xác tín, nhưng giữ lại những ảo tưởng. Tại sao như thế? Ấy là vì chủ nghĩa Marx chính là 1 trong những giấc mơ lớn lao nhất về 1 cõi người hoàn hảo nhất. (1)

Trường hợp Trần Đức Thảo, theo Gấu có gì giống trường hợp Lukacs. Steiner đã coi ông là 1 kẻ, đã từng ký một bản hợp đồng với Quỉ.  Cũng thế, là với TDT, theo GCC: Ông quá tin vào chủ nghĩa Marx, và tin cả điều, phải nhập thân vào đám đông ngu si dốt nát, thì từ đó, mới có thể thực hiện được nó.
Như Lukacs - từ bỏ hết, luôn cả giai cấp dòng dõi của ông, 1 thứ đại quí tộc – TDT bỏ Paris, trở về xứ Bắc Kít của mình, để phục vụ nó, hoàn thành giấc mơ lớn của nó.

Và ông thất bại.
Nhưng không có nghĩa, biến thành 1 tên ngớ ngẩn như TD mô tả, như ở trên cho thấy.


&

Pour saluer Semprun

La première est de Maurice Blanchot : « Qui veut se souvenir doit se confier à l’oubli, à ce risque qu’est l’oubli absolu et à ce beau hasard que devient alors le souvenir ».
[Kẻ nào muốn nhớ là phải “bán mình” cho lãng quên, cho rủi ro chẳng nhớ 1 tí chó gì về em hết, và cho nỗi tình cờ tuyệt vời, chính cái này sẽ trở thành kỷ niệm để đời, "không nàm sao quên lổi"]

La seconde est d’André Malraux : « … je cherche la région cruciale de l’âme où le Mal absolu s’oppose à la fraternité ».
Người nào mong mỏi hoài nhớ chắc hẳn đã tin rằng có lãng quên, tin rằng có sự rủi ro tiếp đó là sẽ quên tuốt tuột, và chính từ sự ngẫu nhiên tuyệt vời này mà kỷ niệm được hình thành.

Người ta biết rằng sẽ quên, không chừng quên tuốt, nên biến những gì đáng nhớ thành ký ức, để sau này khỏi quên đó mà .

K 

I seek the crucial region of the soul where absolute Evil and fraternity clash.

-Andre Malraux 

Tôi tìm vùng chủ yếu của linh hồn, nơi Cái Ác tuyệt đối và tình anh em đụng độ 

Có Ðức Ông “Don” Quichotte, trong Jorge Semprun, vừa mới mất, 87 tuổi. Nhưng 1 Don được những cơn hỗn mang của thế kỷ 20 đẽo gọt, tạo dáng. Ông là đứa con trai của chiến tranh. Từ đầu đến chân, ngửi chỗ nào cũng có mùi chiến tranh. Và thế là ông không làm sao ra khỏi. Như thể, lúc nào ông cũng cà khịa với 1 kẻ nào đó, hay 1 điều gì đó. Ba cuộc chiến quần ông nát bấy người, chúng biến thành gia tài của… riêng ông: cuộc chiến Tây Ban Nha, vũ trụ trại tập trung Nazi, và hoạt động bí mật dưới cờ VC quốc tế cho tới năm 1964.


“You ask what haunts my writing,” Mr. Semprún said in 2007. “Well, after the camp there was the moral question of being a Communist. Trying to explain the folly and the necessity of that choice. Trying to show how it came to be my raison d’être, and why this dead star hovered for so long above the previous century. Here are my obsessions, in no particular order: torture, the camps, the Jewish experience during the Holocaust, the singularity of that experience in the larger context of deportation. It is not easy to reflect on these issues today. Historically, the most significant pitfall has been the most dangerous — silence, the refusal to talk about what happened.”

“Ông hỏi, cái gì ám ảnh cái viết của tôi”. “Sau trại tù thì lòi ra câu hỏi đạo đức về cái chuyện là 1 tên CS. Cố gắng giải thích sự khùng điên và sự cần thiết của chọn lựa đó. Cố chứng tỏ, bằng cách nào một bữa đẹp trời nó biến thành lý do hiện hữu, và tại làm sao ngôi sao chết lại lửng lơ lâu đến như thế trên thế kỷ vừa qua. Ðây là những ám ảnh của tôi, không theo một trật tự đặc biệt nào: tra tấn, trại tù, kinh nghiệm Do Thái trong thời kỳ Lò Thiêu. Tính đặc thù của kinh nghiệm này ở trong một nội dung rộng lớn hơn là tống xuất. Không dễ dàng suy nghiệm những đề tài này vào những ngày này. Nói theo tính cách lịch sử, cạm bẫy ý nghĩa nhất thì nguy hiểm nhất – im lặng, chối từ không nói về những gì xẩy ra”.

C'est la mort de Primo Levi qui est à l'origine de L'Écriture ou la Vie , n'est-ce pas ?

Oui. Primo Levi était un de ceux qui semblait avoir le mieux assumé la mémoire de la mort. Il avait acquis une certaine sérénité, était revenu à la fin de sa vie avec un livre qui n'était pas un roman mais un essai d'ordre sociologique. Et puis un jour, il se suicide. Je peux très bien imaginer ce qui se passe alors. Nous sommes un 11 avril. Le mois d'avril est en Europe le mois des commémorations liées à la déportation. Cette mémoire dominée, maîtrisée, assagie, éclate de nouveau. Ce retour du printemps est toujours très angoissant pour l'être humain en général et pour le déporté en particulier. Quel mois terrible et terrifiant, cela fait trois ans à peine qu'il est devenu à mes yeux un mois comme les autres...

L'effroyable leçon des camps n'est-elle pas de constater que la liberté de l'homme, c'est de pouvoir faire tout le Bien et tout le Mal ?

Absolument. La grande leçon spirituelle, métaphysique, philosophique, c'est que le Bien et le Mal sont ancrés dans l'homme parce qu'il est libre. La théologie catholique a eu beaucoup de mal à se sortir de cette question. Elle a inventé la ligne du Bien qui conduit à Dieu et la ligne du Mal qui est celle de la liberté humaine. La théologie catholique prend des risques énormes, car si la seule fois où l'homme est libre, c'est-à-dire peut se détacher de Dieu, c'est pour faire le mal, voilà qui ouvre à une théologie du Mal extrêmement dangereuse. Or on est obligé d'accepter cette réalité. On ne peut exiger la disparition de la pulsion de Mal. Tout juste peut-on construire des barrières efficaces, des schémas de droits, d'obligations et de contraintes sociales pour que prévale la capacité du Bien. Sans pour autant vouloir construire un homme nouveau, synonyme d'utopie sanguinaire et sanglante. L'homme nouveau est toujours un monstre.
Source

Cái chết của Primo Levi là nguồn của cuốn "Viết hay Ðời"?

Ðúng thế. Primo Levi có vẻ như là nhà văn bảnh nhất trong cái việc “cưu mang” hồi ức của cái chết. Ông viết về nó, một cách thanh thản, cuối đời lại ban cho đời 1 cuốn sách, không phải tiểu thuyết mà một tiểu luận xã hội. Thế rồi 1 ngày đẹp trời ông tự tử. Tôi thật sự nghĩ mình hiểu được, và tưởng tượng ra được điều gì khiến ông làm như thế. Chúng tôi ở vào cái ngày 30, ấy chết xin lỗi, 11, Tháng Tư. Tháng Tư là cái tháng chết tiệt không phải chỉ ở nước Mít mà ở toàn Âu Châu, tháng tưởng niệm tống xuất. Cái hồi ức này, được kìm giữ, lại bật tung ra. Sự trở lại của Tháng Tư luôn luôn là 1 nhức nhối đau thương, không chỉ cho loài người mà còn cho riêng từng kẻ bị tống xuất. Thật khủng khiếp, thật kinh sợ, riêng tôi phải mất 3 năm thì mới chịu nổi nó.

Bài học ghê rợn về trại tù phải chăng là từ nó, con người suy nghiệm ra chân lý: tự do của con người, đó là khả năng làm tới chỉ, cả hai thứ, Cái Thiện và Cái Ác?

Ðúng tuyệt đối.
Bài học lớn tinh thần, siêu hình, triết học, đó là Thiện và Ác thì cắm rễ ở trong con người bởi là vì nó tự do.
Thần học Ky Tô nhức nhối khi đụng vô câu hỏi này, và nhức nhối, làm sao thoát khỏi. Nó phịa ra hai dòng, dòng Thiện đưa đến Chúa, và dòng Ác là dòng của sự tự do của con người. Thần học Ky Tô ôm vào nó đủ thứ rủi ro, ấy là bởi vì, một khi con người tự do một cái, là nó vờ Chúa, nếu Chúa làm quá, thì làm thịt Chúa luôn, để làm điều Ác, từ đó mở ra con đường, hay lý thuyết thần học về Cái Ác Tuyệt Ðối, cực kỳ nguy hiểm.
Chúng ta bắt buộc phải chấp nhận thực tại này. Chúng ta không thể nào đòi hỏi phải khu trục đến tận triệt để Cái Ác, 1 tiếng « cà rựt », của nó, cũng không. Người ta có thể xây dựng thành lập những rào cản hiệu quả, nhưng phương án, đồ án về quyền lợi, bổn phận, và những cưỡng chế xã hội, để làm bốc lên Mùi Thiện. Nhưng, chớ bao giờ có cái ham muốn thay mặt Chúa, tạo ra một con người mới, sặc mùi không tưởng, sặc mùi máu, sặc mùi VC quốc tế!
Bởi vì thứ con người mới mà Bác H mơ tưởng đó, là 1 Con Quỉ.
Luôn luôn là như vậy

"J'ai perdu mes certitudes, j'ai gardé mes illusions."
Entretien avec Jorge Semprun

**


Gấu mua cuốn trên lâu lắm rồi, từ cái hồi còn cái tiệm Britnell nổi tiếng nhất, lâu đời nhất, của Toronto, kế bên thư viện hách nhất thành phố, Toronto Reference Library, cũng là thư viện đầu tiên Gấu tới thăm, liền sau khi tái định cư một, hai bữa, khi còn ở trung tâm tiếp nhận người tị nạn, nơi gặp lại cô bạn lần đầu tiên, sau bao ngày xa cách, kể từ khi cô lấy chồng, thì cứ nói như thế cho tiện việc sổ sách.

Văn chương hay Cuộc đời. Bị cái tít, như “tường lửa ngăn chặn”, Gấu cứ nghĩ đây là 1 cuốn tiểu luận, cho đến bữa nay, tình cờ vớ được nó, trong đống sách ngổn ngang do dọn nhà, giở ra đọc, quá tuyệt, vì được viết theo cái kiểu hồi tưởng, giai thoại, về những ngày ở Lò Thiêu.

Chương 9, "Ô Saisons, Ô Châtaux.." viết về Milena, và Thư gửi Milena, của Kafka, đọc thật cảm động. Có thể nói, chương nào cũng như thế. Cứ như thể, đây là món quà của 30 Tháng Tư năm nay, của bao nhiêu người đã chết, gửi nhắn lại.

Sự run rủi tuyệt vời từ đó phát sinh kỷ niệm. (2)


Borges Conversations

Cái ý tưởng “Kafka, phần hồi ức con người”, của Borges, đúng là cái ý mà cô học trò của TTT, Quỳnh Giao, viết về ông, khi ông mất, tức là, khoanh vùng TTT vào biến cố 1954:
Thơ Thanh Tâm Tuyền phải được đặt trong vị trí “di cư” và “chiến tranh” của một thành phố mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay khung cảnh ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của ông.

Lần tưởng niệm 5 năm ông ra đi, GCC lập lại ý trên, và đề nghị, đã đến lúc cởi bỏ cái nhận định đóng cứng TTT vào thời điểm 1954.

Borges cũng phán y chang, thế mới thú:

In Kafka's case, I think that he can be read beyond his historical circumstances. And there are two very important ones. Kafka writes a good part of his work during the 1914-18 war. One of the worst wars ever. He must have suffered it greatly. Also, he was a Jew at a time when anti-Semitism was growing. He lived in Austria, well, Bohemia which was then part of Austria. He died in Berlin, I think. All these circumstances-living in a besieged city, in a country that was winning but was then defeated-reverberates in his work. Yet if a reader did not know about this, he wouldn't notice it. Kafka transmuted all this.


AFTERWORD
Reading Graham Greene in the Twenty-First Century
Đọc GG trong thế kỷ 21
Monica Ali


Nhà văn và tên tà lọt


GCC's Novel

Tác phẩm đầu tay

*

Nhìn thấy bản tiếng Tẩy, Những Linh Hồn Chết, thì lại nhớ đến bạn quí, và lần ghé nhà bạn, là khu thánh địa có nhà của BHD, khi đó còn ở đường Phan Đình Phùng, trường Kiến Thiết, ở 1 con hẻm Trần Quí Cáp, nơi em học những năm tiểu học, quán cà phê hủ tíu ngã tư Lê Văn Duyệt & Trần Quí Cáp, nơi vẫn thường ngồi đợi em đưa cô em gái đi học - thì cũng vẫn trường Kiến Thiết cô chị ngày xưa học – khi gia đình đã dọn lên con phố Gia Long, căn nhà số 293 sau là địa chỉ Hộp Thư Tòa Soạn Tập San Văn Chương [nhờ vậy mà còn nhớ được số nhà!] rồi những quán bán sách báo cũ dọc theo đường TQC, nơi lục lọi những số báo nrf, sci-fi, những cuốn série noire đầu tiên trong đời…

Lần đó, ghé là vì bạn lỡ phán, tối ghé nhà tao chơi nhé, khi ghé Bưu Điện gửi thư, thấy thằng bạn cũ lúc này ghiền, ngồi vỉa hè làm nghề viết mướn. Bạn kêu Chị Hai, thực ra là người làm trong nhà từ bao đời, lấy cho nó 1 cái áo sơ mi cộc tay cũ, đang mặc…
Thấy cuốn Les Âme Mortes trên bàn, bèn hỏi mượn, bạn tuy không khứng, nhưng cũng đành gật đầu, giao hẹn, cái áo thì cho luôn, nhưng cuốn sách phải trả lại tao đấy nhé!
Trả thế đéo nào được!
Chuyện đau lòng này thì cũng đã kể đâu đôi ba lần rồi, cho cái xác của Gấu Cà Chớn nghe, lần gặp trôi lềnh bềnh trên sông Mékong. Vị bạn thân K, còn là 1 trong tả hữu hộ pháp của trang TV, chắc là cũng đau lòng giùm, nên bèn chúc sinh nhật GCC năm ngoái:

Chúc anh Trụ một ngày SN thật thoải mái, không nghĩ chi về ai hết, không lo chi chuyện tây, chuyện ta gì hết , chỉ nghĩ tới mình và những bài thơ đã làm, đang làm, và sẽ làm thôi.

Mua bản tiếng Tây, là vì bài intro, thật tuyệt.
Và cũng để lèm bèm thêm, nhân đọc ông anh phán về cuốn này, trong số Vấn Đề mới được BVVC gửi cho đọc.

Tks All of U

NQT 

*



*


Bị vặn sừng, bởi Sổ Đen của chính xừ luỷ?
Liệu tất cả những con đường bài-Do Thái, thì đều dẫn đến Lò Thiêu?
Vì giáo chủ của chủ nghĩa hiện sinh quả đúng là rất ghét Do Thái, nhưng thật phi lý nếu dzục bỏ toàn bộ tác phẩm của Ổng?
Liệu Thầy Đạo có thể kết thúc cuốn trường thiên tiểu thuyết triết học về....  Heidegger?

Hà, hà!

Như hầu hết người Mít, Người cũng bị Bác Hít quyến rũ!

Dans sa reconstitution de l'histoire du monde, les Allemands devenaient ainsi les « sauveurs » d'un Occident menacé par le libéralisme, le bolchevisme, l'américanisme, les Juifs apatrides, mais aussi. .. par le nazisme lui-même, comme il s'en rendit vite compte, notamment après la Nuit des longs couteaux de juin 1934. S'il s'appuyait sur un nationalisme de fond et sans doute aussi sur des préjugés non questionnés, l'antisémitisme de Heidegger doit donc être, selon Peter Trawny, replacé à l'intérieur de ce «grand récit" philosophique qu'il s'était raconté : celui de « l'histoire de l'estre » (du Seyn, qu'il écrivait avec un y, pour signifier qu'il s'agissait d'un Sein, d'un « Être » plus authentique encore que celui de notre origine grecque!). Et l'on pourrait poursuivre - ce que ne fait pas Peter Trawny, qui, en gestionnaire institutionnel de la postérité du «berger de l'être» de Messkirch, reste finalement très orthodoxe - en ajoutant que la cohérence de ce récit exalté imposait qu'en fut écartée toute référence à des sources autres que grecques ou allemandes. Et cela de facon doublement paradoxale. Heidegger n'était pas sans savoir combien la rationaité (le calcul) était aussi un legs de la Grèce. Pour ce qui est de la dynamique de son récit, il empruntait un messianisme d'origine hébraique (3). Comme si la radicalité proclamée de son utopie politique l'avait amené à reprendre des clichés dont il savait l'inanité. Comme si l'adversaire de toutes les pensées systématiques s'était enterré dans son propre système, que l'anti-métaphysicien était resté pris dans les rets de sa rnétaphysique néo-primitiviste de 1'«authenticité». Après avoir démissioné de son poste de recteur, il se livra dans ses cours à une dénonciation acerbe, mais cryptée et en petit comité, de la dégradation de la philosophie en «conceptions du monde» et de la «gigantomanie technique» du régime national-socialiste. Heidegger ne fut ni un dissident de l'interieur, comme cherchent à s'en convaincre ses admirateurs, ni un démon nazi pervers, comme l'insinuent ses détracteurs. Son parcours sous le nazisme fut d'abord celui d'un extrerniste aux visions ivres, quasi insensées - quoique, sur le fond, défendables et même aujourd'hui à méditer -, puis, la désillulion venue, d'un homme d'un assez faible caractère, tentant de sauver ce qui seul au fond lui importait : son existence, sa pensée.


Nếu có thể YÊU CẦU lấy tên tôi ra khỏi danh sách nầy -
VÌ TÔI KHÔNG HỀ LÀ "NHÀ VĂN", THEO ĐỊNH NGHĨA/XẾP LOẠI CỦA NGƯỜI LÀM BLOG NẦY.

Cám ơn,
Thiếu Úy Phan Nhật Nam,
Tiểu Đoàn 7 Nhẩy dù, KBC 4919

Note: Được, được! [Thuổng MT]
NQT

 The Weight of Words
Sức nặng của những Từ
One of Russia’s most famous writers confronts the state.
By Masha Gessen
Một trong những nhà văn bảnh nhất của Nga đối đầu với nhà nước

Mít chúng ta cần thứ này, không phải thứ rửa bướm như rửa rau, trong khi chờ khứa....


Đọc lại Agatha Christie


Hong Kong protests

The Party vs the people
Đảng đấu súng với Nhân Dân

The Communist Party faces its toughest challenge since Tiananmen. This time it must make wiser decisions
Cú nặng nhất kể từ Thiên An Môn. Lần này hẳn có những quyết định khôn ngoan hơn

Note: Bài trên Người Kinh Tế. Tin Văn sẽ đi 1 đường phiên dịch liền tù tì

A different sort of order

As Mr Xi has accumulated power, he has made it clear that he will not tolerate Western-style democracy. Yet suppressing popular demands produces temporary stability at the cost of occasional devastating upheavals. China needs to find a way of allowing its citizens to shape their governance without resorting to protests that risk turning into a struggle for the nation’s soul. Hong Kong, with its history of free expression and semi-detached relationship to the mainland, is an ideal place for that experiment to begin. If Mr Xi were to grasp the chance, he could do more for his country than all the emperors and party chiefs who have struggled to maintain stability in that vast and violent country before him.
Tập, trong khi tích tụ quyền lực, hẳn là không cho phép cái trò “rân chủ” - từ của lũ VC trong nước - kiểu Tây Phương. Tuy nhiên dẹp biểu tình có thể “cái xẩy nẩy cái ung”. TQ cần 1 đường hướng cho phép dân chúng dự phần vào công cuộc cai trị, điều hành  đất nước, mà không cần đụng đến...  hồn thiêng của nó. Có thể, đây là bài học cho lũ VC vào lúc này….

Bài học HK với Mít chúng ta?

Mít chẳng học được gì về “kỹ thuật đảo chánh” [biểu tình, đúng hơn] từ HK, nhưng bài viết [comment, đúng hơn], trên tờ Người Nữu Ước, “một đất nước, hai chế độ”, làm Mít nhớ đến anh Tẩy, khi đặt Nam Kít dưới chế độ tự trị, còn Bắc Kít, bảo hộ.
Những cuộc biểu tình, chỉ có dưới chế độ Mỹ Ngụy, nhảm thế!

Comment October 13, 2014 Issue 

The Party and the People

When Hong Kong returned to Chinese control, in 1997, after a century and a half under British rule, the Communist Party rejoiced at recovering the jewel of the Crown Colonies, a tiny archipelago of two hundred and thirty-six islands and rocks, with more Rolls-Royces per capita than anywhere else in the world and a film industry that had produced more movies each year than Hollywood. But the people of Hong Kong feared that the Party would unwind the idiosyncratic combination of English and Cantonese culture that made the city so distinctive—with its independent barristers in wigs and its Triad bosses in Versace, all documented by a scandal-loving free press and set on a subtropical mountains cape that’s equal parts Manhattan and Hawaii.

At the time of reunification, Beijing pledged to endow Hong Kong with a “high degree of autonomy” under a deal called “one country, two systems.” But it was a fragile conceit, and, this summer, it failed. The Communist Party had promised to give Hong Kong citizens the chance to vote for the territory’s top official in 2017, but, in August, Beijing released the details: only candidates acceptable to the central government would be permitted to run. On September 26th, after weeks of tension, a couple of hundred students occupied the forecourt of the Hong Kong government’s headquarters. The police arrested Joshua Wong, a seventeen-year-old student leader whose celebrity reflects the rise of young activists who are less apprehensive about challenging Beijing than recent generations have been.

Wong was released two days later, but his arrest attracted sympathizers, and when police unleashed tear gas and pepper spray, demonstrators brandished umbrellas in self-defense, creating an instant symbol of resistance. Numbering at times up to a hundred thousand, they were staging the most high-profile protests against the Communist Party since the student-led uprising in Tiananmen Square, in June of 1989. By week’s end, students, who were calling for the resignation of Hong Kong’s leader, Leung Chun-ying, had agreed to talks with the local government but vowed to remain encamped in the streets.

The dispute isn’t only about politics. The population of seven million has one of the highest levels of income inequality in the world, a gap that has widened since China regained sovereignty. University graduates, unable to afford apartments, sleep on their parents’ couches and blame local developers for cooperating with apparatchiks in Beijing to maximize real-estate prices. It had been hoped that open elections would hold leaders accountable and break up the concentration of economic power. The strain is also cultural: even though Hong Kong businesses have benefitted from China’s growth, locals resent the influx of wealthy mainlanders who feed the property boom. Last week, a student organizer named Lester Shum told a crowd that Hong Kong remains a colonial state.

Resolving the crisis falls to President Xi Jinping, in Beijing. Eighteen months after taking office, the tall, phlegmatic son of the Communist aristocracy has swiftly consolidated control of the Party and the military, arresting thousands of officials in an anti-corruption campaign and promoting his personal brand of power. For years, Beijing has downplayed the importance of any single leader, for fear of creating another cult of personality. Xi is reversing that trend: he has already graced the pages of the People’s Daily more times than any leader since Chairman Mao; last week, the government issued a book of his quotations in nine languages.

Xi sanctifies absolutism as a key to political survival. In a speech to Party members in 2012, he asked, “Why did the Soviet Communist Party collapse? An important reason was that its ideals and convictions wavered. Eventually, all it took was a quiet word from Gorbachev to declare the dissolution of the Soviet Communist Party, and the great Party was gone. In the end, nobody was man enough to come out and resist.” But the very strategy that Xi has adopted for safeguarding the government in Beijing has hastened the crisis in Hong Kong. He has staked his Presidency on a “great renewal” of China, a nationalist project that leaves little room for regional identities. Last year, when the Party faced mounting complaints over deadly air pollution, Internet censorship, and rampant graft, it arrested lawyers, activists, and journalists in the harshest such measure in decades, and circulated an internal directive to senior members. The notice identified seven “unmentionable” topics: Western-style democracy, “universal values,” civil society, pro-market liberalism, a free press, “nihilist” criticisms of Party history, and questions about the pace of China’s reforms. The list was, in retrospect, a near-perfect inventory of the liberties that distinguish life in Hong Kong. 

In the People’s Republic, reaction to the events ranges from quiet exhilaration among beleaguered activists to bemused indifference among ordinary Chinese, for whom both Hong Kong’s liberties and its demonstrations are too remote to be inspiring. So far, there appears little chance that the unrest, fed by intricate local grievances, will spread to the mainland. And yet the Party addressed it as a moral contagion: the filters and the human censors that constitute the Great Fire Wall removed images and comments from the Internet in what scholars who monitor Chinese digital life recorded as the sharpest spike in online censorship all year. In the official media, the events were portrayed as a disaster; an editorial in the People’s Daily published on October 1st warned that “a small number of people who insist on resisting the rule of law and on making trouble will reap what they have sown.”

But the costs of a crackdown—diplomatic isolation, recession, another alienated generation—would be incalculably higher than they were in 1989. China’s economy today is twenty-four times the size it was then, and Beijing aspires to leadership in the world. The question is not whether Xi Jinping can summon the authority to resolve the crisis but whether he can begin to address the problem that awaits him when it’s over: an emerging generation that is ever less willing to be ruled without a voice. Shortly before Joshua Wong was arrested, he told a crowd of students, “Hong Kong’s future belongs to you, you, and you.” ♦


Trường hợp Võ Phiến

Những nhân vật tiểu thuyết hiện đại đều bước ra từ cái bóng của Don Quixote; ta có thể lập lại, với những nhân vật của Võ Phiến: họ đều bước ra từ Người Chơi Cờ. Tôi không hiểu, ông đã đọc nhà văn Đức, trước khi viết, nhưng khí hậu 1945, Bình Định, và một Võ Phiến bị cầm tù giữa lớp cán bộ cuồng tín, đâu có khác gì ông B. (không hiểu khi bị bắt trong vụ chống đối, Võ Phiến có ở trong tình huống đốt vội đốt vàng những giấy tờ quan trọng...). Nhân vật "cù lần" trong Thác Đổ Sau Nhà, đã có một lần được tới Thiên Thai, cùng một cô gái trong một căn lều, giữa rừng, cách biệt với thế giới loài người, có một cái gì thật quen thuộc với đối thủ của ông B., tay vô địch cờ tướng nhà quê vô học, nhưng cứ ngồi xuống bàn cờ là kẻ thù nào cũng đánh thắng, đả biến thiên hạ vô địch thủ?

"Nhưng đây là con lừa Balaam", vị linh mục nhớ tới Thánh Kinh, về một câu chuyện trước đó hai ngàn năm, một phép lạ tương tự đã xẩy ra, một sinh vật câm đột nhiên thốt ra những điều đầy khôn ngoan. Bởi vì nhà vô địch là một người không thể viết một câu cho đúng chính tả, dù là tiếng mẹ đẻ, "vô văn hoá về đủ mọi mặt", bộ não của anh không thể nào kết hợp những ý niệm đơn giản nhất. Năm 14 tuổi vẫn phải dùng tay để đếm!

[Nhưng đây là Hồ Tôn Hiến, lớp 1, chăn trâu!]


Ghi chú trong ngày

Colorless Tsukuru Tazaki and His Years of Pilgimage by Haruki Murakami

The now-permanent Nobel favourite Murakami probably has the biggest following of any literary novelist on the planet. But readers who jumped on the bandwagon with his previous novel, the two-volume supernatural vigilante epic 1Q84, will here find a change of mood. As a teenager, Tsukuru is told one day by his four best friends that they don't want to see him any more, and they refuse to give any reason. Now Tsukuru is 36, a designer of railway stations, and his new girlfriend encourages him to seek out his old friends and demand to know why. Colourless Tsukuru Tazaki is a naturalistic coming-of-age story in the vein of his 2001 novel Norwegian Wood, sprinkled with strange images and written in a hauntingly mournful key.

Đôi khi tôi cảm thấy tôi là 1 kẻ kể chuyện tiền sử
“Parfois je me sens comme un conteur de la préhistoire”

Trên tờ ML số mới, còn có bài phỏng vấn Murakami, nhân cuốn sách mới xb của ông, dịch từ tiếng Đức, trên tờ Die Zeit, số 16 Janvier, 2014


Indians are proud of their ancient, surviving civilization. They are, in fact, its victims.
Người Ấn tự hào về nền văn minh cổ xưa, còn hoài của họ. Hóa ra, họ là nạn nhân của nó.
Naipaul:
Lần viếng thăm thứ nhì [in trong Nhà văn và Thế giới]

AFTERWORD
Reading Graham Greene in the Twenty-First Century
Đọc GG trong thế kỷ 21
Monica Ali

"*

THE QUIET AMERICAN

by Graham Greene, 1955

Greene's book is widely regarded as a classic, prophetic literary tale that examines the start of American engagement in Vietnam. The acclaimed English novelist and journalist, who covered the French war in Vietnam from 1951 to '54, set the book in 1954 Saigon. The quiet American of the title is Alden Pyle, who tries to forge an American solution to the Communist insurgency. Another character, cynical British journalist Thomas Fowler, say of Pyle : "I never knew a man who had better motives for all the trouble he caused”. In a discussion of The Quiet American , essayist Pico Iyer said: “Lyrical, enchanted descriptions of rice paddies, languorous opium dens and even slightly sinister Buddhist political groups are a lanterned backdrop to a tale of irony and betrayal." Greene died in 1991.
Note: Bài viết ngắn trên, trong số báo trên, trong nhắc tới câu của anh ký giả ghiền Hồng Mao, nói về anh Mẽo trầm lặng: "Tôi chưa từng thấy thằng nào có những ý hướng tốt đẹp hơn, như anh, về những khốn nạn mà nó gây ra [cho xứ Mít, ở đây]".
Quả như thế thực. Đau thế.
Bài viết ngắn nhắc tới Pico Iyer. Tò mò, Gấu lần ra bài viết của tay, cũng thật là tuyệt vời, về GG:

The Disquieting Resonance of 'The Quiet American'

by Pico Iyer
April 21, 2008 5:08 PM ET

Cả cuộc chiến Mít, với những tội ác của nó, con số người chết, 1 đất nước ngày càng tàn tạ, mất mẹ lương tâm đạo đức, mất tất cả "cái gọi là Mít", là do VC phịa ra, rồi biến nó thành hiện thực, khởi từ ý hướng tốt của anh Mẽo trầm lặng, cố tìm 1 lực lượng thứ ba, không theo Tẩy, Tẫu, Mút Ku.... 1 tên Mít đúng là Mít, cho xứ Mít!
Ghi chú trong ngày

*

Tôi nhận ra rằng, văn chương là tiếp tục điều tôi đã làm như là 1 đứa trẻ - sử dụng trí tưởng tượng của mình. Tôi biến mọi thứ thành văn chương, ở trong đầu của tôi, không biết văn chương là cái gì.

INTERVIEWER
There's a chapter in The Hunger Angel where Leo is sent to work on a kolkhoz for a day, and he has to walk a long ways across the steppe. "The wind pushed against me, the entire steppe streamed into me, urging me to collapse because I was so thin and it was so greedy."
MULLER
For me, these vast landscapes have always been intimidating.
INTERVIEWER
Did you feel more comfortable in the city, or did the cityscape bring a different sense of oppression?
MULLER
The city had different fears-the secret police. There were plants there as well, and I've often said that certain plants were in collusion with the people in power-they had defected to the state. Like arborvitae and fir trees and all the evergreens that were planted around the official institutions, the so-called living fences. And there were also socialist flowers.

Đọc trả lời tờ The Paris Review của Muller, thì Gấu lại nhớ đến thời gian ở nông trường cải tạo Phạm Văn Cội, Củ Chi, và Đỗ Hòa, Nhà Bè. Cái kỷ niệm đi giữa thảo nguyên, cảm thấy bị thảo nguyên áp đảo, hãm hiếp, chỉ muốn con người sa sẩy, suy sụp, vì con người, lúc này “gầy guộc nhỏ”, mỏng như tờ giấy, vì đói quá, trong khi nó thì tham lam, thèm khát quá, Gấu bèn nhớ tới lần gần như lả đi vì lao động quá sức, nắng quá mức, và đói quá xá, giữa đồng không mông quạnh, đúng vào lúc đó,1 tên tù mang theo cái khẩu cầm, bèn rút ra, đi 1 đường Hạ Trắng!
Bạn không thể tưởng tượng nổi, nó khủng khiếp tới mức như thế nào.
Phải đến khi ra được hải ngoại, đọc Kafka, ông nói về tiếng hát cất lên từ địa ngục, Gấu mới thấu hiểu hết cái thứ âm nhạc cứu chuộc này.


*

Sagan, còn lại gì?

Ui chao bèn nhớ liền Vàng Anh, cũng 1... Sagan của...  VC, như bạn quí của Gấu, HPA, đã từng thổi!

Nhìn cái bình tro cốt thân phụ, một đại công thần của Vương Quốc Quỉ Đỏ VC, em than, chỉ có thế này thôi ư!

Điều đáng nói là nhân vật của Vàng Anh, khi tỉnh táo cũng như lúc điên rồ, họ không hề đánh mất sự thuần khiết, ngay trong tuyệt vọng bế tắc. Họ thường là nạn nhân trong những cuộc chơi liều lĩnh, táo bạo, mặc dù họ vẫn sáng suốt. Có lẽ họ nhẫn tâm với chính họ hơn là với cuộc sống. Họ làm những trang văn của Vàng Anh trở nên thơ và xúc động hơn trong cái không khí âm u, xám xịt của chúng. Họ đáng yêu hơn những nhân vật của Sagan mà người đọc có thể liên tưởng tới khi đọc Vàng Anh bởi sự buồn chán, sự nổi loạn không đẩy họ tới những buông thả, phá phách, suồng sã, mù quáng một cách vô duyên cớ, đặc trưng của một tuổi trẻ nào khác, ở một nơi nào khác. (1)

Phan Thị Vàng Anh, theo tôi, cũng nằm trong hiện tượng "không giờ" của văn chương. Ở đây, còn có sự nuông chiều (một trong những hậu duệ, của "con cưng" chế độ). Có sự õng ẹo, với văn chương chữ nghĩa. Với tuổi trẻ. Với cái nhìn xuống, khi bóng gió xa xôi, về nỗi cơ cực của những con người quanh "cô bé". Cô bé đôi lúc cũng đăm chiêu về phận người, theo kiểu "Buồn Ơi, Chào mi!" của Sagan.
Khi "Buồn ơi…" xuất hiện tại Pháp, người ta chào đón nó như một loài chim quí. Với Vàng Anh, một loài chim quí, để nuôi trong lồng, như một dấu hiệu đẹp đẽ về một chế độ không đẹp đẽ. Giới phê bình Tây Phương cũng đã nhận ra điều này với bao nhiêu tác phẩm của Sagan: trong bao nhiêu năm, người Pháp đã giữ riêng cho họ, một người tình.
Nhưng xã hội Tây Phương (nước Pháp), khi Sagan mô tả, là những năm kinh tế khá ổn định, và giới tính đang được mùa.
Có còn hơn không. Khi Sagan được đón nhận, "như một con chim hiếm", người ta biết, cái khí hậu văn chương hiện sinh cần một thái độ đạo đức-phi đạo đức như vậy. Cũng cần phải phân biệt, phi đạo đức khác với vô đạo đức. Phi đạo đức, một cách nào đó, là treo lửng đạo đức bên trên ngòi bút. Với Vàng Anh, độc giả trong nước có một cô bé õng ẹo, giữa một đám đao phủ đang ngồi thiền là thế hệ cha chú của cô. Vậy cũng là dấu hiệu đáng mừng rồi! Huỳnh Phan Anh đã nhận ra điều này, nhưng ông nói, với một sự châm chước, của một người đã lớn tuổi: "Có lẽ họ nhẫn tâm với chính họ hơn là với cuộc sống".

[Vàng Anh là con gái nhà thơ Chế Lan Viên. Nghe nói, những bản viết đầu tay của cô là do bố sửa sang, đánh bóng lại. Một anh bạn cho biết, trong một truyện ngắn viết về người bố, sau khi mất được hỏa thiêu, nhìn hũ tro cốt, "cái còn lại" của một đời người cúc cung với chế độ, cô cay đắng hỏi chủ nghĩa, hỏi chế độ, hỏi đời, hỏi chính mình, "Chỉ có thế thôi à""] (2)

*

Aimez-vous.... Vàng Anh?

Mai Thảo đã từng dịch Sagan, “Aimez-vous Brahms?” [Paris, Julliard, 1959]
Thú, là văn Sagan có gì giống…  MT, nếu đọc cái tít bài viết trong số báo ML về em, “Sagan, ou le non-style”: Thật khó mà định nghĩa cách viết của tác giả, thứ văn của quyến rũ, mê hoặc, sa langue a du charme: Mai Thảo chẳng thế ư? Mấy em chẳng quá mê MT ư?

Tây đặc một thời.

BONJOUR TRISTESSE BY FRANCOISE SAGAN

After the grim work of the Second World War and the hard work of the post-war reconstruction, Bonjour Tristesse burst onto the French literary scene like a carnival. It announced what seemed like a new species, youth, la jeunesse, who had but one message: have fun with us or be gone; stay up all night at a jazz club or never come out with us again; don't talk to us about marriage and other boring conventions; let's smoke and be idle instead; forget the future who's the new lover? As for the tristesse of the title, it was an excuse for a really good pout.
YANN MARTEL

Sau một ‘cần lao’ khốc liệt thời Đệ Nhị Chiến và một ‘cần lao’ cật lực tái xây dựng thời hậu chiến, Buồn Ơi Chào Mi nổ ra như một trái bom trên nền trời văn học Pháp và cùng với nó, là một ngày hội. Nó thông báo sự ra đời của một chủng loại mới, tuổi trẻ, la zơn nét, la jeunesse, thứ sinh vật mới mẻ này có một thông điệp, và chỉ một mà thôi: hãy vui chơi với tụi tớ, nếu không, biến đi cho được việc; nhẩy nhót suốt đêm tại một vũ trường jazz, nếu không, đừng bao giờ rủ tụi này đi chơi; đừng nói với tụi này về hôn nhân, về ba lẩm cẩm khác, hãy hít đến mụ cả người ra, hãy vờ tương lai – ai là thằng bồ mới của mi?
Và cái từ buồn ở trong cái tít quả đúng là một cái trề môi, 'thôi bỏ đi tám'!

Ui chao, đám jơn nét VC ở trong nước, con cháu của những đại gia Bắc Bộ Phủ, hay HNV[Hội Nhà Văn], hay HNT [Hội Nhà Thổ], quả đã xử sự đúng như vậy, nhưng ở trong tim trong gan trong hồn trong não của chúng, có một nỗi buồn, đúng hơn, một 'ô nhục': thắng trận!

Một ông sĩ quan VNCH như một THT, làm sao có được nỗi ô nhục ‘bảnh’ như thế?
Một thằng, thì đánh đến ngàn năm cũng đánh, chết hàng triệu triệu cũng đếch cần, còn 1 thằng thì cứ mỗi lần cầm đến cây viết là vãi nước đái ra, ai thắng, ai bại?
Nỗi ô nhục càng ngày càng lộ ra, chúng đem cả vợ con ra cầm cho Tẫu, để thắng cho bằng được trận này!

June 25,2007
To Stephen Harper,
Prime Minister of Canada,
From a Canadian writer,
With best wishes,
Yann Martel

Dear Mr. Harper,
From London, England, I'm sending you an English translation of a French novel. In this novel people smoke, people get slapped in the face, people drink heavily and then drive home, people have nothing but the blackest coffee for breakfast, and always people are concerned with love. Very French d’une certaine epoque.
Bonjour Tristesse came out in France in 1954. Its author, Francoise Sagan, was nineteen years old. Immediately she became a celebrity and her book a bestseller.
More than that: they both became symbols.
Bonjour Tristesse is narrated in the first person by seventeen year-old Cecile. She describes her father, Raymond, as "a frivolous man, clever at business, always curious, quickly bored, and attractive to women." The business cleverness is never mentioned again, but clearly it has allowed Raymond to enjoy freely his other attributes, his frivolity, curiosity, boredom and attraction, all of which revolve around dalliances of the heart and loins. He and his beloved daughter share the same temperament and they are in the south of France for the summer holidays with Elsa, his latest young mistress. This triangle suites Cecile perfectly and she is assiduous at pursuing her idle seaside pleasures, which come to include Cyril, a handsome young man who is keen on her.
But all is ruined when her father invites Anne to stay with them. She's an old friend of the family, a handsome woman her father's age, made of sterner, more sober stuff. She starts to meddle in Cecile's life. Worse, a few weeks after arriving, fun Elsa is dumped when Raymond starts a relationship with Anne. And finally, not long after, Anne announces that she and her father are planning to get married. Cecile is aghast. Her serial frolicker of a father and Anne, husband and wife? She, Cecile, a stepdaughter to Anne, who will work hard to transform her into a serious and studious young person? Quel cauchemar! Cecile sets to work to thwart things, using Elsa and Cyril as her pawns. The results are tragic.
After the grim work of the Second World War and the hard work of the post-war reconstruction, Bonjour Tristesse burst onto the French literary scene like a carnival. It announced what seemed like a new species, youth, la jeunesse, who had but one message: have fun with us or be gone; stay up all night at a jazz club or never come out with us again; don't talk to us about marriage and other boring conventions; let's smoke and be idle instead; forget the future who's the new lover? As for the tristesse of the title, it was an excuse for a really good pout.
Such a brash, proudly indolent attitude, coming with an open contempt for conventional values, landed like a bomb among the bourgeoisie. Francoise Sagan earned herself a papal denunciation, which she must have relished.
A book can do that, capture a time and a spirit, be the expression of a broad yearning running through society. Read the book and you will understand  Zeitgeist. Sometimes the book will be one a group strongly identifies with - for example, On the Road, by Jack Kerouac, among American youth - or, conversely strongly identifies against - Salman Rushdie's The Satanic Verses among some Muslims.
So that too is what a book can be, a thermometer revealing a fever.
Yours truly,
Yann Martel

FRANCOISE SAGAN (1935-2004),born Francoise Quoirez, was a novelist, playwright and screenwriter. Sagan's novels centre around disillusioned bourgeois characters (often teenagers) and primarily romantic themes; her work has been compared to that of J.D. Salinger. The writer Francois Mauriac described her as "a charming little monster." Her oeuvre includes dozens of works for print and performance. She suffered a car accident in 1957, an experience that left her addicted to painkillers and other drugs for much of her life.

Yann Martel


*

*

*

Sagan, còn lại gì?

Ui chao bèn nhớ liền Vàng Anh, cũng 1... Sagan của...  VC, như bạn quí của Gấu, HPA, đã từng thổi!

Nhìn cái bình tro cốt thân phụ, một đại công thần của Vương Quốc Quỉ Đỏ VC, em than, chỉ có thế này thôi ư!

Điều đáng nói là nhân vật của Vàng Anh, khi tỉnh táo cũng như lúc điên rồ, họ không hề đánh mất sự thuần khiết, ngay trong tuyệt vọng bế tắc. Họ thường là nạn nhân trong những cuộc chơi liều lĩnh, táo bạo, mặc dù họ vẫn sáng suốt. Có lẽ họ nhẫn tâm với chính họ hơn là với cuộc sống. Họ làm những trang văn của Vàng Anh trở nên thơ và xúc động hơn trong cái không khí âm u, xám xịt của chúng. Họ đáng yêu hơn những nhân vật của Sagan mà người đọc có thể liên tưởng tới khi đọc Vàng Anh bởi sự buồn chán, sự nổi loạn không đẩy họ tới những buông thả, phá phách, suồng sã, mù quáng một cách vô duyên cớ, đặc trưng của một tuổi trẻ nào khác, ở một nơi nào khác. (1)

Phan Thị Vàng Anh, theo tôi, cũng nằm trong hiện tượng "không giờ" của văn chương. Ở đây, còn có sự nuông chiều (một trong những hậu duệ, của "con cưng" chế độ). Có sự õng ẹo, với văn chương chữ nghĩa. Với tuổi trẻ. Với cái nhìn xuống, khi bóng gió xa xôi, về nỗi cơ cực của những con người quanh "cô bé". Cô bé đôi lúc cũng đăm chiêu về phận người, theo kiểu "Buồn Ơi, Chào mi!" của Sagan.
Khi "Buồn ơi…" xuất hiện tại Pháp, người ta chào đón nó như một loài chim quí. Với Vàng Anh, một loài chim quí, để nuôi trong lồng, như một dấu hiệu đẹp đẽ về một chế độ không đẹp đẽ. Giới phê bình Tây Phương cũng đã nhận ra điều này với bao nhiêu tác phẩm của Sagan: trong bao nhiêu năm, người Pháp đã giữ riêng cho họ, một người tình.
Nhưng xã hội Tây Phương (nước Pháp), khi Sagan mô tả, là những năm kinh tế khá ổn định, và giới tính đang được mùa.
Có còn hơn không. Khi Sagan được đón nhận, "như một con chim hiếm", người ta biết, cái khí hậu văn chương hiện sinh cần một thái độ đạo đức-phi đạo đức như vậy. Cũng cần phải phân biệt, phi đạo đức khác với vô đạo đức. Phi đạo đức, một cách nào đó, là treo lửng đạo đức bên trên ngòi bút. Với Vàng Anh, độc giả trong nước có một cô bé õng ẹo, giữa một đám đao phủ đang ngồi thiền là thế hệ cha chú của cô. Vậy cũng là dấu hiệu đáng mừng rồi! Huỳnh Phan Anh đã nhận ra điều này, nhưng ông nói, với một sự châm chước, của một người đã lớn tuổi: "Có lẽ họ nhẫn tâm với chính họ hơn là với cuộc sống".

[Vàng Anh là con gái nhà thơ Chế Lan Viên. Nghe nói, những bản viết đầu tay của cô là do bố sửa sang, đánh bóng lại. Một anh bạn cho biết, trong một truyện ngắn viết về người bố, sau khi mất được hỏa thiêu, nhìn hũ tro cốt, "cái còn lại" của một đời người cúc cung với chế độ, cô cay đắng hỏi chủ nghĩa, hỏi chế độ, hỏi đời, hỏi chính mình, "Chỉ có thế thôi à""] (2)

Indians are proud of their ancient, surviving civilization. They are, in fact, its victims.
Người Ấn tự hào về nền văn minh cổ xưa, còn hoài của họ. Hóa ra, họ là nạn nhân của nó.
Naipaul:
Lần viếng thăm thứ nhì [in trong Nhà văn và Thế giới]
Ghi chú trong ngày

 The Weight of Words
Sức nặng của những Từ
One of Russia’s most famous writers confronts the state.
By Masha Gessen
Một trong những nhà văn bảnh nhất của Nga đối đầu với nhà nước

Mít chúng ta cần thứ này, không phải thứ rửa bướm như rửa rau, trong khi chờ khứa....


Đọc lại Agatha Christie


Hong Kong protests

The Party vs the people
Đảng đấu súng với Nhân Dân

The Communist Party faces its toughest challenge since Tiananmen. This time it must make wiser decisions
Cú nặng nhất kể từ Thiên An Môn. Lần này hẳn có những quyết định khôn ngoan hơn

Note: Bài trên Người Kinh Tế. Tin Văn sẽ đi 1 đường phiên dịch liền tù tì

A different sort of order

As Mr Xi has accumulated power, he has made it clear that he will not tolerate Western-style democracy. Yet suppressing popular demands produces temporary stability at the cost of occasional devastating upheavals. China needs to find a way of allowing its citizens to shape their governance without resorting to protests that risk turning into a struggle for the nation’s soul. Hong Kong, with its history of free expression and semi-detached relationship to the mainland, is an ideal place for that experiment to begin. If Mr Xi were to grasp the chance, he could do more for his country than all the emperors and party chiefs who have struggled to maintain stability in that vast and violent country before him.
Tập, trong khi tích tụ quyền lực, hẳn là không cho phép cái trò “rân chủ” - từ của lũ VC trong nước - kiểu Tây Phương. Tuy nhiên dẹp biểu tình có thể “cái xẩy nẩy cái ung”. TQ cần 1 đường hướng cho phép dân chúng dự phần vào công cuộc cai trị, điều hành  đất nước, mà không cần đụng đến...  hồn thiêng của nó. Có thể, đây là bài học cho lũ VC vào lúc này….


Trường hợp Võ Phiến

Những nhân vật tiểu thuyết hiện đại đều bước ra từ cái bóng của Don Quixote; ta có thể lập lại, với những nhân vật của Võ Phiến: họ đều bước ra từ Người Chơi Cờ. Tôi không hiểu, ông đã đọc nhà văn Đức, trước khi viết, nhưng khí hậu 1945, Bình Định, và một Võ Phiến bị cầm tù giữa lớp cán bộ cuồng tín, đâu có khác gì ông B. (không hiểu khi bị bắt trong vụ chống đối, Võ Phiến có ở trong tình huống đốt vội đốt vàng những giấy tờ quan trọng...). Nhân vật "cù lần" trong Thác Đổ Sau Nhà, đã có một lần được tới Thiên Thai, cùng một cô gái trong một căn lều, giữa rừng, cách biệt với thế giới loài người, có một cái gì thật quen thuộc với đối thủ của ông B., tay vô địch cờ tướng nhà quê vô học, nhưng cứ ngồi xuống bàn cờ là kẻ thù nào cũng đánh thắng, đả biến thiên hạ vô địch thủ?

"Nhưng đây là con lừa Balaam", vị linh mục nhớ tới Thánh Kinh, về một câu chuyện trước đó hai ngàn năm, một phép lạ tương tự đã xẩy ra, một sinh vật câm đột nhiên thốt ra những điều đầy khôn ngoan. Bởi vì nhà vô địch là một người không thể viết một câu cho đúng chính tả, dù là tiếng mẹ đẻ, "vô văn hoá về đủ mọi mặt", bộ não của anh không thể nào kết hợp những ý niệm đơn giản nhất. Năm 14 tuổi vẫn phải dùng tay để đếm!

[Nhưng đây là Hồ Tôn Hiến, lớp 1, chăn trâu!]


Ghi chú trong ngày

/Doc_gia_Tac_gia/nha_chat.html

/gochanoi/blog_war.html

Note: Đầu tháng, bài  lạ.


Indians are proud of their ancient, surviving civilization. They are, in fact, its victims.
Người Ấn tự hào về nền văn minh cổ xưa, còn hoài của họ. Hóa ra, họ là nạn nhân của nó.

Naipaul:
Lần viếng thăm thứ nhì  [in trong Nhà văn và Thế giới]
Lapham_Time

Wet Evening in April

The birds sang in the wet trees
And as I listened to them it was a hundred years from now
And I was dead and someone else was listening to them.
But I was glad I had recorded for him
The melancholy.

Patrick Kavanagh       

Chiều Ướt, Tháng Tư

Chim hót trên cành ướt
Và Gấu nghe chim hót, vào lúc, cách lúc này, một trăm năm.
Tất nhiên, Gấu thì ngỏm rồi, và một ai đó đang nghe chim hót
May cho người này là Gấu có ghi lại giùm cho anh ta hay chị ả
Nỗi buồn

/Doc_gia_Tac_gia/nha_chat.html

/gochanoi/blog_war.html

Note: Đầu tháng, bài  lạ.

*

Hàng, order, mới về. Cũng 1 thứ tự thuật. Đọc không thú so với Ways of Escape, vì W.E. có nhiều trang thần sầu về xứ Mít!

*

Gấu Cái  phán, mi chết, dùng bức hình trên, để thờ!

Ui chao, đọc lại cái đoạn nhật ký của Greene, về những ngày đầu làm quen Cô Ba, mới thấy sướng làm sao! Gấu post lại ở đây, để gợi hứng, viết ra những kỷ niệm của Gấu, về những ngày đầu, về những bạn bè cùng vướng vào cái thú đau thương này. Cũng là một cách tự thú trước “tòa án lịch sử”, về “nghi án”, “có mấy NQT”.
Tiếp theo liền những trang nhật ký viết về Cô Ba, Greene bắt qua trận đánh Điện Biên Phủ, với những nhận định thật hách về trận đánh này:
There remains another memory which I find it difficult to dispel, the doom-laden twenty-fours I spent in Dien Bien Phu in January 1954. Nine years later when I was asked by the Sunday Times to write on ‘a decisive battle of my choice', it was Dien Bien Phu that came straightway to my mind.
Fifteen Decisive Battles of the World - Sir Edward Creasy gave that classic title to his book in 1851, but it is doubtful whether any battle listed there was more decisive than Dien Bien Phu in 1954. Even Sedan, which came too late for Creasy, was only an episode in Franco-German relations, decisive for the moment in a provincial dispute, but the decision was to be reversed in 1918, and that decision again in 1940.
Dien Bien Phu, however, was a defeat for more than the French army. The battle marked virtually the end of any hope the Western Powers might have entertained that they could dominate the East. The French with Cartesian clarity accepted the verdict. So, too, to a lesser extent, did the British: the independence of Malaya, whether the Malays like to think it or not, was won for them when the Communist forces of General Giap, an ex-geography professor of Hanoi University, defeated the forces of General Navarre, ex-cavalry officer, ex-Deuxieme Bureau chief, at Dien Bien Phu. (That young Americans were still to die in Vietnam only shows that it takes time for the echoes even of a total defeat to encircle the globe.)
Điện Biên Phủ không chỉ là hồi chuông báo tử cho quân đội Pháp, mà còn hơn thế nhiều! Nó đánh dấu chấm hết mọi hy vọng ăn cướp của Tây Phương đối với Đông Phương! Chín năm sau trận đánh, khi tờ Thời Báo Chủ Nhật gợi ý, tôi nghĩ liền đến trận đánh thần sầu này.
Võ tướng quân đọc mà chẳng sướng mê tơi sao?

Bắc Kít vin vào lập luận như thế, để cổ võ cho sứ mệnh được Quỉ Đỏ chọn, như Do Thái, được Chúa Chọn, làm đồ “tế thiêu”, cho nhân loại, không có chúng ông, thì làm sao mấy nước lau nhau thân phận da đen, nhược tiểu, bầy ngựa hoang…  Phi Châu, trái tim của bóng đen….  cái con mẹ gì đó, được giải phóng!

Ui chao, đếch phải.

Theo Gấu, chỉ có hai người nhìn ra dã tâm của VC/Bắc  Kít, là Solzhenitsyn, và Naipaul.
Với Solz, thì là cuộc ăn cướp của Bắc Kít.
Nhưng Naipaul, nhìn rộng hơn, đây là bản chất khốn nạn của chính dân thuộc địa, không liên quan gì đến đế quốc.

Đúng quá.

Nước Mít bi giờ, bị Bắc Kít đô hộ, số phận thảm thương hơn nhiều so với bất cứ 1 tên thực dân mũi lõ nào khác!

Gấu cũng nhìn ra chân lý này, lâu rồi, thời gian Mậu Thân, khi viết những dòng sau đây:

…. Phở hồi đó ba đồng một tô. Tiền ông Diệm, như sau này người dân Sài-gòn vẫn thường xuýt xoa, tiếc nhớ một hoàng kim thời đại khi chưa nếm mùi Giải Phóng, và tệ hơn, mùi Cộng Sản, thảm hơn nữa, Cộng Sản Bắc Việt. Những buổi sáng hiếm hoi trong túi có mấy đồng bạc cắc bà Trẻ thương tình giấu giếm cho, nhân bữa trước bán hết mấy món đồ xi cho mấy cô gái, mỗi lần đi chợ Phú Nhuận, sau khi mua mớ rau, con cá, vẫn thường xúm quanh cái mẹt của bà già Bắc Kỳ, mân mê chiếc vòng mã não, chiếc cà rá hình trái tim, cây lược lưỡi liềm, tấm gương bầu dục phía sau có hình mấy nghệ sĩ cải lương... tôi có cảm tưởng cả con hẻm, khu phố cũng xôn xao cùng tôi qua những hương vị buổi sáng của nó: Tô phở nơi đình làng Phú Nhuận, trong hơi phở có chút hiền từ của khói nhang, của những lời cầu khấn, mấy bà mấy cô đi chợ tiện thể ghé đình lạy Phật và dùng điểm tâm. Dĩa bánh ướt của cô gái trong xóm với đôi quang gánh lúc nào cũng lao về phía trước, chỉ chậm lại nơi đầu con hẻm mươi, lăm phút rồi lại tất tả chạy quanh xóm. Có bữa dù đã chạy vội từ nhà, khi ra tới nơi chỉ còn kịp nhìn thấy một nửa bóng dáng cùng cử chỉ quen thuộc của cô còn nán lại phía sau lưng đòn gánh. Khi đã đi làm, có lương tháng, có nhà ở, do cơ quan cấp, bị dòng đời xô đẩy không cho ngoái cổ nhìn lại con hẻm xưa, có những buổi sáng chạy xe vòng vòng đuổi theo dư âm ngày tháng cũ, biết đâu còn sót lại qua dĩa bánh cuốn Thanh Trì, nơi con hẻm đường Trần Khắc Chân, khu Tân Định. Thứ bánh cuốn mỏng tanh, không nhân, chấm nước mắm nhĩ màu mật, cay xè vị ớt bột, kèm miếng đậu phụ nóng hổi, dòn tan, miếng chả quế, giò lụa. Chủ nhật đổi món bún thang dậy mùi mắm tôm, khi đã no nê vẫn còn thèm thuồng chút thơm tho của đôi ba giọt cà cuống đầu tăm. Nhìn bước đi của thời gian, của thành phố trong cơn tuyệt vọng chạy đua với chiến tranh, trong nỗi hối hả đi tìm ông chủ đích thực, sau những ông chủ thuộc địa, thực dân cũ, thực dân mới... cuối cùng khám phá ra đó chính là kẻ thù...

*

Số Mùa Thu này có bài phỏng vấn Herta Muller, OK lắm, hà, hà!


*

GCC, Đực & Cái


Lapham's Time

Wet Evening in April

The birds sang in the wet trees
And as I listened to them it was a hundred years from now
And I was dead and someone else was listening to them.
But I was glad I had recorded for him
The melancholy.

Patrick Kavanagh       

Chiều Ướt, Tháng Tư

Chim hót trên cành ướt
Và Gấu nghe chim hót, vào lúc, cách lúc này, một trăm năm.
Tất nhiên, Gấu thì ngỏm rồi, và một ai đó đang nghe chim hót
May cho người này là Gấu có ghi lại giùm cho anh ta hay chị ả
Nỗi buồn



AFTERWORD

Reading Graham Greene in the Twenty-First Century
Đọc GG trong thế kỷ 21
Monica Ali

Cuốn Người Mỹ Trầm Lặng là 1 bằng chứng chết người, của những thiện ý, của Mỹ, khi họ nhẩy vô Miền Nam
Bắc Kít bắt đúng gân Mẽo, khi thành lập MTGP: Chỉ có cách phịa ra cuộc chiến Mít thì mới thắng nó!
Nên nhớ, lịch sử Mít đã từng xẩy ra Trịnh Nguyễn phân tranh, giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong.
Bắc Kít thua, không làm sao lấy được Miền Nam.
Nhờ nhử Mẽo vô mà thắng!

Rợp bóng Greene: Tháng 11, 2005, trên tờ Newsweek, ký giả Christopher Dickey viết, “Một lần nữa, những lầm lẫn chết người của những thiện ý của Tông Tông Bush làm nhớ đến anh chàng Mẽo ngây thơ Pyle, trong Người Mỹ Trầm Lặng”. Tay ký giả Mẽo đi 1 đường trích dẫn, về những ngày đầu Mẽo vô Miền Nam:
'He was absorbed already in the dilemmas of Democracy and the responsibilities of the West; he was determined - I learnt that very soon - to do good, not to any individual person but to a country, a continent, a world ... When he saw a dead body he couldn't even see the wounds. A Red menace, a soldier of democracy'. Replace the word 'Red' with 'Islamic', and fast forward 50 years.

Chỉ cần thay từ Đỏ, bằng từ  Hồi Giáo, là thấy 50 năm trôi qua.

Malcolm Pryce's top 10 expatriate tales

Michael Caine in The Quiet American.

Michael Caine as Fowler in The Quiet American. Photograph: PR

Một số tiết lộ về cuộc chiến từ tài liệu CIA

Greene viết Người Mỹ Trầm Lặng, là cũng từ nguồn này, qua lần gặp gỡ một anh Xịa, khi đi thăm Le Roy, trên đường trở về Sài Gòn. (1)

(1)

Giấc mơ lớn của Mẽo, từ đó, cái mầm của Người Mỹ Trầm Lặng  bật ra, khi Greene, trên đường trở về Sài Gòn, sau khi qua một đêm với tướng Leroy, Hùm Xám Bến Tre, như ông viết, trong Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách, Ways of Escape.
"Cách đây chưa đầy một năm, [Geeene viết năm 1952], tôi đã từng tháp tùng Le Roy, tham quan vương quốc sông rạch, trên chiến thuyền của ông ta. Lần này, thay vì chiến thuyền, thì là du thuyền, thay vì dàn súng máy ở hai bên mạn thuyền, thì là chiếc máy chạy dĩa nhạc, và những vũ nữ.
Bản nhạc đang chơi, là từ phim Người Thứ Ba, như để vinh danh tôi.
Tôi dùng chung phòng ngủ với một tay Mẽo, tùy viên kinh tế, chắc là CIA, [an American attached to an economic aid mission - the members were assumed by the French, probably correctly, to belong to the CIA].  Không giống Pyle, thông minh hơn, và ít ngu hơn [of less innocence]. Anh ta bốc phét, suốt trên đường từ Bến Tre về Sài Gòn, về sự cần thiết phải tìm cho ra một lực lượng thứ ba ở Việt Nam.
Cho tới lúc đó, tôi chưa bao giờ cận kề với giấc mộng lớn của Mẽo, về những áp phe ma quỉ, tại Đông phương, như là nó đã từng, tại Phi Châu.
Trong Người Mỹ Trầm Lặng, Pyle nhắc tới câu của tay ký giả York Harding – cái mà phía Đông cần, là một Lực Lượng Thứ Ba – anh ta xem có vẻ ngây thơ, nhưng thực sự đây chính là chính sách của Mẽo. Người Mẽo tìm kiếm một nhà lãnh đạo Việt Nam không tham nhũng, hoàn toàn quốc gia, an incorruptible, purely nationalist Vietnamese leader, người có thể kết hợp, unite, nhân dân Việt Nam, và tạo thành một thế đứng, một giải pháp, đối với Việt Minh CS."
Greene rất chắc chắn, về nguồn của Người Mỹ trầm lặng:
"Như vậy, đề tài NMTL tới với tôi, trong cuộc nói chuyện trên, về 'lực lượng thứ ba', trên đường vượt đồng bằng sông Cửu Long, và từ đó, những nhân vật theo sau, tất cả, [trừ một, Granger], là từ tiềm thức bật ra."
Ways of escape
*
Ostensibly it is about the eponymous quiet American – a naive and idealistic CIA agent in Saigon during the French colonial war of the 50s. But what lingers is the relationship between the world-weary newspaper correspondent, Fowler, and his beautiful girl Phuong. Greene perfectly skewers the superfluity of western notions of love that invariably inform such situations. Undermining the idyll is the mercenary elder sister, painfully aware of the need to use Phuong's beauty to secure a provider for the family while her beauty still has currency.

Cuốn Người Mỹ trầm lặng được một tay trên tờ Guardian coi là Top Ten, trong số 10 câu chuyện xa xứ, trong có cả cuốn Hãy nói lên hồi ức của Nabokov.

Cái cách đọc Người Mỹ Trầm Lặng của tay này mới thật là đểu: Undermining the idyll is the mercenary elder sister, painfully aware of the need to use Phuong's beauty to secure a provider for the family while her beauty still has currency. [Bên dưới cuộc tình thơ mộng là sự tính toán của bà chị, lợi dụng nhan sắc cô em để đảm bảo cuộc sống gia đình].

Nhưng mà đúng y chang!

Death  Factory

Xưởng Đẻ : Viện bảo sanh Từ Dũ

Xưởng Làm Thịt Người: Lò Thiêu

Oates đọc tác phẩm mới nhất của Martin Amis

Tay Amis này, Gấu có gần như đủ tác phẩm, đếch thú cuốn nào trừ Nhà Hội.

Nó làm Gấu nhớ thời gian ở tù VC ở nông trường Đỗ Hòa. Chính Gấu là 1 trong số những tù nhân cất lên nhà hội, nhưng Gấu Cái chưa từng ghé đó lần nào.
Bả đi thăm độc nhất lần đầu, sau khi lo cho thằng con trai ở tù Chí Hoà, vì vượt biên đường Kampuchia, rồi sau đó, để bà cụ đi thăm tháng tháng.
Thời gian đó, hai năm, Gấu tính ở luôn, chẳng hề muốn về đời trở lại.
Cũng thê lương lắm, cái gọi là đời, ngoài đời, so với trại tù

Hà, hà!


https://fbcdn-profile-a.akamaihd.net/hprofile-ak-xpa1/v/t1.0-1/c8.0.50.50/p50x50/10259969_615989535161487_4025506375008471705_n.jpg?oh=e15ad285ef1b218a47d21d4375381aba&oe=54865589&__gda__=1418015671_c945df04027b07ac7a91246f7f589327

Tin Không Lề

7 hrs ·

Con đấu tố cha thời nay

Theo Facebooker Huỳnh Duy Lộc, bài viết "Trường hợp Võ Phiến" của tác giả Đoàn Thế Phúc, con trai nhà văn Võ Phiến (tên thật là Đoàn Thế Nhơn), đăng trên báo Văn nghệ Thành phố HCM.

Nhà văn Võ Phiến sinh năm 1925 ở Bình Định, tháng 4/1975 ông trốn chạy Cộng sản và định cư ở Mỹ. Hiện ông sống cùng gia đình ở TP Highland Park, thuộc quận Los Angeles, bang California, Mỹ. Ông có 4 người con, 3 con trai là: Đoàn Giao Liên, Đoàn Thế Long, Đoàn Thế Phúc và ...

See More

— with Nhat Tuan and 19 others.

 

Thu Tứ

Trường hợp Võ Phiến

Note: Bữa trước Gấu có lèm bèm về chuyện này, theo cái ý, VP không nên để cho VC in sách, mà còn dưới cái tên nhảm nhí, Tràng Thiên, vì nó làm nhớ đến cái cú, ông lấy tiền XỊA [Mẽo, đúng hơn] viết về VHMN, cùng lúc, lại dịch cái tên của thằng Mẽo thành cái tên thằng Mít, [tên cơ quan cho ông tiền], bị ông bạn Bạn chửi quá xá, mi "Chống Cộng Điên Cuồng"!

Bi giờ, chính con ông ta chửi Bố, mà chửi đúng quá, vì VP cực là bảnh, khi đưa được những cái nhìn cực bảnh về cuộc chiến Mít, cho thấy:
Nó đúng ra phải bắt buộc không được xẩy ra!

Khi VP cho in sách ở trong nước, 1 cách nào đó, là sỉ nhục chính ông ta: Chấp nhận cuộc chiến khốn nạn đó.
Ông bạn Bạn không nhận ra ý của Gấu.
Con ông VP chửi bố, mà thực sự là khen Bố, nếu chúng ta đọc ngược bài viết!

Hà, hà!

Note: Từ từ, Gấu sẽ phân tích từng trường hợp, ông con đả ông bố, nhưng với Gấu, thực sự là khen.

Thí dụ 1 đoạn sau đây, về cuộc chiến Mít:

Về giải phóng dân tộc, nhà văn Võ Phiến khẳng định không có nhu cầu!!!

Ông cho rằng sớm muộn Pháp cũng trả độc lập cho ta, viện dẫn những chuyện xảy ra trên thế giới.

Đúng là đế quốc Anh đã tự giải tán trong hòa bình. Nhưng Pháp không phải là Anh. Pháp cương quyết tiếp tục giữ thuộc địa và cướp lại những thuộc địa tạm mất trong Thế chiến thứ Hai. Song song với hành động tái xâm lược ở Việt Nam, tháng 8-1945 quân đội Pháp thảm sát hàng chục ngàn người dân nổi dậy ở thành phố Sérif, An-giê-ri, và từ tháng 3-1947 đến tháng 12-1948 đàn áp kháng chiến ở Madagascar, giết có thể đến hơn 100.000 người! Ngay cả sau khi thua to ở Điện Biên Phủ, phải chấp nhận rút khỏi Việt Nam, Pháp vẫn cố giữ An-giê-ri để rất nhiều máu phải đổ nữa rồi mới chịu thôi làm đế quốc.

Nhà văn Võ Phiến nhắc những miền đất ở châu Phi được Pháp trả lại độc lập dễ dàng: thì những nơi ấy chính đã may mắn được hưởng thành quả rực rỡ của kháng chiến Việt Nam và kháng chiến An-giê-ri đấy chứ!  Mà thực ra cũng không phải may mắn: ai cũng biết những “nước” Phi châu mới kia chỉ có cái vỏ độc lập chứ ruột thì vẫn nằm trong tay Pháp. Từ ngày “độc lập” năm 1960, các nước ấy đã bị Pháp ngang nhiên can thiệp quân sự hơn 30 lần! Vai trò áp đảo của Pháp trong vùng rõ ràng tới nỗi từ lâu đã sinh ra cái từ Francafrique: Phi nhưng mà “Phi Pháp”!

Dân tộc Việt Nam với ít nhất hai mươi mấy thế kỷ văn hiến, dân tộc Việt Nam mà chính toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã nhận xét là nhất ở Đông Nam Á, phải qua đến Nhật mới gặp được trình độ tương đương (1), dân tộc ấy lại nên như những giống người còn bán khai ở châu Phi ngồi chờ giặc thua to ở nơi khác, ban phát cho một thứ gọi-là-độc-lập hay sao?!!

Sau Thế chiến thứ Hai, không phải đế quốc nào cũng chọn buông thuộc địa. Chính dân tộc Việt Nam anh hùng đã dẫn đầu những dân tộc bị trị trong việc bắt đế quốc Pháp phải buông thuộc địa.

Hễ có kẻ đè đầu cưỡi cổ, thì khi có cơ hội ta phải vùng lên đánh hất nó xuống, chứ lẽ nào cứ ngồi yên đợi nó chán cưỡi chán đè!!!

Lý luận “không cần kháng chiến” hoàn toàn không có giá trị. Nó gốc ở cái ý muốn bào chữa cho những người không tham gia kháng chiến và cái ý muốn phủ nhận công lao to lớn của đảng cộng sản Việt Nam và ở một tâm lý tự ti về văn hóa dân tộc mà chúng tôi sẽ trình bày sau.

Lập luận như trên, đúng, nếu, chỉ nếu, cuộc chiến Mít đúng là cuộc giải phóng dân tộc, như ở những nước khác, được nêu ra trong đoạn trên.
Cuộc chiến Mít không phải cuộc giải phóng dân tộc. Mà là ăn cướp.
Phải nói rõ ra như vậy, nếu nhìn từ hoàn cảnh thực tế nước Mít như bây giờ.
Trong bài viết về VP, Gấu đã vạch ra điều này rồi.
Bài viết cho số đặc biệt về VP của tờ Văn Học, một nhà văn ra đi từ Miền Bắc gật gù, viết đúng quá, phân biệt rạch ròi hai cõi văn Quốc Cộng (2)

Người nổi tiếng đầu tiên nhìn ra sự kiện này, là Solzhenitsyn, trong lần trả lời phỏng vấn của 1 đài truyền hình Pháp, vào năm 1975. Ông phán, Miền Bắc sẽ thôn tính Niền Nam.
Cái nhìn của ông bị chính 1 ông nổi tiếng khác bẻ lại. (1)
Ông này là Paz.
Paz chê Solz là không nhận ra sự khác biệt giữa "dân tộc giải phóng", và "đế quốc xâm lược."
Nhưng chính Paz mới sai. Cuộc chiến Mít, là xâm lược, là ăn cướp. NQT

(1)

Trong “Về những nhà thơ và những người khác”, “On poets and Others”, Paz dành hai bài, một cho Solz, và một cho Gulag. Bài “Gulag”, viết thêm, bổ túc cái nhìn trước. Trong bài này, Paz nhắc tới Việt Nam, và chê cái nhìn của Solz về VN, bị hạn chế, [theo Paz, Solz phán, cuộc chiến Đông Dương là mâu thuẫn quyền lợi giữa đám đế quốc, the war in Indochina was an imperial conflict, và như thế, Solz không nhìn ra, đây là cuộc chiến giành độc lập của 1 quốc gia]. Nhưng ông bào chữa giùm cho Solz, quan điểm của ông [dù hạn chế. NQT] không làm giảm giá trị của tác phẩm, [Gulag. NQT], như là 1 chứng liệu.
Note: Không hiểu, giả như Paz, nếu còn sống, đọc lại những dòng trên, có còn chê Solz?
GCC sợ rằng, Solz phán quá đúng. Chỉ là tranh chấp qưyền lợi giữa, không chỉ thực dân cũ [Tẩy], và mới [Mẽo], mà còn có anh Tẫu nữa.
Làm đếch gì cái cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà chỉ có cú…  ăn cướp?
Toàn đoạn văn Paz lèm bèm về cuộc chiến Mít, đọc thú lắm. TV sẽ post liền tù tì, và bàn tiếp, hà, hà!
Cũng chính Solzhenitsyn, ngay từ những ngày 1975, khi Miền Nam còn “thoi thóp”, ông đã tiên đoán, Miền Bắc sẽ thôn tính nó, và coi nó như là chiến lợi phẩm, theo nghĩa, tao là ông chủ, mày là nô lệ. Trên TV có post đoạn đó, khi ông lên TV Tẩy, phán, ta sẽ về nước, khi nhà nước Liên Xô sụp đổ, đếch phải chết nơi xứ người!

Note: Bài viết của “Con Võ Phiến” chửi bố “Bố Võ Phiến”, theo Gấu, nằm đúng trong tinh thần của VC.
Và do 1 tên VC chính gốc viết, chắc là để dọn đường cho lũ con về, sau khi ông bố nằm xuống.
Tiếng hát từ địa ngục mà còn bò về, thì ai cũng về được cả!

(2)

Võ Phiến rời Việt Nam ngay 1975, ông không có "cơ hội" ở lại chịu chung với cả miền Nam những cay đắng khổ nhục sau đó. Ở lại là chết, nhưng do bỏ đi "sớm", ông không cảm nhận được nỗi vinh quang và nhục nhằn của kẻ ở lại: một cách nào đó, ông không cảm nhận sự thực, về "thất bại trong chiến thắng", đối với những người Cộng Sản, và do đó ông không "trực giác" cơ hội thống nhất đất nước, không phải theo kiểu chiếm đoạt Miền Nam: chỉ ở trong nhục nhã cay đắng của Miền Nam thất trận, chúng ta mới có thể hiểu những năm tháng ghê rợn cả một miền đất sống dưới tai trời ách nước là chủ nghĩa Cộng Sản; và ôm lấy những đồng bào ruột thịt Miền Bắc

Đây là một tất yếu lịch sử. Những chuyện Bắc Tiến, giải phóng Miền Bắc, những ngày 1954 chỉ để nói cho vui, để lên tinh thần... tại sao vậy? Bởi vì nếu coi ngôn ngữ mới là căn phần của con người, văn chương Miền Nam không hề mang chất đế quốc, không hề nhắm tới quyền lực. Từ một văn chương như thế làm sao có thể đi xâm chiếm Miền Bắc, cho dù là để giải phóng?

Văn Học Tổng Quan của Võ Phiến, đoạn nói về nhà văn Miền Bắc thoắt chốc vào Nam ra Bắc, dưới những bút hiệu khác nhau, rồi giả dụ Miền Nam cũng làm như vậy, là quá tếu và không hiểu cả hai miền, còn hạ giá (hay quá đề cao?)nhà văn Miền Nam. Bởi vì, văn chương Miền Nam, bản chất của nó, không mắc mớ gì đến tinh thần chiếm đoạt, tranh ăn thua, còn Miền Bắc, vẫn nằm trong dạng khai hoá, vẫn tự coi như là quyền năng chính thống, theo kiểu, cần dậy cho mày một bài học, và phải trả bằng xương máu, bằng đất đai: Đấy là ý nghĩa của nhiệm vụ khai hoá! Một cách nào đó, nếu chúng ta nhìn ra tương quan dây mơ dễ má, giữa Cách Mạng Pháp, và chủ nghĩa Cộng Sản, cùng lúc chúng ta nhận ra tính thực dân của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa: đây vẫn là một thứ văn chương quyền lực. Nhìn theo cách thế đó, chúng ta còn nhận ra tính giai đoạn của dòng văn chương phản kháng ở trong nước. Nó phải qua đi, để lộ ra con người với ngôn ngữ, những lời nói lành lặn của nó...

Chú chỉ ra tính chất văn chương miền Nam và miền Bắc hay quá. (3)

Nhà văn Võ Phiến nhắc những miền đất ở châu Phi được Pháp trả lại độc lập dễ dàng: thì những nơi ấy chính đã may mắn được hưởng thành quả rực rỡ của kháng chiến Việt Nam và kháng chiến An-giê-ri đấy chứ!

Anh VC rất ư là to mồm về vụ này. Gấu nghe kiểu lập luận này nhiều lần rồi.
Và lúc thoạt đầu cũng...  tin, nhưng đẩy đến tận cùng, thì nó lòi ra ý này:
Không lẽ 3 triệu Mít được Thượng Đế chọn, như Do Thái được chọn, để đi vô.... Lò Thiêu?

Hễ có kẻ đè đầu cưỡi cổ, thì khi có cơ hội ta phải vùng lên đánh hất nó xuống, chứ lẽ nào cứ ngồi yên đợi nó chán cưỡi chán đè!!!

Bi giờ Mafia Đỏ đè cả nước, bán cả nước cho Tẫu, sao không vùng lên đi?
Vấn nạn này, phải để Naipaul chửi thì mới đã!


*

Cuốn này, mua hồi Toronto vưỡn còn mấy tiệm sách Pháp, sau khi Naipaul được Nobel năm 2001, cỡ 2002 gì đó.
Nabokov phán về văn chương, và về những nhà văn khác, thực cay độc, và cuốn sách của ông, có cái tít là Bạo Miệng, Strong Opinions, TV đã từng giới thiệu.
Naipaul khủng hơn nhiều, nhưng khác hẳn Nabokov: Trong Naipaul có nhà văn của thế giới thứ ba mà Nabokov không hề biết tới, như bìa sau cuốn sách vinh danh ông, “lương tâm lớn lao nhất của… Tây Phương”.
Nguyên tác: Chuyện trò với V.S. Naipaul, Conversations with V.S. Naipaul


*

Ông có nghĩ tới tương lai của tiểu thuyết, cũng như tương lai của chính ông, như là 1 tiểu thuyết gia, khi “cái gọi là” tiểu thuyết thì ngày càng xa vời cái trò vãi nước đái và chức năng sáng tạo như là tưởng tượng, của tiểu thuyết gia?

Pensez-vous que l'avenir du roman, ainsi que votre propre avenir de romancier, s'écartera de plus en plus du romanesque, de la fonction imaginative?

Oui. Continuer à écrire des romans « de création » serait possible à condition de croire à l'existence d'une société ordonnée, au sens où après les troubles vient le calme, et où toutes les crises retombent dans ce grand calme sous-jacent. Mais cela n'existe plus pour la majorité des gens, et ce type d'oeuvre d'imagination leur est de moins en moins utile. Ils vivent dans un monde instable, aux changements rapides, ils ont besoin qu'on les aide à le saisir à le comprendre et à le controler, Et c'est ainsi que l' écrivain peut être à leur service. 

The rise and rise of Xi Jinping

Xi who must be obeyed
Quyền lực nhất, kể từ Mao

Bài này, trên "Người Kinh Tế", cho thấy nước Tẫu đang thay đổi mạnh. GCC không khoái chính trị, nhưng post lại ở đây, để cho độc giả nào thích, vì có thể, nó liên quan tới xứ Mít, 1 cách nào đó.

Note: Bệ số báo về, thì thấy có bài về Mít: Chế độ bảo hiểm y tế, con nít, nhà thương ở thiên đường XHCN. Gấu mới đọc 1 bài trên The New Yorker, bịnh nhân ở Tẫu làm thịt bác sĩ, do chê không chịu chữa trị cho họ, và tờ báo đồng tình với những tên sát nhân-bịnh nhân! 

*

Health care in Vietnam

Limping along
 Què quặt dài dài

HANOI

Ordinary folk are sick and tired of their public hospitals: Dân chúng xứ Mít thì chán ngấy nhà thương thí của họ.

AS the tumor malignant? Nguyen Thi Hoat's doctors could not tell because their public hospital lacks brain-scanners. Ms Hoat's only option was to travel 130km (80 miles), on the back of her sister's motorbike, from her village to a crowded public hospital in the capital. Yet her state insurance policy covers just 30 of any medical expenses incurred outside her home province. The $150 that Ms Hoat, a rice farmer, put towards blood tests and a brain scan is equal, for her, to a month's earnings.

It is the job of the authorities to look after health care. The Communist Party of Vietnam first pledged health-sector reform as early as the 1920S, well before it declared the country independent in 1945. It developed a publicly financed health-care system even as it was fighting wars against France and then America. The provision of health care is supposed to be one of the pillars on which the party's legitimacy is based.

Yet the health-care system, like the state-dominated economy, is limping. The 3% of GDP the state spends on the system (nearly half of total health spending) is not enough to improve health infrastructure. Hospitals have outdated -facilities and maddeningly opaque bureaucracies. A law on health insurance passed in 2008, created to assist the poor and ethnic minorities, is far from comprehensive. But the government knows that providing proper health care is key to preventing the kind of social unrest that undermines its authority.

Some reform is under way. The government has given some hospitals more autonomy. And in June the national assembly passed a new version of the insurance law designed to make participation compulsory. The idea is to lure into the fold poorer and black-market workers who have long avoided paying insurance.

Yet distrust of the system runs deep. Some public hospitals have built flashy new wings which cater to well-heeled patients but do little to meet general demand. Bed-sharing is common, especially in urban wards flooded by patients from the t countryside. Though this is an authoritarian state, ordinary Vietnamese are remarkably outspoken about social issues. In health, they complain of the prevalence of "out of pocket" payments, which happen in around half of health-care transactions. Many of the payments are really bribes paid on top of formal hospital fees. They mean that afford ability is often a larger factor than need, for all but the richest patients. In a typical case, a university lecturer in Hanoi says she slipped doctors and t nurses about $250 to ensure attentive treatment when she gave birth at a public maternity hospital. The rate, she says, was $1 per injection, $2 for a bath and $5 to sidestep a queue.

The health minister, Nguyen Thi Kim Tien, has faced blistering criticism this year 1 after a parade of health scandals, including measles outbreak that killed more than 100 children. Online, thousands have called for her resignation. A popular television satire advises sick patients to avoid corrupt doctors by curing themselves. The fault is not all the minister's-or the doctors'; they have long earned as little as $100 a month, for instance. In order to get by, doctors moonlight at private hospitals and clinics that are popping up in cities, led by Hanoi and Ho Chi Minh City, to serve foreigners and affluent Vietnamese, people who would otherwise opt for treatment in Singapore or Hong Kong. One such institution is Vinmec International Hospital, a 6oo-bed facility financed by Vingroup, a property developer. Its director, Nguyen Thanh Liem, says private hospitals help to minimize overcrowding elsewhere. And they showcase an international standard of care that may one day spread to the public sector. That is cold comfort for Nguyen Thi Hoat, the rice farmer with a brain tumor. She says if her tumor proves cancerous, she will need to borrow from her brother and sister for surgery in Hanoi. Her family is worried. Yet poorer neighbors, she says, have fewer options. She considers herself lucky.


 TRẢ LẠI LỊCH SỬ NHỮNG GÌ CỦA LỊCH SỬ 

Tại sao bầu cử thống nhất đất nước năm 1956 không thành...

 Trước giờ chúng ta thường được thông tin của lề phải nói rằng, tại vì chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm không chấp nhận bầu cử vì sợ sẽ thất cử trước chính quyền VNDCCH của Chủ Tịch Hồ Chí Minh...
 Ta sẽ sơ lược để tìm hiểu nhé. Thời điểm từ năm 1954, là năm ký Hiệp Định Giơnevơ cho đến năm 1956 là năm sẽ phải Tổng tuyển cử thống nhất hai miền, thì như các bạn đã biết là công cuộc Cải Cách Ruộng Đất đang "Long Trời Lở Đất" trên khắp lãnh thổ miền Bắc của VNDCCH. Những cuộc di cư của hàng trăm ngàn đồng bào Công Giáo vào Nam vẫn tiếp diễn ,khiến cho các vùng Công Giáo truyền thống Bùi Chu, Phát Diệm...vắng tanh, chỉ còn các cha ở lại để giữ tài sản Nhà Thờ. Vùng tập kết tự do cho dân di cư ở Hải Phòng vẫn hoạt động trong thời hạn 300 ngày...Ước tính có khoảng 900.000 ngàn đã rời bỏ quê hương ở Miền Bắc để di cư vào Miền Nam. Số người di cư này, vốn có sự căm thù hiển nhiên với CS, cộng với các Giáo Phái Cao Đài, Hòa Hảo...đều có mối thù không khoan nhượng với CS. Và hơn tất cả là tuyệt đại đa số người Miền Nam, miền Trung đều không ủng hộ CS. Và thực tế trong cuộc kháng chiến 9 năm thì Việt Minh không thành công ở miền Nam và miền Trung như ở Miền Bắc được..
 Ngược lại chỉ có khoảng 160.000 ngàn người vừa dân vừa quân đội Việt Minh đã rời bỏ quê hương để tập kết ra Bắc. Bối cảnh thì như vậy, và với truyền thống thắng cử của nền dân chủ trước nền độc đảng thì hẳn là ngược đời nếu cho rằng chính quyền Ngô Đình Diệm không dám Tổng tuyển cử vì sợ...thất cử.
Việc từ chối Tổng tuyển cử thống nhất là sự thật chứ không phải là bịa đặt của chính quyền CS. Tất cả dường như bắt đầu từ một con người. Nhà chí sĩ Ngô Đình Diệm. Và với lý do là không tin có sự bầu cử công bằng, chứ không phải là sợ thất cử.
Khi Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ, phải chấp nhận ký hiệp định Genever 1954, thì chỉ có 7/9 nước tham gia ký Hiệp Định này. Và hai nước không ký chính là Hoa Kỳ và Quốc Gia VN, tên của QG mà lúc đó còn do Bảo Đại làm quốc trưởng và Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Mặc cho Pháp thúc ép, và ngay cả QT Bảo Đại thúc giục nhưng TTg Diệm vẫn cương quyết không chấp nhận ký, vì lý do chia cắt đất nước...Ông chỉ đạo cho ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn QGVN dứt khoát không ký với một tuyên bố long trọng :
 "Việc ký hiệp định giữa Pháp và Việt Minh có những điều khoản gây nguy hại nặng nề cho tương lai chính trị của Quốc gia Việt Nam. Hiệp định đã nhường cho Việt Minh những vùng mà quân đội quốc gia còn đóng quân và tước mất của (Quốc gia) Việt Nam quyền tổ chức phòng thủ. Bộ Tư lệnh Pháp đã tự ấn định ngày tổ chức tuyển cử mà không có sự thỏa thuận với phái đoàn quốc gia Việt Nam... chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở."
Và khi cái Hiệp Định tai họa đó đã ký thì QG VN và Hoa Kỳ đã không ký. Ông ngoại trưởng Trần Văn Đỗ đã bật khóc...TTg Ngô Đình Diệm tuyên bố treo cờ rủ vào ngày ký kết hiệp định vì biết trước sự chia cắt đất nước...Và ông đã có một câu nói nổi tiếng :
 "Phải thống nhất đất nước trong tự do chứ không phải trong nô lệ"
Và khi năm bầu cử 1956 đến, khi đó ông đã là Tổng Thống của nền Đệ Nhất Cộng Hòa, ông đã bác bỏ mọi khả năng bầu cử hòa bình để thống nhất hai miền. Vì không tin rằng sẽ có một cuộc bầu cử hợp lệ, tự do và công bằng. Chính phủ Việt Nam DCCH lại được nước, liên tiếp đưa ra các đề nghị bầu cử. Nhưng chính quyền NĐD không trả lời...Và thế là chiến tranh giữa hai miền nổ ra sau đó đưa đến bao cảnh tan nát điêu linh. Và Chính quyền VNDCCH cũng lên tiếng tố cáo chính quyền NĐD không chịu bầu cử thì cũng không sai...
Nhưng trong vòng thân tình thì ông cố vấn Ngô Đình Nhu đã cười ruồi khi trả lời phóng viên nước ngoài rằng : "Nếu có bầu cử thì dù chúng tôi có nhắm mắt lại cho họ (CS) gian lận bầu cử thì chúng tôi vẫn thắng lớn"

 MTA
*

The Real Madame Bovary

Flaubert's ageless anti-heroine is back in two new films. But who was she? Julie Kavanagh sets out to establish which of the women in Flaubert's life was the real Emma Bovary Flaubert's ageless anti-heroine is back in two new films. But who was she? Julie Kavanagh sets out to establish which of the women in Flaubert's life was the real Emma Bovary

Who was she, really?

As Flaubert’s great novel inspires two new films, Julie Kavanagh does some digging

WHEN "MADAME BOVARY" first appeared, in serial form, in 1856, Flaubert received a fan letter from a woman in Normandy. "This story isn't fiction," she wrote. 'This woman has existed." He replied with the answer he gave every curious reader. "'Madame Bovary' has nothing vrai in it. It is a totally invented story; into it I put none of my own feelings and nothing from my own life."

Khi “Bà Bô” lần đầu tiên xuất hiện, tác giả của nó nhận được 1 cái thư, của 1 độc giả, viết, “Đây không phải là giả tưởng. Người đàn bà này có thực.” Tác giả bèn lịch sự trả lời, không có cái gì là thực cả, tơàn phịa không à!

Trên tờ Intel số mới, nhân hai phim mới ra về "Bà Bô", có đi bài thật là tuyệt vời về cuốn sách này.
TV sẽ lai rai viết về nó, như là cái mồi nhử, nhân đó viết về Gấu Cà Chớn, và những cuộc tình “giả mà quá thực” của nó.

*

Mia Wasikowska, nữ tài tử Úc, đóng vai Bà Bô, trong phim sắp chiếu


Ghi chú trong ngày

&*

Cuốn này quái quá, một nửa dành cho Kafka, một nửa, cho Langer, bạn của Kafka.
Gấu thú thực chưa từng nghe đến tên của tác giả này. Phần thơ & nhạc, song ngữ [tiếng Hebreu]
Phần Kafka, bản dịch mới

Gõ Google, ra bài này:

Kafka & Langer: An Unusually Complex Friendship


*

DTN dịch Liêu Trai, nên chết bất đắc kỳ tử. Ai dịch Liêu Trai là bị lời nguyền này. Nguyễn Hoạt cũng dính lời nguyền này, chết trong tù VC! (1)

Nhà văn sống bằng cây viết, thì cũng giống như điếm sống bằng cái số ta, ý câu của Walter Benjamin, là như vậy, kiếm hoài không ra trên Tin Văn, nhưng ra câu này: Prostitution can lay claim to being ‘work’ the moment work becomes prostitution, mại dâm có thể đòi được coi là ‘lao động’, vào lúc mà lao động trở thành mại dâm (2)

Vuong Chung Nguyễn Huệ Chi cũng dịch Liêu Trai đấy Nhị Linh

35 minutes ago • Like  

Nhị Linh Nhượng Tống nữa ^^ ngay không lâu trước khi chết, cũng bất đắc kỳ tử

34 minutes ago • Like

Vu Hatue Tản Đà cũng dịch LT. Trên Thực Nghiệp Dân Báo cũng có 1 bản dịch LT, nhất thời mình không nhớ ra tên dịch giả.

26 minutes ago • Like

Quoc Tru Nguyen

Tản Đà chết thật thê thảm. Nhượng Tống cũng bị làm thịt. Chỉ cầu cho NHC may mắn hơn mấy đấng kia, thành thực nhe, đừng có nghĩ là GCC chọc quê.
Giai thoại trên Gấu nghe qua ông anh Hiếu Chân, tức NH, khi ông đang dịch Lieu Trai, có người bạn cảnh cáo ông.

about a minute ago • Like

Chẳng cần Walter Benjamin, mấy nhà văn nữ hàng đầu Miền Nam, thời nhật báo nở rộ, gặp nhau là than thở, hồi này đi khách mệt quá!
Bà nào cũng cầy, hơn 1 cái fơi ơ tông!


A Defense of Ardor

Writing in Polish

People sometimes ask me: "Why don't you write in English?" Or-if I'm in France-why not in French? They clearly assume that I'd benefit, that I'd do better using some universal language instead of my provincial Polish. And I agree in principle; it would certainly be easier to write in some more important language (if I could pull it off!). It reminds me of a story about George Bernard Shaw, who supposedly confessed in a letter to Henryk Sienkiewicz that he couldn't understand why the Poles didn't simply switch to Russian. The Irish had, after all, mastered English and were managing beautifully! Really.
    Writing in Polish-in the nineteenth century, after the partitions-was an act of patriotism. The Polish language was in grave danger, especially in the Russian sector. Today it's no longer a question. Even if he remembers his city's past-and such remembrance is in fashion these days-a young poet born in Gdansk won't hesitate in choosing which language to use. He only knows one, after all. Only someone like myself, who's lived abroad for years, meets up with the-naive?-question of picking his language.

Adam Zagajewski

Note: Gấu "đi" bài này, chủ yếu là để chửi lũ Mít bày đặt viết bằng tiếng mũi lõ!
Tính “đi” lâu rồi!

Viết bằng tiếng Ba Lan

Người ta hỏi tôi, tại sao không viết bằng tiếng Hồng Mao? Hay là - nếu tôi ở Tẩy, tại sao không chơi 1 đường tiếng... Đầm? Hẳn là họ yên chí, sẽ có lợi cho tôi rất nhiều, nếu sử dụng 1 thứ tiếng quốc tế thay vì đặc sản Ba Lan. Về nguyên tắc, tôi OK. Viết bằng 1 thứ tiếng quan trọng thì dễ dàng hơn nhiều (thì cứ giả dụ như tôi rất rành tiếng Anh, hoặc tiếng Tẩy, mà cho dù không rành cũng không sao, mướn 1 thằng nào đó viết cho mình, dễ cái ợt, văn bằng tiến sỡi của Thầy Kuốc hẳn là ở trong trường hợp này, hà, hà!)
Nó làm tôi nhớ câu chuyện về Trạng Quỳnh. Một lần, ông viết thư cho 1 người bạn, tỏ ý thắc mắc, tại sao tụi Mít không viết, và nói bằng tiếng…  Tẫu?

Note: GCC dịch loạn. Thực sự, đây là 1 bài viết rất quan trọng, và có 1 cái gì đó, khiến chúng ta phải đọc, vì nó liên quan tới số phận Mít, và liên quan tới cuộc “đi tìm nọc độc văn hóa Mỹ Ngụy”, mà trong nước đang hăm hở, và nhờ thế, GCC được đọc lại đa số những bài viết ngày nào của mình.


Tàn Ngày
Chúng ta viết cho ai?
hay là
Cái kệ sách giả dụ

Note Bài này, GCC mới kiếm thấy, nhưng lại không biết ai là tác giả. Mò mãi mới ra: Italo Calvino.
Bài tuyệt hay. Nó giải thích được cái sự tha hóa của đám nhà văn Mít, chê tiếng Mít, viết bằng tiếng mũi lõ: Đếch có mảnh đất nào an toàn cả. Tác phẩm, chính nó, là 1 trận địa.
Đám khốn này, biết tỏng ra là đếch ai thèm đọc chúng, trừ đám bạn bè quanh quẩn cũng mất gốc như chúng.

Miêu sinh
Đệ nghe thế đủ rồi, cái thứ văn chương ấy chỉ nên đem về đầu giường đọc cho vợ nghe thôi. Ở chỗ đông người nhai nhải mãi chán lắm.

The Tiger Guest
There is nothing more characteristic of a country than its imaginations.


KL vs VC

Thời Sự Hình


&

Pour saluer Semprun

La première est de Maurice Blanchot : « Qui veut se souvenir doit se confier à l’oubli, à ce risque qu’est l’oubli absolu et à ce beau hasard que devient alors le souvenir ».
[Kẻ nào muốn nhớ là phải “bán mình” cho lãng quên, cho rủi ro chẳng nhớ 1 tí chó gì về em hết, và cho nỗi tình cờ tuyệt vời, chính cái này sẽ trở thành kỷ niệm để đời, "không nàm sao quên lổi"]

La seconde est d’André Malraux : « … je cherche la région cruciale de l’âme où le Mal absolu s’oppose à la fraternité ».
Người nào mong mỏi hoài nhớ chắc hẳn đã tin rằng có lãng quên, tin rằng có sự rủi ro tiếp đó là sẽ quên tuốt tuột, và chính từ sự ngẫu nhiên tuyệt vời này mà kỷ niệm được hình thành.

Người ta biết rằng sẽ quên, không chừng quên tuốt, nên biến những gì đáng nhớ thành ký ức, để sau này khỏi quên đó mà .

K 

I seek the crucial region of the soul where absolute Evil and fraternity clash.

-Andre Malraux 

Tôi tìm vùng chủ yếu của linh hồn, nơi Cái Ác tuyệt đối và tình anh em đụng độ 

Có Ðức Ông “Don” Quichotte, trong Jorge Semprun, vừa mới mất, 87 tuổi. Nhưng 1 Don được những cơn hỗn mang của thế kỷ 20 đẽo gọt, tạo dáng. Ông là đứa con trai của chiến tranh. Từ đầu đến chân, ngửi chỗ nào cũng có mùi chiến tranh. Và thế là ông không làm sao ra khỏi. Như thể, lúc nào ông cũng cà khịa với 1 kẻ nào đó, hay 1 điều gì đó. Ba cuộc chiến quần ông nát bấy người, chúng biến thành gia tài của… riêng ông: cuộc chiến Tây Ban Nha, vũ trụ trại tập trung Nazi, và hoạt động bí mật dưới cờ VC quốc tế cho tới năm 1964.


“You ask what haunts my writing,” Mr. Semprún said in 2007. “Well, after the camp there was the moral question of being a Communist. Trying to explain the folly and the necessity of that choice. Trying to show how it came to be my raison d’être, and why this dead star hovered for so long above the previous century. Here are my obsessions, in no particular order: torture, the camps, the Jewish experience during the Holocaust, the singularity of that experience in the larger context of deportation. It is not easy to reflect on these issues today. Historically, the most significant pitfall has been the most dangerous — silence, the refusal to talk about what happened.”

“Ông hỏi, cái gì ám ảnh cái viết của tôi”. “Sau trại tù thì lòi ra câu hỏi đạo đức về cái chuyện là 1 tên CS. Cố gắng giải thích sự khùng điên và sự cần thiết của chọn lựa đó. Cố chứng tỏ, bằng cách nào một bữa đẹp trời nó biến thành lý do hiện hữu, và tại làm sao ngôi sao chết lại lửng lơ lâu đến như thế trên thế kỷ vừa qua. Ðây là những ám ảnh của tôi, không theo một trật tự đặc biệt nào: tra tấn, trại tù, kinh nghiệm Do Thái trong thời kỳ Lò Thiêu. Tính đặc thù của kinh nghiệm này ở trong một nội dung rộng lớn hơn là tống xuất. Không dễ dàng suy nghiệm những đề tài này vào những ngày này. Nói theo tính cách lịch sử, cạm bẫy ý nghĩa nhất thì nguy hiểm nhất – im lặng, chối từ không nói về những gì xẩy ra”.

C'est la mort de Primo Levi qui est à l'origine de L'Écriture ou la Vie , n'est-ce pas ?

Oui. Primo Levi était un de ceux qui semblait avoir le mieux assumé la mémoire de la mort. Il avait acquis une certaine sérénité, était revenu à la fin de sa vie avec un livre qui n'était pas un roman mais un essai d'ordre sociologique. Et puis un jour, il se suicide. Je peux très bien imaginer ce qui se passe alors. Nous sommes un 11 avril. Le mois d'avril est en Europe le mois des commémorations liées à la déportation. Cette mémoire dominée, maîtrisée, assagie, éclate de nouveau. Ce retour du printemps est toujours très angoissant pour l'être humain en général et pour le déporté en particulier. Quel mois terrible et terrifiant, cela fait trois ans à peine qu'il est devenu à mes yeux un mois comme les autres...

L'effroyable leçon des camps n'est-elle pas de constater que la liberté de l'homme, c'est de pouvoir faire tout le Bien et tout le Mal ?

Absolument. La grande leçon spirituelle, métaphysique, philosophique, c'est que le Bien et le Mal sont ancrés dans l'homme parce qu'il est libre. La théologie catholique a eu beaucoup de mal à se sortir de cette question. Elle a inventé la ligne du Bien qui conduit à Dieu et la ligne du Mal qui est celle de la liberté humaine. La théologie catholique prend des risques énormes, car si la seule fois où l'homme est libre, c'est-à-dire peut se détacher de Dieu, c'est pour faire le mal, voilà qui ouvre à une théologie du Mal extrêmement dangereuse. Or on est obligé d'accepter cette réalité. On ne peut exiger la disparition de la pulsion de Mal. Tout juste peut-on construire des barrières efficaces, des schémas de droits, d'obligations et de contraintes sociales pour que prévale la capacité du Bien. Sans pour autant vouloir construire un homme nouveau, synonyme d'utopie sanguinaire et sanglante. L'homme nouveau est toujours un monstre.
Source

Cái chết của Primo Levi là nguồn của cuốn Viết hay Ðời?

Ðúng thế. Primo Levi có vẻ như là nhà văn bảnh nhất trong cái việc “cưu mang” hồi ức của cái chết. Ông viết về nó, một cách thanh thản, cuối đời lại ban cho đời 1 cuốn sách, không phải tiểu thuyết mà một tiểu luận xã hội. Thế rồi 1 ngày đẹp trời ông tự tử. Tôi thật sự nghĩ mình hiểu được, và tưởng tượng ra được điều gì khiến ông làm như thế. Chúng tôi ở vào cái ngày 30, ấy chết xin lỗi, 11, Tháng Tư. Tháng Tư là cái tháng chết tiệt không phải chỉ ở nước Mít mà ở toàn Âu Châu, tháng tưởng niệm tống xuất. Cái hồi ức này, được kìm giữ, lại bật tung ra. Sự trở lại của Tháng Tư luôn luôn là 1 nhức nhối đau thương, không chỉ cho loài người mà còn cho riêng từng kẻ bị tống xuất. Thật khủng khiếp, thật kinh sợ, riêng tôi phải mất 3 năm thì mới chịu nổi nó.

Bài học ghê rợn về trại tù phải chăng là từ nó, con người suy nghiệm ra chân lý: tự do của con người, đó là khả năng làm tới chỉ, cả hai thứ, Cái Thiện và Cái Ác?

Ðúng tuyệt đối.
Bài học lớn tinh thần, siêu hình, triết học, đó là Thiện và Ác thì cắm rễ ở trong con người bởi là vì nó tự do.
Thần học Ky Tô nhức nhối khi đụng vô câu hỏi này, và nhức nhối, làm sao thoát khỏi. Nó phịa ra hai dòng, dòng Thiện đưa đến Chúa, và dòng Ác là dòng của sự tự do của con người. Thần học Ky Tô ôm vào nó đủ thứ rủi ro, ấy là bởi vì, một khi con người tự do một cái, là nó vờ Chúa, nếu Chúa làm quá, thì làm thịt Chúa luôn, để làm điều Ác, từ đó mở ra con đường, hay lý thuyết thần học về Cái Ác Tuyệt Ðối, cực kỳ nguy hiểm.
Chúng ta bắt buộc phải chấp nhận thực tại này. Chúng ta không thể nào đòi hỏi phải khu trục đến tận triệt để Cái Ác, 1 tiếng « cà rựt », của nó, cũng không. Người ta có thể xây dựng thành lập những rào cản hiệu quả, nhưng phương án, đồ án về quyền lợi, bổn phận, và những cưỡng chế xã hội, để làm bốc lên Mùi Thiện. Nhưng, chớ bao giờ có cái ham muốn thay mặt Chúa, tạo ra một con người mới, sặc mùi không tưởng, sặc mùi máu, sặc mùi VC quốc tế!
Bởi vì thứ con người mới mà Bác H mơ tưởng đó, là 1 Con Quỉ.
Luôn luôn là như vậy


Vila-Matas @ ML

*

ML Janvier 2008, Simone de Beauvoir

Buồn với "Nỗi buồn chiến tranh"

Báo Le Magazine Littéraire mới nhất, về Simone de Beauvoir, trong mục thường xuyên của nó, Sổ Đọc, [Carnet de Lecture], có một bài viết tuyệt vời về nhân vật Kurtz, của Trái Tim Của Bóng Đen, của Conrad, nhân dịp tái xuất bản tuyệt tác này. Ông Từ giữ đền "Sổ Đọc" này, Enrique Vila-Matas, là người Tây Ban Nha, viết bằng tiếng Tây Ban Nha, được dịch qua tiếng Pháp Kurtz des ténèbres [Kurtz của bóng đen].

Vila-Malta viết về Conrad:
Ông gia nhập truyền thống rất xa xưa, theo đó, cái gọi là kỷ luật, sự tu luyện phải đến từ bên trong, bởi vì đây chính là sức mạnh tâm thần bật ra từ thiên tài về nơi chốn của chính bạn, le genius loci, nói một cách khác, từ chính chúng ta.

[Joseph Conrad adhérait à la tradition la plus ancienne, selon laquelle la discipline doit venir de l'intérieur, puisqu'il s'agit d'une force mentale émise par notre propre génie du lieu, le genius loci, autrement dit nous-mêmes. L'homme ne se libère pas en donnant libre cours à ses impulsions et en se montrant changeant et incapable de se contrôler, mais en soumettant la force de sa nature à un projet prédominant, à un code mental d'acier qui sache éliminer sa liberté la plus sauvage et le situer dans le cadre d'une vie disciplinée, en faisant appel aux desseins intérieurs du génie du lieu.]
*
Còn một bài viết nữa, trong cùng số báo, cũng thật tuyệt, của Linda Lê, trong mục thường xuyên của bà, "Trở về với những tác giả cổ điển". "Tẩu khúc của thần chết", Missa sine nomine, nguyên tác tiếng Đức, của Ernst Wiechert. Một bản di chúc tâm linh của một người sống sót trại tù Buchenwald.

Bài viết cũng khiến Gấu liên tưởng đến Cánh Đồng Bất Tận.

Đối diện với điều không thể nói được, không thể gọi tên, viết về sự phạm tội và cứu cuộc, liệu vẫn còn có nghĩa?
Câu trả lời:
Tiếng nói của tôi được vời tới, và nó kể
[Ma voix a été appelée, et elle raconte].
Của Gió và Nước

Nhưng Trái tim của Bóng Đen mà dịch là Bóng tốì của Trái tim, thì tiếu lâm quá. Đây là Lê Đình Nhất Lang, của Da Mầu dịch, trong nước, tay Cương Thi, bèn thuổng luôn!
Nếu như thế, cái tít Nỗi buồn chiến tranh lại đúng hơn so với Thân phận Tình Yêu!


Thơ Serbia

Nam Tư, một xứ sở mà tất cả những nhà thơ mới được thêm vô tuyển tập, họ sinh và và lớn lên và nghĩ về họ, như là người Nam Tư, xứ sở đó đếch còn, trong thập niên 1990, với cả 1 lô những cuộc chiến đẫm máu. Rất nhiều thành phố làng mạc bị tiêu huỷ, hàng ngàn con người bị giết hại, tàn sát, trong khi nhiều hơn thế nhiều, là những con người bị tống xuất ra khỏi nhà của họ. Serb, là 1 trong số những kẻ gây tội, mà cũng là 1 trong số nạn nhân chính, chính xứ sở này, cũng bị chia năm xẻ bẩy, về miền đất, về chính trị, và về mọi đường hướng khác có thể có, qua đó, con người bị tung toé ra khắp mọi nơi, trên một vùng đất rộng - thường xuyên là đụng độ, va chạm, trộn trạo với những nhóm sắc tộc khác, và như thế, mỗi 1 nhóm thì lại có riêng cho nó, một lịch sử và ngay cả 1 văn hóa tách biệt. Vào năm 1999, NATO dội bom Serbia hai tháng rưỡi, nhằm ngăn chặn chiến dịch làm cỏ sắc tộc giống dân Albania, trong một thị trấn Serbian bị tranh cãi, thuộc Kosovo. Những mục tiêu quân sự và dân sự bị ăn bom, và con số thương vong, dân thường, cũng thật đáng kể. Kế tiếp, tổng thống Slobodan Milosevic bị lật đổ, vào Tháng Mười 2000, bởi 1 cuộc nổi dậy của dân chúng, cuộc ám sát tổng thống cải tổ Zoran Djindjic vào Tháng Ba 2003, và sau đó, là hầm bà những đau thương, tang tóc, về kinh tế, về chính trị cho đến tận bây giờ. Những nơi chốn tồi tệ để sinh sống tại một nơi có tên là Nam Tư xưa, nhưng ở Serbia, thì cũng rứa, bị cô lập như nó là, và là một trong những quốc gia bị bỏ rơi, mạt rệp, thật khó mà có được 1 cuộc đời bình thường.
Hàng ngàn con người có học, có văn hóa, có nghề nghiệp bỏ chạy, hầu hết chẳng ai trở về lại. Sách tốt tiếp tục được xb, nhưng những tác giả hiếm được dịch, và gần như vô phương, kiếm được cái visa ngắn hạn đi ngao du nước ngoài.
Mọi người biết tên những tội phạm chiến tranh người Serb, nhưng không một ai biết tên những nhà văn nhà thơ của nó.

Charles Simic

Bạn có thể đọc đoạn trên, và so sánh nó với xứ Mít, sau 30 Tháng Tư 1975. Có 1 đất nước Mít đếch còn hiện hữu. Không chỉ về mặt địa lý, mà về đủ mặt. Một tên Mít lưu vong, thí dụ như Gấu Cà Chớn, giả như có nhớ nhà, thì đếch phải xứ Bắc Kít ngày nào của nó.

Nói tới Bosnia, GCC bỗng nhớ tới Simic và bài viết của ông về cuốn Vợ Hổ, tác phẩm đầu tay của 1 em đến Mẽo từ vùng đất này. Khi viết nó, em 25 tuổi, đến Mẽo năm 1997, khi mới 12.
GCC sẽ post bài điểm sách của ông, trên tờ NYRB, số May, 26, và rảnh rang, sẽ giới thiệu sau.
Cuốn này, theo Simic, chẳng mắc mớ gì tới thứ hồi ức nhớ nhà của 1 di dân giả đò mang dáng 1 thứ tự thuật, mà là của 1 bậc thật có tài, Téa Obreht là một nhà văn có tài lạ thường, rất rành, skilled, trong cái việc trộn lẫn nhiều cách kể chuyện - từ quan sát khách quan những sự kiện, cho tới những câu chuyện trộn cái thực với cái giả - làm nhớ tới những Bulgakov, Garcia Marquez, và Milorad Pavíc, người Serbian, tác giả cuốn Từ điển Khazars, Dictionary of the Khazars.
Ông trích, Obreht viết, “Khi đụng với những điều quá đáng, extremes, ở trong đời, tốt hay xấu, con người thường có khuynh hướng, trước hết, là mò tới mê tín, để tìm cái nghĩa, bằng cách nối kết những sự kiện không mắc mớ gì tới nhau đó, để hiểu chuyện gì đang xẩy ra”; ông viết thêm, không chỉ hiểu, mà còn kinh nghiệm cái đẹp thần sầu, the sheer beauty, của 1 câu chuyện được kể thật tuyệt, the well-told tale. Như Ngàn Lẻ Một Đêm, đây là 1 cuốn sách về kể chuyện, và quyền năng làm chúng ta ngỡ ngàng, đuổi cái chết, chiến tranh, đi chỗ khác chơi, và treo lửng, postpone, điều không thể nào tránh được, the inevitable.  

Trông người lại nghĩ đến ta: Đám bướm Bắc Kít ở Paris chỉ làm nhục lũ Mít chúng ta!

*


Ghi chú trong ngày

Writing in Polish

People sometimes ask me: "Why don't you write in English?" Or-if I'm in France-why not in French? They clearly assume that I'd benefit, that I'd do better using some universal language instead of my provincial Polish. And I agree in principle; it would certainly be easier to write in some more important language (if I could pull it off!). It reminds me of a story about George Bernard Shaw, who supposedly confessed in a letter to Henryk Sienkiewicz that he couldn't understand why the Poles didn't simply switch to Russian. The Irish had, after all, mastered English and were managing beautifully! Really.
    Writing in Polish-in the nineteenth century, after the partitions-was an act of patriotism. The Polish language was in grave danger, especially in the Russian sector. Today it's no longer a question. Even if he remembers his city's past-and such remembrance is in fashion these days-a young poet born in Gdansk won't hesitate in choosing which language to use. He only knows one, after all. Only someone like myself, who's lived abroad for years, meets up with the-naive?-question of picking his language.

Adam Zagajewski

Note: Gấu "đi" bài này, chủ yếu là để chửi lũ Mít bày đặt viết bằng tiếng mũi lõ!
Tính “đi” lâu rồi!

Viết bằng tiếng Ba Lan

Người ta hỏi tôi, tại sao không viết bằng tiếng Hồng Mao? Hay là - nếu tôi ở Tẩy, tại sao không chơi 1 đường tiếng... Đầm? Hẳn là họ yên chí, sẽ có lợi cho tôi rất nhiều, nếu sử dụng 1 thứ tiếng quốc tế thay vì đặc sản Ba Lan. Về nguyên tắc, tôi OK. Viết bằng 1 thứ tiếng quan trọng thì dễ dàng hơn nhiều (thì cứ giả dụ như tôi rất rành tiếng Anh, hoặc tiếng Tẩy, mà cho dù không rành cũng không sao, mướn 1 thằng nào đó viết cho mình, dễ cái ợt, văn bằng tiến sỡi của Thầy Kuốc hẳn là ở trong trường hợp này, hà, hà!)
Nó làm tôi nhớ câu chuyện về Trạng Quỳnh. Một lần, ông viết thư cho 1 người bạn, tỏ ý thắc mắc, tại sao tụi Mít không viết, và nói bằng tiếng…  Tẫu?


Tàn Ngày
Chúng ta viết cho ai?
hay là
Cái kệ sách giả dụ

Note Bài này, GCC mới kiếm thấy, nhưng lại không biết ai là tác giả. Mò mãi mới ra: Italo Calvino.
Bài tuyệt hay. Nó giải thích được cái sự tha hóa của đám nhà văn Mít, chê tiếng Mít, viết bằng tiếng mũi lõ: Đếch có mảnh đất nào an toàn cả. Tác phẩm, chính nó, là 1 trận địa.
Đám khốn này, biết tỏng ra là đếch ai thèm đọc chúng, trừ đám bạn bè quanh quẩn cũng mất gốc như chúng.

Miêu sinh
Đệ nghe thế đủ rồi, cái thứ văn chương ấy chỉ nên đem về đầu giường đọc cho vợ nghe thôi. Ở chỗ đông người nhai nhải mãi chán lắm.

The Tiger Guest
There is nothing more characteristic of a country than its imaginations.


KL vs VC

Thời Sự Hình



 Stephen Hawking: God particle could wipe out the universe



Hạt Thượng Đế, sẽ gây họa cho vũ trụ, biến nó thành Điêu Tàn Lớn!
In a preface to a new book, the famed physicist fears the Higgs Boson becoming unstable and causing a "catastrophic vacuum decay." But how likely is that really?

Mua tờ báo nhà [Canada], Brick, trong có bài phỏng vấn 1 tay viết bằng tiếng tụi mũi lõ, ngang ngửa với Nabokov: Aleksander Hemon.

Mẹ Bosnia-Serb, bố Ukraina, sinh tại Sarajevo, năm 1964, tự coi mình là vô thần gốc Ky Tô, an atheist of Christian heritage. Năm 1992, qua Mẽo trong chương trình trao đổi văn hóa dành cho ký giả, chiến tranh bùng nổ tại quê nhà, xin tị nạn chính trị, không biết sẽ phải ở Mẽo cho đến khi nào, nhưng quyết định học tiếng Mẽo, để… viết văn. Tính bỏ ra 5 năm nhưng sau 3 năm là đã sẵn sàng rồi!
Được học bổng nửa triệu để viết văn!
Viết thường trực cho tờ The New Yorker!

An Interview with Aleksandar Hernon

-LEANOR WACHTEL

Aleksandar Hemon was born in Sarajevo in 1964, the son of a Bosnian-Serb mother and a father whose background is Ukrainian. He has referred to himself as an atheist of Christian heritage, like his character Jozef Pronek, who when asked, “Are you a Serb or a Muslim?" answers, “I am complicated."
    Hemon grew up in an upper-middle-class household, studied comparative literature at university, and then worked for a radio station that morphed into a liberal newsmagazine. In 1992, with war. brewing at home, he accepted an invitation to the United States to be part of a cultural exchange program for journalists. He spent a month in Chicago, and just as his visit was winding up, the siege of Sarajevo began. Hemon applied for political asylum, stayed in Chicago, and took a variety of odd jobs. He didn't yet realize how long he would remain in the U. S., but he resolved not only to learn English but to write in English. He gave himself five years but was ready after three.
    His success was extraordinary: rave reviews for his debut book of stories, The Question of Bruno, in 2000, and then his novel Nowhere Man in 2002. His work is published regularly in The New Yorker. He won a Guggenheim Award and a $500,000 MacArthur “genius" grant. His experience of exile and then publishing fiction in English has prompted comparisons with Vladimir Nabokov, among others. My favorite response to this analogy is Hemon's comment that. “if Nabokov managed to make love with the English language, I'm happy with heavy petting." It's typical if the sardonic humor that colors his work, alongside the darkness of war. This is especially true of his book of stories, Love and Obstacles, which reveals different angles on the trajectory of Hemon's own experience. Although there's always been a blur between fiction and non-fiction in his writing Hemon calls his most recent work, The Book of My Lives, "a collection of true stories." His publisher calls it is first book of non-fiction.

*

Aleksandar Hemon: 'thoughtfully humorous and profoundly sad'. Photograph: Sophia Evans
Văn thì tếu, nhưng cực là buồn

The Book of My Lives by Aleksandar Hemon – review

Theo Hemon, trong tiếng nước ông, Bosnian, không có từ phân biệt giữa giả tưởng và phi giả tưởng. Và cũng không có 1 cặp từ cà chớn như thế!
Bài phỏng vấn này rất thú, vì cực khác mọi bài khác, TV sẽ đi đường dịch thuật sau.


Trần Đức Thảo

Note: Bài viết trên tờ Diễn Đàn Thế Kỷ của Hạ Long Cư Sĩ.
TV post lại, nhân đó, viết về Henri Lefebvre và cuốn Duy Vật Biện Chứng của ông


Tàn Ngày
Chúng ta viết cho ai?
hay là
Cái kệ sách giả dụ

Note Bài này, GCC mới kiếm thấy, nhưng lại không biết ai là tác giả. Mò mãi mới ra: Italo Calvino.
Bài tuyệt hay. Nó giải thích được cái sự tha hóa của đám nhà văn Mít, chê tiếng Mít, viết bằng tiếng mũi lõ: Đếch có mảnh đất nào an toàn cả. Tác phẩm, chính nó, là 1 trận địa.
Đám khốn này, biết tỏng ra là đếch ai thèm đọc chúng, trừ đám bạn bè quanh quẩn cũng mất gốc như chúng.

Miêu sinh
Đệ nghe thế đủ rồi, cái thứ văn chương ấy chỉ nên đem về đầu giường đọc cho vợ nghe thôi. Ở chỗ đông người nhai nhải mãi chán lắm.
The Tiger Guest
There is nothing more characteristic of a country than its imaginations.


KL vs VC

*

Note: Đây không phải chuyện phản bội người sống, mà là người chết, theo Gấu. Cũng thế là trường hợp PD.

*

Xác Đại Dâm Tăng Rasputin

Trong lời mở ra cuốn tiểu sử Solzhenitsyn, D.M. Thomas nhớ lại cảnh tượng, ngồi uống vodka với một tay mật vụ, cựu đại tá KGB, đã về hưu, và được nhà nước ban cho nhiệm vụ 'đánh bóng' hình ảnh đất mẹ, ở hải ngoại.
Cả hai ngồi tại khách sạn Helsinki, nhìn ra biển đóng băng phía bên ngoài. Khi được hỏi, ông nghĩ sao về một hình ảnh mở ra cuộc cách mạng Nga.
"Hình ảnh nào ư?", ông ta gật gù, nhìn ra Vịnh Phần Lan.
Vài tuần trước đó, con tầu phà Estonia đã chìm ở ngoài đó, đem theo cùng với nó hàng ngàn người. "Crắc" một cách, rồi cứ thế chìm xuống, nhẹ nhàng, êm ru bà rù.
Cả hai cùng đồng ý, đó là hình ảnh tuyệt vời, để diễn tả sự tận cùng của Chủ Nghĩa Cộng Sản.
Nhưng hình ảnh khởi đầu?
Hình ảnh mở ra Cách Mạng Nga là cái chết của Rasputin, qua bình chọn của tay cựu mật vụ KGB.

Cái hình ảnh 'cũng theo hư không mà đi', và âm thanh nhẹ nhàng, "crắc" một cái, chấm dứt kỷ nguyên VC, thảm thay, chưa xẩy ra, nhưng hình ảnh mở ra nó, "thảm thay", có rồi.
Đó là một xen, trong tự thuật của Văn Cao, khi ông, do đói quá, đi theo 'tổ chức', và được tổ chức trao danh dự viết
Tiến Quân Ca tức Quốc Ca VC sau này, nhưng, [lại] thảm thay, tổ chức ra lệnh, trước khi viết Tiến Quân Ca, thì hãy đi giết người, lập cái 'đầu công trạng', cái đã!
Cho chắc ăn!
Cái xen Văn Cao giết người, một tên "Việt Gian", đúng là xen mở ra kỷ nguyên VC.

Thời đại VC quy vào một cuộc chém giết dã man, giữa VC và VG, tức những người không phải VC.


*

*

National Geographic, số đặc biệt, 100 best pictures, Jan, 2006

Vào những lúc giao mùa, cái đẹp nhất, thánh thiện nhất, đụng độ với cái khốn kiếp nhất, mối nối giữa giữa thiên nhiên và con người, làm nên những bức hình ảnh tuyệt vời nhất của National Geographic. Khi mùa mưa tới, ở Somalia, hy vọng né, như bức hình trên đây cho thấy. Hình ảnh người phụ nữ sắp sửa nằm xuống vì chết đói, vẫn ám ảnh người chụp nó. Bạn đừng có vãi lệ nhiều quá, đếch làm sao hoàn tất nghiệp vụ đâu! Nhưng nếu bạn dửng dưng, là có cái gì trật ở nơi bạn!

*

Nhìn mắt cô bé, là bạn biết có cái gì làm phiền cô.
Có cái gì không đúng.



Ghi chú trong ngày

*

Trên đây là cảnh Ông Hổ vặn cổ 1 nhà văn Mít, thuộc diễn đàn Da Mùi hay Hạ Vệ!

Độc giả TV chắc còn nhớ, câu chuyện, 1 ông hổ, mê văn chương, và mê 1 văn nhân quá - thí dụ GCC! - bèn hóa thân làm người, và làm bạn với vị văn nhân, thực sự là làm thằng bồi, để hàng ngày nghe văn chương.
Thế rồi, một bữa, ông chủ ghé 1 diễn đàn văn học, Hạ Vệ, hay Da Mùi gì đó, và bọn này mở tiệc đãi, thi nhau xổ thơ, văn.
Lúc đầu thì ông hổ cố chịu, sau chịu không nổi, năn nỉ, thôi đi, tha cho tôi.
Lũ kia đâu chịu nghe, càng xổ tiếp.
Thế là ông hổ điên lên, lắc mình 1 phát, biến thành hổ, quơ chân quạt chết hết, rồi cúi lạy vị văn nhân, bỏ đi!

Note: GCC kiếm ra truyện này rồi. Miêu Sinh. Ly kỳ hơn nhiều, so với cái mẩu mà Gấu nhớ được.

Trong chợ sách, ở bên Tây, DCT ca ngợi hai tác giả cùng có mặt, Bảo Ninh, và Thuận.
Bảo Ninh, thì ‘xưa rồi Diễm ơi’, nhưng Thuận, với Chinatown, theo tôi, không phải là cõi văn Mít.
Phải coi nó là một tác phẩm ngoại, ngay cái tên của nó, đã cho thấy.
Nếu coi đây là hai tác phẩm tiêu biểu, thì sẽ có một lời giải thích liên quan tới cả hai:

Chính cái sự bế tắc của Bảo Ninh, và cùng với nó, văn học Mít sau 1975, đẻ ra thứ văn chương ngoại lai, tả pí lù Chinatown.

Những đứa trẻ bị những đại gia phá trinh, những người dân Mít bị chà đạp, mất nhân phẩm, những Lê Công Định, thí dụ, không hề có mặt ở trong Chinatown.
Thứ ngôn ngữ ở trong đó, không chấp nhận họ.

Những thể loại văn học mà một khi mất nội dung xã hội, họ bắt buộc phải sử dụng chúng nhằm tránh né khó khăn, và thất bại, khi muốn vươn tới những xã hội khác, những ngôn ngữ khác.
Câu trên, có thể áp dụng cho Chinatown, và rất nhiều tác phẩm khác, kể cả thứ viết cho nhi đồng, như Vừa nhắm mắt vừa mở cửa, thí dụ, của một tay giả đò làm con nít, trong khi giả đò nhắm mắt coi phim sex diễn ra nhan nhản trong xã hội. (1)

The Tiger Guest

Of P'u Sung-ling, very little is known, except that he failed his examination for a doctorate in letters in 1651. Thanks to that lucky disaster, he dedicated himself entirely to literature, and we have the book that would make him famous. In China, the Liao-chai occupies the place held by The Thousand and One Nights in the West.

Về Bồ Tùng Linh, chúng ta chỉ biết tí ti, ngoại trừ chi tiết thú vị này, ông đi thi vô Đại Học Y Khoa, Viện Đại Học Xề Gòn, rớt, thế là bèn dốc hết đời mình vô văn chương, nhờ cú thất bại thê thảm này mà nhân loại có được bộ Liêu Trai Chí Dị.

Ui chao lại nhớ đến thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên, chỉ mong đậu tú tài, để lấy được người đẹp. Nhờ rớt, mà thành thi sĩ!

Anh I êu, Ừ, Anh I êu!
Ừ thì Ừ!
Tuyệt!


*

Trên tư tưởng gia cổ điển
Làm ra tiểu thuyết mới
A.R-Grillet

Mây Mùa Thu

1939-2014: Die in Danzig - Live in Donetsk


Hôm qua Danzig, hôm nay Donetsk

Note: Cái tít tiếng Anh, theo Gấu, thú hơn, Chết ở Danzig - Sống ở Donetsk

V/v này, Putin cảnh cáo: Tốt nhất, là đừng có cà chớn với chúng ông, "It's best not to mess with us," Putin says. “Cám ơn Chúa, không thằng nào khùng dám đương đầu với Nga, khi muốn đẩy cuộc xung đột tới mức khủng, trên một bình diện rộng. Tao muốn nhắc nhở lũ chúng mi, Nga là 1 đại cường quốc về nguyên tử dẫn đầu thế giới đấy nhe!” [Toronto Star]

*



Ghi Ngày

Viết

Một bức tranh thu nhỏ của giới cầm bút Việt Nam tại Úc (1)

NHQ Blog VOA

Thầy Kuốc, theo Gấu, không rành tiếng Mít. Người Mít không dùng từ “của”, ở đây, mà, “về”.
Đọc bài viết, Thầy thổi 1 số bạn của Thầy, và như thế, một người viết khác sẽ viết, “văn học Mít ở Úc qua 1 số khuôn mặt”, thí dụ.
Dùng từ "của", như trên, độc giả sẽ lầm, "bức tranh thu nhỏ" - như là họa phẩm, bức họa, tức 1 món đồ - của giới cầm bút Mít ở Úc

Viết tiếng Việt mà cũng không nên thân, chán mớ đời!  NQT


Nhiều chi tiết lịch sử đươc ghi lại mà chính sử sẽ bỏ qua, trong đó có chuyện Lê Duẩn “trình bày về đề cương về vấn đề con người” riêng cho triết gia Trần Đức Thảo nghe (trang 435-441) và khi xin Giaó sư Thảo có ý kiến… thì:
“Ngơ ngác một lát, Thảo nói: – Tôi không hiểu gì cả.”
Thế là, Lê Duẩn vòng ra sau GS Thảo, vòng tay ôm GS Thảo nhấc lên, giộng xuống đất mấy cái cho hả giận… rồi bỏ vào trong nhà.
Sau đó, GS Trần Đức Thảo kể lại với Trần Đĩnh, Duẩn chẳng hiểu gì về chủ nghĩa Mác… Rồi Trần Đức Thảo thì thầm vào tai Trần Đĩnh: “Làm sao Duẩn lại Mác-xít được?”

Nguồn net

Thú thực đọc đoạn trên, GCC thấy...  buồn cười quá. Như đọc truyện tiếu lâm, rửa bướm như rửa rau, chờ phục vụ, của đám bướm Bắc Kít, ở Paris, viết văn bằng tiếng Tẩy!

Trần Đức Thảo là 1 nhà Mác Học, đã từng cà khịa với Sartre [về triết học mác-xít, hiện tượng luận... lâu quá không nhớ rõ chi tiết], hai bên đưa nhau ra tòa, toà chưa xử thì bỏ về xứ Mít phục vụ CM, Bác Hồ phán, chú chỉ giỏi lý thuyết, bây giờ phải giỏi cả “thực hành”, bằng cách làm thằng bồi cho nhân dân!
Cỡ như ông, mà “mặc khải”, về cái chuyện Duẩn đéo biết gì Mác Xít?

Một thằng cà chớn như Gấu thì cũng biết tỏng ra rằng thì là, không có lấy 1 tên Mít VC nào biết gì về Mác xít.
Chủ nghĩa Mác đâu có dễ, nếu đúng thứ thiệt, ở những nhà Mác Học, thứ thiệt, như Lukacs, Henri Lefebvre, hay Trần Đức Thảo.

Viết lách như thế mà làm ồn lên, Đèn Kù!
Đèn chọt lét mới đúng.
Lũ bộ lạc Cờ Lăng này, cứ ngửi thấy mùi tiền là nhào dzô, chính chúng cũng đâu biết Mác xít là cái đéo gì!

Hà, hà!

Ui chao, Gấu Cà Chớn, lại nhớ những ngày mới lớn, ở Xề Gòn, vô thư viện Gia Long, mượn Biện Chứng Pháp Duy Vật, của TDT, nắn nót chép từng dòng chữ Tây, đếch hiểu lấy 1 dòng, vô cuốn tập, về tụng, như tụng Kinh Thánh!




*

GCC đã tính không viết tiếp về những kỷ niệm nghe nhạc Sến ở trong tù VC, trong có nhạc TCS, nhưng gặp cú này, không làm sao hiểu nổi.
TCS đã viết cái "di chúc không thể bị phản bội" này, vào…  lúc nào?
Hà, hà!
Ai nảy ra cái ý định viết di chúc này?
Nên nhớ, đây là cặp tình nhân lý tưởng, của cả 1 thời, của đời đời, không thể có mùi tiền trong tình yêu của họ.
Bất giác lại nhớ đến BHD. Em phán về GCC, mi không làm nổi cái chuyện đó đâu, khi nói về boyfriend, bạn cùng học Y Khoa, cứ mỗi lần Sài Gòn dục dịch đảo chính, là khệ nệ vác mấy bao gạo đến nhà ông bố vợ tương lai. 
Theo nghĩa đó, thì TCS “cũng” không thể “nghĩ ra được” cái cú viết di chúc!
Bất giác lại nhớ đến nhà văn Mặc Thu, bạn của ông anh Nguyễn Hoạt.
Ông có cái truyện ngắn, GCC đọc, hồi mới lớn, không làm sao hiểu nổi. Một anh chàng quen 1 cô nàng, và 1 bữa đó, đưa cô nàng đi chơi, qua 1 cửa tiệm, thấy bầy 1 cái áo dài đẹp quá, em nói, anh mua cho em đi. Anh chàng bèn ngỡ ngàng nhìn em, và bỏ ra về!

Cái tít của cái di chúc, cũng thú
HCM xì ty!

GCC chưa bao giờ sử dụng cái tít đó!
Dayly Notes

“Gorbachev” Tàu đang xé nát Đảng Cộng sản

Note: Đọc bài này, thì tưởng là Tẫu đang lâm nguy. Theo GCC, nên đọc thêm bài essay, trên tờ The Economist, số 23-29 August, Tẫu muốn gì, What China wants, dài 6 trang mới đã. Tờ này viết uy tín hơn nhiều. Vấn nạn Tẫu rộng hẳn ra. GCC không mê mấy trò này, thành ra đếch thèm đọc.


Conversations with the Dead

Chuyện trò với người chết

Alberto Manguel

*

Jean-Baptiste-Camille Corot: La Petite Liseuse, circa 1855-1861

Với tôi đọc luôn luôn là 1 cách vẽ bản đồ [cái này GCC rành lắm]. Như những độc giả khác, tôi có 1 niềm tin tuyệt đối vào khả thể, rằng, đọc phải vẽ bản đồ thế giới của tôi. Tôi biết, trên 1 trang sách đâu đó trên giá sách của tôi, nhìn xuống tôi, lúc này, là một câu hỏi mà tôi luôn phải chiến đấu với nó, hôm nay, được đặt thành những chữ, từ lâu lắm rồi, có lẽ, bởi một ai đó, có thể chẳng biết gì về sự hiện hữu của tôi. Liên hệ giữa một độc giả và 1 cuốn sách là cái liên hệ xóa đi, trừ khử, những hàng rào của thời gian và không gian, và cho phép, điều mà, vào thế kỷ thứ 16, Francisco de Quevedo gọi là “Trò chuyện với Người Chết”. Trong những cuộc trò chuyện như thế đó, tôi bật ra, tôi xuất hiện, có tôi: I’m revealed. Họ tạo vóc dáng tôi, và ban cho tôi một quyền năng thần kỳ.

Note: Đây là tóm tắt bài tựa, cho lần tái bản cuốn Một lịch sử của sự đọc, “A History of Reading”, của Alberto Manguel. Một trong những cuốn sách đầu tiên Gấu đọc, khi ra được hải ngoại. Tác giả dân Canada, và hình như còn là 1 tay ở Toronto nữa.
Tay Manguel này, GCC có gần như đầy đủ sách của xừ luỷ. Đọc thú lắm, nhưng thực sự mà nói, chỉ là 1 độc giả, đếch làm sao là....  "Gấu Nhà Văn", nghĩa là cũng có tí ti thơ, tí ti truyện ngắn...
Một Great Reader, Độc Giả Lớn, theo nghĩa Borges phán.
Bài này cũng thú:

The Unanswerable Question

Alberto Manguel

Nhân nói đến Toronto, bèn nhớ ra tay này: Michael Ondaatjee. Nổi tiếng với Bệnh nhân Anh, nhưng với Robert Hass, thì đây là 1 nhà thơ, lúc nào không làm thơ thì bèn viết văn. Bài viết về ông, trong Now & Then, thật tuyệt, TV đi ở đây, dịch tiếng Mít sau.

APRIL 25 [1999]

Michael Ondaatje

Michael Ondaatje, who was born in Sri Lanka and lives in Toronto, has not published a book of poems in some years. During that interval he's made his reputation as a novelist with In the Skin if the Lion and The English Patient, and one of the most brilliant and strange and readable of memoirs in this time of memoirs, Running in the Family. The new book of poems, Handwriting (Alfred Knopf), is a departure from his rowdy and unpredictable early poems. It's extremely beautiful, for one thing, and much of it is set in Sri Lanka.

Here's a poem:

House on a Red Cliff

There is no mirror in Mirissa

the sea is in the leaves
the waves are in the palms

old languages in the arms
of the casuarina pine

parampara

parampara, from
generation to generation
The flamboyant a grandfather planted
having lived through fire
lifts itself over the roof

unframed

the house an open net

where the night concentrates

on a breath
                on a step
a thing or gesture
we cannot be attached to

The long, the short, the difficult minutes
of night

where even in darkness
there is no horizon without a tree

just a boat's light in the leaves

Last footsteps before formlessness

Parampara is Sri Lankan. It means "from generation to generation."

Note: Ondaatje còn là tác giả cuốn Bàn của Mèo, Cat's Table, cũng cực bảnh

Michael Ondaatje

Michael Ondaatje, OC, poet, novelist, filmmaker, editor (born 12 Sept 1943 in Colombo, Sri Lanka). Michael Ondaatje's work combines the factual and the imaginary, poetry and prose. (1)

Conversations with the Dead

Chuyện trò với người chết

Alberto Manguel

*

Jean-Baptiste-Camille Corot: La Petite Liseuse, circa 1855-1861



15 Chân Dung Nhà Văn của MT & Tiểu thuyết mới @ VN


Great Women
*

Thượng Đỉnh Thành Đô giữa VC và Tầu Khựa


*

Trẻ hơn 5 năm trước, nhờ bộ răng dởm!

Con số độc giả vô TV, ngồi hơn 1 tiếng, là 12.3 %

Visits duration  
Number of visits: 7,177 - Average: 812 s Number of visits Percent
0s-30s 4,676 65.1 %
30s-2mn 152 2.1 %
2mn-5mn 140 1.9 %
5mn-15mn 274 3.8 %
15mn-30mn 337 4.6 %
30mn-1h 704 9.8 %
1h+ 887 12.3 %
Unknown 7 0 %

*

*

C. 1690: Sichuan

DEADLY JOKE

The schoolmaster Sun Jingxia once told this story.

A certain fellow of the locality let us call him X, was killed by bandits during one of their raids. His head flopped down on to his chest. When the bandits had gone and the family came to recover the corpse for burial, they detected the faintest trace of breathing, and on closer examination saw that the man's windpipe was not quite severed. A finger's breadth remained. So they carried him home, supporting the head carefully, and after a day and a night, he began to make a moaning noise. They fed him minute quantities of food with a spoon and chopsticks, and after six months he was fully recovered.

Ten years later, he was sitting talking with two or three of his friends when one of them cracked a hilarious joke and they all burst out laughing. X was rocking backward and forward in a fit of hysterical laughter, when suddenly the old sword wound burst open, and his head fell to the ground in a pool of blood.

His friends examined him, and this time he was well and truly dead.

His father decided to bring charges against the man who had told the joke. But the joker's friends collected some money together and succeeded in buying him off. The father buried his son and dropped the charges.

Pu Songling, from Strange Tales from a Chinese Studio. Having passed the jirst civilservice examination at the age of eighteen in the late 1650s, Pu foiled to obtain a government post, so he became a private tutor for a local family in 1679. By that time the self-titled "historian of the strange" had collected the majority of the 431 tales that comprise his book. At odds with the prevailing literary tastes of the day, the work was not celebrated until some fifty years after his death.

Bồ Tùng Linh, từ Liêu Trai Chí Dị

TV tưởng niệm anh hề vừa mất, với chuyện cười chết người của BTL, và bài viết trên Obs, trong có 1 câu thật thần sầu : Nếu chúng ta nghe tin Thượng Đế ngỏm (vì cười) thì chúng ta biết liền ai trách nhiệm cái chết của Thằng Chả.

Và bài phỏng vấn trên Time, số 25 Tháng Tám, 2014

*


Viết Ngày

*

&

Mother Teresa
The Moment: Calcutta, India, 1980


*

Câu Lạc Bộ của những nhà văn tác phẩm bị vứt vô thùng rác!

Bạn chắc còn nhớ, MT đã từng nhặt tác phẩm đầu tay của DNM, từ sọt rác một tòa soạn văn học nào đó của Sài Gòn, trước 1975, và đem về, trịnh trọng in trên tờ ST?
Thú thực, Gấu đọc bài viết này, hồi mới ra hải ngoại, là đã ngờ ngợ. Bởi là vì Gấu, tuy không quen DNM vào thời gian đó, nhưng anh chơi với mấy người, Gấu khá quen thân. Nếu có, họ đã nói cho Gấu hay. Vả chăng, cái air truyện, là từ truyện TTT, thí dụ, từ “Cuối Đường”, nhân vật chính hục hặc với chính mình, hục hặc với đời sống, với xã hội…  sau càng lộ rõ với truyện dài “Đêm Tóc Rối”. Làm sao MT ngửi ra được thứ truyện như thế?
Tuy nhiên, nhiều khi bị vứt vô sọt rác mà lại hay! Gấu đã gặp trường hợp này, và đã kể ra rồi.
Một người quen của GCC [con trai 1 ông bạn thân, từ hồi Hẻm Đội Có, Phú Nhuận ngày nào], đã hỏi DNM về vụ này, và anh nói, nhảm.
Rồi kỷ niệm của MT với bạn quí của ông là TTT, cũng nhảm, cực nhảm.
Để tránh những tình trạng như trên, Gấu viết về bạn của mình, ngay từ khi họ còn sống. Chết, là đếch viết về họ nữa. Nếu viết, là toàn những kỷ niệm đẹp!

Thứ này, coi bộ hơi hiếm với GCC.

Hà, hà!

Bài viết của Vila-Matas, trên, là trong số báo về văn học Nga.

**

Trong Khi Chờ Tầu!

Nhân đọc mẩu viết về “tầu hoả”, tức “xe lửa”, trên Blog NL, bèn nhớ tới số báo này.
Bài "édito" thật tuyệt.
Cái tít làm nhớ đến Beckett, Trong Khi Chờ Godot, và đây là dụng ý của tay viết.
Và của Gấu!
Số báo này, bài nào cũng tuyệt hết. Bài "Cái viết Gulag" [L'écriture du Gulag], trong lời giới thiệu, trình ra 1 thứ văn học có tên là "văn học của sự phi nhân", với hai tác giả là Solz và Chalamov, và cội nguồn mò ngược lên, tới Dos.

EN ATTENDANT LE TRAIN

MÉDITANT SUR TOLSTOI ET DOSTOIEVSKI au fil d'un magistral essai (1), George Steiner ouvre une brève parenthèse pour souligner le role stratégique des quais de gare chez ces deux auteurs. Leurs trajectoires, si souvent opposées et dont Steiner s'applique à minorer les divergences, se trouvent ainsi réunies, en attendant le train, II ne faudrait pas toutefois en conclure que le roman russe s'apparente à l'indicateur Chaix et encore moins à une littérature de gare, encore que lire Guerre et Paix dans le Transsibérien demeure un projet séduisant. Et cohérent. Les héros de Tolstoi comme ceux de Dostoievski aiment voyager par le train, Que l'on songe à l'ouverture de L'ldiot, quand le prince Muichkine et Rogojine approchent de Saint-Pétersbourg par le train de Varsovie. Ou encore à la tragédie d'Anna Karénine qui commence, comme elle finira, sur un quai de gare.
    Vronsky, on le sait, part pour la guerre. II existe d'autres destinations plus enviables. D'autant que le roman russe profite de l'immensité de l'espace pour pousser ses héros vers de lointaines et mythiques frontières, là où campent les Cosaques, les tribus du Caucase, les vieux-croyants du Don et de la Volga. Le héros tolstoien s'évade volontiers à la campagne, et ce retour à la terre s'accompagne d'une résurrection de l'âme. Le héros dostoievskien, pour sa part, cherche son salut dans le royaume de Dieu, improbable destination que l'auteur des Possédés conseillait ironiquement de choisir plutôt en juin.
    Quand, rompus de fatigue, les héros restent à quai, c'est l'auteur qui part. Ainsi Tolstoi, abandonnant au soir de sa vie de domicile conjugal pour retrouver les lieux de sa jeunesse, fuyant vers le Caucase comme s'il voulait semer la mort qui est à ses trousses. « Je m'en vais dans la solitude», écrit-il dans ses Carnets. Pour terminus, une petite gare, à Astapovo, où il mourra en laissant sur sa table de chevet deux livres, ultimes compagnons de voyage: Les Frères Karamazov et les Essais de Montaigne.
    La Russie et l'Europe sont les deux patries des auteurs russes. Tolstoi admirait Stendhal. De son coté, Dostoievski avait lu avec passion Sand, Dickens, Balzac, Sue, Restif... Reconnaissant sa dette envers la culture européenne, il faisait dire à Ivan Karamazov: « Je veux voyager en Europe, Aliocha; je veux sortir d'ici. Et pourtant, je sais que je ne trouverai qu'un cimetière un très précieux cimetière, voilà ce que c'est! » Quant à Gogol, il trouva sa Russie alors qu'il pérégrinait à Paris, Rome ou Vevey.
    Indifférente à tant de transports, l'Europe à longtemps consideré avec froideur et réticence les auteurs russes, On leur reprocha une débauche de pathos, l'absence de contraintes esthétiques, trop de vie, trop de pages. Comment faire face aces « grands monstres informes », selon la redoutable expression d'Henry James? Tolstoi a écrit pas moins de quatre-vingt-dix volumes et, jamais en mal d'inspiration, il se risqua à bâtir une pièce de théatre en six actes. Voulant rivaliser avec l'infinité, il faisait en sorte que le dernier chapitre de chaque roman ménage un prélude à l'oeuvre prochaine. II refusait de mettre un point final, et en mit même trois pour éviter de tout à faire conclure

Guerre et Paix. Voilà l'un des miracles de la littérature russe : les trains qui la traversent ne s'arrêtent jamais.+

(1) George Steiner, Tolstoi ou Dostoievski, traduit de l'anglais par Rose Celli, réed, 10/18, 2004.

A 21st-century “Seagull"

Fitting tribute to Chekhov’s work of grand gestures and missed connections

Aug 9th 2014  | From the print edition

ANTON CHEKHOV knew he was doing something different with “The Seagull”. “I sin frightfully against the conventions of the stage,” he told a friend while the play was still a work in progress. The drama, such as it is, involves the love triangles and familial tussles of a multi-generational gathering in the Russian countryside—with, as Chekhov observed, “much conversation about literature, little action and five tons of love”. All this aimless kvetching repelled the play’s first audiences in 1886. But what was audacious then feels timeless now. “The Seagull” may be Chekhov’s finest work. Much of the dialogue—which veers from grand questions about love and happiness to prosaic observations about money and horses—still feels fresh.
So why mess with it? Imitations are as common as they are reliably disappointing. Playwrights tamper at their peril. This is what makes Aaron Posner’s “Stupid Fucking Bird” such a revelation. (1) This irreverent update, playing at the Woolly Mammoth Theatre in Washington, DC, until August 17th, manages to capture the enduring essence of Chekhov’s classic even as it reimagines it for the 21st century. The original ingredients are all here, including the basic characters—an ageing starlet, her famous lover, her frustrated son and his ingénue girlfriend, among others—and all their messy pining (for love, fame, youth, “new forms of theatre” and anything else just out of reach). But the script is new and crackling, at once incisive, poignant and darkly funny. Like the original, it affords plenty of opportunities to chuckle with recognition. And like the original, it delivers an ending that is destined to make its audience weep.

(1) Not my word!
Such a revelation, Yes!

GNV

Một Hải Âu cho thế kỷ 21. Bài  ngắn, nhưng thật tuyệt. GCC rất mê đọc điểm sách, nhưng không phải của Mít, mà của tụi mũi lõ. Nhất là của những tay nhà nghề. Thấy khen, là kiếm, đọc tác phẩm.
Mít điểm sách, là tìm cách tóm tắt, rồi đi 1 đường, khen, hoặc chê, ba vạ, huề vốn. Hoặc thổi, nếu là gà nhà.

VP nhà văn thế kỷ 20!
Nhà phê bình Mít xuất sắc, không phải thời nào cũng có!

Bài sau đây cũng tuyệt.
Mít làm sao viết nổi, câu mở ra bài điểm sách?

Revolution and war in Ukraine

I witness

A novelist’s enlightening account of life in Kiev during Ukraine’s turmoil

Ukraine Diaries: Dispatches from Kiev. By Andrey Kurkov. Translated by Sam Taylor. Harvill Secker; 262 pages; £9.99. Buy from Amazon.com, Amazon.co.uk

SATIRISTS and surrealists are at once fortunate and challenged in the countries of the former Soviet Union. Their nefarious rulers and eventful politics volunteer themselves for parody, yet the lurid reality often outpaces satire and renders invention superfluous. Thus in his “Ukraine Diaries”—an account of the tumultuous past winter that saw his country’s president ousted and its territory dismembered—Andrey Kurkov whimsically imagines Russian tanks searching for the American commandos who are rumoured to have parachuted into western Ukraine. A few weeks later this fancy is superseded by events, as Russian forces do indeed invade, and Ukraine descends into chaos.

Best known for gently absurdist novels that combine affection for his region with deadpan despair—especially “Death and the Penguin”—Mr Kurkov lives in Kiev, close to Independence Square. That was the centre of the revolution that began last November when Viktor Yanukovych, then Ukraine’s president, rejected a trade deal with the European Union. The idea that the EU could inspire an uprising seemed odd to some observers; Mr Kurkov makes clear that, to Ukrainians weary of venal government, Europe represents the rule of law. His “Ukraine Diaries” contain his daily observations from November until April—by which time the Kremlin had annexed Crimea, and Ukrainian troops were engaging Russian proxies in the east.

One bonus of the diary form is dramatic irony: the reader, unlike the diarist, knows what will happen next. At one point, Mr Kurkov feels sure there will be no war, because those opposed to change are too apathetic to fight. By demonstrating that history is unpredictable, diaries such as his show that it is not inevitable: Ukraine’s rapid degeneration from protest to bloodshed was the result of a chain of errors, which Mr Kurkov’s entries chronicle. Mostly the errors were attributable to Mr Yanukovych, who, by trying to crush dissent, succeeded only in inflaming it.

But perhaps these diaries’ biggest service—one that only this sort of account can offer, more than compensating for the lack of hindsight—is to show how headline history intertwines with ordinary, private lives. “Life goes on,” Mr Kurkov says. “Not once has it stopped.” He drinks coffee and cognac with friends, one of whom gives him a vacuum cleaner. He juggles the demands of elderly parents and adolescent children. The family goes to the dacha for weekends. He struggles to concentrate on his new novel. Amid diplomatic and paramilitary manoeuvres, he organises a paintballing party for his son’s birthday. He takes his family for its annual winter holiday in Crimea, poignantly unaware that because of the annexation this will be their last. “I drove the children to school,” Mr Kurkov writes baldly one day in January, “then went to see the revolution.”

Mr Kurkov quickly adapts to the barricades: “Why does what seemed impossible or crazy before now seem logical?” Then the arrests and beatings escalate to abductions, torture and murder. Festive protests turn violent; instead of donated food, the protesters need bottles for Molotov cocktails. Rumours swirl: of troop movements and massacres, of the mining of metro stations. Thugs patrol the city with truncheons and guns. Russian-literature enthusiasts will be reminded of “The White Guard”, Mikhail Bulgakov’s novel of Kiev during the Russian civil war, and of Ivan Bunin’s journal of Odessa during that conflict. In mid-February, Mr Kurkov records, comes a “night of warfare” that “transformed the city centre to ruins”.

Increasingly this carnage crowds out the author’s personal life, though there is a nice vignette in which his daughter asks for extra pocket money, citing the spiralling inflation. Downtown Kiev, he joltingly notices, “looks like a paintball field”. Growing vegetables at the dacha begins to seem less a hobby than a necessity. Mr Kurkov sleeps badly; his eyesight suffers.

And as winter thaws, the focus of his ire shifts. To begin with it is directed at Mr Yanukovych, with his clumsy duplicity and flagrant corruption. “This country has never had such a stupid president,” Mr Kurkov concludes, “capable of radicalising one of the most tolerant populations in the world!” Or, more concisely: “Stupid bastard!” All the same, he is unsentimental about the revolutionaries, some of whom turn to score-settling and extortion. After Mr Yanukovych flees Kiev, however, and Russia’s insidious but deadly invasion begins, the main villain is Vladimir Putin. (The EU’s response is depressingly slow: “As if the news were arriving not by internet but by messengers on horseback.”)

For all their controlled rage and wry wit, nicely captured in Sam Taylor’s translation, Mr Kurkov’s diaries are valuable partly because of who he is. Born in Russia, he writes in Russian and considers himself Russian by background if not citizenship—though now he has “nothing in common with Russia and its politics”. He is an incarnation of a joint culture with a glorious but imperilled heritage. His book is a lament for Ukraine, but also, in the end, for Russia itself—as scarred by Mr Putin’s lies and larceny as Ukraine has been by his war.


*

Bức hiếm họa gây họa cho họa sĩ Piccaso biến mất!

Beckett

*

FB Do Khiem

Thơ trẻ hôm nay chưa tới, những chắc chắn ngày mai sẽ tới.

Câu này tôi mượn từ một vở kịch nổi tiếng của nhà văn Nobel văn chương người Ái Nhĩ Lan, Samuel Beckett: "Ngài Godot bảo tôi nói với mấy ông là chiều nay ông ta không tới, nhưng chắc chắn ngày mai sẽ tới."
Hy vọng có bạn ở trong bữa tiệc chiều nay, khi thơ chưa tới.
Khi thơ của tôi không dành cho bạn. (2)

Lướt net, tình cờ đụng 1 trang cực bảnh: Văn Vịt.
Sau Da Mùi, Hạ Vệ, đọc cái tít, là biết ngay, lại mấy ảnh rồi.
Thua em HT: Godot chưa tới đâu!

Note: Câu của em HT, GCC coi lại, "khiêm tốn" y chang câu của chính Beckett:

Typical Sentence

"Let us not then speak ill of our generation, it is not any unhappier than its predecessors." ("Waiting for Godot") (1)
[Đừng nói bịnh về thế hệ chúng ta. Nó cũng không hạnh phúc hơn thế hệ đường ra trận mùa này đẹp lắm!]
Th

Golden Rule

Never to compromise. Estragon’s trousers have to fall all the way down at the end of "Godot". The action and dialogue of "Play" has to be repeated, by actors who are up to their necks in urns. Whole novels can go by without a paragraph break. Both his novels and plays require concentration, and a stomach for repetition. But they reward the persistent

Luật Vàng

Không bao giờ, chớ khi nào thỏa hiệp, cấm cái trò ông mất “củ” kia, thì bà chìa “của” nọ. Quần Estragon tụt dài dài, tụt suốt, cho tới khi chấm dứt “Godot”. Hành động và đối thoại của “Play” phải lập lại, bởi những nghệ sĩ, diễn viên mà tro than [Lò Thiêu, Lò Cải Tạo] ngập tới tận cổ. Trọn những cuốn tiểu thuyết cứ thế mà đi, đếch cần 1 đoạn ngưng, nghỉ, gẫy. Cả kịch lẫn tiểu thuyết của Beckett đòi sự chú tâm, xoáy vô, chốt vô… và 1 cái dạ dày, cho sự lập lại.
Nhưng thật xứng đáng, chúng ban thưởng cho chúng ta, sự khăng khăng, cố chấp, “thua, thua nữa, thua cho bảnh!”

Đừng thành công, Alain phán, là vậy!

Cái băng rôn của Văn Vịt mới ghê, vì 1 nền văn học Vịt đít thực. Đọc 1 phát, là biết liền, TV bị chúng coi như hủi rùi!
Và chăng, TV, chính nó, cũng không hề “ vì” một cái cà chớn như thế. Thằng Tẩy thí dụ, chúng có bao giờ làm cái trò hề đó.
Chỉ mấy đấng ăn phải kít VC, hoặc VC đích thị, thì mới tao đích thực, tao số 1, tụi mi là miệt vườn, là đô thị, là bất hạnh.....
Bi giờ, giả như có 1 nền văn Vịt đít thực, TV đếch vô, được không? Rồi Ngụy, hải ngoại….  đăng ký, có cho không?

Theo GCC, không thể có cái gọi là 1 nền văn học Mít đích thực. Đây là do đầu óc bịnh hoạn của đám Bắc Kít mà ra, y chang, máu Mít đích thực [máu Bắc Kít], thành phố Mít đích thực [Hà Lội], y chang Nazi, khi chúng đòi 1 thứ máu Aryan đích thực cho dân Đức.

Nhân nói tới Nazi & Máu cực quí, cực ròng Bắc Kít & Phấn đấu cho 1 nền văn học Mít "đít" thực, post lại giai thoại thần sầu về nhà văn Maria Remarque, tác giả Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh

Một giai thoại về nhà văn Erich Maria Remarque (1)

Ông khi đó 'tạm trú' ở Tessin, và bị đám cán bộ nhà nước Nazi liên tục quấy rầy. Chúng khẩn khoản mời ông, một trong những nhà văn di dân dòng dõi Đức thứ thiệt trở về với Đất Mẹ.
Trước thái độ rửng rưng của ông, đám cán bộ nhà nước cuối cùng hỏi: Chẳng lẽ ông không có nỗi sầu của người viễn xứ [le mal du pays]?
-Sầu nhớ nhà? Cái gì vậy? Tụi mày tưởng tao là một tên Do Thái, hử?

Trích Jean Améry: Vượt Quá Tội Ác Và Hình Phạt - Khảo luận để vượt lên cái không thể vượt được - Par-delà le crime et le châtiment. Essai pour surmonter l'insurmontable, Actes Sud, 1995

(1) Tên thật của ông Erich Paul Remark. Đổi Remark thành Remarque, theo bên nội, đổi Paul thành Maria, để tưởng nhớ bà mẹ. Vì cái tên Maria này mà một nhà thơ Việt Nam đã gọi ông là nữ văn sĩ. Nhưng tệ hơn thế, sách của ông bị Nazi cấm, bản thân ông bị  tố cáo, không phải người Đức, mà Tây gốc Do Thái, tên thực Kramer, viết ngược lại thành Remark. Vẫn còn nhiều người tin điều này, không cần chứng cớ.

[Theo Wikipedia]

*

Mặt Trận Miền Tây Vưỡn Yên Tĩnh, cuốn tiểu thuyết best-seller nhất của thế kỷ!

Thua "Lỗi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh:

Không giống như Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh, đây là một cuốn tiểu thuyết không chỉ về chiến tranh. Một cuốn sách về chuyện viết, về tuổi trẻ mất mát, nó còn là một câu chuyện tình đẹp, nghẹn ngào [Lời giới thiệu của Geoff Dyer trên tờ Independence, in lại trong bản dịch tiếng Anh của Nỗi Buồn].

Trên tờ L'Express, số 30 Juillet & 5 Aout, có 1 bài về Maria Remarque, "Từ Giao Thông Hào tới Hoa Lệ Ước", về cuốn tiểu thuyết thần sầu của ông, “Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh”, được đọc nhiều nhất của thế 20, tiếng nói của thế hệ trẻ trong cuộc xung đột, kẻ thù của Nazi.... 
Tin Văn sẽ đi 1 đường lèm bèm về nó, cùng lúc, so sánh nó với “Nỗi Buồn Chiến Tranh” của Bảo Ninh.


Chuyện Dài Thầy Kuốc.

Tại sao chúng ta cần nhà văn?

Thứ Sáu, ngày 08 tháng 8 năm 2014

Tôi mới đọc trên tờ The Sydney Morning Herald bài viết của Elizabeth Farrelly với nhan đề “Tại sao chúng ta cần nhà văn?” (Why we need writers). Bài viết, từ một nhà báo, thành thực mà nói, không có gì sâu sắc. Nhưng tôi bị mê hoặc bởi cái nhan đề. Hình như, từ lâu, tự trong tâm thức, tôi cũng bị ám ảnh bởi câu hỏi ấy. Tại sao chúng ta cần nhà văn?


Note:
Đã chôm cái tít của người ta, đếch thèm cám ơn, còn đi 1 đường cực kỳ đểu cáng, và, cũng vẫn trong cái dòng "hờ hững".
Vì mấy dòng, “Bài viết, từ một nhà báo, thành thực mà nói, không có gì sâu sắc”, GCC đành phải kiếm đọc, coi có đúng như Thầy chê không.
Hoá ra đếch phải. Thầy đếch đọc nổi bài viết của bà này. (1)
Bình thường ra, nguời nào có chút khiêm nhường, sẽ viết, thí dụ, tình cờ đọc bài viết... thấy cái tít thú quá, bèn đi tiếp 1 đường về nó, tức là về cái chuyện tại sao chúng ta cần nhà văn….

(1)
Elizabeth Farrelly is a Sydney-based columnist and author who holds a PhD in architecture and several international writing awards. A former editor and Sydney City Councilor, she is also Adjunct Associate-Professor of Architecture at the University of Sydney. Her books include 'Glenn Murcutt: Three Houses' and 'Blubberland; the dangers of happiness'.

Bạn đọc cái tiểu sử của bà này, coi có hơn của Thầy Kuốc, với cái bằng tiến sĩ dởm?

Why we need writers

Bạn đọc bài viết của bà này, rồi so với bài viết của Thầy Kuốc, coi ai sâu sắc hơn ai?
Với riêng GCC, bài của Thầy Kuốc, cũng vưỡn nằm trong dạng vây vo, kéo bè đảng, nhắc đến, toàn những bạn quí của Thầy, nào VP, nào NBT, nào... Mít chúng ta cần họ....
Làm sao mà so n
i với "nguyên tác".
Chỉ nội câu mở ra bài viết, đọc, là đã thấy xấu hổ giùm cho....  “Thầy” :

Why write? When people ask me this, as happens surprisingly often, I am forced to say, don’t. Really. If you can do anything else and stay even vaguely sane, do it.
As Gore Vidal declares in Nicholas Wrathall’s new doco, Gore Vidal: The United States of Amnesia: “In every generation there are a few unfortunate souls who are condemned, practically at birth, to be that absolute absurdity, a writer for life.”

Sau đây, là những dòng “phóng tác”, ý của nữ tác giả mũi lõ, trên:

Tại sao viết?
Khi bị hỏi như thế, tôi thường khuyên, đừng. Thực sự là vậy. Nếu bạn kẹt vô trường hợp của tôi, và thấy cũng ngài ngại, thì cứ trả lời như vậy, cho chắc ăn.
Như Gore Vidal phán:
Trong mỗi thế hệ chỉ có 1, hoặc bảnh hơn 1 tí, vài linh hồn, cực kỳ đau khổ, bị kết án, ngay từ khi bò ra khỏi... bụng mẹ: Mi sau này sẽ trở thành nhà văn, thứ thiệt: a writer for life!
[nguyên văn, “một vài linh hồn không may mắn, bị kết án, từ khi sinh ra, sẽ trở thành cái phi lý tuyệt đối: một nhà văn suốt đời”]

Re:
...  condemned, practically at birth.

Trong kho tàng tiếu lâm của Mít, có giai thoại về Trạng Quỳnh, áp dụng vô đây thật tuyệt:

Trời sinh ông Kử Kuốc!

NQT

Cái ý của Gore Vidal, nằm trong dòng Kafka: "Nhà văn là 1 thứ dê tế thần, của nhân loại. Nhờ họ, mà chúng ta tha hồ gây tội, mà chẳng thấy lỗi 1 tí nào hết". (1)

Câu mở ra bài viết, bảnh như thế, mà bị ông Kử Kuốc chê là đếch xuất sắc thì dùng là “fi ní lô đia”! [hết lước lói!]

Kafka, trong một bức thư gửi cho bạn, viết: “Nhà văn là một bouc-émissaire của nhân loại. Nhờ hắn mà nhân loại có thể vui hưởng tội lỗi một cách ngây thơ vô tội”. Chính niềm hoan lạc ngây thơ vô tội này là sự đọc. Sự viết mang trong nó mầm bất hạnh, nhưng sự đọc lại là hân hoan, lại là ân sủng. Một nhân xấu cho một quả tốt. Viết là một sự vật ai oán (chose nocturne), là cái ngậm đắng, nuốt cay, là cái nghiệp, là cái sầu thảm. Nhưng đọc lại là ân huệ, là an hưởng tội lỗi một cách không tội lỗi, (một cách thơ ngây vô tội). Viết là một tác động xấu (activité mauvaise) nhưng đọc lại là cái bất động, cái tiêu cực sung sướng. Cái hữu của sự viết là bất hạnh trong khi bản tính của sự đọc lại là hạnh phúc, mặc khải…

Nguyễn Du giữa chúng ta

Chúng ta cần nhà văn, là như thế đó, hiểu chưa?

NQT

Note: Bài viết “Nguyễn Du giữa chúng ta” này, cũng có tí "giai thoại" của nó.

Sau khi đọc tập truyện ngắn “Mây Bay Đi” của Nguyên Sa, Gấu bị băng đảng của ông, qua Thương Sinh, tức Duyên Anh, chửi ròng rã gần 1 năm trời trên báo hàng ngày, báo “Sống”, của Chu Tử.

Gấu đếch thèm trả  lời.

Nhân tờ "Văn" ra số đặc biệt về Nguyễn Du, nhân đọc Kafka, bèn đi 1  đường tưởng niệm Nguyễn Du, “cuộc đời trăm năm rách nát với văn chương” [Thơ chữ Hán của ND]. Một công đôi ba chuyện. Trong số bạn bè hay ngồi Quán Chùa hồi đó, chỉ có mình nhà thơ Du Tử Lê nhận ra, phán, [giữa 1 đám đông ngồi cùng bàn, không có Gấu, sau nghe kể lại, nhớ đại khái], đây là bài trả lời Nguyên Sa của tên “sa đích văn nghệ” [nick của NS ban cho Gấu].

Câu của Kafka, Gấu đọc qua bản tiếng Tây. Sau này, ra hải ngoại, mới biết đến câu đó, qua bản tiếng Anh, Gấu bèn chôm lần thứ nhì, mượn hoa tiến Phật, đi 1 đường thổi bạn của Gấu, là Kiệt Tấn:

Những rừng đèn chai đứng dậy trong đêm khuya

Thơ Kiệt Tấn

Nhà văn người Đức, Gunter Grass, có một truyện ngắn "Quán Củ Hành" (đã được dịch ra Việt ngữ, đăng trên Bách Khoa trước đây); khách tới quán, được chủ đưa cho một củ hành, rồi cứ thế ngồi gọt, cắt. Nước mắt nhờ vậy mà vợi đi. Đọc Kiệt Tấn, tôi cứ cười hoài. Văn của ông thật vui, những cuộc tình của ông thật nhộn (và thật đã). Ông viết về mình: Có người lại nói Kiệt Tấn viết đa dạng nhưng thiên về tình dục, đọc một hồi lòi ra cái chất Kiệt Tấn. Tôi nghĩ Kiệt Tấn cũng có một quán củ hành như của Gunter Grass, ở trong thơ của ông.
Hay như của Kafka, khi ông định nghĩa nhà văn, một thứ dê tế thần của nhân loại. Nhờ anh ta mà con người tha hồ "enjoy" tội, mà chẳng lỗi gì ráo! (He is the scapegoat of mankind. He makes it possible for men to enjoy sin without guilt, almost without guilt). Đọc Kiệt Tấn, chúng ta "enjoy" bằng tiếng cười trong văn, và bằng tiếng khóc, trong thơ.

Viết Ngày


Địa dư quyết định số phận của Mít,
hay là
The Revenge of Geography:
What the Map Tells Us About Coming Conflicts and the Battle Against Fate
Cuộc trả thù của chữ S.

Bài gãi đúng chỗ ngứa [vết thương hình chữ S] của Gấu Cà Chớn!
Sự trả thù của địa dư cũng là sự trả thù của những giống dân Hời, Chiêm... đã bị  giống dân Mít làm cỏ trong suốt lịch sử dựng nước của nó.
Khi hết kẻ thù thì nó đè thằng em Nam Bộ ra “phán, trảm, làm thịt, đưa đi cải tạo mút mùa lệ thuỷ….”

Bài này NYRB đếch cho đọc free. Tin Văn sẽ scan, và dịch sau, hầu độc giả, thay vì kiếm đọc Bên Thắng Nhục!

*

LA GÉOGRAPHIE, MOTEUR DE L'HISTOIRE

Les vallées, les côtes, les montagnes et les steppes font bien davantage l'histoire que les idéologies. Au Moyen Age déjà, Ibn Khaldoun l'avait compris : la géoqraphie forge non seulement le caractère mais aussi l'avenir des peuples. Les cartes ont beau être d'invention récente et perdre chaque jour de leur pertinence, c'est encore l'esprit des lieux qui explique le destin du monde arabe, de la Chine, de l'Europe ou des Amériques.
MAUSE RUTHVEN. The New York Reriew of Books.

Note: GCC không kiếm ra tờ NYRB, nhưng lại kiếm thấy bản dịch, trên tờ Books.
Chính là cái khí hậu tàn nhẫn của 1 miền địa lý khắc nghiệt, là xứ Bắc Kít, quyết định phần số dân Mít.



*

Note: Đọc loáng thoáng, thì thấy bài của Julia Kristeva tuyệt nhất: "Ông ta tin cái chết, sự ghê rợn; đó là phận người"
["Il croit que la mort, l'horreur; c'est l'être]
Câu chửi nặng nhất, là của Sartre: "Nếu Céline tin vào Quốc Xã bài Do Thái, thì bởi là vì, ông ta đã được trả tiền"
[Si Céline a pu soutenir les thèses socialistes de l'antisémite c'est qu'il était payé]. Post trên Thời Mới, số 3, cuối 1945. Céline lúc đó lưu vong, không đọc. Khi biết, ông điên lên, viết bài trả lời, lầm tên J-P Sartre, [Jean-Paul], thành J-B Sartre [Jean-Baptiste]


*

García Márquez, l’homme qui aimait les dictateurs.

Nhà văn nhớn, Con Quỉ Thiêng của nền văn học Mỹ Châu La Tinh, rất mê những tên độc tài.
Monstre sacré de la littérature hispano-américaine, l' écrivain colombien est fasciné par les tyrans. Dans ses livres comme dans la vie.
Son attirance pour le pouvoir l'a conduit à soutenir Fidel Castro contre vents et marées. Une imposante biographie fait remonter ce gout des caciques à son enfance, dorninée par la figure charismatique d'un grand-père.
Tờ Books, Mars-Avril 2010 đọc cuốn tiểu sử của GGM, của Gerald Martin. Số báo này, đặc biệt về Internet và Wikipédia, 1 thứ tri thức dởm dành cho đám đông, les faux-semblants de la prétendue sagesse des foules.
Cái gọi là Wikipédia của Mít mới nhảm, do 1 đám phò VC chủ trương, theo GCC. Chúng đã dốt, mà còn luôn viết nhảm về những kẻ đếch mê VC!

Đầu tháng, lòi ra bài này:

Ngô Đình Diệm mang trong ông huyền thoại về một con người Mít hoàn toàn Mít, không đảng phái, không Đệ Tam, Đệ Tứ, không Việt gian bán nước cho Tây, cho Tầu, cho Liên Xô. Cùng với huyền thoại về một vĩ nhân Mít hoàn toàn Mít đó, là huyền thoại về một lực lượng thứ ba, như Gấu đã từng lèm bèm nhiều lần, đây là đề tài của cuốn Người Mỹ Trầm Lặng của Greene. Fowles khuyên anh chàng Mẽo ngây thơ, trầm lặng, mang Phượng về Mẽo, quên mẹ nó lực lượng thứ ba đi: lịch sử diễn ra đúng như vậy, nước Mẽo đã dang tay đón bao nhiêu con người Miền Nam bị cả hai bên bỏ rơi, những cô Phượng ngày nào. (1)

Trong "Tiểu sử của Graham Greene", Tập 3, có cái tiểu chú, về lần GG phỏng vấn Tổng Thống Diệm [bài phỏng vấn thấy ghi, ở cuối sách, 16.8.1982, đúng sinh nhật GCC, nhưng phỏng vấn Diệm ngày nào, không], ông có hỏi Diệm là tại sao cho Thế trở về, khi ông ta trách nhiệm về vụ giết rất nhiều người của chính ông ta [ám chỉ vụ Thế chủ mưu giết thường dân tại Catinat] Greene nhớ là, Diệm bật cười lớn, và nói: “Peut-être, peut-être” [Có thể, có thể].

Cả cuốn "Người Mỹ Trầm Lặng" xoay quanh nhân vật Thế, “Lực lượng thứ ba”, không có Thế [LLTB] là không có nó. Chúng ta tự hỏi, liệu có LLTB?

Trong cuốn tiểu sử của Greene, thì “Lực Lượng Thứ Ba”, anh Xịa ngây thơ gặp, là Trình Minh Thế. Greene không ưa TMT, và không tin ông làm được trò gì. Nhưng chỉ đến khi TMT bị Diệm thịt, thì ông mới thay đổi thái độ, như trong cái thư mở ra "Người Mỹ Trầm Lặng" cho thấy.

Theo GCC, cuốn NMTL được phát sinh, là từ cái tên Phượng, đúng như trong tiềm thức của Greene mách bảo ông.
Cả cuốn truyện là từ đó mà ra. Và nó còn tiên tri ra được cuộc xuất cảng người phụ nữ Mít cả trước và sau cuộc chiến, đúng như lời anh ký giả Hồng Mao ghiền khuyên Pyle, mi hãy quên “lực lượng thứ ba” và đem Phượng về Mẽo, quên cha luôn cái xứ sở khốn kiếp Mít này đi!

"Phượng Trong Thành Nội", là một cái "tên khác" của...  "Huế Mậu Thân", theo GCC.

KL vs VC

Đây là đòn Hồi Mã Thương mà GCC thường hay lèm bèm, của...  Lịch Sử, đáp lễ cặp Tình Nhân Số 1 của Xứ Mít, thời "nhiễu nhương" - chữ này không phải của GCC mà của bạn Cà!
Hai đứa mi đã giúp Con Quỉ Chuồng Lợn, làm thịt Miền Nam, ta đã cho mi cơ hội chuộc tội, khi, cũng vẫn tiếng hát ma quỉ của mi đó, cũng những bài hát làm mất nước đó, lại được cất lên từ đáy mồ biển cả, từ đáy ngục VC....
Nhưng mi bò về hầu đờn Bác Bộ Phủ, thì thôi đành để VC nó đá đít mi!

30.4.2014

Ca Sĩ Khánh Ly Sao Không Như Ca Sĩ Gloria Estefán

Note: Tks. NQT

Theo GCC, không thể so sánh như vầy được.
Trường hợp KL liên quan tới những ngày trước 1975, tiếng hát của KL cùng thứ âm nhạc của TCS là công cụ của con quỉ chiến tranh đưa đến sụp đổ đền thiêng MN, như Gấu đã viết.

Đây cũng là ý của Gide, khi viết về Dos, tác phẩm lớn có sự tham dự, đóng góp của Quỉ: Quỉ Đỏ đã muợn hai vị này làm Miền Nam thất trận!
Ở Miền Bắc, là con quỉ ở…  chuồng heo, như cách Oz đọc “Y Sĩ Đồng Quê” của Kafka.
Vị y sĩ nghe tiếng gọi của con bịnh Miền Nam, bèn tất tả xẻ dọc Trường Sơn đi kíu nước, cần cặp ngựa thắng vô bộ xe, con quỉ bèn biếu cặp ngựa, bù lại, nó làm thịt cô hầu gái, chưa đã, bèn lấy thêm biển đảo, trừ nợ!
Rồi sau 30 Tháng Tư tiếng hát đó lại cất lên từ mồ sâu biển cả, từ tầng đáy ngục tù, qua những bản nhạc hải ngoại, 1 phần nào đã đem an ủi tới cho những người bị CS vùi dập, bách hại.

Danh ca Khánh Ly đã về Việt Nam

Họ Trịnh đã từng hầu đờn Hồ Tôn Hiến, lấy ly rượu, thì tại làm sao người tri kỷ của ông không hầu đờn Bắc Bộ Phủ cho đủ cặp?

Trên TV có kể chuyện sinh thời, Sáu Dân Hồ Tôn Hiến, mỗi lần rảnh việc triều đình, thường cho vời họ Trịnh tới hầu đờn. Và có lần họ Trịnh kéo theo một bạn thơ. Lần sau, kêu bạn thơ cùng đi, ông lắc đầu, than, thấy mi gân cổ hạc gầy, hát lấy ly rượu, thảm quá, tao thà ở nhà còn hơn nhìn thấy bạn mình bị “Cách Mạng” làm nhục!

Thành thử cái chuyện bà này về hầu đờn Bắc Bộ Phủ quả là quá khủng khiếp, hay dùng từ thường dùng, áp dụng vô cú Lò Thiêu, đếch nói được!

Cái chuyện hải ngoại “buồn” chuyện KL về hầu đớn Bắc Bộ Phủ, là có cái lý của nó. Ai về thì cũng được trừ KL. Khi PD về, ông ta nói, người ta ghen với sự thành công của tui. “Không thành công” mới khó, chứ “thành công”, dễ ợt, với những đầu óc Bắc Kít cực kỳ thông minh, như PD, Sến Cô Nương, Nobel Toán, KL…. Với họ, phải “không thành công”, theo cái ý của Alain, dậy trò là Simone Weil cơ.
Não của đám này thiếu một mẩu, như GCC từng nói, là theo ý này.
Weil mà không thông minh sao. Vậy mà bà không vướng lụy trần, chính là vì bà đứng về phe nước mắt, đúng cái nghĩa của từ này, ý này, khi phán, ngày Nazi vô Paris là “Ngày Hội Lớn” của đám cô lô nhần, trong địa ngục thuộc địa của Tẩy.

Quái nhất là Đức Phật Sống cũng phán như thế, về Bộ Đầu Não Bắc Kinh, nộ não của đám này cũng sứt một mẩu, đúng mẩu có cái gọi là lương tri con người!

Gấu nhiều lần lèm bèm, sĩ phu Bắc Kít bị liệt một nửa bộ não, ngay cả ["nhất là", mới đúng] đấng Nobel Toán!
Thú vị quá, với riêng Gấu, Đức Phật Sống cũng phán như thế, về Tẫu VC!

“Tôi nói với Tông Tông Mẽo, Obama, đám Bắc Bộ Phủ Bắc Kinh, bộ não của họ bị thiến mất 1 mẩu, đúng mẩu có cái gọi là lương tri của con người”.
Đức Dalai Lama nói với tôi, [ký giả Jonathan Mirsky của tờ NYRB] trong lần lèm bèm giữa chúng tôi tại London vào giữa Tháng Sáu, 2012


*





giới thiệu:

Đi tìm nhành hoa thạch thảo ( Lê Duy Đoàn)



Finding the Words

In a book-length elegy, the poet Edward Hirsch confronts the loss of his son.

Trong 1 bi khúc dài bằng cả 1 cuốn sách, bố thi sĩ khóc ông con trai của mình

 I did not know the work of mourning
Is like carrying a bag of cement
Up a mountain at night
The mountaintop is not in sight
Because there is no mountaintop
Poor Sisyphus grief 

I did not know I would struggle
Through a ragged underbrush
Without an upward path
 

And ends: 

Look closely and you will see
Almost everyone carrying bags
Of cement on their shoulders
That’s why it takes courage
To get out of bed in the morning
And climb into the day.

Tôi không biết cái việc khóc lóc, tưởng niệm thì
Giống như vác bao xi măng lên núi
Vào ban đêm
Đâu nhìn thấy đỉnh núi
Bởi là vì làm đếch gì có đỉnh núi
Tội nghiệp chàng Sisyphus [của Camus]
Phải tưởng tượng chàng hạnh phúc!

Tôi không biết là tôi sẽ phải chiến đấu
Với đám bụi gai dưới chân
Bởi vì làm đếch gì có lối đi lên núi

Nhìn thật gần, thì mọi người đều thế cả
Hầu như ai cũng vác bao xi măng lên núi
Nhờ thế mà họ có đủ can đảm
Rời cái giường vào buổi sáng
Để bò vô ngày



Autumn Day

Robert Hass

SEPTEMBER 19

Rainer Maria Rilke: Herbsttag

Rainer Maria Rilke is one of the great poets of the twentieth century. He's also one of the most popular. He's been translated again and again, as if some ideal English version of his German poems haunted so many minds that writers have had to keep trying to find it. Here, for the time of year, are some translations of a poem about the fall. He wrote it in Paris on September 21, 1902.

Rilke là 1 trong những nhà thơ lớn của thế kỷ 20. Ông cũng là 1 nhà thơ phổ thông. Ông được dịch đi dịch lại, như thể, những bài thơ tiếng Đức của ông ám ảnh rất nhiều cái đầu, và những nhà văn phải cố tìm cho thấy nó. Đây là bài thơ cho mùa thu năm nay, với cả 1 lố bản dịch.

Ngày Thu

Chúa ơi: Đúng là lúc này rồi. Hè mới bao la làm sao
Hãy trải cái bóng của mi xuống sundials
Và cho gió tung tăng trên cánh đồng.

Hãy biểu những trái cây sau cùng, hãy chín mọng, cho kịp những chầu rượu;
Cho chúng thêm hai ngày hè
Để có được cái tuyệt hảo - như da thịt ngọt ngào của em - trộn hơi rượu nồng

Kẻ nào đếch có nhà lúc này, thì đếch cần dựng nhà nữa
Kẻ nào sống mình ên, thì xin cứ tiếp tục sống một mình
Vươn vai đứng dậy, đọc, viết những lá thư dài, cho Hải Âu, thí dụ vậy
Lang thang, lên xuống, những con phố
Đếch thèm nghỉ ngơi cái con mẹ gì, giữa lá bay đầy trời, trong gió loạn.

THE FIRST ELEGY

Who, if I cried out, would hear me among the Angels?
Orders? and even if one of them pressed me
suddenly to his heart: I'd be consumed
in his more potent being. For beauty is nothing
but the beginning of terror, which we can still barely endure,
and while we stand in wonder it coolly disdains
to destroy us. Every Angel is terrifying.

Ai, nếu tôi kêu lớn, sẽ nghe, giữa những Thiên Thần?
Những Thiên Sứ? và ngay cả nếu một vị trong họ ôm chặt tôi vào tận tim:
Tôi sẽ bị đốt cháy trong hiện hữu dữ dằn của Người.
Bởi là vì, cái đẹp chẳng là gì, mà chỉ là khởi đầu của ghê rợn,
chúng ta vẫn có thể chịu đựng, và trong khi chúng ta đứng ngẩn ngơ,
thì nó bèn khinh khi hủy diệt chúng ta.
Mọi Thiên Thần thì đều đáng sợ.

Với tôi người sở hữu hạnh phúc, cuốn sách thanh nhã, mỏng manh, mua từ lâu, “Bi Khúc” tượng trưng cho một khởi đầu của con đường dài đưa tới một quen biết tốt đẹp hơn, với toàn bộ tác phẩm của Rilke. “Bi Khúc thứ nhất” - một lần nữa ở đây: “Ai, nếu tôi la lớn - trở thành một chứng cớ hiển nhiên, sống động, thơ ca chẳng hề mất quyền uy khủng khiếp của nó. Vào lúc đó, tôi chưa biết thơ của Czeslaw Milosz, bị “VC Ba Lan”, thành công trong việc tuyệt cấm, ở trường học, nhà sách, thư viện, - và tất nhiên, tuyệt cấm với tôi. Một trong những nhà thơ cùng thời đầu tiên mà tôi đọc và cố hiểu, là Tadeusz Rozewicz, cùng sống trong thành phố mà tôi sinh trưởng, (Gliwice), và, có thể chứng kiến, thì cứ giả dụ như vậy, cái giây phút thần tiên liền theo sau, khi tôi mua được Duino Elegies, bản dịch của Jastrun - chứng kiến hình ảnh một đứa bé đứng chết sững trên hè đường, nơi con phố trung tâm thành phố, vào giờ cư dân của nó thường đi dạo chơi, khi mặt trời xuống thấp, và cái thành phố kỹ nghệ xám trở thành 1 bông hồng rực đỏ trong chừng 15 phút, cỡ đó – ui chao cũng chẳng khác gì giây phút thần tiên Gấu đọc cọp cuốn “Bếp Lửa”, khi nó được nhà xb đem ra bán xon trên lề đường Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn – Thơ của Rozewicz như sinh ra từ tro than của một cuộc chiến khác, Đệ Nhị Chiến, và chính chúng, những bài thơ, thì như là một thành phố của tro than. Rozewicz tránh sử dụng ẩn dụ trong thơ của mình, coi bất cứ thặng dư của tưởng tượng là 1 sỉ nhục hồi ức những nạn nhân của cuộc chiến sau chót, một đe dọa tính xác thực về mặt đạo đức của thơ ông: Chúng được coi như là những bản báo cáo, kéo, dứt, giựt ra từ cơn kinh hoàng, tai họa lớn. Những bài thơ đầu của ông, viết trước khi Adorno phang ra đòn chí tử, “thật là ghê tởm, man rợ khi còn làm thơ sau Lò Thiêu”, thì đã hàm ngụ trong chúng, câu của Adorno rồi.
Adam Zagajewski


Note: Có 1 sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng thật ly kỳ thú vị, không chỉ về cái cảnh Gấu chết sững trong nắng Sài Gòn, khi đọc cọp – khám phá ra - Bếp Lửa, khi cuốn sách được nhà xb Nguyễn Đình Vượng cho đem bán xon trên hè đường Phạm Ngũ Lão, nhưng còn ở điều này: Cuốn sách Bếp Lửa đã sống lại, từ tro than, bụi đường Xề Gòn.

Gấu đã viết như thế, về Bếp Lửa, từ năm 1972
Giả như nó không được đem bán xon, liệu có tái sinh?
Quá tí nữa, giả như không có cuộc phần thư 1975, liệu văn học Miền Nam vưỡn còn, và được cả nước nâng niu, trân trọng như bây giờ?

Một nền văn học bảnh tỏng như thế, mà có thằng ngu gọi nó là... bất hạnh!

*

NYRB August 14, 2014

Bài thơ mới nhất của Adam Zagajewski, trên số báo, trước SN/GCC 2 ngày!

Món quà SN thật bất ngờ!

Thêm bài này nữa, cùng số báo: Simic viết về Simic, tên tù của Lịch sử!

*

*

Bài thơ của AZ, và bài viết của Simic, thì đều “not free”. Bài viết của Simic cực tuyệt, vì nó rất gần với chúng ta.
Sáu tuổi, ở Belgrade, Đồng Minh dội bom giết Nazi, nhưng bom cứ giết hụt Nazi, và nhè đúng con nít như ông, hay bà già:
Những con người vô tội là những nạn nhân lớn lao nhất của chiến tranh và cách mạng.

Trong khi chờ bản tiếng Mít, mời độc giả "ăn tráng miệng", một bài thơ của Simic, trong bài viết. Một trong những bài thơ đầu, đa số được hủy bỏ, ông viết cách đây hơn 50 chục năm tại New York City

Cockroach

When I see a cockroach
I don’t grow violent like you
I stop as if a friendly greeting
Had passed between us.

This roach is familiar to me.
We met here and there,
In the kitchen at midnight,
And now on my pillow.

I can see it has a couple
Of my black hairs
Sticking out of its head,
And who knows what else?

It carries a false passport-
Don't ask me how I know.
A false passport, yes,
With my baby picture.

Con Dán

Khi nhìn thấy một con dán
Tôi không sửng cồ như bạn đâu
Tôi ngưng lại, như thể có 1 cú “Hi, bồ tèo”,
Giữa hai chúng tôi.

Con dán này trông thật quen, không lẽ nói, bạn quí của tôi.
Chúng tôi gặp, đâu đó
Trong nhà bếp, vào ban đêm
Và bây giờ, dưới gối. 

Tôi có thể nhìn thấy mấy sợi tóc đen của tôi
Thò ra khỏi đầu con dán
Nào ai biết, còn cái gì nữa?

Nó mang căn cước giả -
Đừng hỏi, làm sao tôi biết
Căn cước giả, đúng như thế
Với bức hình con nít của tôi.


Robert Melancon

French, born 1947

AUGUST

I wander beneath the serenity
of the moon as it withdraws
 its stars from the night. A shadow
goes with me in which I do not
know myself. Only these trees
nearest to me, the grass, the washed darkness
exist. A cry
of a night jar, the murmur of leaves.
Summer consents absently to the night.

Tháng Tám

Tớ lang thang dưới vừng trăng thanh thản
Nó rút những vì sao của nó ra khỏi đêm.
Một cái bóng cùng đi với tớ, và tớ không làm sao phân biệt, tớ là bóng, hay bóng là tớ.
Chỉ cây cối cận sát tớ, cỏ, và bóng tối được rửa sạch, hiện hữu
Đêm, như cái bình, kêu 1 phát,
Lá thì thầm
Mùa hè, bèn bằng lòng, tự vắng mình trong đêm.

BLIND PAINTER [XI] 

January can give this grove
the appearance of a colonnade.
The fall of the leaves creates
a felicitous labyrinth, an architecture
to which only the light comes.
But you should not linger
in this metaphorical palace
old as language. Here are trees
all waiting to be named.
None looks like any other.
They will not consent to be reduced
To the mere concept of a forest

 

Họa sĩ mù

Tháng giêng có thể cho cái bụi, bề ngoài của một hàng cây
Lá rụng, thành mê lộ thần tình,
một cấu trúc mà chỉ có ánh sáng tới được.
Nhưng bạn không nên nấn ná
Trong cái cung điện ẩn dụ,
Già như ngôn ngữ này
Ở đây, cây, tất cả bọn chúng, thì đều đợi để được đặt tên.
Chẳng cây nào giống cây nào
Chúng đếch hài lòng bị giản lược
Về cái ý niệm nghèo nàn, nhảm nhí, chúng tớ là một khu rừng.  

The Necessity of Loneliness


Son of Man and Son of God

Tuesday, July 29, 2014 4:11 PM

Thưa ông Gấu,
Xin góp ý với ông Gấu về một đoạn thơ đã post trên trang Tinvan.

Nguyên tác:

Christ speaks to her in turn:
“Whether dead or alive
woman, it’s all the same –
son or God, I am thine 

Theo tôi, nên dịch như sau:

Christ bèn trả lời:
Chết hay là sống,
Thưa bà, thì đều như nhau –
Con, hay Chúa, ta là của bà 

Best regards,

DHQ
 

Phúc đáp:
Đa tạ. Đúng là Gấu dịch trật, mà đúng là 1 câu quá quan trọng.
Tks again.
Best Regards

NQT


Nature Morte

Joseph Brodsky


Tưởng niệm Quỳnh Giao
Thơ Mỗi Ngày

Đọc Blog NL, thấy có nhắc tới bản dịch thơ của Szymborska, của Tạ Minh Châu. Gấu chưa từng biết tới ông này. Bèn tò mò gõ Google, ra bài này (1)
Đọc, thì thấy, mấy đấng Mít đều tránh né, đếch dám viết thẳng về Bà, vì đụng tới nỗi đau Mít.

Trên TV đã từng giới thiệu Szymborska. Bà là người làm bài thơ thần sầu về xứ Mít, "Vietnam", bài thơ chửi bố bài "Bà Mẹ Gio Linh" của PD, bài hát mà mỗi lần Thái Thanh hát, là không chỉ Thái Thanh, mà cả nước, khóc, về 1 bà mẹ Mít, đẻ đứa con nào là biếu VC đứa đó, để xây dựng lên cái địa ngục Mít bi giờ!

Tribute to Szymborska

Thơ Mít sau 30 Tháng Tư, thay vì vinh danh, thì phải là tưởng niệm những người đã chết, ở cả hai bên, ở cả thường dân lẫn những người cầm súng may mắn sống sót.

Cả 1 cõi thơ Mít, không làm sao có nổi 1 bài thơ như bài “Việt Nam” của Szymborska. Không có ai khóc, mà chỉ những tên khốn kiếp ăn mừng chiến thắng, ăn mừng nhận hàng [Miền Nam nhận họ, Miền Bắc nhận hàng].
Nhận hết hàng Miền Nam, thì biến cả thế giới thành bãi đánh hàng!

Sở dĩ trên TV, chỉ có thơ của Simic, Zagajewski, Milosz, Szymborska, vì thơ của họ đều là những bài tưởng niệm cả 1 thời kỳ vừa qua.

Theo tinh thần đó, Helen Vendler viết: Chẳng có bài học trực tiếp nào mà những nhà thơ Mẽo học được từ Milosz. Họ có bao giờ nhìn bằng cặp mắt của chính họ, chiến tranh, trên đất nước, xứ sở của chính họ. Chính vì thế mà họ không làm sao nhập vào được giọng thơ của Milosz.

Chúng ta, Mít, chẳng những chứng kiến, đau khổ vì cuộc chiến đến như thế, vậy mà đâu có đẻ ra được 1 thứ thơ như của Milosz, của Szymborksa.
Chính vì thế mà phải dịch, cho mọi người cùng đọc, để làm thay đổi hẳn cõi thơ Mít.

Vietnam (Wistawa Szymborska)

Szymborska thường viết, như thể, về 1 đề tài được chỉ định - một hạt cát, hay là bức hình đầu tiên của Hitler, hay một điều gì có tính suy đoán hơn, thí dụ, sự hiện hữu của linh hồn của chúng ta, hay là sự im lặng của cây cối quanh chúng ta. Rồi, tiếp đó, bà nghiên cứu, xem xét đề tài một cách gần gụi hơn. Trước tiên, bà miêu tả cái bà nhìn thấy, rồi bà nhớ lại những gì bà và những người khác biết về nó, và, yên chí lớn, độc giả theo kịp bà, cùng với bà đi tới mọi khúc rẽ, mọi bước ngoặt của cái đầu của bà, khi bà lần theo tư tưởng của mình, trên đường đi tới một kết luận ngỡ ngàng cho bài thơ, hoặc dí dỏm, hoặc tàn nhẫn, dã man, ác liệt.
Thơ như thế, có vẻ như là 1 cuộc triển khai, viết. Thì nó thế, thực.
Hơn hết thẩy những nhà thơ mà tôi biết, hay nghĩ tới, Szymborska không chỉ sáng tạo ra 1 tình trạng, một trạng thái [a state] thơ, ở nơi những độc giả của bà, nhưng còn nói cho họ biết, những điều họ chưa biết trước đó, và chẳng bao giờ nghĩ về những điều đó.

Charles Simic

*

Wislawa Szymborska's "Vermeer"

A poem against the apocalypse
Một bài thơ chống lại Tận Thế

Aug 27th 2010, 16:53 by More Intelligent Life, A.R. | NEW YORK

I HAPPENED upon this poem on the New York Review of Books's website, and was startled by how beautifully Wislawa Szymborska captures the dance between motion and stillness in Vermeer's "The Milkmaid"—a moment frozen yet continually happening.

Vermeer

So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn’t earned
the world’s end.

I love the shape of the poem—it thins like a stream of milk, pouring itself out. I also love the tension she sets up between the "W" and the "w", which appears hierarchical but is also slippery.

"Vermeer", Wislawa Szymborska, translated from the Polish by Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak

Note: Bài thơ này, TV đã post, nay chỉ post thêm lời bình của tay Prospero.
Bản tiếng Việt, của TV, cũng phân biệt ra hai từ "W", và "w".
GNV cũng đọc nó trên tờ NYRB, như Prospero.
Thế mới thú chứ!

Một khi mà người đàn bà ở trong bức tranh ở viện bảo tàng Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và chú tâm
rót sữa mỗi ngày từ cái bình ra cái bát,
thì Thế Giới vưỡn chưa có được cái sự tận cùng của thế giới.
Source

I love the shape of the poem—it thins like a stream of milk, pouring itself out. I also love the tension she sets up between the "W" and the "w", which appears hierarchical but is also slippery.
Tôi mê cái dáng của bài thơ - mỏng như sợi sữa, tự nó đổ nó ra, chẳng cần tới ai. Tôi cũng mê sức căng mà thi sĩ tạo ra, giữa W và w, nó làm lộ ra đẳng cấp nhưng cũng còn làm lộ ra sự trơn trượt.

Wislawa Szymborska 1
Late-night Whispers from Poland
Szymborska by Adam Gopnik

EXAMPLE

A gale
stripped all the leaves from the trees last night
except for one leaf
left
to sway solo on a naked branch.

With this example
Violence demonstrates
that yes of course-
it likes its little joke from time to time.

Wislawa Symborska: Here

Thí dụ

Một trận gió lạnh
Vặt trụ lá cây, tối hôm qua
Trừ 1 cái
Trơ cu lơ trên cành cây trần trụi 

Với thí dụ này
Lịch sử Mít những ngày 1945
Bèn chứng tỏ rằng thì là,
Thì tất nhiên, đúng như thế rồi
Lâu lâu, thi thoảng, ta cũng khoái chuyện tiếu lâm của ta! 

Ui chao, VC quả đã làm thịt ông bố, nhưng chừa ông con
Để sau này làm nhạc chào mừng ngày 30 Tháng Tư 1975:

Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng!

Bạn có thể áp dụng bài thơ trên, cho rất nhiều trường hợp,
Với những kẻ lịch sử tha chết để sau đó, làm 1 công việc, như trên! 

Nào họ Trịnh hầu đờn Hồ Tôn Hiến
Nào người tri kỷ của ông, hầu đờn Bắc Bộ Phủ.

Virtue, after all, is far from being synonymous with survival;
duplicity is.
J. Brodsky: "Collector's Item"
(Sống sót, nói cho cùng, là do nhập nhằng, không phải bởi đạo hạnh).

Đành phải cám ơn VC 1 phát!


Tựa hồn những năm xưa

Bông Hồng của Coleridge

Khoảng 1938, Paul Valery viết, lịch sử văn học đúng ra không nên là lịch sử của những tác giả và những tai nạn nghề nghiệp của họ, hay của tác phẩm của họ, nhưng nên là lịch sử Cái Tinh Anh, the history of the Spirit, như là kẻ sản xuất hay tiêu thụ văn chương. Ông viết thêm, một lịch sử như thế có thể được viết ra mà không cần nhắc tới một nhà văn đơn độc, a single writer. Không phải đây là lần đầu tiên mà Cái Tinh Anh phán như thế. Vào năm 1944, một trong những viên thư ký của nó trong Concord ghi nhận: Ta thì thật là khoái cái ý này, về văn học, đó là [chỉ] một người viết tất cả những cuốn sách… cái phẩm chất như thế, cái căn cước như thế, cả về phán đoán và quan điểm, trong tự sự, cho thấy, đây là tác phẩm của một cái nhìn-tất cả, nghe-tất cả, the work of all-seeing, all-hearing, của một vì phong nhã (Emerson, Essays: Second Series, “Nominalists and Realist,” 1844).
Hai chục năm sau Shelley diễn tả quan điểm, rằng tất cả những bài thơ của quá khứ, hiện tại, và tương lai thì là những chương, hồi (episode), hay những mẩu đoạn, của một bài thơ độc nhất, vô cùng, a single infinite poem, được viết bởi tất cả những nhà thơ trên thế gian.
Những nhận xét (consideration) như thế thì làm dấy lên biết bao là lèm bèm, không thể nào dứt được. Tôi lôi chúng ra, như là 1 cái cớ, để trình bày 1 dự án khiêm tốn của mình: vẽ lại cái cuộc tiến hóa của 1 ý nghĩ, qua những bản văn hỗn tạp của ba tác giả.
Tác giả đầu tiên, là Coleridge. Tôi không chắc chắn, ông ta viết khi nào, vào cuối thế kỷ 18, hay đầu thế kỷ 19:

“Nếu một người đàn ông có thể ghé Thiên Đàng, trong giấc mơ, và, thay vì hai trái đào tiên mà bướm thiên đàng dâng cho anh ta, thì là 1 bông hồng, như bằng chứng linh hồn của thằng chả quả thực đã ghé nhà thổ ở đó, và nếu, khi tỉnh giấc, thằng chả thấy trong tay mình cầm bông hồng, thì… sao nhỉ”

[Borges giải thích], đằng sau ý tưởng của Coleridge, là một ý tưởng phổ thông, xa xưa, của hàng hàng thế hệ những kẻ yêu nhau, cầu một…  BHD, như là bằng chứng đời đời, muôn đời….  của tình yêu của họ.

Hà, hà!

Lolita vs BHD

We never grow up - only older, then old-
Chúng ta chẳng bao giờ trưởng thành, nhưng cứ thêm tuổi mãi ra, già mãi ra, rồi già.

In one of Nabokov's works - this is another of my lost trouvailles - a character tells of someone losing something, a ring, I think it was, in a rock pool somewhere on the Riviera and returning a year later to the day and finding it again in exactly the spot where it was lost, but that kind of thing only happens in the Russian enchanter's magical version of our sullenly acquisitive world.

Trong 1 trong những tác phẩm của Nabokov - thì cũng lại là 1 trong những mất đi tìm lại được của tớ - một nhân vật kể về 1 tay nào đó, đánh mất một cái gì đó - một cái nhẫn. Hình như tại một cái ao, bên dưới 1 hòn đá, ở một nơi nào đó, ở Riviera, và một năm sau trở lại, vào ngày đó, và kiếm lại được cái nhẫn đúng tại nơi đã mất, nhưng cái thứ này chỉ xẩy ra trong 1 ấn bản thần tiên của một tay phù thuỷ Nga.... 

Ui chao, đúng là cái tình cảnh của GCC:

Như người xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn thuyền, chàng trở lại chốn xưa, tìm vết giầy trên lớp bụi thời gian, và tiếng cười của nàng vẫn còn văng vẳng đâu đây!
Ôi chao, giờ đọc lại vưỡn còn bùi ngùi!

Nhưng tại làm sao mà em ngộ ra rằng thì là, GCC chẳng bao giờ trưởng thành, cứ yêu mãi 1 đứa con nít... là nàng, từ đời thuở nào?


Zweig

* 

Tôi vội lục lại tạp chí Văn số đặc biệt về Võ Phiến. May, tôi còn giữ....

Gấu đã từng, sau khi xin lỗi ông nhóc con trên talawas, viết mail riêng, đề nghị ông nhóc chuyển cho coi lại bài viết cũ.

Ông đếch thèm trả lời.

Sở dĩ ông ta “đi 1 đường hờ hững”, là vì yên chí lớn, chẳng thằng nào con nào còn tờ Văn, số về VP.
Ông nhóc không ngờ là trong nước bi giờ săn kho tàng nọc độc văn hóa Mỹ Ngụy ghê quá, còn hơn cơn sốt vàng của Mẽo, La Ruée vers l’or!

Nhờ “Cơn Sốt Vàng”, Gấu có lại được những bài viết không bao giờ nghĩ lại được nhìn lại chúng.
Cám Ơn Các Bạn Nhà Văn VC thân mến của GCC!
Nhìn thấy mấy trang TSVC, như nhìn thấy bạn Joseph Huỳnh Văn ngày nào!

Tks. Many Tks. NQT


1914-2014


VĨNH BIỆT NHÀ VĂN TÔ HOÀI    

Milosz & Kap & To Hoai

Ainsi, pour Paul Valéry, « le complément nécessaire d'un monstre c'est un cerveau d'enfant »: Bộ óc con nít, là không thể thiếu, một bổ túc cần thiết để hoàn tất một con quỉ. (1)

Câu này áp dụng cho Tô Hoài thật là tuyệt: Ông đẻ ra Dế Mèn, Cu Lặc, Quê Người.... nhưng cũng “đồng thời là một, trong cả ba”, “Ba Người Khác”.
Thương Sinh & Duyên Anh, là 1 người, Lê Tất Điều của "Những Giọt Mực" cũng là Kiều Phong của những bài tạp ghi cực thâm độc.

Tuy nhiên, phải nhờ đến Todorov, thì chúng ta mới hiểu được trạng thái nhị phân này.
Trong hồi ức như liều thuốc trừ Ma Quỉ Cái Ác, ông phán, cái từ “human” không thể thay thế bằng những mỹ từ như “generous”, hay “merciful”.
Trong con người có con quỉ. Chính vì thế mà con người tự nó, không trục được quỉ.
Phải là Thượng Đế.
Không phải tự nhiên mà những Milosz, Brodsky - sống sót Quỉ Đỏ - là những tín hữu Ky Tô.

*

 Memory as a Remedy for Evil

Todorov mở ra cuốn sách nhỏ xíu, mỏng dính của ông, Hồi nhớ như thuốc trị Cái Ác Bắc Kít, Memory as a Remedy for Evil, bằng nhận xét, câu cầu nguyện hay được cầu nguyện nhất, của dân Ky Tô, bắt đầu, là "Lạy Cha, Cha ở trên Trời", và chấm dứt bằng, Hãy đuổi Quỉ ra khỏi chúng con, "Deliver us from evil". Câu này ngụ ý, trong chúng ta có...  quỉ, và chỉ có Thượng Đế, Chúa mới khu trục Quỉ ra khỏi chúng con. Nhưng chúng con, tức loài người thì lúc nào cũng hăm hở với giấc mơ tự mình trục Quỉ, và chính tham vọng này đưa đến những chủ nghĩa toàn trị.

Cái giấc mơ thống nhất nước Mít sợ còn đẹp hơn tất cả những giấc mơ toàn trị!

Thế mới chết! (1)



 

* 

Tôi vội lục lại tạp chí Văn số đặc biệt về Võ Phiến. May, tôi còn giữ....

Gấu đã từng, sau khi xin lỗi ông nhóc con trên talawas, viết mail riêng, đề nghị ông nhóc chuyển cho coi lại bài viết cũ.

Ông đếch thèm trả lời.

Sở dĩ ông ta “đi 1 đường hờ hững”, là vì yên chí lớn, chẳng thằng nào con nào còn tờ Văn, số về VP.
Ông nhóc không ngờ là trong nước bi giờ săn kho tàng nọc độc văn hóa Mỹ Ngụy ghê quá, còn hơn cơn sốt vàng của Mẽo, La Ruée vers l’or!

Nhờ “Cơn Sốt Vàng”, Gấu có lại được những bài viết không bao giờ nghĩ lại được nhìn lại chúng.
Cám Ơn Các Bạn Nhà Văn VC thân mến của GCC!
Nhìn thấy mấy trang TSVC, như nhìn thấy bạn Joseph Huỳnh Văn ngày nào!

Tks. Many Tks. NQT





Ainsi, pour Paul Valéry, « le complément nécessaire d'un monstre c'est un cerveau d'enfant »: Bộ óc con nít, là không thể thiếu, một bổ túc cần thiết để hoàn tất một con quỉ. (1)

Câu này áp dụng cho Tô Hoài thật là tuyệt: Ông đẻ ra Dế Mèn, Cu Lặc, Quê Người.... nhưng cũng “đồng thời là một, trong cả ba”, “Ba Người Khác”.
Thương Sinh & Duyên Anh, là 1 người, Lê Tất Điều của "Những Giọt Mực" cũng là Kiều Phong của những bài tạp ghi cực thâm độc.

Tuy nhiên, phải nhờ đến Todorov, thì chúng ta mới hiểu được trạng thái nhị phân này.
Trong hồi ức như liều thuốc trừ Ma Quỉ Cái Ác, ông phán, cái từ “human” không thể thay thế bằng những mỹ từ như “generous”, hay “merciful”.
Trong con người có con quỉ. Chính vì thế mà con người tự nó, không trục được quỉ.
Phải là Thượng Đế.
Không phải tự nhiên mà những Milosz, Brodsky - sống sót Quỉ Đỏ - là những tín hữu Ky Tô.

*

 Memory as a Remedy for Evil

Todorov mở ra cuốn sách nhỏ xíu, mỏng dính của ông, Hồi nhớ như thuốc trị Cái Ác Bắc Kít, Memory as a Remedy for Evil, bằng nhận xét, câu cầu nguyện hay được cầu nguyện nhất, của dân Ky Tô, bắt đầu, là "Lạy Cha, Cha ở trên Trời", và chấm dứt bằng, Hãy đuổi Quỉ ra khỏi chúng con, "Deliver us from evil". Câu này ngụ ý, trong chúng ta có...  quỉ, và chỉ có Thượng Đế, Chúa mới khu trục Quỉ ra khỏi chúng con. Nhưng chúng con, tức loài người thì lúc nào cũng hăm hở với giấc mơ tự mình trục Quỉ, và chính tham vọng này đưa đến những chủ nghĩa toàn trị.

Cái giấc mơ thống nhất nước Mít sợ còn đẹp hơn tất cả những giấc mơ toàn trị!

Thế mới chết! (1)
Viết Ngày

TẦM NHÌN HẸP

 

 Năm 1968, trong một chuyến đi thăm Hà Nội ngắn ngủi với tư cách là một “trí thức tiến bộ” của Mỹ, Susan Sontag nhận ra ngay là người Việt Nam ít có thói quen tư duy trên một tầm địa lý rộng. Mọi nhận định và mọi sự so sánh đều chỉ giới hạn trong phạm vi Việt Nam mà thôi (1). David G. Marr, một chuyên gia về sử Việt Nam hiện đại cũng nhận ra một điều là người Việt Nam thường rất ít bận tâm đến lịch sử các nước khác. Số lượng các bài viết về lịch sử nước ngoài xuất bản tại Việt Nam rất hiếm hoi và phần lớn chỉ có tính chất lược thuật chứ không hề là kết quả của một công trình nghiên cứu do chính mình thực hiện (2). Một tầm nhìn hẹp như thế là một trở ngại chính để giới trí thức tiếp cận với xu hướng toàn cầu hoá và giới làm chính trị thì khó thích nghi với cái gọi là địa chính trị (geopolitics) vốn là một trong những đặc điểm nổi bật nhất trong các quan hệ quốc tế hiện nay.

FB Thầy Kuốc

GCC đọc Chuyến đi Hà Nội lâu rồi, nay nhân đọc lời phán của Thầy Kuốc, có tí nghi nghi, là vì không lẽ bà này lại bất lịch sự đến chê VC nặng nề như thế, “tầm nhìn hẹp”!

Tính tìm lại đọc. May quá trên net có. SS không chê VC  như Thầy Kuốc nhét câu phán vô miệng Bà, mà phân biệt hai cách đọc. Một của VC, và một của bà. Cách của VC là biên niên. Cách của bà SS là biên niên + địa lý.
Khác nhau. Không có hẹp hay rộng cái con mẹ gì hết.

Bịp hoài. Chán quá! 

Even more than the Jews, the Vietnamese seem to suffer from an appalling lack of variety in their collective existence. History is one long martyrdom: in the case of Vietnam, the chain of episodes of victimization at the hands of great powers. And one of their proudest boasts is that people here have succeeded in retaining "Vietnamese characteristics, though we live close to the Chinese superpower and were under complete French domination for eighty years," in the words of our guide today. Perhaps only a martyr people, one which has managed to survive against crushing odds, develops so acute and personal a historical concern. And this extraordinarily vivid sense of history—of living simultaneously in the past, the present, and the future—must be one of the great sources of Vietnamese strength.

But the decision to survive at all costs in suffering obviously imposes its own aesthetic, its own peculiar and (to people not consciously driven by the imperative of survival) maddening sensibility. The Vietnamese historical sense, being, above all, a sense of the sameness of history, is reflected, naturally, in the sameness of what they say—what they feel we ought to listen to. I’ve become aware here of how greatly prized, and taken for granted, the value of variety is in Western culture. In Vietnam, apparently, something doesn’t become less valuable or useful because it has been done (or said) before. On the contrary, repetition confers value on something. It is a positive moral style. Hence, the capsule summaries of Vietnamese history we get from most people we visit, almost as much a part of the ritual as the tea and green bananas and expressions of friendship for the American people whom we’re supposed to represent.

But further, these speeches of historical recital that we hear almost daily are just one symptom of the general predilection of the Vietnamese for putting all information into a historical narrative. I’ve noticed that when we’re discussing or asking questions about the country today, each account given to us is formulated around a pivotal date; usually either August 1945 (victory of the Vietnamese revolution, the founding of the state by Ho Chi Minh) or 1954 (expulsion of the French colonialists) or 1965 (beginning of "the escalation," as they call the American bombing). Everything is either before or after something else.

Their framework is chronological. Mine is both chronological and geographical. I am continually reaching toward cross-cultural comparisons, and these are the context of most of my questions. But because they don’t share this context, they seem mildly puzzled by many things I ask. How hard it was yesterday, for instance, to get the affable, French-educated Minister of Higher Education, Professor Ta Quang Buu, to explore the differences between the French lycée curriculum used until 1954 and the program the Vietnamese have devised to replace it. Though he heard my question, for a while he simply didn’t see the point of it. All he wanted was to outline the Vietnamese system (kindergarten plus ten grades), report how few schools of any kind existed before 1954 and how many have been opened since (except for a good medical school inherited from the French, almost all university-level facilities have had to be developed from scratch), cite figures on rising literacy, tell how increasing numbers of teachers have been trained and young people given access to higher education and older people enrolled in adult-education courses since that date. The same thing happened when we talked to the Minister of Public Health, Dr. Pham Ngoc Thach, in his office in Hanoi, and when we met the young doctor of the tiny hamlet of Vy Ban in Hoa Binh province. After explaining that most of the Vietnamese population had no medical services of any kind under the French, they were eager to tell us how many hospitals and infirmaries have been built and how many doctors have been trained and to describe the programs undertaken since 1954 that have brought malaria under control and virtually eliminated opium addiction, but were quite taken aback when we wanted to know whether Vietnamese medicine was entirely Western in orientation or whether, as we suspected, Western techniques were mixed with Chinese methods such as herbal medicines and acupuncture. They must find us dilettantish, and may even regard such questions as a means of refusing full emotional solidarity with the unity and urgency of their struggle. Perhaps. It’s still true that since Andy, Bob, and I don’t share a history with the Vietnamese the historical view does narrow our understanding. To gain insight into what the Vietnamese are trying to build we must relate what they tell us to knowledge and perspectives we already have. But what we know, of course, is just what they don’t know. And so most of our questions are a kind of rudeness, to which they respond with unfailing courtesy and patience, but sometimes obtusely

Tình cờ Gấu đọc 1 bài khác, về SS, cũng của Thầy Kuốc trên Blog VOA, trong đó, Thầy Kuốc coi SS là 1 trong những người mơ, ngủ, thức giấc, thấy mình là Mít!
Nhảm, cực nhảm. Những dòng sau đây, ‘phản biện’ Thầy Kuốc:

Everybody says, "We know the American people are our friends. Only the present American government is our enemy." A journalist we met commended our efforts to "safeguard the freedom and prestige of the United States." Though I honor the nobility of this attitude, I’m exasperated by their naïveté. Do they really believe what they’re saying? Don’t they understand anything about America?


*

Sao đẹp trai, giống Sáu Dzũng, y tá dạo, chuyên nghề thiến heo, giao liên... Trùm VC ngày này, thế!

In Russia, Crime Without Punishment

Vladimir Putin backs the rebels suspected of shooting down Malaysia Airlines Flight 17. Why each new crisis makes him stronger

From Gaza to Ukraine, the Effects of World War I Persist

We still live in the long shadow of a war that began a century ago


Đọc thơ Lữ Quỳnh, cái ánh sáng lấp lánh pha lê choáng mắt tôi, là của tình bạn.

NTKM

Có thể nói, thơ Mít thường là như thế, ánh lên tình bạn, và cái khung cảnh thường gặp đi kèm, là 1 ly cà phê!

Đây là cái chết của thơ Mít theo Gấu. Không chỉ thơ mà luôn cả văn.

Người chỉ ra điều này, là Ha Jin, khi ông viết về người Tẫu của ông, khi đọc Solzhenitsyn. Dân Tẫu, ngay cả khi lưu vong, cũng phải quần tụ, thiếu bạn là chẳng làm được cái chó gì hết.
Nhưng ông viết thêm, cái chết của Tẫu còn là do đếch có lòng tin vào Thiên Đàng, vào Kiếp Sau. Kiếp Đời Đời.
Tẫu chỉ tin đời này. Mít thì cũng thế. Được ông Mác bồi thêm, tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng, thế là sợ quá, không dám ghiền [tôn giáo] nữa

Thơ Mít, chủ yếu là viết về bạn, về ly cà phê, và để tán gái.
Hết!
[Từ này, Gấu thuổng Thầy Kuốc. Văn phong của Thầy chỉ có mấy chữ, thành ra cũng dễ nhớ: Tiếc. Chán. Ngứa…. Hết!]
*

Ha Jin cho rằng, có một sự khác biệt giữa hai xã hội, TQ và Tây Phương, và con người, vì là sản phẩm của xã hội, nên “dính trấu”. Theo ông, người TQ không tin có đời sau. Như đoạn dưới đây cho thấy, khi Ha Jin viết về Solz.

“Trọn đời tôi, chỉ lo viết có một thứ”, ông có lần nói như vậy. Ngôi làng Cavendish, theo nhà viết tiểu sử Solz vào lúc đó không có một vị bác sĩ, mà do bị bịnh thần kinh hông, nhà văn có tuổi Solz cứ phải đứng viết. Điều gì làm ông kiên trường như thế, theo tôi, [Ha Jin] không phải chỉ vì ông lo quá cho cái chuyện viết chỉ một điều đó, mà còn vì niềm tin Ky Tô của ông, chính cái niềm tin này kéo thành một dải, một sự liên tục vượt khỏi cuộc đời này. Chính cái niềm tin còn có một “sau-đời” khiến con người có thể sống cuộc đời này mà chẳng sợ hãi . Trong một cuộc phỏng vấn trước khi trở về Nga, Solz được hỏi, ông có sợ chết không, và ông trả lời với một bộ mặt thích thú: Làm gì có chuyện đó. Chỉ là một sự chuyển tiếp thật êm ả. Là một tín hữu Ky tô, tôi tin rằng có cuộc sống sau khi chết, và tôi hiểu rằng, đó không phải là chấm dứt đời sống. Linh hồn có một sự tiếp tục, và linh hồn cứ thế tiếp tục sống. Chết chỉ là một giai đoạn, và người ta có thể nói, một sự giải thoát.
Trong một đoạn khác, ông nói, “Mục đích của sự hiện hữu của con người không phải là hạnh phúc, mà là sinh trưởng, nẩy nở tinh anh."
Điều này có thể cắt nghĩa sức mạnh tinh thần của ông, từ đó, ông tiếp tục công việc của mình khi lưu vong.

Những lời nói của ông làm tôi nhớ đến cuộc gặp gỡ của tôi với một nhóm thi sĩ TQ, ở River Falls, Wis, vào Mùa Hè 2001. Một trong họ là bạn học cũ của tôi. Anh rất mê khí hậu và cảnh sắc của thành phố nhỏ này, nó làm anh nhớ tới vùng đông bắc TQ nơi cả hai chúng tôi sinh ra. Tôi hỏi anh, “Nếu có thể, anh sống một mình ở đây, để chú tâm vào chỉ việc làm thơ?”, anh ta trả lời, khó lắm, tôi cần, ít lắm cũng một người bạn.
Đúng là một câu trả lời đặc Tầu. Người TQ không trông mong vào một quyền năng vượt ra khỏi cõi người, như là một chỗ dựa về tinh thần. Điều này giải thích rất ít người TQ lưu vong tại Bắc Mỹ sống tách biệt, riêng lẻ, và hầu hết trong số họ sống ở thành phố. Không thích sống cô đơn chỉ là bề mặt của vấn đề, và ở dưới nó, là sự trống vắng một niềm tin tôn giáo và niềm tin này đem đến một cái nhìn khác về cuộc đời. (1)

Gấu có quen Lữ Quỳnh, được anh quí lắm, thực sự là vậy, và cứ tính viết hoài về anh, về những người như anh, về cái không khí của 1 thời, mà NTKM đã viết, bằng những dòng thật tuyệt, thí dụ:

Trong nhóm Ý Thức, chỉ có anh Nguyên Minh, Lữ Kiều, Lê Ký Thương là tôi được gặp và nói chuyện nhiều, còn anh Lữ Quỳnh thì chỉ, như thế. Những nhân vật này luôn cho tôi cái nhìn rất quý về một thế hệ của những chàng lãng tử. Thế hệ được thời gian trao tặng rất nhiều và cũng lấy đi của họ không ít, có khi keo kiệt đòi trả lãi. Tặng phẩm đẹp nhất là họ có được thời gian để sống cho giấc mơ, và cũng nghiệt thay đó cũng là điều đầu tiên bị tước đoạt. Cái chông chênh giữa được và mất ấy đã để lại trong thơ văn tranh của họ những nét đặc biệt, vừa thơ mộng vừa bi thương......
Thơ mộng ở chỗ họ theo đuổi rất quyết liệt niềm đam mê văn chương nghệ thuật, trong một không gian vốn vô cùng trắc trở của cuộc sống còn, lại lọt vào quãng thời gian khắc nghiệt của lịch sử...
Chính vì vậy mà bi thương. Trong kề cận sinh tử, những chàng nghệ sĩ có tâm hồn như mây ấy đã nương tựa vào sự gắn bó của tình bạn, có phải vì ý thức được sẽ có những ra đi bất ngờ mà họ hết mình hơn trong những lúc còn bên nhau với ly rượu đầy vơi? Họ phổ những nét đẹp đau thương ấy vào câu thơ lời văn tranh vẽ..... 

Nhưng, bạn, bi thương, cà phê, gái, kể luôn cả cuộc chiến Mít... chưa đủ để có tác phẩm Mít lớn!
Phải có cái cô đơn, đếch cần đến bạn, cà phê, phải có niềm tin vào đời đời, vào cõi sau, "kiếp khác" nữa!

Hà, hà!

“Mít nhà văn, Mít nhà thơ” thiếu, cực thiếu, sự cô đơn, như tinh thần bài viết của Cao Hành Kiện. Gấu tính dịch để tặng Mít, thay vì viết 1 bài thổi Mít!

Không thích sống cô đơn chỉ là bề mặt của vấn đề, và ở dưới nó, là sự trống vắng một niềm tin tôn giáo và niềm tin này đem đến một cái nhìn khác về cuộc đời.
Ha Jin

Tuyệt!

Nhưng phải là Cioran, mới nhìn ra cái tội của Marx, khi huỷ diệt tôn giáo, coi nó là thuốc phiện của quần chúng:

Một khi thần thánh hóa Lịch Sử, bất tín nhiệm Thượng Đế, chủ nghĩa Marx chỉ thành công, là làm cho Thượng Đế trở nên xa lạ, và trở thành một ám ảnh khôn nguôi.
[En divinisant l'Histoire pour discréditer Dieu, le marxisme n'a réussi qu'à rendre Dieu plus étrange et obsédant. Cioran: Nga xô và con vi-rút tự do, La Russie et le virus de la liberté, trong Lịch sử và Không tưởng, Histoire et Utopie]. (a)

The Necessity of Loneliness

Speech presented on receiving the Golden Plate Award at the Forty-first International Achievement Summit of the American Academy of Achievement, held on 8 June 2002 in Dublin. Published in the Literary Supplement of the Taiwanese daily Lianhebao, 11 July 2002

V/v Ky tô giáo.

Death will come and will find a body
whose silent peace will reflect death's approach
like any woman's face
(Chết sẽ tới và sẽ thấy một xác thân
mà sự bình an lặng lẽ sẽ phản chiếu cái chết tới gần
như gương mặt của một người đàn bà nào đó).

[Ai cho phép anh là thi sĩ?]

Mấy dòng thơ trên, của Brodsky, là ở trong bài thơ Tĩnh Vật, Nature Morte. Ông là nhà thơ Ky Tô. Joseph, ở đây, là tên thánh, như Joseph Huỳnh Văn, thí dụ.
Vậy mà 1 nhà thơ Mít cho rằng, thơ của ông có tính tôn giáo, nhưng là nói chung chung vậy thôi, không phải Ky Tô giáo!

Ở ý này, tôi rất tâm đắc với những điều mà Giáo sư Sture Allen đã thay mặt Viện Hàn Lâm Thụy Điển đọc diễn từ Tuyên dương Joseph Brodsky, nhà thơ Nga có quốc tịch Mỹ, tại lễ trao giải Nobel văn chương năm 1987: “…Chiều kích tôn giáo mà ta nhất định có thể tìm thấy trong tác phẩm của ông (J. Brodsky) không gắn liền với một tín điều cụ thể nào…”
Võ Chân Cửu (1)

Nhưng mấy dòng sau, trong cùng 1 bài thơ, mới lạ:

Mary nói với Christ:
Mi là con ta? - hay là Chúa Trời?
Mi bị đóng đinh thập tự.
Đâu là con đường trở về quê hương của ta?

Mary now speaks to Christ:
"Are you my son-or God?
You are nailed to the cross
Where lies my homeward road?

Can I pass throught my gate
not having understood:
Are you dead ? - or alive?
Are you my son - or God?

Christ bèn trả lời:
Chết hay là sống,
Đàn bà, thì đều như nhau –
Con, hay Chúa, ta là thine

Christ speaks to her in turn:
“Whether dead or alive
woman, it’s all the same –
son or God, I am thine


Son of Man and Son of God

Tuesday, July 29, 2014 4:11 PM

Thưa ông Gấu,
Xin góp ý với ông Gấu về một đoạn thơ đã post trên trang Tinvan.

Nguyên tác:

Christ speaks to her in turn:
“Whether dead or alive
woman, it’s all the same –
son or God, I am thine 

Theo tôi, nên dịch như sau:

Christ bèn trả lời:
Chết hay là sống,
Thưa bà, thì đều như nhau –
Con, hay Chúa, ta là của bà 

Best regards,

DHQ
 

Phúc đáp:
Đa tạ. Đúng là Gấu dịch trật, mà đúng là 1 câu quá quan trọng.
Tks again.
Best Regards

NQT


Nature Morte

Joseph Brodsky

Khuya nức nở những cõi lòng không ngủ
Đợi vì sao dậy sớm tiễn người đi

Không hiểu sao hai câu thơ của Joseph Huỳnh Văn trích dẫn trên lại cứ lởn vởn trong đầu óc  Nguyễn tôi những ngày gần đây. Có phải giờ này gió mùa đang thổi trên khắp quê nhà, gợi lại những chuyến đi? Hay ngọn gió Santa Ana đang thổi suốt dọc giải đất Cali, làm dậy lên tiếng những chiếc phong linh bằng đất nung khua chạm vào nhau? Le vent se lève… Gió đã lên… Gió đã lên rồi… hãy thử sống xem sao?...

    Vậy đó, hai câu thơ gợi những âm vang. Kẻ viết những dòng này đã đọc khá nhiều thơ của Joseph Huỳnh Văn -những bài thơ nửa tượng trưng nửa siêu thực, những bài cầm dương xanh sầu quý phái- nhưng không hiểu sao hai câu thơ bình dị nói trên bỗng dưng lại có mê lực đưa lòng mình vào tưởng nhớ mông lung. Hai câu thơ thật giản dị nhưng khơi gợi nhiều quá. Phải chăng nó đã động phải những tầng sâu thẳm nào đó tận dưới đáy hồn -và đáy thời gian.

    Nhưng thôi hãy gượm. Trước khi nói về thơ, xin hãy nói về người. Con người đó là Joseph Huỳnh Văn. Nguyễn được đọc và nghe tên anh từ hồi tạp chí Thời Tập của Viên Linh. Joseph Huỳnh Văn. Cái tên lạ, nửa Tây nửa Ta, nhưng rồi cũng trở nên quen thuộc.

Blog NXP

Hai câu thơ của Joseph Huỳnh Văn [nửa Ta nửa Tây], “Khuya nức nở…”, Gấu nhớ thơ bạn, rồi viết ra, trong lần nghe tin bạn mất, (1) chắc là từ tiềm thức bật ra, chưa từng đăng báo.
Thơ của Joseph HV như Gấu nhớ được, cũng chưa từng đăng báo nào khác, ngoài tờ Tập San Văn Chương, do anh làm tổng thư ký.

Tất nhiên, có thể là Gấu nhớ lộn, nhưng JHV "kỹ" lắm, ít khi đăng báo thơ của anh, cho đến khi làm tờ TSVC.
Nguyễn Đạt chắc là rành hơn Gấu, về những kỷ niệm này.

Mấy câu thơ sau đây, của TTT, cũng là do Gấu đọc ở trên tường, kế bàn viết của ông, trong phòng riêng của ông, một lần Gấu lén vô:

Khi anh đi, anh đi vào sương đen
Sương rất độc tẩm vào người nỗi chết.

Nhớ, bài thơ dán trên tường, khi ông sắp sửa trình diện nhập ngũ.

NQT

(1)

Ai chỉ định anh là thi sĩ? 

Thứ Sáu, ngày 8 tháng 3 năm 1996, vào lúc 5 giờ chiều, buổi tưởng niệm thi sĩ Joseph Brodsky (tháng Năm 24, 1940 - tháng Giêng 28, 1996), Nobel văn chương 1987, tại nhà thờ St. John the Divine, New York, có lẽ đã đúng như ý nguyện của ông. Thay vì cuộc sống vị kỷ, những người bạn của ông đã nhắc nhở nhau về những chu toàn, the achievements, ngôn ngữ - the language - của người quá cố:
Death will come and will find a body
whose silent peace will reflect death's approach
like any woman's face
(Chết sẽ tới và sẽ thấy một xác thân
mà sự bình an lặng lẽ sẽ phản chiếu cái chết tới gần
như gương mặt của một người đàn bà nào đó). 

Tuy sống lưu vong gần như suốt đời, ông được coi là nhà thơ vĩ đại của cả nửa thế kỷ, và chỉ cầu mong ông sống thêm 4 năm nữa là "thế kỷ của chúng ta" có được sự tận cùng vẹn toàn. Ông rời Nga-xô đã hai chục năm, cái chết của ông khiến cho căn nhà Nga bây giờ mới thực sự trống rỗng.

Ông sang Mỹ, nhập tịch Mỹ, yêu nước Mỹ, làm thơ, viết khảo luận bằng tiếng Anh. Nhưng nước Nga là một xứ đáo để (Chắc đáo để cũng chẳng thua gì quê hương của mi...): Anh càng rẫy ra, nó càng bám chặt lấy anh cho tới hơi thở chót.

-Bao giờ ông về?.
-Có thể, tôi không biết. Có lẽ. Nhưng năm nay thì không. Tôi nên về. Tôi sẽ không về. Đâu có ai cần tôi ở đó.
-Đừng nói bậy, họ sẽ không để ông một mình đâu. Họ sẽ công kênh ông trên đường phố... tới tận Moscow... Tới Petersburg... Ông sẽ cưỡi ngựa trắng, nếu ông muốn.
-Đó là điều khiến tôi không muốn về. Tôi đâu cần ai ở đó. 

Theo Tatyana Tolstaya, nhà văn nữ người Nga hiện đang giảng dạy môn văn chương Nga và viết văn, creative writing, tại Skidmore College, thoạt đầu, ông rất muốn về, ít nhất cũng như vậy. Ông đã từng nổi giận về những lời trách cứ. "Họ không cho phép tôi về dự đám tang ông già. Bà già chết không có tôi ở bên. Tôi hỏi xin nhưng họ từ chối". Cho dù vậy, lý do, theo Tolstaya, là ông không thể về. Ông sợ quá khứ, kỷ niệm, hồi nhớ, những ngôi mộ bị đào bới. Sợ sự yếu đuối của ông. Sợ hủy diệt những gì ông đã làm được, với quá khứ của ông, trong thi ca của ông. Ông sợ mất nó như Orpheus đã từng vĩnh viễn mất Eurydice, khi ngoái cổ nhìn lại.

Mỗi lần từ Nga trở về, hành trang của Tolstaya chật cứng những bản thảo của những thi sĩ, văn sĩ trẻ. "Cũng không nặng gì lắm đâu. Xin trao tận tay thi sĩ. Nói ông ta đọc. Tôi chỉ cần ông ta đọc". Ông đã đọc, đã nhớ và đã nói, thơ của họ tốt... Và ca ngợi điều may mắn. Và những nhà thơ trẻ của chúng ta đã hất hất cái đầu, ra vẻ: "Thực sự, chỉ có hai nhà thơ thứ thiệt tại Nga, Brodsky và chính tôi". Ông tạo nên một cảm tưởng giả, ông là một thứ ‘Bố già văn nghệ’. Nhưng chỉ một số ít ỏi thi sĩ trẻ đã từng nghe ông rên rỉ: Sau cái thứ này, tôi biết anh ta vẫn tiếp tục viết, nhưng làm sao anh ta tiếp tục sống!
Ông không tới với nước Nga, nhưng nước Nga đến với ông. Nhà thơ Nga kỳ cục không muốn bám rễ vào đất Nga.
Kỳ cục thật, bởi vì đã từ lâu, thế hệ lạc loài được Hemingway mô tả trong Mặt Trời Vẫn Mọc, The Sun Also Rises vẫn luôn luôn là một ám ảnh đối với những kẻ bị bứng ra khỏi đất. Nếu không trở nên điên điên, khùng khùng thì cũng bị thương tật, (bất lực như nhân vật chính trong Mặt Trời Vẫn Mọc), bị bệnh kín (La Mort dans l'Âme: Chết trong Tâm hồn), và chỉ là những kẻ thất bại. Đám Cộng sản trong nước chẳng vẫn thường dè bỉu một nền văn chương hải ngoại? 

Nhưng Brodsky là một ngoại lệ. Nước Nga đã đến với ông. Thơ ông được xuất bản, đăng tải trên hầu hết các báo chí tại Nga. Trong một cuộc thăm dò dư luận tại đường phố Moscow: "Ông có mong ước, hy vọng gì liên quan đến cuộc bầu cử?", một người thợ mộc đã trả lời: "Tôi chỉ mong sống một cuộc đời riêng tư. Như Joseph Brodsky".

-Ai chỉ định anh là thi sĩ?

Đám Cộng sản Liên-xô đã từng hét vào mặt ông như vậy tại phiên tòa. Họ chẳng thèm để ý đến những tài liệu, giấy tờ chứng minh từng đồng kopech ông có được qua việc sáng tác, dịch thuật thi ca.
-Tôi nghĩ có lẽ ông Trời.
Được thôi. Và tù đầy, lưu vong.

Neither country nor churchyard will I choose
I'll come to Vasilevsky Island to die
(Xứ sở làm chi, phần mộ làm gì
Ta sẽ tới đảo kia để chết) 

In the dark I won't find your deep blue facade
I'll fall on the asphalt between the crossed lines.
(Trong đêm tối thấy đâu, gương mặt em thăm thẳm xanh, xưa
Ta gục xuống nhựa đường đen, giữa những lằn đan chéo).
Những lằn đan chéo, the crossed lines, hay rõ hơn, bờ ranh Nga Mỹ phân biệt số phận hai mặt của một kẻ ăn đậu ở nhờ.

-Này thi sĩ, nếu ông muốn về không ngựa trắng mà cũng chẳng cần đám đông reo hò, ngưỡng mộ, tại sao ông không về theo kiểu giấu mặt?
-Giấu mặt?
Đột nhiên thi sĩ hết tức giận, và cũng bỏ lối nói chuyện khôi hài. Ông chăm chú nghe.
-Thì cứ dán lên một bộ râu, một hàng ria mép, đại khái như vậy. Cần nhất, đừng nói cho bất cứ một người nào. Và rồi ông sẽ dạo chơi giữa phố, giữa người, thảnh thơi và chẳng ai nhận ra ông. Nếu thích thú, ông có thể gọi điện thoại cho một người bạn từ một trạm công cộng, như thể ông từ Mỹ gọi về. Hoặc gõ cửa nhà bạn: "Tớ đây này, nhớ cậu quá!"
Giấu mặt, tuyệt vời thật!

 
****

 Joseph Huỳnh Văn là một thi sĩ. Chúng tôi quen nhau những ngày làm Tập san Văn chương. Có Nguyễn Tử Lộc, đã chết vì bệnh tại Sài-gòn ít lâu sau 75. Phạm Hoán, Phạm Kiều Tùng, Nguyễn Đạt, Nguyễn Tường Giang... Huỳnh Văn là Thư ký Tòa soạn. Không có Phạm Kiều Tùng, tập san không có một ấn loát tuyệt hảo. Nguyễn Đông Ngạc khi còn sống vẫn tự hào về cuốn Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta (Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam) do anh xuất bản, Phạm Kiều Tùng, Phạm Hoán lo in ấn, trình bày. Bạn lấy đầu một cây kim chấm một đầu trang. Dấu chấm đó sẽ xuyên suốt mọi đầu trang thường của cuốn sách. Không có Nguyễn Tường Giang thì không đào đâu ra tiền và mối thiện cảm, độc giả, thân hữu quảng cáo dành cho tập san. Những bài khảo luận của Nguyễn Tử Lộc và sở học của anh chiết ra từ những dòng thác ngầm của nhân loại - dòng văn chương Anglo-Saxon - làm ngỡ ngàng đám chúng tôi, những đứa chỉ mê đọc sách Tây, một căn bệnh ấu trĩ nhằm tỏ sự khó chịu vì sự có mặt của những quân nhân Hoa-kỳ tại Miền Nam. 

Huỳnh Văn với lối nói mi mi tau tau là chất keo mà một người Thư ký Tòa soạn cần để kết hợp anh em. Bây giờ nghĩ lại chính thơ anh mới là tinh thần Tập San Văn Chương. Đó là nơi xuất hiện Cầm Dương Xanh , những bài thơ đầu mà có lẽ cũng là cuối của anh. Bởi vì sau đó, anh không đăng thơ nữa, tuy chắc chắn vẫn làm thơ, hoặc tìm thấy thơ trên những vân gỗ, khi anh làm nghề thợ mộc, những ngày sau 75, thay cho nghề bán cháo phổi, những ngày trước đó. 

"Mỗi thời đại, con người tự chọn mình khi đứng trước tha nhân, tình yêu, và cái chết." (Sartre, Situations). Trong thơ Nguyễn Bắc Sơn, tha nhân là những người ở bên kia bờ địa ngục, và chiến tranh chỉ là một cuộc rong chơi. Nguyễn Đức Sơn tìm thấy Cửa Thiền ở một nơi khác, ở Đêm Nguyệt Động chẳng hạn. Thanh Tâm Tuyền muốn trút cơn đau của thơ vào thiên nhiên:

Mùa này gió biển thổi điên lên lục địa...

Còn Huỳnh Văn, có vẻ như anh chẳng màng chi đến cuộc chiến, hoặc cuộc chiến tránh né anh. Tinh thần mắt bão của thiên nhiên thời tiết, hay tinh thần mắt nghe, l'oeil qui écoute, của Maurice Blanchot? 

Ôi khúc Cầm Dương sầu quí phái
Đàn ai xanh ngát Trời Tây Phương.

Thơ anh là một ngạc nhiên, hồi đó.
Và tôi vẫn còn ngạc nhiên, bây giờ, khi được tin anh mất. (2)

Khi liên tưởng đến câu thơ của một người bạn:
Hồn Đông Phương thất lạc buồn Phương Tây
(thơ TKA)

Tôi không biết có phải Trời Tây Phương của anh lấy từ ý thơ cổ:
Vọng Mỹ Nhân hề, thiên nhất phương

(Có thể mượn ý niệm "con người hoàn toàn" (l'homme total), hay giấc đại mộng của Marx, làm nhịp cầu liên tưởng, để thấy rằng những Mỹ Nhân, Đấng Quân Vương, Thánh Chúa... trong thi ca Đông Phương không hẳn chỉ là những giấc mộng điên cuồng của thi sĩ):

Vọng Mỹ nhân hề, thiên nhất phương
Vọng Mỹ nhân hề, vị lai

Đọc trong nước, có vẻ như Thơ đang trên đường đi tìm một Mỹ nhân cho cả ngôn ngữ lẫn cuộc đời.

Và Buồn Phương Tây, có thể từ ý thơ Quang Dũng:

Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
(Tây Phương trong thơ Quang Dũng là Tây Phương Cực Lạc của một cõi Chùa Thầy, Sơn Tây, và cũng còn là vẻ đẹp của các cô thiếu nữ vùng này).

Hay Tây Phương là cõi lưu đầy của lũ chúng tôi mà Joseph Huỳnh Văn đã nhìn thấy từ bao năm trước:

Khuya nức nở những cõi lòng không ngủ
Đợi vì sao dậy sớm tiễn người đi. 

-Tau đây này. Nhớ mi quá!

Nguyễn Quốc Trụ

(2) Joseph Huỳnh Văn Hiến mất ngày 20/2/1995 tại Sài Gòn.

Kỷ niệm với nhà thơ.

*

Hai bạn Nga & Chất


Having sampled two oceans as well as continents,
 I feel that I know what the globe itself must feel: there's no where to go.
 Elsewhere is nothing more than a far-flung strew  of stars, burning away.

Đã nếm trải hai đại dương cũng như hai lục địa
 Tôi cảm thấy rằng, tôi biết được, chính trái đất này phải cảm nhận như thế nào:
 Không có nơi nào để mà thoát cả.  
Bất kỳ đâu đâu, có khác gì một chùm sao xa xăm tắt lịm dần.

Khi được hỏi ông nghĩ gì về những năm tháng tù đầy, Brodsky nói cuối cùng ông đã vui với nó. Ông vui với việc đi giầy ủng và làm việc trong một nông trại tập thể, vui với chuyện đào xới. Biết rằng mọi người suốt nước Nga hiện cũng đang đào xới "cứt đái", ông cảm thấy cái gọi là tình tự dân tộc, tình máu mủ.
Brodsky

Thơ làm khi đi nuôi cá


Gánh cỏ trên vai thơ trong đầu
Trời chớm thu hạ muờng tượng hồng au
Tung hê cỏ vụn trên hồ vắng
Băm nát tình si đều nhịp dao.

[Yên Báy. Bắc Việt]

Thanh Tâm Tuyền



*

Chuyến bay sau cùng là vào ngày 31 Tháng Chín, 1944.
Người ta đã kiếm thấy mảnh vụn chiếc máy bay trinh sát, chính thức là vào ngày 7 Tháng Tư 2004, ngoài khơi Marseille, dưới độ sâu trên 700 m.
GCC thì cũng kiếm thấy cái tiệm bán báo Tẩy, trừ sách Tẩy, kể như không còn nữa ở Toronto.


30/12/2011 

Cám ơn Bác Trụ. Những lời ưu ái của Bác làm HH cảm động vô cùng. Xin chúc hai Bác năm mới bình an, con cháu thành công. Chúc Bác khỏe và sáng tạo dồi dào. 

Mới mò ra, không biết đã reply chưa nữa!
Hà, hà!

Tks

NQT


Vậy là bác thêm một tuổi đời nữa, nhưng văn của bác thì dường như trẻ mãi, theo nghĩa ngày càng mạnh mẽ, giàu có thêm ra. Nhân đây lại nhớ mấy câu thơ của Apollinaire, ghi lại đây như một lời chúc mừng bác, bền bỉ trong cõi văn của riêng mình, quên cả tuổi già.
DV

La carpe

Dans vos viviers, dans vos étangs,
Carpes, que vous vivez longtemps!
Est-ce que la mort vous oublie,
Poissons de la mélancolie.

Apollinaire

Cá chép

Trong ao hồ các ngươi,
Cá chép, các ngươi sống lâu xiết bao!
Phải chăng cái chết đã quên các ngươi
Hỡi loài cá sầu muộn.

Huỳnh Phan Anh dịch

Knowing the truth, of course, is better than fooling oneself, but who wants to look truth in the face every morning? Over the years, I’ve watched a few people on their deathbeds and they were not entirely convinced either about what was coming. They held on to a small hope that they would turn out to be exceptions to the rule.

Charle Simic: Looking It in the Face

Socrate là người, Socrate phải chết, nhưng biết đâu đấy, Gấu đếch…  chết?
Gấu nhìn thẳng vào mặt Thần Chết, và phán, đi chỗ khác chơi!

Đọc lại những dòng trên, nhớ về quê Bắc Kít cũ, lần đến bãi ven sông Hồng, phía bên Bạch Hạc, Việt Trì, nơi ông cụ Gấu bị tên học trò làm thịt, thắp 1 nén nhang… và ý nọ xọ ý kia, có thể Gấu đếch chết, và, tiền thân của Gấu, không phải…. đỉa, mà là cá chép, cá Anh Vũ nổi tiếng ở Ngã Ba Hạc, thức ăn tiến Vua ngày nào. Giống cá này không chết, mà đến mùa thi, nếu đậu, là biến thành rồng!
Truyền thuyết cá vượt vũ môn, là từ loài cá này mà có!
Biết đâu đấy, khi Gấu nằm xuống, trang TV khép lại, là Gấu biến thành rồng, chở em…  Sad Seagull ngao du giang hồ!

Xạo Hết Chỗ Nói!

SN 16.8.2013

*

*

Băng "Tiểu Thuyết Mới" with "Đặc Sản Nam Bộ" Nguyễn Văn Sâm

*

Gặp gỡ cuối năm

Trong cuốn “Inquistion” này, có 1 cái còm về  ngày….  30 Tháng Tư 1975, khi VC giải phóng Miền Nam, GCC đã giới thiệu rồi, nay dịch toàn thể cái còm, cũng là 1 cách đọc “Bên Thắng Nhục”, của tên VC  kiêm nghề thằng ở (Ô sin) và mấy tên VC nằm vùng, sính văn nghệ, ham viết văn, dù viết như kít, một phần là do cứ muốn giải thích, phân trần, về cái nhục, cái tội của chúng, xóa sổ 1 miền đất, đưa cả 1 đất nước xuống hố.
Trong cái còm về ngày Paris được giải phóng, Borges đảo ngược lịch sử Cuộc Thế Chiến I, khi cho rằng, Hitler muốn thua trận: Hitler wants to be defeated.
Không biết Hitler có thực tâm muốn như thế, nhưng đây quả là đề tài của 1 Nguyễn Huệ của NHT, ra Bắc nhét kít vô miệng đám Bắc Kít để mong sự thay đổi.
Và đây có thể mới đúng là giấc mơ của người dân quê Bắc Kỳ, như NKL kể,  trong1 lần chuyển trại tù, đói quá, anh được 1 bà lén cho ăn, và than thở, các cháu đánh đấm ra làm sao để thua giặc dữ, bà hàng ngày cầu mong Miền Nam thắng trận, giải phóng Miền Bắc.


Zweig

Đọc bài điểm cuốn tiểu sử của Zweig, “Lưu vong bất khả”, The Impossible Exile, thì Gấu hiểu ra, tại làm sao mà tụi mũi lõ nói tiếng Anh chịu không nổi Zweig. Với Zweig, Âu Châu là nhà của ông. Gấu nhận ra điều này, khi viết về Võ Phiến, và gọi ông là “nhà văn Bình Định”, là theo nghĩa đó.

Với tôi, văn chương Sài Gòn một thuở có một nhà văn bị thổi phồng về rất nhiều thứ: tài năng, tầm vóc, vân vân và vân vân.
Đó chính là Võ Phiến.

Blog NL

Nhận xét trên, theo Gấu không đúng. Trước 1975, Võ Phiến không được nhắc tới nhiều, so với những nhà văn ăn khách khác, thí dụ Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc của Nam Kỳ, hay Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Doãn Quốc Sĩ, của Bắc Kỳ di cư, thí dụ. Nhưng không phải là ông không có độc giả, nhất là về mặt tiểu thuyết, truyện ngắn, theo GCC, rất giống Zweig, ở rất nhiều điểm.
Những nhận xét của tác giả bài điểm cuốn tiểu sử “Lưu Vong Bất Khả” về Zweig, trên tờ Literary Review có thể áp dụng vô VP: "Thương hiệu" của Zweig là “amok”, 1 từ của chính ông [Amok là tên 1 tác phẩm của Zweig, được dịch ra tiếng Việt là Người Khùng Mã Lai]: 

They run amok!...  All too often, demonic rapture grabs his readers by the throat. Cái sướng khùng điên, man rợ tóm lấy cổ độc giả, và bóp chặt!

Nhân vật của VP cũng cho chúng ta cái sướng khùng điên man dại đó!  

His Exile Was Intolerable

On February 23, 1942, Stefan Zweig and his young wife committed suicide together in Petrópolis, Brazil. The following day, the Brazilian government held a state funeral, attended by President Getulio Vargas. The news spread rapidly around the world, and the couple’s deaths were reported on the front page of The New York Times. Zweig had been one of the most renowned authors of his time, and his work had been translated into almost fifty languages. In the eyes of one of his friends, the novelist Irmgard Keun, “he belonged to those that suffered but who would not and could not hate. And he was one of those noble Jewish types who, thinskinned and open to harm, lives in an immaculate glass world of the spirit and lacks the capacity themselves to do harm.”

The suicide set off a surge of emotion and a variety of reactions. Thomas Mann, the unquestioned leader of German-language writers in exile, made no secret of his indignation at what he considered an act of cowardice. In a telegram to the New York daily PM, he certainly paid tribute to his fellow writer’s talent, but he underscored the “painful breach torn in the ranks of European literary emigrants by so regrettable a weakness.” He made his point even clearer in a letter to a writer friend: “He should never have granted the Nazis this triumph, and had he had a more powerful hatred and contempt for them, he would never have done it.” Why had Zweig been unable to rebuild his life? It wasn’t for lack of means, as Mann pointed out to his daughter Erika. 

This is the subject of Georges Prochnik’s The Impossible Exile, a gripping, unusually subtle, poignant, and honest study. Prochnik attempts, on the basis of an uncompromising investigation, to clarify the motives that might have driven to suicide an author who still enjoyed a rare popularity, an author who had just completed two major works, his memoir, The World of Yesterday, and Brazil: Land of the Future. He had also finished one of his most startling novellas, Chess Story, in which he finally addressed the horrors of his own time, proving that his creative verve hadn’t been in the least undermined by his ordeals. Recently he had married a loving woman, nearly thirty years his junior. And he had chosen of his own free will to leave the United States and take refuge in Brazil, a hospitable nation that had fired his imagination.

Cái sự biến VP thành…  thần, là ở hải ngoại, khi ông nhận được tiền của…  Xịa, viết văn học sử Miền Nam. Đám nhà văn hải ngoại, tên nào mà chẳng thèm vô…  văn học sử!
Và khi VC muốn mua ông, tái bản sách của ông, dưới cái tên Tràng Thiên.
Tạm thôi, chờ thời, dùng đúng tên VP!

Nhưng đám VC thì chỉ dám thổi ba cái nhảm nhất của VP, với Gấu, là Tuỳ Bút, Tạp Ghi. Có tên còn phán, hơn hẳn Nguyễn Tuân!
Quá bậy. Tuỳ bút, ăn thua ở cái tâm nhiều lắm, nếu muốn viết hay. Khi tới đỉnh, là nó trở thành thứ văn chương “viết như không viết”. Ở hải ngoại, có 1 đấng nổi danh lắm, được khen lắm, Gấu không nêu tên, vì lại thêm 1 kẻ thù, nhưng mỗi lần Gấu đọc, là thấy ông này đang bặm môi làm nhà đạo đức, nhà đắc đạo, sau khi đã kinh qua…  Lò Cải Tạo! Ông ta đã đi tù VC rồi mà, được VC ban cho cái bằng đã kinh qua [tốt nghiệp] Lò Cải Tạo, đã đắc đạo, đã không thù, không oán….
Kít!
Đâu có khác gì mấy tên VC nằm vùng!

Gấu nhớ hoài, lần gặp lại 1 người bạn, khi mới ra được ngoài này. Anh thật mừng rỡ, cho biết, ông được vô văn học sử rồi! Gấu ngạc nhiên quá, tính hỏi, anh giúi cuốn “Văn Học Tổng Quan” của Võ Phiến vô tay, biểu, đọc đi.





Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Blood Brothers. Một chiến thắng bị trù eỏ, nguyền rủa [Cursed Victory: A History of Israel and the Occupied Territories].
Bài điểm sách trên The Economist làm Gấu liên tưởng tới chiến thắng của Bắc Kít:

Chúng sinh ra đời để thực hiện nó, như là 1 lý tưởng kéo dài suốt lịch sử dựng nước của giống Mít, đến đúng ngày 30 Tháng Tư, 1975, chiến thắng hoàn toàn, thống nhất đất nước, tới lúc đó, lời nguyền mới biến thành hiện thực.

Một đứa con nít như Thầy Cuốc, đậu cái bằng tú tài đúng vào những ngày 30 Tháng Tư 1975, tức là cái bằng của VC, làm thầy dậy học cho chế độ đó, biết cái gì về văn học Miền Nam trước 1975?
Đó là sự thực.
Chỉ nội cái tên “bất hạnh” gán cho nền văn học đó, đã là 1 sỉ nhục nặng nề rồi. NQT

*

Note: Bài điểm sách, TV sẽ post liền, vì phải scan từ báo giấy, do hết credit đọc free!

“Nền tân nhạc Việt Nam có nhiều tác phẩm nghệ thuật nhất, và đáng nhớ nhất vì còn được hát ngày nay, là ở miền Nam, trong giai đoạn 1954-1975. Trước đấy thì chưa có và sau đó thì không còn...”
Quỳnh Giao (1)

Theo GCC, câu viết của QG có thể áp dụng ở đây:

Bất hạnh đúng ra là phải dành cho đám nhà văn VC, "bất hạnh", vì không được viết theo con tim, dưới ngọn đèn lương tâm, thay vì vậy, dưới ánh sáng của Đảng, với lương tâm mù, hay đám VC nằm vùng [đám này thì đại bất hạnh].

Gấu bỗng nhớ đến "giai thoại' về cà cuống và bọ hung, một, mang túi tinh dầu thơm, một, thúi.

Bỏ cái túi thơm/thúi đi, thì chúng như nhau. Rang/chiên lên, nhậu, như nhau.

Thầy Kuốc, chắc là không biết giai thoại này, nên....  lộn.


Gấu đã tính mở ra cuốn tiểu thuyết đầu tiên vào cuối đời của mình, bằng những hồi ức về quãng đời quen bạn Hàm, sau khi đậu Trung Học, được bà cô ở bên Pháp viết thư, ra lệnh, hãy học tiếp, tháng tháng ta gửi tiền về. Và thế là Gấu bèn bye bye cái khu Chợ Vườn Chuối, sang Thủ Thiêm đóng vai một học sinh thực thụ, không phải vừa đi học, vừa làm bồi bàn nơi nhà hàng Chả Cá Thăng Long, ở đầu đường Phạm Đăng Hưng, kế bên cầu Sài Gòn.
Tuy nhiên, đúng vào thời gian này, thì thiên hạ bèn mở ra cái vụ kỷ niệm 60 năm di cư, thế là Gấu bèn tự bảo mình, làm sao mi không “bắt đầu bằng bắt đầu”, để cho cuốn tiểu thuyết của mi có tí mùi… lịch sử?
Hà, hà!

Hồi ức di cư của Gấu chắc chắn là bảnh nhất, so với ba cái lăng nhăng Gấu vừa mới lướt qua trên net. Chắc chắn như vậy, vì ba thứ hồi ký đó, thì toàn của những người ra đi vào lúc sớm sủa, trong khi, Gấu, không hề có ý định di cư, và chỉ đi vào lúc sắp sửa hết hạn 300 ngày dành cho Hải Phòng, cánh cửa Miền Bắc sẽ vĩnh viễn đóng sập xuống, cho đến ngày 30 Tháng Tư, 1975, nó lại mở ra và nuốt trọn Miền Nam vào họng nó!

Khi Gấu từ giã Hà Nội lên tầu hỏa ở Ga Hàng Cỏ, xuống Hải Phòng, thì cuộc di cư đang ở đỉnh cao của nó, và Bắc Kít hoảng quá! Đúng là như vậy, vì chúng cho dân làng kéo nhau ra nằm vạ trên đường ray, không cho tầu chạy [chuyến đi của Gấu, đâu hai, hoặc ba lần phải ngưng], rồi cho người lên tầu kéo người xuống. Một gia đình, khi tới gần Hải Phòng, mừng quá, ông bố quỳ xuống lạy trời, lạy đất, lậy tứ phương, và cởi giầy ra, lôi ở đáy giầy một số giấy tờ…

Về già nhớ lại, thì Gấu mới hiểu ra được tại làm sao mà Gấu mê ông Diệm, khi nghe thầy Doãn Quốc Sĩ ca ông thấu trời, khi Gấu học trường Thành Công, năm Đệ Tứ. Cái gì cũng phải có nguyên do của nó. Gấu không hề có ý định rời bỏ Đất Bắc, và nếu có đi, là vì nghĩ, hai năm sau lại có dịp trở về, nếu có tổng tuyển cử, thống nhất đất nước theo như hiệp định Genèvequy định. Thèm tới được Sài Gòn, tới được Miền Nam, sống cho thoả giấc mơ, ở 1 miền đất không có cái đói cái lạnh cái rét, rồi hai năm trở về làng, đào khoai lang trộm trở lại, hà, hà!