|
BBT Tribute
Nhớ, lần HC vừa nằm xuống, thay vì ai điếu, Gấu đi
1 đường cà khịa, và được K. nhắc nhở, chờ ít
bữa không được sao?
Chờ ít bữa, mất mẹ hứng, làm sao viết?
Trường hợp nhà biếm gia số 1 Mít vừa mới mất,
khi sinh thời ông đi, không chỉ 1, mà tới 2, ai
điếu về NQT.
Nhưng thay vì NQT/GCC thì là 1 vị sĩ
quan cùng tên, bạn của ông.
Có điều, ông cố tình nhập nhằng đến nỗi
bạn bè của Gấu phải phôn, hỏi ông.
Và
chăng cũng chuyện nhỏ, chẳng đáng nhắc tới, và những gì
cần nhắc, Gấu đã viết rồi, ngay từ khi ông còn sống.
Tuy nhiên, nhân ông mất, và nhân
đọc bài viết trên tờ Harper's về lần Steiner, thì
cũng 1 biếm gia, được gặp cha đẻ ra bom nguyên tử, để xin việc
làm, và xém 1 chút bị đá ra khỏi
văn phòng, bèn post ra đây, thay cho lời ai điếu
BBT, của TV.
Vụ này, sự thực, Steiner đã kể ra rồi, trong
lần trả lời phỏng vấn của tờ The Paris Review, trên TV có
giới thiệu.
[Reminiscence]
DESTROYER OF WORDS
From an interview with the philosopher George
Steiner that was conducted in 2014 by Laure Adler, a journalist. The
interview appears in A Long Saturday, which will be published in March
by the University of Chicago Press. Steiner is the author of more than
two dozen books. Translated from the French by Teresa Lavender Fagan.
The Economist sent me across the Atlantic
to cover the debate on American atomic power: was the United States
going to share its nuclear knowledge with Europe? Under Eisenhower,
the Americans decided they wouldn't. It wasn't a given; there was still
hope that there would be true collaboration. So I went to Princeton,
a wonderful, unreal little town, to interview]. Robert Oppenheimer, the
father of the atomic bomb. He had a pathological hatred of journalists,
but said, "I'll give you ten minutes." Oppenheimer had set our meeting
for noon. He didn't come. So I had lunch with George Kennan, the diplomat
of diplomats; Erwin Panofsky, the leading art historian at the time; and
Harold Cherniss, the great Hellenist and Plato specialist.
Afterward, while I was waiting for the taxi that was to pick me up a half
hour later, Cherniss invited me to his office, and as we were talking, Oppenheimer
came in and sat behind us. It was the ideal trap: if the people you're talking
to can't see you, they feel paralyzed, and you become master of the situation.
Oppenheimer was a genius at this sort of theatrical maneuvering. He was
a man who inspired spine-chilling fear; it's quite difficult to describe.
I once heard him say to a young physicist, "You are so young and you have
already done so little!" After comments like that, you could only hang yourself.
Cherniss was showing me a passage from Plato
that he was editing, which included a lacuna; he was trying to fill it
in. When Oppenheimer asked me what I would do with that passage, I began
stammering. Then he added, ''A great text should have some empty space."
I said to myself, "Hey, you've nothing to lose, your taxi will be here
in fifteen minutes." And so I replied, "That's a pompous cliché.
First, your statement is a quote from Mallarrné, Second, it's
the type of paradox you can play with ad infinitum. But when you're trying
to prepare an edition of Plato for the common mortal, it's better that
the empty spaces be filled." Oppenheimer responded superbly: "No, in philosophy
especially it is the implicit that stimulates argument." He was enjoying
our exchange immensely, he whom no one ever dared to contradict. We had
a real discussion on the subject. Then Oppenheimer's secretary ran in
and announced, "Mr. Steiner's taxi is about to leave!" I was going on to
Washington for my reporting assignment. At the door this extraordinary
man asked me, as one might speak to a dog,
"You're married?"
"Yes."
"You have children?"
"No."
"Great. That will make it easier to find
lodging."
That's how he invited me to the Institute
for Advanced Study at Princeton, as the first young humanist.
Note: Sự thực, đọc những người viết, thứ Bắc Kỳ di cư, như Kiều
Phong, Thương Sinh, Công Tử Hà Đông, BBT... luôn
cả Gấu trong đó, thì Gấu nhớ tới cái còm
của O., 1 trong 2 vị được coi như "hộ pháp" cho TV ngay từ lúc
mới có được ít lâu. Không có hai vị này,
Tin Văn chắc là đầy lỗi, sạn, thì chỉ nhắc tới thứ vụn
vặn đó, trước, cái còn lại, cái "hồn nhân
hậu" của trang viết, chưa nói tới, để viết sau, nếu chưa chết.
Trong cả 1 lũ viết như thế, đều có chung 1 văn phong,
cực kỳ độc, đểu, mất dậy.... Bắc Kỳ xỏ lá ba que.
Những người khác, trong đó, không nói,
riêng Gấu, Gấu rất tởm, và cả 1 đời, cố tìm cách
"wash" theo cái nghĩa mà Milosz đã viết ra rồi
.
To Wash
At the end of his life, a poet
thinks: I have plunged into so many of the obsessions and stupid
ideas of my epoch! It would be necessary to put me in a bathtub and
scrub me still all that dirt was washed away. And yet only because of
that dirt could I be a poet of the twentieth century, and perhaps the
Good Lord wanted it, so that I was of use to Him.
Một nhà thơ của thế kỷ
20, cuối đời nhìn lại, thấy mình bẩn quá, bèn
chui vô bồn tắm, dùng xà bông thơm kỳ cọ,
cho văng tất cả những cái bẩn đi.
Kỳ mãi, kỳ mãi, vẫn không hết, và
ông ngộ ra, số phận của ông là như vậy.
Bởi vì, nếu ông ta sạch,Thượng Đế đã không
giao cho ông ta "nghĩa cả" đó, và nhân loại
cũng đếch cần đến ông ta.
Tởm
Người ta đã nói
nhiều về những tội ác của chế độ cộng sản. Ít ai cho
biết, tôi đã tởm chế độ đó đến mức như thế nào.
Câu chuyện sau đây là của nhà văn, nhà
thơ lưu vong người Balan, Czeslaw Milosz, Nobel văn chương 1980, trong
tác phẩm Milosz's ABC's.
Disgust
Józef Czapski là
người kể cho tôi [Milosz] câu chuyện sau đây, xẩy
ra trong thời kỳ Cách Mạng Nga.
Tại một tiệm ăn ở một ga xe lửa, có một thực khách,
qua cách ăn mặc, dáng điệu, cho thấy đây là
người thuộc tàn dư chế độ, tức tầng lớp trí thức thời
tiền 1975. Ông ta đang ngồi ăn tối ở... Quán
Chùa. Sự hiện diện, cách ăn mặc, ăn nói theo kiểu
tàn dư chế độ như thế của ông khiến một đám vệ binh
đỏ [chữ của Milosz: đám du đãng] trong tiệm ăn để ý.
Chúng kéo tới bàn ông, và bắt đầu
diễu cợt, xỉ vả, bầy đủ trò khốn kiếp. Ông tàn dư
chế độ cố coi như không, vẫn thản nhiên từ tốn ngồi ăn. Tới
mức chúng nhổ nước miếng vào dĩa xúp. Ông
tàn dư không tìm cách chống cự, hay là
tự bảo vệ lấy thân, và cũng chẳng có ý định
xua đuổi đám khốn kiếp. Chuyện cứ thế xẩy ra trong một khoảng thời
gian....
Bất thình lình,
ông tàn dư bèn đứng dậy, rút khẩu súng
lục từ trong túi ra, và đưa ngay mõm súng
vào trong mõm mình, và đoàng một
phát.
Hiển nhiên, mức tởm lợm
tràn quá ly. Chẳng nghi ngờ chi, ông ta là
một thứ người mảnh mai, được giáo dục, dậy dỗ, và trưởng
thành trong một môi trường mà một con người như thế
dư sức sống, và sống thật là đầy đủ cái phần đời của
mình mà Thượng Đế cho phép, nghĩa là được bảo
vệ để tránh xa khỏi thực tại tàn bạo được tầng lớp hạ lưu
chấp nhận như là lẽ đương nhiên ở đời.
Nếu không, Thượng Đế đâu
có đẩy ông ta vào thế gian này?
Cám
ơn
01/31/13 at 10:32 PM
Mấy bữa nay bác viết hay ghê
– hết viết tục rồi.
Cám ơn nhiều.
08/30/12 at 9:11 PM
Khong sao!
Subject: Re: Tham
Sorry
NQT
Thì ông chồng tôi cũng
bắc kỳ vậy… đoạn bác viết về Sến-Ngô Bảo Châu,
bác khinh không chừa một ai ngoài Bắc!
Tôi là Bắc Kỳ mà.
All My Best Wishes to U and Family
NQT
Trời ơi, sao bác miệt thị người Bắc
dữ vậy, bác thù tới tận xương tủy, bác làm
tôi nhớ đến đoạn 18, 19 Sách Sáng Thế (Cựu
Ước) ông Abraham mặc cả với Chúa, nếu tìm ra
được một người tốt trong thành phố Sodome-Gomorrhe thì
xin Chúa tha cho thành phố khỏi bị hủy – nhưng không
tìm ra được một ai... nên thành phố phải bị hủy.
Bác «lãng mạn»
quá, cứ mong chờ có một cú ngoạn mục của
các nhân tài.
Mong bác sức khỏe sống lâu
để chờ ngày đó.
http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vnbible/sangthe/sangthe18.htm
http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vnbible/sangthe/sangthe19.htm
[Note: Links broken]
Tks. NQT
Nhờ làm trang TV mà quen được hai vị [O & K], quả là
không uổng quãng đời lưu vong!
López Lecube: Khi nào ông thực sự cảm thấy
bronca?
Borges: Từ đó nặng quá!
LOPEZ LECUBE: When precisely do you feel that bronca?
(1)
BORGES: No, bronca is too strong a word.
LOPEZ LECUBE: You never feel bronca?
BORGES: I don't know, bronca is lunfardo for anger
isn't it? I don't know, no, not anger, sometimes I feel deflated, but
that's natural, and at my age ... old age is a form of deflation too, but
why be angry about it? It's no one's fault.
(1) A slang word for "frustration" or "anger."
Bài thơ nào của ông mà ông cực khoái?
Tại sao? Bài bảnh về ông?...
Borges: Tớ đếch khoái thơ của tớ về tớ. Tớ khoái bài
sonnet của tớ về Spinoza. Tớ viết hai sonnets về ông ta, có
1 dòng như vầy, Một người đàn ông sáng tạo ra
Chúa ở trong bóng tối, người đàn ông đó,
là Spinoza, who engenders God, his God, made of an infinite substance
whose tributes will be infinite.
Nếu bi giờ chúng ta đang ở thư viện của ông, bài
thơ nào ông muốn tôi đọc cho ông nghe?
Bài của Robert Frost
Acquainted with the Night
By Robert Frost
I have been one
acquainted with the night.
I have walked
out in rain—and back in rain.
I have outwalked
the furthest city light.
I have looked
down the saddest city lane.
I have passed
by the watchman on his beat
And dropped my
eyes, unwilling to explain.
I have stood
still and stopped the sound of feet
When far away
an interrupted cry
Came over houses
from another street,
But not to call
me back or say good-bye;
And further still
at an unearthly height,
One luminary
clock against the sky
Proclaimed the
time was neither wrong nor right.
I have been one
acquainted with the night.
Viết Mỗi
Ngày
trưa qua viết được một đoạn cho tiểu
thuyết mới (tạm đặt tên là ‘mía’. mía cũng
là tên của nhân vật xưng tôi). trước khi bắt tay
vào viết tiểu thuyết mía, tôi tự nhủ là hãy
giảm bớt tính/tình dục (mấy cuốn tiểu thuyết trước tôi
cũng tự nhủ như vậy), nhưng trưa nay đọc lại đoạn viết về món ‘hàu
của tháng giêng” viết trưa qua tôi lại thấy thấm đẫm,
nồng nàn da thịt. nó làm tôi nhớ tới cuốn sách
x...
...
Vấn đề
không hẳn đúng như cả hai vị Thế Uyên & TV đặt ra.
Viết về sex rất khó, theo GCC. Viết không tới là
nó biến thành dơ, tục.
Khó hơn viết về tình yêu, bởi vì viết về sex,
là độc giả không chỉ mê bướm mà còn mê
cái đầu của người nữ nữa, vẫn theo Gấu.
Và, [lại] thuổng Brodsky. Có cái gọi là đạo
hạnh, rất cần nó, khi viết về sex, và cái này
nằm ở trong nội lực của nhà văn.
Vị Thế Uyên này, ngay từ trước 1975, Gấu đọc, là
đã không chịu nổi. Và, rõ ràng là,
sau 1975, đi tù VC ông ta thuộc bài lắm, viết tự kiểm
thuộc loại tổ sư.
Ông ta và bà con của ông ta, là Duy
Lam, đi 1 đường viết chung 1 tập truyện ngắn, chôm mẹ cái
tít của TTT, “nỗi chết không rời”.
Cứ tỉnh bơ như người Hà Nội.
Vị TV này, do Gấu được kết bạn FB, và nhờ thế, có
đọc lai rai, và có ý nghĩ, văn của bà không
chỉ về tính dục.
Có cái gì sai ở đây, như trường hợp “nhà
có cửa khóa trái”: Do được ngài tiên
chỉ khen, thế là hỏng luôn cả 1 đời văn!
http://harpers.org/
Tờ Harper’s số mới 200 th issue, Jan 2017, Tin Văn
đã chôm bài viết về Modiano, nhà văn trẻ kiếm
tiếng nói của mình. Nay đi thêm vài đường, nhân dịp đầu
năm dương lịch. Cái hồi nhớ của Steiner, cái essay về nhà
văn sao hay tự làm thịt mình, và cái truyện
ngắn của Isaac Bashevis Singer, Cửa sổ nhìn ra thế giới.
Tay này, bị Bà Huệ, Gió O, tố, nhờ Mafia
Do Thái mà được Nobel văn chương.
Không chỉ Bà Huệ, mà Milosz cũng tố, ưa xài
đòn sex quá, và, quả có 1 chiến dịch bên
lề hành lang nhằm ảnh hưởng lên Uỷ Ban Nobel. Tuy nhiên,
ông là 1 trong những tác giả đầu tiên Gấu
làm quen, khi ra được hải ngoại. Ông viết nhiều, có
nhiều truyện thần sầu, Linda Lê cũng đã từng giới thiệu.
Đầu năm đi 1 đường truyện ngắn, chắc cũng “có ní”.
A young writer finds his voice on the radio
UN DYBBUK AMOUREUX
Hồn ma si tình
Isaac Bashevis Singer et son alter ego
Singer và thế thân của ông
Trong L’Anneau de Clarisse, Claudio Magris chào
mừng Isaac Bashevis Singer, như một tay kể chuyện cổ gần gũi với "những
bậc thầy vô ngã, vô tên của quá khứ,
những nhà văn lớn lao giống như tất cả mọi người, và chẳng
giống một người nào, bởi vì họ biến thành những
con người nói bằng bụng, thay vì bằng miệng, và
những nhân vật đa dạng, những hộp cộng hưởng, cho mọi thứ tiếng
tơ đồng, của cõi sống."
Như con quỉ cuối cùng, trong một truyện ngụ ngôn
của mình, sống bằng cách gậm nhấm một cuốn sách
cổ xưa [thuật chuyện núi rừng Hua Tát, bằng một thứ ngôn
ngữ Mường Mán], Singer là một meshugah, một tên khùng,
sống sót bằng cách, rút ra từ những huyền thoại
Do Thái, và những kỷ niệm về một thế giới đã qua,
lý do hiện hữu của mình.
Lưu vong qua Mỹ vào năm 1935, khi đó ông 31
tuổi, ông viết bằng tiếng yiddish, và cộng tác trong
việc dịch chúng qua tiếng Anh. Ông muốn viết bằng một ngôn
ngữ chết, mà sự biến mất của nó báo hiệu sự suy
tàn của nghệ thuật.
Nhà văn yiddish, với ông, là một thứ dybbuk,
một bóng ma, nhìn, và không ai nhìn
thấy được. Viết nhiều, "thi sĩ của lưu vong, không phải theo kiểu
Do Thái, mà là một thứ lưu vong đụng tới con người,
và nhất là, con người-nhà văn đương thời", Claudio
Magris nói về Singer.
Singer cố làm bật ra, bằng một nỗi buồn nhuốm mầu thần
bí, tính sống động, và cơn chao đảo, của một thế
giới chìm xuồng.
retour aux classiques
par Linda
Lê
UN DYBBUK
AMOUREUX
Isaac Bashevis
Singer et son alter ego
Dans L’Anneau de Clarisse, Claudio Magris saluait en Isaac
Bashevis Singer un conteur proche de ces “grands écrivains impersonnels
et anonymes du passé, qui ressemblent à tout le monde et
à personne parce qu'ils se font les ventriloques indifférents
des vies et des personnages les plus divers, et les caisses de résonance
impartiales de toutes les cordes du vivre”. À la manière
du dernier démon d’une de ses paraboles, qui se nourrit en rongeant
un vieux livre de contes yiddish, Singer était un meshugah, un
fou qui survivait en tirant des légendes juives et des souvenirs
du monde d'hier sa raison d'être.
Exilé aux Etats- Unis en 1935- il avait 31 ans -, il composait
ses textes en yiddish, et collaborait à leur traduction en anglais.
Il déclarait avoir conscience d'écrire dans une langue
morte, dont la disparition annonce le déclin des arts. L'écrivain
yiddish pour lui est une sorte de dybbuk, de spectre, qui voit mais n’est
pas vu. Auteur prolifique, “poète de l'exil, pas seulement des Juifs
mais de l'exil existentiel qui touche l'homme et surtout l'écrivain
contemporain”, disait encore Claudio Magris, Singer s'est attaché
à dépeindre, avec une mélancolie teintée de
mysticisme, la vitalité et le chaos d'un univers qui a sombré.
Le jeune Arele Greidinger, le narrateur de Shosha et l'alter ego
romanesque de Singer, affirme sans ambages que le monde est un abattoir
et un bordel. Fils de rabbin, tout comme Singer lui-même, et tout
comme ce dernier lecteur de Weininger et de Spinoza, Arele se fraye un
chemin dans la Varsovie de l'entre-deux-guerres: it écrit une
pièce ou l'héroine tombe amoureuse de son dybbuk - on reconnait
là l'ébauche de ce qui sera La Corne du belier de Singer.
Une actrice américaine et un ancien charpentier qui a fait fortune
se proposent de le lancer. L'aventure tourne court avant même d'être
sur les rails. Loin de ce microcosme, qui prend de plus en plus conscience
de la menace hitlerienne et se tourne vers Staline avant d'ouvrir les
yeux sur la terreur qui règne au paradis bolchevique, Shosha, une
femme enfant, un peu retardée, répresente l'innocence perdue.
Arele poursuit son rêve, refuse de partir pour New York, et choisit
de s'installer auprès de cette étrange créature, à
peine capable de comprendre ce qu'il écrit.
Fourmillant de personnages qui traversent la scène comme
des evadés impatients de tout connaitre avant l'effondrement
de ce à quoi ils ont cru, ce roman, qui développe un chapitre
d'un livre autobiographique de Singer, Un jour de plaisir, est autant
un chant d'amour qu'un kaddish pour les morts auxquels Singer offre un
tombeau de papier.
Shosha
Isaac Bashevis Singer
Trad. de l'anglais par Marie-Pierre Bay et Jacqueline Chnéour
Ed. Stock, 380 p.,19 €.
Le Magazine Littéraire, Mai, 2007
http://harpers.org/archive/2017/01/a-window-to-the-world/
Some writers
begin to write with talent, quickly earn a reputation among readers
and critics, and then are suddenly silenced forever. We had two such
men at the Yiddish Writers’ Club in Warsaw. One, Menahem Roshbom, had
managed, before he was thirty, to publish three novels. The other, Zimmel
Hesheles, had at the age of twenty-three written one long poem. Both
got enthusiastic reviews in the Yiddish press. But then, as the saying
goes, their literary wombs closed up and never opened again.
Roshbom was already in his fifties and Hesheles in his late forties
when I became a member of the Writers’ Club. Both were considered good
chess players. I often saw them playing together. Menahem Roshbom was
always humming a tune, swaying, grimacing, and trying to pluck out the
remaining few hairs from his salt-and-pepper goatee. He would raise his
thumb and forefinger as if to move a piece, and then pull them back as if
they had been singed. It was said that he was a better player than Hesheles,
but toward the end of the game he inevitably lost his patience. Menahem
Roshbom was a chain-smoker. His fingers and nails were stained yellow, and
he suffered from a chronic cough. It was said that he smoked even while
asleep. He was tall, emaciated, wrinkled, stooped. After he stopped writing
fiction, he had taken to journalism and had become the head feuilletonist
at one of the two Warsaw Yiddish newspapers. Although he was sick and it
was said that he was consumptive, he carried on with women, mainly actresses
from the Yiddish theater. He had in his lifetime divorced three wives,
and the children of all his three wives came to him for money. His steady
mistress was the wife of a Yiddish actor. It was never determined why her
husband allowed her to be with Roshbom. I often heard it said that Roshbom
deplored being too clever, too cynical. Frequently in his conversations,
and even in his articles, he belittled the value of literature and the
delusions of immortality. He had never allowed himself to be honored at
a banquet. If someone called him a writer, Roshbom responded: “Maybe at
one time . . . ”
What is a self
but that which fights the cold?
Xứ Bắc
Kít
Gấu đọc
Tô Hoài rất sớm, và giấc mộng, sẽ có ngày
tới được nước Nam Kỳ, là do đọc ông mà có.
Khi còn ở xứ Bắc, mỗi lần đói, mỗi lần rét,
mỗi lần ăn miếng ăn, ăn thêm một câu nói, là
giấc mơ sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ lại trỗi dậy.
Cho tới khi tới được nước Nam Kỳ.
Tưởng thoả mãn, mà thoả mãn thực, nhưng,
oái oăm thay, một nước Nam Kỳ khác xuất hiện!
Lúc thì ở nơi BHD, và cái nước Nam
Kỳ lần này, khốn nạn thay, lại chính là cái
xứ Bắc Kỳ mà Gấu đã bỏ chạy!
Ui
chao, liệu ba thứ chiến lợi phẩm, "Bắc Kít nhận hàng",
mang bad luck đến, cho, không chỉ xứ Bắc Kít?
Đọc, thì Gấu lại nhớ đến 1 câu chuyện khoa học giả
tưởng, hình như do Đặng Trần Huân dịch, giới thiệu.
Giống người chinh phục 1 hành tinh. Đến 1 phát,
là chém, là giết, là hiếp, vô tư, thoải mái.
Chẳng phải đợi 30 năm, mà đâu chỉ vài ngày,
là xong.
Bữa đó, sáng ngủ dậy, đếch tên nào
thèm dậy.
Hoá ra ở hành tinh này, chết, là 1
thứ Devil's bad luck!
Milosz viết
về vụ Singer đợp Nobel: Không xứng so với Chaim Grade.
GRADE,
Chaim. The Nobel Prize for Isaac Bashevis Singer was cause for violent
controversies among Yiddish-speaking New York Jews. Grade was of much better
background than Singer; in America, it's best to come from Wilno, worse
to come from Warsaw, and worst of all from Galicia. Above all, however,
in the opinion of the majority of the disputants, he was a much better writer
than Singer, but little translated into English, which is why the members
of the Swedish Academy had no access to his writings. Singer gained
fame, according to this opinion, by dishonest means. Obsessively concerned
with sex, he created his own world of Polish Jews which had nothing in common
with reality-erotic, fantastic, filled with apparitions, spirits, and dybbuks,
as if that had been the quotidian reality of Jewish towns. Grade was a real
writer, faithful to the reality he described, and he deserved the Nobel Prize.
Wilno was an important center
of Jewish culture-not just a local center, but on a world scale. Yiddish
was the dominant language there, and literature in that language had its
main support in Wilno, along with New York, as the number of peridicals
and books published there demonstrates. The city was better off before World
War I, when it belonged to Russia and profited from its position as a key
railroad junction and trading center. This came to an end when the city
was transferred to little Poland, although in terms of culture, the interwar
period was a time of blossoming. Something of the vitality of past years,
especially 1905-1914, also continued. Political parties that had been founded
in tsarist Russia were still active, with their prime concern the needs
of workers and a socialist revolution-most important of all, the Bund, a
separate Jewish socialist party, which wanted to be a movement of Yiddish-speaking
workers. It was a counterpart of sorts to the Polish Socialist Party, which,
however, since it was considered to be exclusively Polish, had relatively
few adherents in the city. It would not be accurate to link the creation
of the Jewish Historical Institute with the Bund, and yet in its aim of
preserving the cultural heritage of the cities and small towns where Yiddish
was used in daily life, one can detect the spirit of the Bund. The Communists
were rivals of the Bund and grew stronger with the years; in 1939, they apparently
had a majority of followers. Both these parties, in turn, were at war with
the Zionists and the Orthodox.
This Jewish Wilno recognized
the attractiveness of Russian culture, but was separated from Soviet
Russia by the state border. The border was quite close, however, and
this produced a phenomenon peculiar to Wilno. Many young people, dreaming
of taking part in the "building of socialism," crossed the eastern border
without appropriate documents, enthusiastically ensuring their near and
dear ones that they would write from there. No one ever heard from any
of them again. They were sent straight to the Gulag.
Chaim Grade belonged to the
group of young poets called Yung Vilne. In addition to Abraham Sutzkever,
I remember the name Kaczerginski. The attitude of this group toward the older
generation, somewhat like Zagary's, inclined us to make an alliance with
them. We were exactly the same age, and their "Young Wilno" used to come
to our readings.
The poet Grade was a descendant
of an officer in Napoleon's army named Grade, who, wounded, and nursed
back to health by a Jewish family in Wilno, married into it and converted
to Judaism. Chaim's mother, who was very poor, was a street peddler whose
entire stock fit into a basket. Grade devoted many moving pages of his
oeuvre to that pious, hardworking, good woman. She appears against the background
of a milieu which followed all the religious customs, and whose common characteristic
was extreme poverty.
Chaim's youth in Wilno did not
pass without political and personal conflicts. His father, Rabbi Shlomo
Mordechai, an addvocate of Hebrew and a Zionist, who held strong convictions
and was not much inclined to compromise, engaged in heated arguments with
the conservative rabbis. He raised his son to be a pious Jew. Chaim's
later history shows that he remained faithful to Judaism, in contrast to
the emancipated Singer. As a poet, Chaim quickly achieved recognition and
local fame, but he was distinguished from the majority of young people
who read Marx and sang revolutionary songs. The Communists' attempts at
attracting him to their side were not successful, and Grade became the object
of violent attacks. Worse yet, he fell in love with Frumme-Liebe, who was
also the daughter of a rabbi and from a family of Zionists who emigrated
to Palestine. His Communist colleagues tried in vain to interfere with their
marriage.
These details can be found in
his four-hundred-page novel memoir called, in English translation, My Mother's Sabbath Days. There he tells in
detail about his wartime experiences, beginning with the entry of Soviet
troops into the city. His friends' enthusiasm contrasted with the stony
sadness of the crowd at the mass in the Wilno cathedral, where he went out
of compassion. The chaos of the German invasion in June 1941 separated him
from his beloved wife. They were supposed to meet a couple of days later,
but he never saw her again. She died, as did his mother, in the Wilno ghetto.
A wave of fleeing refugees carried him to the East. After many peripatetic
(once, they wanted to shoot him as a German spy) he made his way to Tashkent.
After the war, he emigrated to New York. He always writes about the Russians
with love and respect. He insists that he never encountered any signs of
anti-Semitism in Russia.
His colleagues from the Yung
Vilne group, Sutzkever and Kaczerginski, were in the ghetto and then
joined the Soviet partisan troops. Sutzkever wound up in Israel, where
he edited the only quarterly devoted to poetry in the dying language
of Yiddish, Di Goldene Keyt (The Golden Chain).
In America, the poet Chaim Grade
developed into a prose writer, and like Singer, who attempted to recover
the vanished world of the Jewish towns of Poland, he immersed himself
in the past, writing about the shtetls of Lithuania and Belorussia. Singer
engaged in fantasy and offended many of his readers; Grade was attentive
to the accuracy of the details he recorded and has been compared with Balzac
or Dickens. His main theme appears to be the life of the religious community,
which he knows well, especially the problems of families in which the wife
works to earn money and the husband pores over holy books. One collection
of novellas is even called Rabbis and Wives.
I became interested in Grade
thanks to my contact with his second wife, his widow. After his death
in 1982 (he was seventy-two years old), she began energetically promoting
his work and collaborating with his English translators.
MILOSZ'S ABC'S
Chữ người
tử tù
Nhà
văn Isaac Bashevis Singer, khi phải lựa chọn một số truyện ngắn, để
làm một tuyển tập, ông nói đùa, mình
đúng là một đấng "quân vương", với ba ngàn cung
tần mỹ nữ, và hàng lô con cháu. Chẳng muốn
bỏ đứa nào!
Ông sinh
năm 1904, tại Ba Lan, di cư sang Mỹ năm 1935, và một thời gian làm
ký giả cho tờ báo cộng đồng Jewish Daily Forward, tại New York
City. Chỉ viết văn bằng tiếng Iddish, và được coi như nhà
văn cuối cùng, và có lẽ vĩ đại nhất của "trường"
văn chương Iddish. Vĩ đại hơn, ông là nhà văn Iddish
đầu tiên, sống nhờ viết văn. Chúng được dịch ra tiếng Anh,
rồi ông được trao tặng Nobel (1978). Là một trong số những
dịch giả truyện của mình, với ông, tiếng Anh còn là
ngôn ngữ mẹ đẻ thứ hai, nhưng ông thú nhận, ông
viết bằng tiếng Iddhish, vì đây là "tử ngữ', và
truyện của ông là để cho những người đã chết, đọc.
Trong Nhà
Văn Hiện Đại, khi Nguyễn Tuân mới xuất hiện, Vũ Ngọc Phan đã
tiên đoán, văn tài của ông sẽ có ảnh
hưởng rất lớn tới lớp sau. Có thể mượn nhận định của Sartre, về
chủ nghĩa Mác-xít: tùy bút của Nguyễn Tuân
quả đã "không thể vượt được", nhất là chất khinh
bạc của nó, đã "di truyền" mãi mãi về sau
này. Như nhìn ra "phần số khắc nghiệt", để bù lại,
trong truyện ngắn, Nguyễn Tuân thường viết về những người đã
chết. Ở đó, chất khinh bạc mất hẳn, hoặc được ngôn ngữ kỳ
diệu của ông đẩy tới tột cùng, biến thành lòng
nhân hậu.
My Old Saigon
Borges
Conversations
You Only Need To Be Alive
Bạn
chỉ cần, sống.
To be alive
Một trong những bài điểm sách mà Gấu nhớ đời,
khi mới vào làng văn, là bài viết về cuốn
Nỗi Bơ Vơ Bầy Ngựa Hoang,
của Trần Hoài Thư, khi giữ mục Điểm Sách cho trang VHNT
cuối tuần của nhật báo Tiền Tuyến, của quân đội VNCH, thời
gian TTT phụ trách, sau ông chán, thảy qua
thằng em.
Khi viết, nhân Y Uyên vừa mới chết, thằng em trai của
Gấu cũng tử trận, trước Mậu Thân chừng 1 năm. Trong đầu toàn
hình ảnh chết chóc, Gấu phán, bạn chỉ cần sống sót,
vì sau đó, bạn "bèn" đụng 1 trận chiến khác,
khủng khiếp chẳng kém: Văn chương!
Câu phán,
"You only
need to be alive", trong "Borges, Tám Bó", Borges cho biết,
là của 1 bà làm bếp, hay tớ gái...
Có thể nói, câu phán “chỉ
cần còn sống”, quả đúng là 1 cái bad luck
cho toàn 1 cõi văn chương Ngụy, trước 1975, không phải
cho "những người đã chết đều có thực", như Y Uyên,
mà cho chính những kẻ mà chúng cần "to be alive"
Đúng cái ý vị thân hữu:
How can
I survive without your mail?
Xạo!
Tưởng Niệm
Một chuyến đi [NQT]
Một chuyến đi [Nguyễn Tuân]
"Nguyễn
Tuân hỏi tôi
:-Có nhớ Két không?
-Tay Két trinh sát tiểu đoàn 54?
-Cứ đến ngồi đây mình lại nhớ nó. Không hiểu
sao.
Thì ra cái đầu đường đêm hôm chẳng thú
vị chút nào, chính Nguyễn Tuân mới đang hồi tưởng..."
(Cát Bụi Chân Ai,
trang 12. Tô Hoài, nhà xb Thanh Văn, Cali, không
ghi năm).
07/07/2010
"Nguyễn Tuân nổi tiếng
với tùy bút, và tùy bút Nguyễn Tuân,
nổi đình nổi đám vì chất khinh bạc của nó. Những
người viết sau này, không thể nào tới được cái
chất khinh bạc "ròng" như vậy, đành phải thay bằng giọng
thầy đời, giọng uyên bác, giọng có đi Tây, đi
Tầu, có ở Paris, có biết khu "dân sinh" Saint-Germain-des-Prés...
Ra cái điều đi hơn Nguyễn Tuân! Trúc Chi có thể
"hơn" Nguyễn Tuân ở cái khoản đi, nhưng "may thay", chân
truyền Nguyễn Tuân ở cái khoản khinh bạc: khinh bạc như là
cực điểm của lòng nhân hậu. Lòng nhân hậu, hay
hồn nhân hậu này, theo tôi nên "dịch ra tiếng Tây"
bằng chữ la nostalgie, vốn thường được hiểu là hoài hương."
"Mot chuyen di" cua GNV hay qua.
Nguoi trong nuoc cung dang viet hang loat ve Nguyen Tuan, nhung khong hieu
sao, doc ho cu co cam giac nhu dang nghe mot nhom nguoi noi chuyen voi nhau
trong mot... dam gio^~……
HA
Có hai nhà văn
“bậc thầy”, đặc Bắc Kít, nhưng Bắc Kít đếch đọc được, do
thiếu cái gọi là lòng nhân hậu, có thể,
là Nguyễn Tuân và Tô Hoài.
Hai ông này, là bạn dong duổi suốt 1 đời của Gấu
Cà Chớn, một ông, từ thời con con nít, một ông,
lúc bước vào cõi văn, mơ viết, tập tành viết…
Bài viết “Một Chuyến Đi”
của Gấu, là để bye bye đám bạn quen biết qua tờ Văn Học của
NMG, như Trúc Chi, Tạ Chí Đại Trường.....
Bye bye, từ giã mục Tạp Ghi trên báo này,
để dành hết thời gian làm trang Tin Văn, lúc đầu tá
túc nơi báo VHNT trên lưới của Phạm Chi Lan, sau, khi
báo đó bị cơ quan chủ quản lấy lại cái domain name
“saomai”, Gấu bèn ra riêng, một mình một ngựa làm
trang Tin Văn, nếu tính cả thời gian ở trọ, thì phải cỡ từ
1996-97.
Võ Phiến, khi khen Nguyễn
Tuân, đã nhắc tới cái cảnh, một em Bắc Kít, cong
người, tránh 1 cái hôn, hay 1 làn roi, trong
trò "cô đầu" của xứ Bắc Kít. Gấu nhớ là, khi
đọc, đã lắc đầu, những câu văn đó, là chỉ để
dành cho lũ độc giả mắt trắng dã!
Với mắt xanh, với bạn văn, NT
dùng những câu văn rất ư là bình thường, giản
dị, thí dụ như đoạn nói chuyện với Tô Hoài về
anh chàng Két nào đó, hay câu văn kết thúc
Chiếc Lư Đồng Mắt Cua:
Xuyến người bên lương hay
bên giáo?
“Phở”, của NT, là cũng
dành cho dân thành thị, đồ tứ chiếng, lạc chợ trôi
sông. Với dân quê xứ Bắc Kít, NT có những
món khác, thí dụ cơm nắm chấm muối vừng. Đọc ông,
hay đọc Tô Hoài, khi không bị Cái Ác Bắc
Kít hành hạ, là phải tìm ra những món
ăn đó, về mặt tâm linh.
Lần viết “Chữ Người Tử Tù”, cho mục Tạp Ghi
của tờ Văn Học, ông chủ chi địa, đọc tới những dòng về Nguyễn
Tuân, thú quá, bèn gật gù, ông viết
văn bằng Tạp Ghi. Tôi không viết được như vậy!
Ui chao, phải đến khi sắp ngỏm, NMG thì ngỏm rồi, thì
Gấu mới nhận ra sự thực: NMG không thể viết được những dòng
Gấu viết, ấy là vì ông đâu có bao giờ phải
ném những hòn đất xuống mộ đứa em trai tử trận, như Gấu!
Cá nhân người viết làm quen với Nguyễn Tuân
rất sớm, phải nói là quá sớm. Mới biết đọc, biết viết,
"thằng bé" đã nghe đọc văn ông, ở những bậc cha chú
trong gia đình. Người bác trong lúc tâm đắc với
một người bạn về những viên ngọc vương vãi, trên con
đường từ giếng trời trở về trần, vô tình để mãi những
viên ngọc trong trí tưởng của đứa cháu. Thế đấy, cậu
bé đã dùng những viên ngọc như vậy để đánh
dấu những trang sách hồng, Ông Đồ Bể, Cái Ấm Đất, của
Khái Hưng. Đánh dấu những trang sách của một chuyện
tình (chúng làm cho những lần chia ly bớt thê
thảm đi một chút); của cuộc chiến: như những viên đất ném
theo, ném theo mãi, xuống lòng huyệt...
Last Christmas of
the War
by Primo Levi (1986)
Giáng Sinh chót của cuộc chiến
Primo
Levi knew the realities of winter. Many of the memoirs he wrote of his
time as a prisoner at Auschwitz are coloured as much by biting cold and
endless grey snow as by barbarism and industrial slaughter. This brief
piece takes place in the final winter of the war, just before the events
described in The Truce,
the story of Levi’s long journey home. And it consists of little more
than the arrival of a package of biscuits from his family – a dangerous
offence in a concentration camp. This small gift, coming as it does after
the harrowing things he has experienced, is transmuted into an almost
miraculous event, and his giddiness at the prospect of satiety is palpable.
But it’s the glints of an intrinsic decency Levi is able to locate in
his fellow man, even under the shadow of the darkest evidence of his capacity
for brutality, which form the heart of this tale.
Đọc 1
phát, thì bèn nhớ đến Giáng Sinh tưởng là
"cuối cùng" của Trại Panat Nikhom, của GCC!
"Nhưng nếu không vì dung nhan tàn tạ, chắc
gì Thầy đã nhận ra em?"
Những người từng
ở Trại Cấm Sikiew, Thái Lan, chắc khó quên được Giáng
Sinh 1991.
"Đây có thể sẽ là Giáng
Sinh cuối cùng của các con tại Sikiew...", Cha người Thái
cai quản địa phận nói với đám người tị nạn. Trại sẽ đóng
cửa vào cuối năm tới theo như tin tức báo chí. Và
ông cho tiền làm một lễ Giáng Sinh như ở ngoài
đời tại nhà thờ ở khu C trong Trại.
Chiều ngu ngơ phố thị
Ngày ủ dột
Buồn dậy muộn
Câu thơ trong giấc ngủ bỏ quên
Nhớ em thảm thiết.
Trong câu thơ chắc có chút
hạnh phúc
Cho nên tình yêu là
vất vả đi tìm
Tìm em như thể tìm chim
Chim bay biển Bắc anh tìm biển Đông.
Chiều ngu ngơ phố thị
Mơ gặp em giữa đám người xa lạ
Với nụ cười thật ngày xưa
Khi em từ giã.
Kiếp trước tôi có nợ nần chi ông
đâu
Mà sao kiếp này ông đòi
kiếp khác?
Tôi đã nói ông đừng
gặp tôi nhiều
Khi tôi đi rồi
Ông sẽ khổ
Nhưng thôi ông hãy quên
tôi đi
Quên đi, quên đi....
Em ở đâu, ở đâu
Thèm một chút mồ hôi trên
ngấn cổ
Em ở đâu, ở đâu
Thèm nụ hôn sầu
Lời biếng nói
Đôi tay mềm
mại
mãi
trong tôi.
Lament for Yin Yao
We followed you back for your burial
on Mount Shihlo
And then through the greens of oaks and
pines
we rode away home
Your bones are there under the white
clouds
until the end of time
And there is only the stream that flows
down to the world of men.
Chúng tớ đưa đám bạn DC
rồi trở về nhà
Xanh xanh những mấy ngàn dâu,
ngàn thông, ngàn sồi…
Xương của bạn DC bi giờ ở bên dưới
những đám mây trắng kia
Cho đến tận cùng, của tận cùng,
của thời gian
Chỉ có dòng suối là
từ phía mây bạc
Chảy về trần gian của lũ chúng
tớ
RIP
Gấu
không phải bạn DC.
Gấu gặp DC độc nhất, lần qua Cali, ở nhà NDT, nhưng do DC
và bạn quí của ông là nhà thơ ngồi
bên ly cà phê ghé, nên Gấu phải nhường
phòng cho cả hai, và bèn khăn gói qua nhà
bạn Bạn.
Giả như không qua nhà bạn Bạn, thì ngỏm củ tỏi
ở PLT, bữa quá chán đời rồi!
Đời Gấu cực lạ, lần nào tính tự làm thịt mình,
là lần đó, bị kỳ đà cản mũi. Tếu thế.
Về già, ngẫm lại, Gấu mơ hồ 1 điều, Lão Tặc Thiên
hình như cần Gấu làm cho Hắn 1 cái gì đó,
nên không cho Gấu ngỏm vội
Chờ
1 tí, lát nữa thì được.
Cứ như anh nhà quê ra tỉnh đến Trước Pháp Luật.
Cali Nov/Artists/Writers
1 2
3
Hãy nói cho
tôi
Tại sao nỗi cô đơn của tôi
Bài hát của tôi
Giấc mơ của tôi
Trì hoãn
Lâu như thế?
Khuyên
Nè bồ tèo, nghe nè
Sinh dữ
Tử lành
Hãy có tí ti tình
yêu
Ở giữa
Harlem
Chuyện gì xẩy ra cho giấc mơ bị
trì hoãn?
Liệu nó khô queo dưới nắng
gắt như lửa?
Hay mưng mủ như nỗi đau
Rồi bỏ chạy?
Hay thối rữa như đồ ăn thiu
Hay tráng tí đường
Như cục kẹo?
Có khi nào nó trũng
xuống
Như chở nặng quá?
Mà, có khi
nào
Nó nổ cái đùng?
WINTER MOON
How thin and sharp is the moon tonight!
How thin and sharp and ghostly white
Is the slim curved crook of the moon tonight!
Trăng Đông
Mỏng làm sao, sắc làm
sao, trăng đông lạnh đêm nay
Mỏng làm sao, sắc làm sao, trắng ma quái
làm sao
Vành trăng gầy đêm nay
SUICIDE'S NOTE
The calm,
Cool face of the river
Asked me for a kiss.
Mẩu giấy để lại trước khi trầm minh
Mặt sông lạnh/lặng lẽ
Xin tớ 1 cú hôn
VAGABONDS
We are the desperate
Who do not care,
The hungry
Who have nowhere
To eat,
No place to sleep,
The tearless
Who cannot
Weep.
Lũ Ma Cà Bông
Chúng tớ là 1 lũ tuyệt
vọng
Đếch ke đói
Không nơi
Ăn
Ngủ
Không giọt nước mắt
Không thể sụt sùi
Langston Hughes
Gấu
tính sống hoài hoài
Bữa trước ở PLT, Gấu phán, Tớ đang chết
Cả hai đều đúng.
Hai đứa mình phải luôn sẵn sàng cho khoảnh
khoắc - những tai ương, niềm vui, và nỗi buồn
Today at 8:07 PM
Dear
Gấu Nhà Văn,
"When
I first met Karen Zebroff she said "When the Chela (student) is
ready, the Guru (teacher) appears." I immediately responded to this
ancient traditional saying of Yoga teachers, "No, Kareen, when the
Guru becomes ready or perfect, the student appears."
-
Foreword by Swami Shyam Acharya for Yoga and Nutrition with Kareen
Zebroff
Welcome
to Little SaiGon, Gấu Nhà Văn.
Sent
from my iPad
Tks
Take Care
Closing time
“THERE’S
this poet from Canada…He plays pretty good guitar, and
he’s a wonderful songwriter, but he doesn’t read music, and
he’s sort of very strange.” It was an unconventional pitch from
a manager hoping to attract the attention of John Hammond, one
of the most influential record producers around. But Mr Hammond was
intrigued, and decided to invite the poet to lunch. Once they had
eaten, the young Leonard Cohen sat down to play a dozen of his tunes.
Mr Hammond was hooked: “You’ve got it, Leonard”.
Within
a week Mr Cohen was working on his first album and some
of his finest songs, “Sisters of Mercy”, “Suzanne” and “Hey,
That’s No Way to Say Goodbye” in the studios of Columbia Records.
It was 1967, and he was in his 30s. Back in college he was in
a folk band with a couple of guys: they wore Buckskin jackets
and played their biggest gigs in church basements and school halls.
But most of the years since had been spent chasing his ambitions
as a poet, writing books fuelled by drugs and making love on an idyllic
island in Greece. This did not pay the bills, however, and when
the release of his second book “Beautiful Losers” came under fire
for having “obscure” sexual content, Mr Cohen decided it was time
to look elsewhere. He set off to Nashville and on the way found himself
captivated by the scene in New York.
He
saw music as his second calling, and rightly so. His words
were all the more beautiful put to sound. After 14 albums
and a career that spanned into his 80s, Mr Cohen remained unique
in his ability to produce songs that could consume the listener,
envelop them in darkness and reflection, and offer great comfort
and hope all the while. He articulated like no other the universal
unease and helplessness felt by society in a changing world. Some,
like “If it be your will”, are more akin to prayer than song; others
see Mr Cohen having fun, gently mocking those who praise him:
“I was born like this, I had no choice, I was born with the gift
of a golden voice.”
Despite
“Hallelujah” going on to become one of the most widely-covered
songs in history, some felt that the weight of his songs
may have prevented him from reaching the same commercial success
enjoyed by that of his contemporary Bob Dylan, among others. Mr
Cohen built up a loyal fan base and widespread appreciation for
his transfixing lyrics and painstaking craftsmanship (it took him
years to write a single song, a process he described as “like a
bear stumbling into a beehive or a honey cache”). Even as Mr
Dylan received the Nobel prize for literature, many wondered whether
Mr Cohen would have been a more deserving candidate.
On
stage, few artists could inspire an audience to weep, to console
and to laugh like he did. During his first major tour back in
1972, Mr Cohen implored the audience to stop applauding: he was
too nervous, too distracted, and he couldn’t go on singing. When
he returned to the stage to sing “So Long, Marianne”, based on former
girlfriend and muse Marianne Ihlem, the audience joined in and
Mr Cohen and his band were reduced to tears. Backstage and broken,
he noted how overwhelming the experience had been.
In
the twilight of his life, the conflicted states of mind
and nerves that plagued every show of his youth seemed to
all but disappear. Forced back on the road after his manager,
Kelley Lynch, left him financially broke, Mr Cohen truly came
into his own playing three and a half hour sets, right up to each
venue’s curfew. In the opening pages of her biography on him, Sylvie
Simmons describes Mr Cohen as “a courtly man, elegant, with old-world
manners”. Anyone who saw him live knows that to be true. Surrounded
by his band, sharing anecdotes and thanks, Mr Cohen electrified the
audience with a charm and wit so at odds with the “godfather of gloom”
reputation bestowed upon him.
His
death last week was met with deep sadness and countless tributes;
some, like Kate McKinnon’s heartfelt performance on SNL,
a fitting end to a tumultuous few days. Only a month before, Mr
Cohen released what was to be his last album, “You Want It Darker”,
to critical acclaim. The opening track sees Mr Cohen proclaim “Hineni,
hineni, I’m ready, my lord”: it seemed prophetic then, and even
more so now. The world may not be ready for his absence, but solace
can be found in the body of work he took great care to leave behind.
Còm:
he
should have won over Dylan for sure. far more eloquent and subtle.
Bảnh
hơn... họ Trịnh nhiều!
"songs
that could consume the listener, envelop them in darkness
and reflection, and offer great comfort and hope all the while"
- a great description. His self-effacing, gracious wit is
hard to find.
Độc
giả mà còm thế này, quả là thần sầu.
Nói
thì "gom vào mình", nhưng quả là
cái cảm giác Gấu lần đầu nghe “Ngày Mai
Đi Nhận Xác Chồng”, ở Trại Cải Tạo VC ở Nhà Bè.
Đó là lần
đầu tiên Gấu nghe bản nhạc, nó “đốt cháy
người nghe, ôm lấy họ trong bóng tối, trong bóng
tang”... Gấu đã từng đi nhặt xác đứa em trai tử
trận….
|
|