Bài thơ
trên, dịch bằng câu thơ của Đoàn Văn Cừ, "nước thời gian gội tóc trắng
phau phau", đặng.
Nhưng có lẽ dịch bằng đoạn văn sau đây, của Gấu Cà Chớn
thì mới thật đắc địa:
Như người
xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn thuyền,
chàng trở lại
quán xưa,
tìm dấu giầy trên lớp bụi thời gian, và
tiếng cười của nàng vẫn còn
văng vẳng đâu đây.
1194: Kyoto
FADE TO
WHITE
The kind of
place
where the
way a traveler's tracks
disappear in
snow
is something
you get used to-
such a place
is this world of ours.
Princess
Shikishi, a poem. There are large gaps in the
record of Princess Shikishi's life: she was a daughter
of Emperor Goshirakawa, became through a
process of divination a high priestess of the Kamo
shrines in 1159, and took Buddhist vows in the
1190s, assuming the name Shonyobo. From her
work's inclusion in various early Japanese
poetry anthologies, it is clear that she was well
respected in her lifetime. Princess Shikishi composed in
the 5-7-5-7-7-syllable tanka form.
She died in
1201.
Bạc
phếch
Cái thứ
nơi
chốn mà dấu chân kẻ lãng tử biến mất vào trong tuyết, là cái điều mà
bạn trở nên
quen thuộc - một nơi chốn như thế đó, chính là cái cõi đời này của
chúng ta.
Lapham_Time
Wet Evening in April
The birds sang in the wet
trees
And as I listened to them it was a hundred years from now
And I was dead and someone else was listening to them.
But I was glad I had recorded for him
The melancholy.
Patrick Kavanagh
Chiều Ướt, Tháng Tư
Chim hót trên cành ướt
Và Gấu nghe chim hót, vào lúc, cách lúc này, một trăm năm.
Tất nhiên, Gấu thì ngỏm rồi, và một ai đó đang nghe chim hót
May cho người này là Gấu có ghi lại giùm cho anh ta hay chị ả
Nỗi buồn
Khi chúng mình nhớ nhung,
chúng mình chụp hình. Lúc này đúng là lúc chúng mình nhớ nhau, và những
bức hình làm càng nhớ nhau.
Chụp hình là 1 nghệ thuật của bi khúc, một nghệ thuật của lúc chạng
vạng...
Hơi dài hơn
cần thiết
Tôi chưa từng
có em
Và chưa từng
giả dụ sẽ có em
Một vài lời,
một tiếp cận
Trong tiệm, bữa
nọ - chỉ có vậy
Buồn thật,
tôi thừa nhận.
Nhưng chúng
ta phục vụ nghệ thuật,
đôi khi với
cái đầu thật căng, có thể sáng tạo –
tất nhiên,
chỉ trong thời gian ngắn -
lạc thú
mà lạc
thú này có vẻ như trần tục, nghĩa là phải có tí đụng chạm.
Đó chuyện đã
xẩy ra trong bữa ở tiệm – may mắn thay, nhờ rượu
Tôi có được
chừng nửa giờ, rất ư là huê tình, rất ư là tới chỉ
Và tôi nghĩ,
em cũng nhận ra điều này,
và cố tình
kéo dài hơn 1 tí, quá sự cần thiết.
Bởi là vì với
tất cả tưởng tượng, với tất cả sự thần bí huyền diệu, nhờ rượu,
tôi cần nhìn đôi môi em, cần thân thể em kế bên tôi.
C.
P. Cavafy, "Half an Hour." Cavafy
worked in the irrigation service of the Egyptian ministry of public
works in
Alexandria from 1892 to 1922. He published only a few of his poems in
literary
journals, instead preferring to print pamphlets of them at his own
expense to
distribute among friends. E. M. Forster, a friend and early
admirer of his poetry, wrote that he only ever saw Cavafy "going either
from his flat to the office or from his office to the flat. " Cavafy
died
on his seventieth birthday in 1933.
Thơ, với Cavafy, như lạc
thú và cái đẹp, đám mắt trắng dã - quần chúng, đám đông, tập thể…- không
thưởng thức được, những thứ đó không ở trong tầm tay của mọi người:
chúng chỉ có đó, cho những con người đủ “dám” để mà khui, móc chúng ra,
và trồng trọt, săn sóc chúng như là những trái cấm, trong 1 khoảnh đất
nguy hiểm.
Poetry, for Cavafy, like
pleasure and beauty, could not be brought publicly to light, nor were
such things within everyone‘s reach: they were available only to those
daring enough to seek them out and cultivate them as forbidden fruits,
in dangerous territory.
Vargas Llosa: The Alexandrian
Bài viết về Cavafy của
Vargas Llosa, Gấu đọc cũng lâu rồi, cũng tính giới thiệu với độc giả
TV, nhưng lại quên đi. Mới đây, đọc bài trên tờ Books về Cavafy, cũng thú lắm: Những người khuân vác mộng. Chắc
là phải đi 1 đường về ông thi sĩ "ghê" này thôi!
ULYSSES PASSES ITHACA
What's this pile of rocks
and sand? Ithaca ...
You know you'll find the bees, the ancient dog,
The olive tree, the faithful wife. But look:
The water glitters, black under your prow.
No, don't waste another
glance: this coast
Is just your threadbare kingdom. You won't
Shake the hand of the man you are now-
You who've lost all sorrow, and all hope.
Sail on, disappoint them.
Let the island slip by,
Off to port. For you, this other sea unrolls:
Memory haunts the man who wants to die
Speed ahead. From this day
on, set your course
For that low, huddled shore. There, in the foam,
Plays the child that you once were, here.
Ulysse đi ngang Xề Gòn
Cái đống kè đá, cát kiết
kia là cái gì hử? Xề Gòn đó.
Mi biết mà, ở đó có đàn ong, có con chó già
Có cây ô liu và bà vợ trung thành
Nhưng coi kìa, dòng nước long lanh, đen thui, dưới mũi thuyền
Không, đừng nhìn bờ sông
nữa
Thì đúng vưỡn chỉ là cái vương quốc khốn khổ của mi ngày nào
Mi sẽ chẳng thể bắt tay cái kẻ là mi bây giờ
Mi, kẻ đếch còn đau buồn, hy vọng
Dong buồm tếch thôi, kệ
cha Xề Gòn và
những con người của nó đang từ từ trôi xa ở phía mạn trái thuyền
Một biển khác, một Xề Gòn khác đang chờ mi
Hồi ức săn đuổi kẻ nào muốn chết
Tăng tốc thuyền, kể từ
ngày hôm nay
Hướng về một Xề Gòn khác, kè đá khác
Hãy nô đùa với đứa trẻ, là mi, ngày nảo ngày nào
Cái ngày mà mi còn Xề Gòn của mi