*



Someone Elegy  ;  In fact every poem ( Nguyễn Quốc Trụ dịch)

De vent et de Fumée

III

Ces pages sont traduites. D'une langue
Qui hante la mémoire que je suis.
Les phrases de cette langue sont incertaines
Comme les tout premiers de nos souvenirs.
J'ai restitue le texte mot après mot,
Mais le mien n'en sera qu'une ombre, c'est à croire
Que l'origine est une Troie qui brule,
La beaut é un regret, l' oeuvre ne prendre
À pleines mains qu'une eau qui se refuse. 

Yves Bonnefoy

III

These pages are translations. From a tongue
That haunts the memory I have become.
Its phrases falter, like what we recollect
From early childhood, long ago.
I built the text again, word for word:
But mine is only shadow. As though we know
All origin is a Troy that burns,
All beauty but regret, and all our work
Runs like water through our hands.

Translated by Hoyt Rogers

Của Gió và Khói

III

Những trang này đã được dịch
Từ một ngôn ngữ quần nát bấy hồi nhớ
Là thằng Gấu Cà Chớn vào lúc bi giờ
Những câu kệ thì chẳng ra làm sao cả
Như là những gì mà chúng ta nhặt nhạnh được, từ thời ấu thơ, thuở nảo thuở nào
Gấu cố gầy dựng lại bản văn, từng từ từng từ
Nhưng của Gấu thì chỉ là 1 bóng mờ
Mà nguyên bản thì là một thành phố Xề Gòn bị VC thiêu huỷ
[Bạn hẳn vưỡn còn nhớ cuộc phần thư năm đó?]
Cái đẹp ngày nào nếu còn chăng, thì là 1 niềm ân hận
Tác phẩm, cái gọi là văn học Miền Nam trước 1975, ư?
Như nước lọt qua kẽ tay của bạn.

Cors de chasse

Notre histoire est noble et tragique
Comme le masque d'un tyran
Nul drame hasardeux ou magique
Aucun detail indifferent
Ne rend notre amour pathétique
Et Thomas de Quincey buvant
L'opium poison doux et chaste
A sa pauvre Anne allait revant
Passons passons puisque tout passe
Je me retournerai souvent
Les souvenirs sont cors de chasse
Dont meurt le bruit parmi le vent
Apollinaire: Alcools
 

CORS DE CHASSE

Our story is noble and tragic
As the face of a tyrant not fun not for everyone
No drama or magic
No detail of what we've done
Can make our love pathetic
And Thomas De Quincey drinking
Opium poison sweet and chaste
Went dreaming to his poor Ann and listened to his own eyelids blinking
Let it pass let it pass because everything will pass and be effaced
I will be back not yet erased
Memories
Are hunting horns whose sound dies in the breeze

Ban biên tập The Paris Review dịch, số Mùa Thu 2012

HUNTING HORNS

Cars de chasse

Our history is exalted tragic
Like the masque of some despot
No drama of high exploit or magic
No detail that matters or does not
Can make this love of ours pathetic
Thomas De Quincey drinking down
His opium sweet poison demure
Went in a dream to his poor Anne
Pass by pass by since nothing's sure
Often I'll come back again
Memory is a hunting horn
Its tone dies out along the wind

DUDLEY FITTS

[trong French Poetry, edited by Angel Flores, Anchor Books]

 

Tù và săn

Chuyện chúng mình thì phong nhã và bi thương
Như cái mặt nạ của tên bạo chúa
Chẳng bi kịch, phiêu lưu hay thần kỳ
Chẳng chi tiết, dửng dưng
Có thể làm cho cuộc tình của chúng ta thống thiết
Gấu chơi xì ke,
Dịu dàng và trong trắng
Mơ màng nhớ BHD 

Thôi bỏ đi, bỏ đi Tám
Mọi chuyện đều qua đi
Gấu sẽ thường quay trở lại

Kỷ niệm
thì giống như tiếng tù và săn
Lặng dần trong gió



Thơ Mỗi Ngày

IN FACT EVERY POEM

In fact every poem
might be called "Moment."

One phrase is enough
in the present tense,
the past and even future;

it's enough so that anything
borne on words
begins to rustle, sparkle,
flutter, float,
while seeming
to stay changeless
but with a shifting shadow;

it's enough that there is talk
of someone next to someone
or someone next to something;

about Sally who has a kitty
or no longer has a kitty;

or about other Sallys
kitties or not kitties
from other primers
ruffled by the wind;

it's enough if within eyeshot
an author places temporary hills
and makeshift valleys;

if on this occasion
he hints at a heaven
apparently firm and enduring;

if there appears beneath a writing hand
at least one thing
that is called someone's:

if in black on white,
at least in thought,
for some serious or silly reason,
question marks are placed,
and if in response,
a colon:

Wislawa Szymborska: Here

           

Sự thực mọi bài thơ

Sự thực mọi bài thơ
có thể gọi là “Khoảnh khắc”

Một khúc là đủ
trong hiện tại,
quá khứ và ngay cả tương lai

Là đủ, và như thế
bất cứ cái gì dính chữ
bắt đầu rì rào, lóng lánh, run rẩy, rập rình
trong khi lại như đứng yên không thay đổi
nhưng với một cái bóng loạng quạng;

đủ, khi có lèm bèm, của một người nào đó
kế một người nào đó
hay một người nào đó kế một điều gì đó;

về Sally có con mèo
hay không còn mèo;

hay về những Sally khác
những mèo, hay không những mèo
từ những cuốn tập vỡ lòng khác
rối mù lên vì gió;

đủ, nếu chỉ trong nháy mắt
một tác giả di sơn, đảo hải
tạo ra những ngọn đồi tạm thời
những thung lũng thoáng chốc;

nếu trong dịp này, hắn ta thoáng nghĩ đến BHD, thí dụ,
thì em trở nên thường hằng, vĩnh viễn, thiên thu, hoài hoài
[hà, hà, nhảm quá! THNM rồi!]
nếu có cái gì xuất hiện ở bên dưới bàn tay đang viết của hắn
ít nhất 1 vật
thì cái đó gọi là của ai đó;

nếu trong đen và trắng,
ít nhất trong tư tưởng.
vì một lý do trầm trọng, hay cà chớn
những cái dấu hỏi được đặt ra,
và nếu trong trả lời, phúc đáp,
một dấu hai chấm:



 *

*

L'AUTOMNE

Un cheval s'écroule au milieu d'une allée
Les feuilles tombent sur lui
Notre amour frissonne
Et le soleil aussi.

Mùa Thu

Ngựa quị giữa lối đi
Lá thu phủ lên ngựa
Tình đôi ta run run
Và mặt trời cũng rứa.

Paroles

BARBARA
Jacques Prévert
Nguồn

[Bài thơ này, TTT cũng đã từng dịch.
Bạn nào còn giữ được, thêm vô đây, làm thế chân vạc.
Thi sĩ còn viết tựa
Tựa cho tập thơ của Trần Lê Nguyễn,
cũng có tên như của Prévert. NQT] 

*

Hàng Xóm, Thu (a)


THE GUTTURAL MUSE

Late summer, and at midnight
I smelt the heat of the day:
At my window over the hotel car park
I breathed the muddied night airs off the lake
And watched a young crowd leave the discotheque.

Their voices rose up thick and comforting
As oily bubbles the feeding tench sent up
That evening at dusk-the slimy tench
Once called the doctor fish because his slime
Was said to heal the wounds of fish that touched it.

A girl in a white dress
Was being courted out among the cars:
As her voice swarmed and puddled into laughs
I felt like some old pike all badged with sores
Wanting to swim in touch with soft-mouthed life.

-Seamus Heaney
(1939-2013)

The New Yorker, Sept 9, 2013


*

Dust of Snow

The way a crow
Shook down on me
The dust of snow
From a hemlock tree

Has given my heart
a change of mood
and saved some part
of a day I had rued.

- Robert Frost

Bụi Tuyết

Cái cách mà con quạ
Rũ xuống Gấu
Bụi tuyết
Từ trên cành cây
Làm cho trái tim Gấu
Nhói một phát
Và cứu được phần nào
Một ngày
Gấu ăn năn hối tiếc

 

"Knocks on the door"

Knocks on the door.
Who?
I sweep the dust of my loneliness
under the rug.
I arrange a smile
and open.

-Maram al-Massri

tr. by Khaled Mattawa

Gõ cửa

Có tiếng gõ cửa
Ai đó?
Gấu bèn rũ mớ bụi cô đơn
Vô tấm thảm dưới chân
Và phịa ra một nụ cười thật là tươi
Và mở cửa

Doors

An open door says, "Come in."
A shut door says, "Who are you?"
Shadows and ghosts go through shut doors.
If a door is shut and you want it shut,
why open it?
If a door is open and you want it open,
why shut it?
Doors forget but only doors know what it is
doors forget.

- Carl Sandburg

Cửa

Một cái cửa mở, phán, vô đi.
Một cái cửa đóng, phán, mi là ai?
Bóng và Ma vô qua cái cửa đóng
Nếu cửa đóng, và bạn muốn, đóng
thì mở làm cái đéo gì, tại sao mở?
Nếu cửa mở, mà bạn muốn, mở
Tại sao đóng?
Cửa quên, nhưng chỉ cửa biết
Cái gì là,
Cửa quên.

Some people have one great dream in life which they fail to fulfill.
Others have no dream at all and fail to fulfill even that.

- Fernando Pessoa

Có những người có 1 giấc đại mộng trong đời, nhưng đếch làm sao thực hiện nổi.
Nhưng lại có những người đếch có giấc “đéo” nào cả.
Và cũng "đéo" làm sao thực hiện nổi, ngay cả cái "đéo" này!
Bạn chọn, thứ người nào?

Hà, hà!


Mời đọc:

Vũ trụ thơ ( Đặng Tiến)

*

gọi. vang một. thời

như một lần đã. lỡ
như một lần đi. xa
lá vàng. phai não nùng
người xa hay. ai xa
gió cuốn. bay từng. lá
đọng lại. trên mắt. buồn
đôi môi. ai hờ. hững
tay đong. đưa ngày. xa
thời gian có. xóa mờ
lúc ban đầu. hôn nhau
tay. vội vã. từng ngón
vũng tình. yêu trượt. chân
như một lần ở. lại
như một lần buông. xuôi
tay chơi vơi. khoảng không
tiếng. vọng xa. hững hờ
lạc nhau. trong quá khứ
vẫn lạc nhau. ngày mai
còn lại. chỉ mình. ai
cửa đóng. không vội. vã
có tìm. được lúc đầu
những cay. cay vọng. ngược
cái bóng. nghiêng vắng. hắt
gọi. vang thời. bên em

Đài Sử



Seamus Heaney dies aged 74

Nobel prize-winning Northern Irish poet died this morning in a Dublin hospital after a short illness

Làm nhà

Tặng bạn, như một lời tạ lỗi 

Những người thợ khi xây một căn nhà
Thường đắn đo từng khung cây làm giàn giáo
Sao cho giàn đừng bung
Ở những nơi bộn bề công chuyện
Chắt chiu từng cây thang 

 Ngại ngùng từng mối nối
Tất cả bỏ đi, khi việc xong
Tường đá lộ ra, uy nghi, sừng sững 

Bạn thân ơi, đôi khi có vẻ
Những cây cầu ngày xưa gẫy đổ giữa chúng ta

Đừng sợ. Hãy để cho khung rêu rụng xuống
Tâm đắc một điều
Ngôi nhà của chúng ta đã làm xong

(Dịch bài Scaffolding của Seamus Heaney, Poems 1965-75)


Wait for me with dust

Where Is Poetry Going?
Thơ đi đâu?

Charles Simic

Không phải là Gấu cường điệu khi phán, dịch thơ thì cũng giống như khám phá ra Lò Thiêu!

Ấy là bởi vì, đúng như cái bà Nobel Jelinek phán, sau Lò Thiêu mà còn làm thơ, thì phải có Lò Thiêu ở trong thơ: Trong thơ của thế giới qua 1 số tác giả trên TV giới thiệu, như Charles Simic, Czeslaw Milosz, Adam Zagajewski, Wislawa Szymborka, có nỗi đau Lò Thiêu, Lò Cải Tạo, Lò Lưu Vong, Lò Gulag… đủ thứ Lò của thế  kỷ ở trong đó.

Trong khi Mít, ngay cả 1 nhà văn lưu vong, sợ rằng cũng chưa từng có, nói gì nhà thơ!

Có lẽ phải nói, đúng hơn, Mít có những nhà văn đã từng tự xưng là lưu vong, khi bỏ chạy VC, bị hải tặc hãm hại, và sau đó, khi đã cơm no ấm cật tại xứ người, thì lại mò về, và coi mình bây giờ là nhà văn di dân, chứ không còn lưu vong nữa!

Ngay cả những nhà thơ ở, không về, trong thơ họ có tí mùi Lò nào đâu.
Nếu có, thì là mùi Lờ!
Đọc thơ của họ, chỉ thấy rặt 1 trò chơi chữ, gọt chữ, chơi 36 kiểu, nào tân hình thức, nào vác cầy qua núi… chỉ thấy nhục cho chữ Mít, dân Mít, đó là sự thực.

Gấu này đâu có thù hằn, khi viết, khi đụng tới họ? DTL, ngoài đời, là 1 bạn thân, nhưng khi Gấu viết về anh, rất nặng nề, thí dụ, có dịp gặp nhau thì lại mừng mừng rỡ rỡ. Cứ áo thụng vái nhau, thì biết bao giờ thơ Mít mới có mùi thơ thế giới?


Vu Lan : Đến những người đã khuất

Note: Cái tít này, chắc là từ 1 cuốn tiểu thuyết đen của Tẩy: D'Entre Les Morts, của Boileau-Narcejac.
Cuốn này tuyệt cú mèo. Hình như HHT cũng đã phóng tác, "Giữa những người đã chết"?
Phim Sueurs froides
, của Alfred Hitchcock, là từ cuốn này.

Cái chủ đề Vu Lan này lấy từ bài thơ "Năm mới" của Chu Trầm Nguyên Minh, Phan Ni Tấn phổ nhạc , gởi đến tất cả những người đã nằm xuống, trước cuộc chiến, trong cuộc chiến, sau cuộc chiến ..., và nhất là gởi cho anh CTNM, người đã có cha, mẹ, anh, chị, em ... đã bỏ anh lại trên đời khi anh còn thơ ấu , vì chiến tranh .

Thơ cũng hay mà nhạc cũng hay :

http://www.art2all.net/tho/chutramnguyenminh/nammoi_phannitan.html 

K


  Thơ Mỗi Ngày

Mời đọc:

Vũ trụ thơ ( Đặng Tiến)

THE VOICE AT 3:00 A.M.

Who put canned laughter
Into my crucifixion scene?

Charles Simic

Tiếng nói lúc 3 giờ sáng

Ai bỏ tiếng cười đóng hộp
Vô cái xen Gấu đóng đinh thập tự?


*

Last Meal

The waiter was dressed in black
and wore a hood
and when we told him we needed a little more time,
his pencil froze in the air above his pad.

And later when he came back
to ask if we were finished, we shook our heads no,
our forks still raised over our empty plates.

Bữa ăn cuối

Người bồi bận đồ đen
Đội cái mũ
Và khi chúng tôi nói, cho thêm tí thời giờ
Cây viết chì đóng băng bên trên cuốn sổ của anh ta

Và sau đó, khi anh ta quay lại
Để hỏi coi chúng tôi ăn xong chưa
Mấy cái muỗng
Vưỡn lơ lửng ở bên trên mấy cái dĩa trống trơn.

BILLY COLLINS

TLS JANUARY 21 2011

Note: Hai bài thơ trên, thật tình cờ, cùng đề tài! Một nặng, một nhẹ, và đều, khôn kham!

 
 Thơ Mỗi Ngày

 a2a: Đọc thơ Shu Ting

Không hiểu

Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi

Mai Thảo

Bài thơ được nhiều người lập đi lập lại nhiều lần.
Trong bài của MT, có “ẩn dụ”, bói “mu rùa” bằng sao trời của Đông Phương!
Với GCC, bữa nay, nhân bài thơ của MT, là một bài thơ khác, của Stevenson, cũng nói tới sao trời.
Bài này, cũng được nhiều người nhắc tới. Bữa nay, Gấu lèm bèm về những lèm bèm của Borges, về bài thơ, trong cuốn This craft of verse:

Requiem

Under the wide and starry sky
Dig the grave and let me die
Glad did I live and gladly die
And let me down with a will
This is the verse you’ grave for me:
“Here he lies where he longed to be;
Home is the sailor, home from the sea,
And the hunter home from the hill.”

Stevension

Kinh Cầu

Dưới bầu trời rộngi, lia chia sao
Đào 1 cái hố rồi bỏ Gấu xuống
Sướng làm sao Gấu sống, và sướng ui chao Gấu ngỏm
Và nhớ gài 1 câu thơ lên mộ Gấu nhé:
Đây là nơi thằng cha Gấu nằm
Nó thèm được như thế, từ lâu rồi
Nè, đừng có ném thây nó xuống biển nhe!
Nó đếch muốn thây của nó trôi về xứ Mít của VC đâu!
Nhà của tên thủy thủ, sau khi từ giã biển
Nhà của tên thợ săn, từ trên đồi bò về

Borges phán:

Đúng là thứ ngôn ngữ trần trụi, đếch cần hoa hoè hoa sói, thứ ngôn ngữ đời sống [this verse is plain language; it is plain and living]. Tuy nhiên, Borges phán tiếp, nhà thơ phải làm việc cật lực mới có được nó!
Tớ [Borges] đếch tin là những dòng như “Glad did I live and gladly I die” lừ khừ bò ra, ngoại trừ những khoảnh khắc hiếm quí, Bà Chúa Thơ rộng lượng với thi nhân.
[I do not think that such lines as “Glad did I live and gladly I die” come except in those rare moments when the muse is generous].

Tuyệt!

Cái tay triết gia Henri Lefebvre, cũng 1 ông thầy dậy Triết Học Mạc Xịt cho GCC [học hàm thụ] khi mới lớn, cũng phán 1 câu giống Borges, và Gấu cũng đã từng chôm, đại khái, thơ là bề mặt của đời sống, theo nghĩa, những thắc mắc băn khoăn siêu hình, đại siêu hình phải ngoi lên đó để mà thở. Thơ là lời nói, để bay mẹ đi mất, chứ đếch cần nhớ lại!
Ui chao GCC đâu có nhớ em BHD nói với Gấu cái gì đâu, khi từ biệt, vì lúc đó, chỉ lo khóc!
Những gì viết ra sau này, đều là tưởng tượng ra cả!

Hà, hà!
*

Ngoài ra ngôn ngữ của Mai Thảo còn có một chiều sâu tư tưởng rất gần với Jean-Paul Sartre: 

Sao không, tâm thức riêng bờ cõi
Địa ngục ngươi là, kẻ khác ơi! *

J.P.Sartre viết:
"l'enfer, c'est les autres"

tạm dịch:
tha nhân là địa ngục của mình.

VIỆT BẰNG (1)

Tếu thật. MT thuổng ý của Sartre, mà được đấng này thổi tới Trời luôn, thành Ông Thần Mai Thảo!
Câu của Sartre, nên dịch, địa ngục là những kẻ khác.

Sartre có mấy câu "cửa miệng", thời của Gấu, như câu trên. Tất nhiên Mai Thảo cũng đã từng nghe "tụi nhỏ" tụng, và ông bèn sẵn đấy bèn dùng, hẳn là chẳng có ý thuổng, như Gấu vu vạ.
Tuy nhiên, từ 1 câu như thế, mà thổi ông như thế, sợ ông ngượng!

Mai Thảo chẳng ưa gì Gấu, dù Gấu viết thường trực cho tờ Vấn Đề, mục Tạp Ghi, với cái nick Tuấn Anh [Tuấn là tên thằng cu lớn, Anh là tên cô bạn]. Và cái vụ viết là do TTT đề xuất. MT thường gặp Gấu, lấy bài, mỗi tháng 1 lần ở Quán Chùa, và đi, trước khi chợ họp. Gặp, có TTT, hay PLP, là khác, và cũng phải cỡ 8, 9 giờ sáng.

Modern Chinese Poetry - Insistent Voices 

ASIA LITERARY REVIEW WINTER 2010

Shu Ting

A wine cup knocked over
Stone paths float in moonlight
On green grass, pressed down
A lost red mountain flower

Eucalyptus trees turn
Crowded stars kaleidoscope
By the rusty iron anchor
Eyes reflect a dizzy sky

A book raised to block off candlelight
Fingers held gently between lips
In thin crisp silence
Dreams are half-awake

Translated by Luo Hui, with Zheng Danyi and Martin Alexander

Vài kỷ niệm

Ly rượu đổ
Lối sỏi bập bềnh dưới ánh trăng
Trên cỏ xanh, bông hoa núi mầu đỏ đánh mất,
bị nghiền nát

Rừng bạch đàn biến
sao trời chen chúc
thành kính vạn hoa
Bên chiếc neo sắt rỉ
Mắt phản chiếu bầu trời loạng quạng

Cuốn sách nâng lên che ánh nến
Ngón tay nhẹ hờ trên môi
Trong nỗi lặng ròn, mỏng
Mộng chập chờn

The Future

The wanderer has to return
He's already damaged by loneliness

His unlucky liver is burdened with fish and with pride
Unlucky youth, and the crying of alcohol too!

Oh, must you be angrier still,
and are not your curses enough?

Birds, beasts, flowers, wood, spring, summer, autumn, winter -
all are surprised by this crazy little man.

More red than red, more white than white
More yellow than yellow
He is the corpse of his future.

Bai Hua

Tương lai

Kẻ lang thang phải trở về
Hắn đã bị tổn thương vì cô đơn

Cái lá gan không may của hắn thì chĩu nặng vì cá và niềm hãnh diện
Tuổi trẻ không may, và tiếng khóc của rượu, nữa!

Ôi mi phải vẫn giận dữ hơn nhiều,
Những trù ẻo của mi, chưa đủ?

Chim, thú, hoa, gỗ, xuân, hạ, thu đông –
tất cả thì đều ngạc nhiên vì người đàn ông nhỏ thó, khùng này.

Nhiều đỏ hơn đỏ, nhiều trắng hơn trắng
Nhiều vàng hơn vàng
Nó là cái thây ma của tương lai của nó.


 a2a: Đọc thơ Shu Ting

One Generation

Gu Cheng 

Black night gave me black eyes
But I use them to search for brightness 

Translated by Luo Hui 

Một thế hệ

Đêm đen cho tôi mắt đen
Tôi dùng chúng để tìm ánh sáng

*

Poetry

Liu Xiaobo

Wait for Me with Dust

for my wife, who waits every day

Nothing remains in your name, nothing
but to wait for me, together with the dust of our home
those layers
amassed, overflowing, in every corner
you're unwilling to pull apart the curtains
and let the light disturb their stillness

over the bookshelf, the handwritten label is covered in dust
on the carpet the pattern inhales the dust
when you are writing a letter to me
and love that the nib's tipped with dust
my eyes are stabbed with pain
you sit there all day long not daring to move
for fear that your footsteps will trample the dust you try to control your breathing
using silence to write a story.
At times like this
the suffocating dust
offers the only loyalty

your vision, breath and time
permeate the dust
in the depth of your soul
the tomb inch by inch is
piled up from the feet
reaching the chest reaching the throat

you know that the tomb
is your best resting place waiting for me there
with no source of fear or alarm
this is why you prefer dust
in the dark, in calm suffocation
waiting, waiting for me
you wait for me with dust
refusing the sunlight and movement of air
just let the dust bury you altogether
just let yourself fall asleep in the dust
until I return
and you come awake
wiping the dust from your skin and your soul. 

What a miracle - back from the dead.

ASIA LITERARY REVIEW WINTER 2010

Đợi Tôi với Bụi

Gửi vợ tôi, người mà ngày nào cũng đợi tôi

Chẳng còn gì trong tên em, chẳng còn gì,
ngoài chuyện đợi anh, cùng với bụi trong căn nhà của chúng ta
những lớp bụi
vun thành đống, chồng chất lên nhau, ở mọi xó xỉnh,
em cũng đâu có muốn mở toang mấy bức màn
để ánh sáng ùa vô, làm phiền sự bất động của chúng

trên những giá sách, mẩu giấy nhãn viết tay bụi phủ đầy
trên chiếc thảm
những hoa văn hít đầy bụi
khi em viết thư cho anh
và tình yêu
với ngòi bút chấm bụi
mắt anh xót như bị dao đâm
em ngồi đó suốt ngày không dám di động
sợ bước chân của em chà đạp bụi em cố gắng kìm nhịp thở của em
viện tới sự im lặng để viết một câu chuyện.
Vào những lúc như thế
bụi nghẹt thở
dâng hiến sự trung thành độc nhất

tầm nhìn của em, hơi thở và thời gian
tẩm đẫm bụi
ở tận thâm sâu của tâm hồn em,
nấm mồ từng chút từng chút
cao dần, từ chân
lân tới ngực, tới cổ họng

em biết nấm mồ
là nơi yên nghỉ tốt nhất của em
trong khi chờ đợi anh ở đó,
chẳng còn nguồn cơn của sự sợ hãi, hay báo động
đó là lý do tại sao em thích bụi
trong bóng tối, trong sự nghẹt thở im ắng
đợi, đợi anh
em đợi anh với bụi
từ chối ánh mặt trời và sự chuyển động của không khí
cứ mặc kệ bụi chôn em cùng tất cả
cứ mặc cho mình thiếp đi trong bụi
cho đến khi anh trở về
và em thức dậy
rũ bụi trên da và tâm hồn. (1)

Đúng là 1 phép lạ - trở về từ cõi chết

Cái cú dịch thơ của Gấu, thú thiệt, nó giống như cái cú phát giác ra Lò Thiêu, khi đọc Steiner!
Sướng mê tơi, mà cũng khổ mê tơi.
Đơn giản thì nó như thể này: Không thể không dịch thơ thế giới, sau khi Bắc Kít ngộ độc nặng với dòng thơ Vệ Quốc của Liên Xô!
Bắc Kít ăn cướp được Miền Nam, 1 phần là nhờ thơ Mai A Mai Iếc.
  Thơ Mỗi Ngày

*

L' écrevisse

Incertitude, ô mes délices
Vous et moi nous nous en allons
Comme s'en vont les écrevisses,
A reculons, à reculons.

Apollinaire: Alcools

Con tôm

Bất trắc, nghi hoặc, ôi những thú vui của ta
Mi và ta cùng sóng đôi
Đi giật lùi
Như loài tôm
Lùi, lùi.


A Few Memories

Shu Ting

A wine cup knocked over
Stone paths float in moonlight
On green grass, pressed down
A lost red mountain flower

Eucalyptus trees turn
Crowded stars kaleidoscope
By the rusty iron anchor
Eyes reflect a dizzy sky

A book raised to block off candlelight
Fingers held gently between lips
In thin crisp silence
Dreams are half-awake

Translated by Luo Hui, with Zheng Danyi and Martin Alexander

Vài kỷ niệm

Ly rượu đổ
Lối sỏi bập bềnh dưới ánh trăng
Trên cỏ xanh, bông hoa núi mầu đỏ đánh mất,
bị nghiền nát

Rừng bạch đàn biến
sao trời chen chúc
thành kính vạn hoa
Bên chiếc neo sắt rỉ
Mắt phản chiếu bầu trời loạng quạng

Cuốn sách nâng lên che ánh nến
Ngón tay nhẹ hờ trên môi
Trong nỗi lặng ròn, mỏng
Mộng chập chờn


Octavio Paz

Response and Reconciliation
Đáp ứng và hòa giải

Autumn

The wind wakes,
sweeps the thoughts from my mind
and hangs me
in a light that smiles for no one:
what random beauty!
Autumn: between your cold hands
the world flames.

1933

Octavio Paz: First Poems (1931-1940)

Mùa Thu

Gió thức dậy
Quét những ý nghĩ ra khỏi cái đầu của anh
Và treo anh
Trong ánh sáng mỉm cười cho chẳng ai
Cái đẹp mới dưng không, tình cờ làm sao?
Mùa thu: giữa lòng bàn tay lạnh của em
Tình anh sưởi ấm
[nguyên văn, thế giới bập bùng ngọn lửa]

Here

My footsteps in this street
echo
        in another street
where
        I hear my footsteps
passing in this street
where

Only the mist is real

[1958-1961]

Đây

Tiếng bước chân của tôi
trong con phố này
vọng lên
trong một con phố khác
nơi
tôi nghe những bước chân của mình
qua con phố này
nơi
Chỉ sương mù là có thực

*

Apollinaire: Alcools

Mùa thu bịnh

Mùa thu bịnh và đáng mê làm sao
Mi sẽ chết khi bão thổi qua những vườn hồng
Khi tuyết xuống
Trong những vườn cây

Mùa thu đáng thương, tội nghiệp
Chết trong cái màu trắng, trong cái giầu sang
Của tuyết và của trái chín
Ở nơi cuối trời
Những cánh chim bồ cắt bay lượn
Bên trên những thuỷ thần già, tóc xanh và lùn
chẳng bao giờ yêu

Ở nơi bìa rừng
Những con hươu thèm nhau, rền rĩ

Ui chao, mùa thu, mùa, tôi mới yêu làm sao
Những tiếng thì thầm của nó
Những trái cây rụng xuống, không ai hái
Gió và rừng đều thi nhau khóc
Tất cả những giọt nước mắt, mùa thu, lệ thu, từng chiếc, từng chiếc
Những chiếc lá con người dẫm lên
Một con tàu chạy
Và đời cứ thế mà trôi đi.

*
Mùa Thu Ở Đây Đẹp Não Nùng

  Thơ Mỗi Ngày

**

Cuốn thơ mua ở tiệm sách cũ, cũng liên quan tới...”Sinh Nhạt”.
Sinh Nhật
là tên 1 tác phẩm của NXH. Thiếu cái mũ, thành Sinh Nhạt. Thiếu luôn 1 bài điểm sách của GCC: Đi tìm 1 cái mũ đã mất!

*

20.10.2010

Automne

Dans le brouillard s'en vont un paysan cagneux
Et son bœuf lentement dans le brouillard d'automne
Qui cache les hameaux pauvres et vergogneux 

Et s'en allant là-bas le paysan chantonne
Une chanson d'amour et d'infidélité
Qui parle d'une bague et d'un cœur que l'on brise

Oh! l'automne l'automne a fait mourir l'été
Dans le brouillard s'en vont deux silhouettes grises

Apollinaire

Mùa Thu

Trong sương mù, một người nhà quê đi, chân liềng khiềng
Và con bò của anh ta lừng khừng đi trong sương mù mùa thu
Lấp ló trong lớp sương mù là những thôn xóm nghèo nàn và xấu hổ

Và trong khi đi như thế, anh nhà quê ư ử hát
Một bài tình ca và sự không trung thuỷ
Nói về một cái nhẫn và một trái tim mà người ta làm tan nát

Ôi mùa thu, mùa thu làm chết đi mùa hè
Trong sương mù cập kè hai cái bóng xám

*

L'ARBRE DE LA RUE DESCARTES

Passant,
Regarde ce grand arbre et à travers lui,
II peut suffire.

Car même déchiré, souillé, l'arbre des rues,
C'est toute la nature, tout le ciel,
L'oiseau s'y pose, le vent y bouge, le soleil
Y dit le même espoir, malgré la mort.

Philosophe,
As-tu chance d'avoir l'arbre dans ta rue,
Tes pensées seront moins ardues, tes yeux plus libres,
Tes mains plus désireuses de moins de nuit.

Yves Bonnefoy 

THE TREE ON DESCARTES STREET

Passer-by,
Look at this big tree. Look through it:
Maybe this tree is enough.

A street-tree, it's dirty and torn.
But still it's all of nature, all of the sky:
Where the wind blows, where birds alight,
Where the sun tells of hope, always the same
In spite of death.

Philosopher,
If you're lucky enough to have this tree in your street,
Your thoughts will come easier, your eyes will rove freer,
Your hands will reach out for less night.

Cây Táo nhà ông Lành

Đi qua nhà Ông Lành,
Nhìn cây táo
Xuyên qua nó
Là đụ rồi

Bởi là vì tả tơi, bụi bặm, một cái cây ở đường phố như thế
Là cả mặt trời chân lý chiếu qua tim
[Là cả thiên nhiên, cả bầu trời]
Chim chóc nghỉ ngơi ở đó, gió lay động, rồi mặt trời
Cùng nói lên hy vọng, mặc dù đường ra trận mùa này đẹp lắm
[mặc dù cái chết]

Gấu Cà Chớn
Mi có khi nào có cái may có 1 cây táo nhà ông Lành như trên, ở con phố của mi?
Tư tưởng của mi sẽ bớt cứng nhắc, mắt của mi sẽ tự do hơn
Bàn tay của mi sẽ không ham muốn nhiều hơn,
bóng đêm.

LA SEULE ROSE

I

II neige, c'est revenir dans une ville
Où, et je le découvre en avancant
Au hasard dans des rues qui toutes sont vides,
J'aurais vécu heureux une autre enfance.
Sous les flocons j'apercois des facades
Qui ont beauté plus que rien de ce monde.
Seuls parmi nous Alberti puis Sangallo
À San Biagio, dans la salle la plus intense
Qu'ait batie le désir, ont approché
De cette perfection, de cette absence. 

Et je regarde donc, avidement,
Ces masses que la neige me dérobe.
Je recherche surtout, dans la blancheur
Errante, ces frontons que je vois qui montent
À un plus haut niveau de l'apparence.
Ils déchirent la brume, c'est comme si
D'une main délivrée de la pesanteur
L'architecte d'ici avait fait vivre
D'un seul grand trait floral
La forme que voulait de siècle en siècle
La douleur d'être né dans la matière.
[suite]
Yves Bonnefoy

THE ONLY ROSE

I

It's snowing: and so I've returned to the city
Where I might have lived another childhood,
Happily. I discover this, walking at random
Along the streets, all of them deserted.
Through snowflakes, I catch sight of facades
Whose beauty has no equal in this world.
Alberti, then Sangallo at San Biagio,
In the loftiest, the most intense of rooms
That longing ever built: among us, only they
Come close to this perfection, to this absence.

And I keep peering, avidly, at masses
That the snow halfway conceals.
Above the roving whiteness, I seek out
The pediments, and see them rise
To higher ranges of the visible.
They rend the mist, as though their earthly
Architect had fathered forth in stone
The centuries' desire, the final form
Of birth into the suffering of matter-
And then, with a single stroke, had freed it
Into weightlessness, and tossed it
Like a flower from his hand.

  Thơ Mỗi Ngày

THE THREE AUTUMNS

I don't understand summer smiles at all,
And winter holds no charm for me,
Yet as for autumn, almost without fail
I've noticed every year has three.

And the first one is holiday disorder
Spiteful of yesterday's summer fling.
The leaves fly like shreds of notebooks and the odor
Of haze is incense-sweet. Everything
Is moist, many-colored, shining.

The birches are the first to join the dance since they're
Draped in see-through lace and since
They've already shaken off every transient tear
Onto the neighbor over the fence.

Here's what happens when you use a story to
        break the silence:
A second goes by, a minute, and then
Comes the second autumn as dispassionate
        as conscience,
As somber as an air raid siren.

Everyone immediately appears pale and old.
Summer closeness doesn't exist.
And far away trumpets are parading their gold
-Music floats through the fragrant mist.

And in the waves of frankincense, cold and gray,
Is locked the high unflooded land.
But the wind stormed, things opened up,
and right away
Everyone understood: that's the end of the play.
And this isn't an autumn but death
showing its hand.

Akhmatova
1943

Ba thu

Tôi đếch làm sao hiểu mùa xuân cười
Và mùa đông chẳng có tí “đẹp zai” gì đối với tôi
Nhưng, chẳng khi nào lầm lẫn,
Tôi ngửi ra liền, và ngộ ra rằng, có tới ba mùa thu

Mùa đầu tiên thì là một cú loạng quạng của ngày nghỉ lễ.
Hằn học với cái ăn chơi lu bù mùa hè, của ngày hôm qua.
Lá cây bay như những trang, những mẩu, từ những cuốn sổ tay
Và mùi sương mù mới ngọt ngào làm sao.
Mọi vật thì ẩm ướt, sặc sỡ, long lanh sáng.

Những cây bu lô gia nhập cuộc khiêu vũ sớm nhất
Bởi là vì chúng được phủ bằng một bức màn xuyên thấu,
và kể như rũ bỏ liền tù tì mọi giọt lệ thoảng,
qua hàng rào nhà hàng xóm.

Và bây giờ, là điều xẩy ra,
Khi bạn dùng một câu chuyện để phá vỡ sự im lặng:
Một câu chuyện thứ nhì, bèn tiếp theo liền, và rồi thì
Mùa thu thứ nhì tới, ngán như là lương tâm,
Âm u như là tiếng còi báo động máy bay Mẽo tới vùng trời Bắc Kít

Và mọi tên Bắc Kít, liền lập tức, xanh rờn, và già cằn
Sự gần gụi mùa hè kể như không còn, đếch hiện hữu
Và xa thật xa, tiếng kèn dòn dã, đường ra trận mùa này đẹp lắm,
Vàng của chúng ta là chiến lợi phẩm Miền Nam.
Âm nhạc lững thững trong không gian, qua thềm sương mù thơm ngát.

Và trong những đợt hương trầm, lạnh và xám
Miền đất cao, không ngập lụt, được khóa cứng
Nhưng gió tới, như bão, mọi vật mở toang
Và ngay lập tức
Mọi tên Bắc Kít đều hiểu: Cuộc chiến chấm dứt.
Xề gòn bị làm thịt rồi
Và đó, đếch phải mùa thu - một mùa thu năm qua, cách mạng tiến ra –
Mà là Thần Chết
Chìa bàn tay của nó ra cho lũ Mít cùng nhìn thấy.

[Note: Dịch hơi bị THNM, nhưng cực tới, hà, hà!
To SLN -
sáng nay (ở Hội An), Sep 14, 2012, đọc những bài thơ anh vừa lộng dịch, cảm động vô cùng -
with Tks. NQT] 

FROM AN UNWRITTEN
THEORY OF DREAMS

In memory of Jean Améry

-Zbigniew Herbert

Từ một lý thuyết chưa được viết ra
 về những cơn mộng

Tưởng niệm Jean Améry

1

Những tên tra tấn ngủ, như thể những giấc mộng của chúng thì màu hồng, và hiền hậu -
những cú xóa sổ sắc dân, ở hải ngoại, hay ở trong nước, ở 1 miền đất như Miền Nam xứ Mít, thí dụ -
thì đều đã được tha thứ, nhờ cái hồi ức ngắn ngủn của con người
một ngọn gió nhẹ lật những trang của những cuốn album gia đình
những cửa sổ mở ra Tháng Tám
cái bóng của cây táo đang nở hoa
ở bên dưới nó một đám người thanh nhã tụ tâp
chiếc xe trần của ông nội sửa soạn cho chuyến đi tới nhà thờ
thánh lễ đầu tiên vòng tay đầu tiên của người mẹ
một đống lửa trại ở 1 khu quang đãng, và bầu trời đầy sao
không điềm triệu, hay bí ẩn, không Khải Huyền
Và thế là chúng ngủ như thể những giấc mộng của chúng thì trọn gói,
đầy thức ăn, đồ uống, những cơ thể đàn bà mát rượi
Với họ, chúng chơi trò chơi dâm đãng trong những bụi cây,
trong những khu rừng nhỏ, và bên trên tất cả
là một giọng nói đừng bao giờ-quên, lãng đãng, bồng bềnh
một giọng trinh nguyên, trong trắng như mùa xuân
ngây thơ, vô tội như 1 tiếng dội, hát về 1 một cậu bé
rình mò một bông hồng trên cây thạch nham.

Chuông hồi nhớ đánh thức không hồn ma, không ác mộng.
Chuông hồi nhớ lập lại sự xá tội lớn lao của nó.

Chúng thức dậy, vào buổi sáng sớm, tràn trề quyết tâm, và sức mạnh
Rất cẩn thận chúng cạo đôi má trưởng giả của chúng
“Cái còn lại” của tóc, chúng bèn chải và bện thành 1 vòng nguyệt quế đầm trong nước lãng quên.
Và nó sẽ rửa sạch, và làm trôi đi tất cả
Chúng thoa cơ thể của chúng bằng 1 thứ xà bông mang nhãn Macbeth.

2

Tại sao ngủ - nơi trú ẩn của tất cả con người
cầm giữ ân sủng của nó, đối với những nạn nhân của bạo lực
Tại sao họ chảy máu ban đêm dưới những tấm mền sạch
Và vô giường như thể chúng là những căn phòng tra tấn
Những phòng giam dành cho tử tội, hay cái bóng của những máy chém
Nói cho cùng, chúng cũng có những bà mẹ, và chúng đã từng nhìn thấy
những khu rừng, bầu trời quang đãng, cây táo nở hoa
Ở mọi góc linh hồn, chúng cũng kinh nghiệm những khoảnh khắc hạnh phúc
Như vậy tại làm sao
Tiếng hú của chúng làm bà nội trợ vô tội thức giấc
Tại sao chúng lại rời bỏ trong cuộc bỏ chạy điên rồ
đập đầu vô tường, không thể ngủ được nữa,
mắt nhìn đần độn cái đồng hồ chẳng thay đổi được một điều gì 

Chuông hồi nhớ lập lại cơn kinh hoàng lớn lao của nó
Chuông hồi nhớ gióng lên cú báo động không ngừng

Thực sự, thật khó mà chấp nhận những tên tra tấn thắng trận
Những nạn nhân thì bèn bị đánh bại cho đến đời đời 

Và như thế, chúng thỏa thuận với hình phạt không tội lỗi
Với vết sẹo nhục nhã, vết ngón tay trên má chúng
Ước mong đê tiện sống sót - sự cám dỗ của tha thứ
Câu chuyện về địa ngục sao sực mùi tởm lợm, đếch làm sao ngửi được,
Thế là chẳng còn chỗ cho bạn đệ đơn phàn nàn.
Tòa án của những giấc mơ đưa ra những bản án không làm sao hiểu được.

Những đứa trẻ của thời chúng ta

Chúng ta là những đứa trẻ của thời chúng ta
Và đó là thời chính trị.

Suốt ngày, suốt đêm
Ngày nào đêm nào thì cũng thế
mọi chuyện - của anh, của chúng ta, của chúng nó –
thì đều là chuyện chính trị

Dù thích hay không thích
Cái gen của bạn có một quá khứ chính trị
Da của bạn, có màu chính trị
Con mắt của bạn có cái liếc xéo chính trị

Bạn nói bất cứ cái gì, là bèn có cái gọi là phản biện.
Bất cứ cái gì bạn không nói, thì nó nói cho chính nó
Thành thử tránh trời không khỏi nắng chính trị.

Ngay cả khi bạn đi vô rừng
Thì bước đi của bạn cũng chính trị
Trên nền đất chính trị

Thơ không chính trị thì cũng chính trị
Và trên đầu chúng ta trăng chiếu sáng
Thì cũng không còn là trăng trinh nguyên
Hiện hữu hay không hiện hữu, đó là vấn đề.
Và mặc dù nó làm cho bạn ăn không ngon, nuốt không vô
Thì nó vẫn là 1 câu hỏi, “vũ như cẩn”, về chính trị. 

Để có 1 cái ý nghĩa chính trị
Bạn đếch cần phải là một con người.
Nguyên liệu thô, đủ rồi
Hay tí chất đạm, tí dầu nguyên 

Hay một cái bàn hội họp mà hình dáng của nó
cũng làm mất mẹ nó bao nhiêu ngày tháng:
Liệu chúng ta bàn tại Paris,
Về sự sống và cái chết của xứ Mít,
Trên cái bàn vuông, hay là tròn?

Trong khi đó con người cứ thế mà tàn lụi dần
Loài vật chết
Nhà cháy
Ruộng bỏ hoang
Y hệt như những thời kỳ xa xưa,
Hết ai còn nhớ
Ít chính trị hơn, so với bây giờ.

Wistawa Szymborska

Thơ Mỗi Ngày
 

The House

Do you still remember what the house was like?
The house-a pocket in a snowstorm's overcoat,
houses, low and bulging like Egyptian vowels.
Sheltered by green tongues of trees-
the most faithful was the linden, it shed
dry tears each fall.
Outmoded dresses dangled in the attic
like hanged men. Old letters flamed.
The old piano dozing in the parlor,
a hippo with black and yellow teeth.
On the wall a cross from a failed uprising
hung crookedly, and a photo
of a sad girl-a failed life.
The air smelled like vermouth,
bitter and sweet at once.
Houses, houses, where are you,
under what ocean, in what memory,
beneath the roof of what existence?
While the wind was opening windows, a deep blue
past sneaked into the rooms
and stifled the muslin curtains' breathing.
The fire was death's intended
and brought her bouquets of pale sparks.

Adam Zagajewski

Nhà

Bạn vưỡn nhớ nhà như thế nào chứ?
Nhà - một cái túi trong cái áo choàng là trận bão tuyết,
Những nhà, thấp, lồi ra, như những nguyên âm trong tiếng Ai Cập
Ðược che chở bởi những tàng lá xanh - trung thủy nhất là linden,
Mỗi thu thả xuống những giọt lệ khô.
Những chiếc áo dài cổ lỗ đong đưa trong căn gác xép
Như những tên treo cổ.
Những lá thư cũ cháy bừng bừng thành ngọn lửa.
Cây dương cầm ngủ gà gật nơi phòng khách,
Con hà mã với những chiếc răng trắng và vàng.
Trên trường vặn vẹo một cây thập tự, từ cuộc nổi dậy thất bại,
Một bức hình của 1 cô gái buồn - một cuộc đời thất bại.
Không khí có mùi vermouth,
Vừa đắng lại vừa ngọt.

Nhà, nhà, lũ mi ở đâu?
Dưới biển trời nào, trong hồi ức nào?
Dưới mái đời nào?

Trong khi gió mở toang những cửa sổ,
Một màu xanh sẫm tràn qua, chui vô những căn phòng
Bóp nghẹt hơi thở của những bức màn mỏng.
Lửa là hậu ý của thần chết
Với bó hoa lửa của nó.

FROM AN UNWRITTEN
THEORY OF DREAMS

In memory of Jean Améry

-Zbigniew Herbert

Từ một lý thuyết chưa được viết ra
 về những con mộng

Tưởng niệm Jean Améry

*

Par-delà le crime et le châtiment
Vượt quá tội ác và hình phạt

Torture, writes Améry, has "an indelible character". Whoever was tortured, stays tortured.
Sebald: Chống Lại Sự Không Thể Đảo Ngược: Về Jean Améry, trong Lịch sử tự nhiên về huỷ diệt
[Against the Irreversible. On Jean Améry. On the natural history of destruction, nhà xb Vintage Canada].

Améry viết, tra tấn có cái tính quái dị, không thể tẩy xoá đi được, là: Ai đã từng bị tra tấn, là suốt đời bị tra tấn.

Câu này, theo Gấu tôi, đọc [đảo] ngược lại, vẫn có nghĩa.
Rằng, kẻ tra tấn, là cứ thèm tra tấn suốt đời!

Jean Améry viết về Sầu Xa Xứ:

Cái sầu xa xứ thứ thiệt, le vrai mal du pays, le Hauptwehe, “nỗi nhức nhối số 1", “la douleur capitale”, nếu tôi được phép mượn từ của Thomas Mann, thì khác, cực khác về bản chất, so với những gì tôi viết ở trên, và nó chỉ ngưng, khi bạn chỉ còn bạn với bạn. Vào lúc đó, đếch có hát hỏng Thuyền Viễn Xứ cái con mẹ gì nữa, cũng chẳng có gợi nhớ những đồng ruộng Mít đã mất, và bạn cũng không vãi ra những giọt nước mắt đồng lõa. Sầu Xa Xứ thứ thiệt không phải là tự an ủi, mà là tự huỷ.
Le vrai mal du pays ce n’était pas l’autocompassion, mais l’autodestruction.

Cuốn của Jean Améry, là của 1 vị độc giả TV, tặng Gấu Cà Chớn, cũng lâu lắm rồi.
Tks. Take care

NQT

Moi, je traine le fardeau de la faute collective, dis-je, pas eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá tội ác và hình phạt, Par-delà le crime et le châtiment.

Gấu cũng có thể nói như thế:
Ta mang cái gánh nặng của Cái Ác Bắc Kít, đâu phải lũ Bắc Kít?

* 

Love - Vi Nguyễn 2013

chấm. phẩy

vẫn. cạnh bên em. một chấm. buồn
nghìn năm sao. mọc dáng. chơ vơ
chấm sao. nằm giữa nền đen. thẫm
như mắt ai. buồn lúc vẫy. tay
vẫn. cạnh bên em. dấu phẩy. khan
hai. bên hai nửa. đời thăm thẳm
tàu. rú hụt hơi. bến muộn. về
giọt nước. cắt ngang nước. mắt khan 

và.
hình hài. vỡ và. người về. ngự trị
những vô phương. nụ cười cháy. trên môi
và khánh. tận và hàn. thuyên đỗ. vãn
tiếng còi. nào hú vọng. tiếng quê. hương
và người. nhớ đêm vô cùng. trăng sao. vỡ
nụ cười. lăn trong góc. tối vô cùng

Đài Sử 


Charles Simic 

Let Us Be Careful

More could be said
of a dead fly
in the window
of a small shed,
and of an iron typewriter
that hasn't
lifted a key in years
both in delight
and dark despair.

 

Hãy để chúng ta cẩn thận

Nhiều điều có thể được nói,
về một con ruồi chết
ở cửa sổ
của một cái chuồng,
Và về một cái máy đánh chữ bằng sắt,
đã bao năm không nhắc 1 cái phím,
hoặc sướng điên lên,
hoặc âm u chán chường.

A MORNING IN VICENZA

In memoriam Joseph Brodsky, Krzysztof Kieslowski

The sun was so fragile, so young,
that we were a little scared; a careless move
might scratch it, just a shout-if anyone
had tried-might do it harm; only the rushing swifts,
with wings hard as cast-iron,
were free to sing out loud, because they'd spent their brief,
uneasy childhoods in clay nests
alongside siblings, small, mad planets,
black as forest berries.

In a small cafe the sleepy waiter-the night's last shadows
met beneath his eyes-searched for change
in his vast pocket, and the coffee smelled of solemn
printer's ink, of sweetness, Arabia. The sky's blue
promised a long afternoon, an endless day.
I saw you as if for the first time.
And even the Palladio columns seemed
newborn, they rose from waves of dawn
like Venus, your elder companion.

To start from scratch, to count the losses, count the dead,
to start a new day without the two of you, first you
whom we buried twice and lamented twice,
you lived two times as strongly as the rest, on two continents,
in two languages, in the world and in imagination-then you,
with your chiseled face, the gaze that amplified
objects and hearts (always too small).
You both are gone, and so from now we'll lead a double life,
at once in shadow and in light, in bright sunshine
and the cool of stony halls, in mourning and in joy.

Adam Zagajewski: Without End

Một buổi sáng ở Vicenza

Tưởng nhớ Joseph Brodsky, Krzysztof Kieslowski

Mặt trời mới mỏng manh làm sao
trẻ măng thế nào
khiến chúng ta sờ sợ; chỉ một cử động bất cẩn,
có thể làm xước nó, chỉ cần 1 tiếng la - nếu ai đó tính thử - đủ làm nó bị thương;
chỉ có những con én vội vã với cánh cứng như sắt, tha hồ hót ỏm tỏi,
bởi là vì đã trải qua tuổi thơ ngắn ngủi, khó khăn,
trong những cái tổ bằng đất nện, cùng với những chị em ruột của chúng,
những “mad planets”, đen, như dâu rừng.

Trong 1 tiệm cà phê nhỏ, người bồi ngái ngủ -
những cái bóng sau cùng của đêm đọng dưới mắt-
tìm tiền lẻ trong túi rộng thùng thình,
và cà phê có mùi mực của cái máy in trang trọng,
của sự ngọt ngào, Arabia. Bầu trời xanh hứa hẹn một buổi chiều dài,
một ngày không tận cùng.
Tôi nhìn thấy bạn lần đầu tiên.
Và ngay cả những cây cột Palladio hình như cũng mới sinh ra,
chúng từ sóng biển lúc rạng đông nhô lên, như Venus,
người bạn đường lớn tuổi của bạn. 

Khởi từ vết xước, đếm những mất mát, những người chết,
bắt đầu một ngày mới không có cả hai bạn,
thứ nhất, bạn, người mà chúng ta chôn cất hai lần và khóc hai lần,
Bạn, người sống hai thời, mạnh mẽ như đám còn lại, trên hai lục địa,
trong hai ngôn ngữ, trong thế giới và trong tưởng tượng –
và rồi thì tới bạn, với khuôn mặt sắc cạnh,
với cái nhìn làm hăm hở sự vật, và những trái tim [luôn luôn quá nhỏ].
Cả hai bạn thì đều đã đi xa, và kể từ bây giờ chúng ta sẽ “chơi”
một cuộc đời kép, liền lập tức,
trong bóng dâm và trong ánh sáng, trong ánh mặt trời rạng rỡ,
và trong cái mát lạnh của những sảnh đường bằng đá,
trong tưởng niệm và trong niềm vui.

đẹp xưa

Ngập ngừng mép núi quanh co,
Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang…
Vi vu gió hút nẻo vàng;
Một trời thu rộng mấy hàng cây cao. 

Dừng cương nghỉ ngựa non cao,
Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon...

Đi rồi, khuất ngựa sau non;
Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu...
Trơ vơ buồn lọt quán chiều,
Mái nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người

Note: Bài thơ này, sử dụng hệ thống tọa độ ba trục.
Trục hoành, thí dụ, thu rộng.
Trục tung: non cao
Trục thứ ba, là trục thời gian, và thời gian, như Brodsky phán:
Bao thơ tôi ít nhiều chi là về thời gian, về thời gian làm gì con người.

Những héo hon, lữ thứ, buồn theo hút người... là nói về "thời gian làm gì con người".

Cái tít "đẹp xưa" [đẹp cổ điển] là theo nghĩa đó.
NQT

Bài thơ trên Gấu chép lại từ tập Lửa Thiêng của nhà sách Sống Mới. Nhưng một độc giả TV cho biết mây nao mới đúng.
Trần Mạnh Hảo, trong bài viết về HC, ghi là mây nao.
Tks.  NQT

Cách giải thích bài thơ, như trên, là Gấu phịa ra, mượn ý niệm trục tọa độ, trong toán.

TMH viết:

Trong 50 bài "Lửa thiêng", chỉ có 8 bài thơ lục bát :" Buồn đêm mưa", " Trông lên", "Chiều xưa", "Đẹp xưa", " Thuyền đi", "Xuân ý ", "Thu rừng" và "Ngậm ngùi". Nhưng nếu không có 8 bài thơ lục bát này, "Lửa thiêng " dù có nhiều bài thất ngôn hay ví như "Tràng giang" thì cũng chưa thể làm nên một Huy Cận vượt thời gian như đã có. Nguyễn Du đại thiên tài lục bát, đã đưa nhịp sáu tám Việt Nam lên tới đỉnh mây trời nhân loại. Nguyễn Du từng ít nhiều ảnh hưởng lục bát ca dao, ảnh hưởng lục bát của Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều để làm ra hàng nghìn câu thiên thu tuyệt diệu riêng mình. Thấm đẫm hồn thơ cha ông, Huy Cận đã hiện đại hóa câu thơ sáu tám Việt Nam. Ông như người kế thừa trung thành của phả hệ lục bát Nguyễn Du rồi phát triển nó về u tịch. Đọc thơ lục bát Huy Cận, cơ hồ như hồn Nguyễn Du phảng phất đâu đây, như thể bút thần xưa được hậu thế cầm lên viết tiếp, như bài " Đẹp xưa": 

"Ngập ngừng mép núi quanh co
Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang...
Vi vu gió hút nẻo vàng
Một trời thu rộng mấy hàng mây nao 

Dừng cương nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon

Đi rồi khuất ngựa sau non
Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu
Trơ vơ buồn lọt quán chiều
Mái nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người..."

Câu thơ "Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang" trên của Huy Cận làm ta nhớ đến "Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia "của Tố Như xưa. Huy Cận lấy hồn muôn năm trước mà hiện đại hóa câu thơ lục bát bây giờ, như gió xưa vàng đẫm lá thu nay :" Vi vu gió hút nẻo vàng ". Ngọn gió Huy Cận mặc áo vàng nghìn thu mà hun hút, mà nghiêng nghiêng mái chữ, mái-hiên-người, cũng là mái thơ :" Mái nghiêng nghiêng gởi buồn theo hút người". Cũng như bài "Đẹp xưa", bài lục bát "Buồn đêm mưa" và bài "Chiều xưa" hay đến từng câu từng chữ. Cái buồn Huy Cận nơi đây đẹp đến rụng rời, đẹp đến ngơ ngác, hoang vu.
*

Trần Mạnh Hảo là một nhà thơ, nhưng khi ông viết phê bình, qua những dòng trên, về Huy Cận, thì có vẻ cũng 1 thứ phê bình tán phó mát, rông rài với mớ chữ.
Thí dụ nhận xét này của ông: Thấm đẫm hồn thơ cha ông, Huy Cận đã hiện đại hóa câu thơ sáu tám Việt Nam.

Hiện đại hóa, như thế nào, ông không giải thích. 

Lấy thí dụ, với Cung Trầm Tưởng, và dòng lục bát, mà Gấu nhớ lõm bõm:

Tháng Giêng buốt sẻ đôi đằng
nửa chì mưa đục, nửa băng giá hồn

Tuyệt cú!

Trước, đâu có ai làm lục bát như thế?

Bảo Huy Cận “hiện đại hóa lục bát”, Gấu sợ nói ngược, HC làm cho nó cổ mãi ra, trở thành sầu thiên cổ, sầu vạn cổ, thí dụ hình ảnh sau đây, mà chẳng là đẩy cái hiện tại về tới ngàn xưa:

Đồn xa quằn quại bóng cờ,
Phất phơ buồn tự thuở xưa thổi về.

Bởi vậy mà Hoài Thanh – Hoài Chân, từ Mars, 1941, đã phán về ông:

Có người sẽ bảo thơ Huy Cận già… Tôi thấy thơ Huy Cận trẻ lắm.

Chỉ hai từ trẻ/già này đủ nói lên cõi thơ HC, nhất là với những bài lục bát của ông.
Gấu sẽ lèm thêm, về cặp già/trẻ, hay, hiện đại/cổ điển.

Cẩn. NQT

Note: Cái này là vinh danh ông bố, chờ VC làm thịt ông con! NQT



**

Xuống phố, đổi phim, ghé tiệm sách, bệ cuốn thơ Thiền. Tác giả là đệ tử của Thích Nhất Hạnh.
 Đọc loáng thoáng, trên đường về, thì có ý nghĩ, bài thơ Thiền hay nhất, và có lẽ độc nhất, là bài được đưa ra bìa sau:

Tiếng Hét

Bút cùng mực cạn
Giấy vẫn trắng tinh
Thơ không chỗ viết
Tiếng hét vang trời
Sông núi vẫn bình yên

1993

Ghi chú của tác giả:
Tiếng hét đây là tiếng hét vui mừng khi một người chợt nhận ra niềm vui của cuộc đời vẫn còn đó, và sự sống tự do của tâm linh vẫn còn đó.

Bản tiếng Anh:

Shout
Plume worn down, ink empty,
Paper is still blank,
Poems written nowhere.
Shout reached the sky,
Rivers, mountains remain calm.


Czesław Miłosz: Intelligence and Ecstasy

In honor of the birthday of Czesław Miłosz (born in Lithuania on June 30, 1911; died in Kraków on August 14, 2004) we present a selection of his work from the Review’s archives.

Miłosz defected from Poland to the West in 1951, living in France at first and moving in 1960 to the United States. In 1980 he was awarded the Nobel Prize in Literature. In a 2004 essay, Adam Zagajewski praised the bravery and scope of his work: “Lesser talents develop a snail-like tendency to take refuge in a hut, a shell, to escape contrary winds, contrary ideas, to create miniatures. As both a poet and a thinker, though, Miłosz courageously takes the field to test himself against his foes, as if he’d told himself, I’ll survive this age only by absorbing it.”

Tờ NYRB vinh danh Milosz nhân sinh nhật ông, viện dẫn Adam Zagajewski:
Tài năng tẹp nhẹp bắt chước con sên chui vô vỏ, tránh bão tố, tạo ba thứ tủn mủn. Như cả hai - nhà thơ và nhà  tư tưởng - Milosz can đảm xung trận để thử nghiệm chính mình trước kẻ thù, như tự bảo chính mình, ta sẽ sống sót thời đại này chỉ bằng cách nuốt trọn nó.

Tưởng Niệm Czeslaw Milosz [1911-2004]

Trí Tuệ và Những Bông Hồng
Adam Zagajewski

Ông là nhà thơ của thông minh lớn và tuyệt cảm lớn [a poet of ‘great intelligence and great ecstasy’]; thơ của ông sẽ không thể sống sót nếu thiếu hai món này. Thiếu thông minh, là sẽ rớt vào trò cãi tay đôi với một trong những đối thủ này nọ, rồi cứ thế mà tủn mủn, tàn tạ đi [bởi vì, những con quỉ của thế kỷ 20 này, chúng đâu có thiếu khả năng biện chứng, chẳng những thế, chúng còn tự hào về những “biện chứng pháp” duy này duy nọ…]. Thiếu tuyệt cảm, làm sao vươn tới được những ngọn đỉnh trời? Thiếu nó, là sẽ chỉ suốt đời làm một anh ký giả tuyệt vời! Ông tự gọi mình là một tay bi quan tuyệt cảm [ecstatic pessimist], nhưng chúng ta cũng sẽ vấp vào những hòn đảo nho nhỏ của sự tuyệt cảm mà Bergson coi đây là dấu hiệu khi chạm tới được một sự thực nội tại.

Vào thời đại của Beckett, một nhà văn lớn lao, dí dỏm, và cũng rất ư là sầu muộn, Milosz bảo vệ chiều hướng tông giáo của kinh nghiệm của chúng ta, bảo vệ quyền được vuơn tới cõi vô cùng của chúng ta. Bức điện tín của Nietzsche, thông báo cho những con người ở Âu Châu, rằng Thượng Đế đã chết, bức điện đã tới tay Milosz, nhưng ông không từ chối ký nhận, và cứ thế gửi trả cho người gửi.


*

Czeslaw Milosz

The Nobel Prize in Literature 1980 was awarded to Czeslaw Milosz "who with uncompromising clear-sightedness voices man's exposed condition in a world of severe conflicts".

Giải Nobel văn chương 1980 được trao cho Czeslaw Milosz “người mà, bằng cái nhìn rạch ròi, cương quyết, không khoan nhượng, gióng lên phận người bày ra đấy, trong một thế giới với những mâu thuẫn gay go, khốc liệt”.

Một trong những người được Noebel mà tôi đọc khi còn là 1 đứa con nít đã ảnh hưởng đậm lên tôi, tới cả những quan niệm về thơ ca. Ðó là Selma Lagerlöf. Cuốn sách thần kỳ của bà, Cuộc phiêu lưu trên lưng ngỗng mà tôi thật mê, đã đặt anh cu Nils vào một vai kép. Anh cu Nils bay trên lưng ngỗng nhìn Trái Ðất như từ bên trên, và cùng lúc, trong mọi chi tiết. Cái nhìn kép này có thể là 1 ẩn dụ về thiên hướng của nhà thơ. Tôi tìm thấy 1 ẩn dụ tương tự ở trong một ode La Tinh, của nhà thơ thế kỷ 17, Maciej Sarbiewski, người được cả Âu Châu biết dưới bút hiệu Casimire. Ông dạy thơ ở đại học của tôi. Trong 1 bài ode, ông miêu tả cuộc du lịch của mình - ở trên lưng Pegasus, từ Vilno tới Antwerp, thăm bạn thơ của ông. Như Nils Holgersson, ông ôm bên dưới ông, sông, hồ, rừng, nghĩa là 1 cái bản đồ, vừa xa nhưng lại vừa cụ thể.
Như thế, thì đây là hai bí kíp của nhà thơ:
đói nhìn và đói, ham muốn miêu tả cái nhìn thấy. Tuy nhiên, kẻ nào coi thơ ca là “nhìn và miêu tả”, thì phải coi chừng, vì thể nào cũng có lần cãi lộn với...  Thầy Kuốc, người vỗ ngực xưng tên là “Hiện Ðại”, “Cái Mới”, và thể nào cũng mụ người, trở thành cù lần vì muôn vàn lý thuyết về 1 ngôn ngữ thi ca đặc dị.

Simone Weil mà tôi mang nợ rất nhiều những bài viết của bà, nói: “Khoảng cách là linh hồn của cái đẹp”. Tuy nhiên, đôi khi giữ được khoảng cách là 1 điều bất khả. Tôi là Ðứa bé của Âu châu, như cái tít của 1 trong những bài thơ của tôi thừa nhận, nhưng đó là 1 thừa nhận cay đắng, mỉa mai. Tôi còn là tác giả của một cuốn sách tự thuật mà bản dịch tiếng Tây có cái tít Một Âu châu khác. Không nghi ngờ chi, có tới hai Âu châu, và chuyện xẩy ra là, chúng tôi, cư dân của một Âu châu thứ nhì, bị số phận ra lệnh, phải lặn xuống “trái tim của bóng đen của Thế Kỷ 20”. Tôi sẽ chẳng biết nói thế nào về thơ ca, tổng quát. Tôi phải nói về thơ ca và cuộc đụng độ, hội ngộ, đối đầu, gặp gỡ… của nó, với một số hoàn cảnh kỳ cục, quái dị, về thời gian và nơi chốn…

Czeslaw Milosz

Chính là nhờ đọc đoạn trên đây, mà Gấu “ngộ” ra thời gian đi tù VC của Gấu là quãng đời đẹp nhất, và “khoảng cách là linh hồn của cái đẹp”, cái đẹp ở đây là của những bản nhạc sến mà Gấu chỉ còn có nó để mang theo vô tù.

Cái câu phán hãnh diện của Gấu, linh hồn văn chương Miền Nam trước 1975 ở trong những bản nhạc sến, nhờ đọc đoạn trên mà có được!

Trại Tù VC: Hoàn cảnh kỳ cục, quái dị về thời gian và nơi chốn,
ở nơi đó,
nhạc sến được cất lên:
sao không hát cho những người vừa nằm xuống chiều qua?
và, đâu cần một dạng hoàn hảo nào cho thơ.
Milosz

Let Us Be Careful

More could be said
of a dead fly
in the window
of a small shed,
and of an iron typewriter
that hasn't
lifted a key in years
both in delight
and dark despair.

Merrymakers

A troop of late night revellers,
most likely shown the door
at some after-hours club
or a party in theneighbourhood,
still whooping it up
as they stagger down the street
with a girl in a wedding dress
walking pigeon-toed far behind them,
and calling out in distress:
'Hey, you! Where the fuck
do you think you're going?'

Passing Through

An unidentified,
inconspicuous someone,
smaller than a flea
snuck over my pillow last night,
unbothered by me,
in a big rush", I bet,
to get to his church
and thank his saints.

In Its Own Sweet Time

That one remaining, barely moving leaf
The wind couldn't get to fall
All winter long from a bare tree -
That's me! Thinks the old fellow,

The one they roll out in a wheelchair
So that he can watch the children
Play in the park, their mothers
Gossip all day about their neighbours

While pigeons take turns landing
And taking off from a newly arrived hearse
Parked in front of the parish church,
Dragging his gaze along as they do.

LRB [London Review of Books] May 9 2013

Thơ Mỗi Ngày

Ten Poems by Patrizia Cavalli

 

You sit at the head of the table
heady with wine,
and hold forth,
made proud by my tears.
But I'm the one who's crying
and I won't move.
So you get up, be useful,
pick up the plates!

- Translated .from the Italian by Mark Strand with Gini Alhadeff

Em ngồi ở đầu bàn,
nặng đầu vì rượu vang
Đưa đầu về phía trước
Rất ư hãnh diện vì những giọt nước mắt của Gấu.
Thì đúng thế đấy.
Bởi vì Gấu đang nước mắt ngắn, dài
[Già rồi mà còn khóc, không sợ lũ con nít chúng cười cho sao?]
Nhưng Gấu cứ ngồi lỳ
Thế là em đành đứng dậy dọn chén dĩa!

Very simple love that believes in words,
since I cannot do what I want to do,
can neither hug nor kiss you,
my pleasure lies in my words
and when I can I speak to you of love.
So, sitting with a drink in front of me,
the place filled with people,
if your forehead quickly creases
in the heat of the moment I speak too loudly
and you never say don't be so loud,
let them think whatever they want
I draw closer melting with languor
and your eyes are so sweetly veiled
I don't reach for you, no, not even the softest touch
but in your body I feel I am swimming,
and the couch in the bar's lounge
when we get up looks like an unmade bed.

- Translated from the Italian by J D. McClatchy

The Paris Review Summer 2013

Thật đơn giản là thứ tình tin vào lời,
Kể từ khi mà anh không thể làm điều anh muốn làm
Không thể ôm, hoặc hôn em, một hay nhiều phát
nỗi hoan lạc của anh thì đành nằm trong những từ của anh
và khi anh có thể, anh nói với em về tình yêu.
Và thế là, ngồi với 1 cái ly trước mặt
ở một nơi đầy những người,
nếu trán em lẹ làng nhăn
trong cái nóng của khoảnh khắc anh nói thật là lớn
và em chẳng bao giờ nói đừng nói lớn như thế
Cứ kệ mẹ họ nghĩ bất cứ
gì họ muốn
Tôi sát tới gần, tan vào sự yên lặng nặng nề
Và mắt em thì mới ướt át, mọng mị, ngọt ngào làm sao
Không, anh không tính với tới em
Không, không, ngay cả 1 cái đụng chạm thật nhẹ
Nhưng cơ thể em, anh cảm thấy mình đang bơi lội trong đó,
Và cái ghế dài nơi quán ba,
Khi chúng ta đứng dậy, thì chẳng khác gì cái một giường bừa bãi.

CHARLES SIMIC

Eternities

A child lifted in his mother's arms to see a parade
And that old man throwing breadcrumbs

To the pigeons crowding around his feet in the park,
Could they be the same person?

The blind woman who may know the answer recalls
Seeing a ship as big as a city block

Glide one night all lit up past her kitchen window
On its way to the dark and stormy Atlantic.

Granta: Summer 2013: Travel

Vĩnh Cửu

Đứa bé níu tay mẹ, cố ngước nhìn đám rước ngày 30 Tháng Tư 1975
Ba muơi năm mới có ngày hôm nay
Vui sao nước mắt lại trào.
Và cái tay già khằn, vừa lùn vừa lé, đang ném những mẩu bánh mì cho đàn bồ câu
quanh quẩn dưới chân anh già ở 1 công viên Toronto, Canada
Phải chăng là cùng 1 người?

Người đàn bà mù có thể có câu trả lời
Nhớ lại
Đã có 1 lần nhìn thấy 1 con tầu to bằng cả 1 góc biển Đông,
Chạy suốt mảnh đất hình chữ S
Đưa bà và hai đứa con đến bến cảng Xề Gòn
Trong 1 đêm tối thui, bão tố đầy trời.

MUTE CITY

Imagine a dark city.
It understands nothing. Silence reigns.
And in the quiet bats like Ionian philosophers
make sudden, radical decisions in mid-flight,
filling us with admiration.
Mute city. Blanketed in clouds.
Nothing is known yet. Nothing.
Sharp lightning cleaves the night.
Priests, Catholic and Orthodox alike, rush to shroud
their windows in deep blue velvet,
but we go out
to hear the rain's rustle
and the dawn. Dawn always tells us something,
always.

Adam Zagajewski: Unseen Hand

Thành phố câm

Tưởng tượng một thành phố tối
Nó không hiểu cái chó gì. Im lặng ngự trị
Và trong trầm lắng, những chú rơi, như những triết gia Ionian,
làm những cú quyết định bất thần, cơ bản, giữa đường bay,
khiến chúng ta tràn đầy cảm phục.

Thành phố câm. Trùm mền trong những đám mây.
Chưa biết cái chó gì hết. Chưa.
Ánh sáng sắc bén chẻ đêm .
Thầy tu, Ky Tô và Chính Thống giáo như nhau,
chạy vội che cửa sổ bằng 1 lớp màn nhung xanh đậm, thật đậm,
nhưng chúng ta bèn đi ra bên ngoài
để nghe tiếng rì rào của mưa
và rạng đông. Rạng đông luôn nói với chúng ta một điều gì đó,
luôn luôn là vậy.

A MORNING IN VICENZA

In memoriam Joseph Brodsky, Krzysztof Kieslowski

The sun was so fragile, so young,
that we were a little scared; a careless move
might scratch it, just a shout-if anyone
had tried-might do it harm; only the rushing swifts,
with wings hard as cast-iron,
were free to sing out loud, because they'd spent their brief,
uneasy childhoods in clay nests
alongside siblings, small, mad planets,
black as forest berries.

In a small cafe the sleepy waiter-the night's last shadows
met beneath his eyes-searched for change
in his vast pocket, and the coffee smelled of solemn
printer's ink, of sweetness, Arabia. The sky's blue
promised a long afternoon, an endless day.
I saw you as if for the first time.
And even the Palladio columns seemed
newborn, they rose from waves of dawn
like Venus, your elder companion.

To start from scratch, to count the losses, count the dead,
to start a new day without the two of you, first you
whom we buried twice and lamented twice,
you lived two times as strongly as the rest, on two continents,
in two languages, in the world and in imagination-then you,
with your chiseled face, the gaze that amplified
objects and hearts (always too small).
You both are gone, and so from now we'll lead a double life,
at once in shadow and in light, in bright sunshine
and the cool of stony halls, in mourning and in joy.

Adam Zagajewski: Without End

*

*

Two Dogs

by Charles Simic
for Charles and Holly

An old dog afraid of his own shadow
In some Southern town.
The story told me by a woman going blind,
One fine summer evening
As shadows were creeping
Out of the New Hampshire woods,
A long street with just a worried dog
And a couple of dusty chickens,
And all that sun beating down
In that nameless Southern town. 

It made me remember the Germans marching
Past our house in 1944.
The way everybody stood on the sidewalk
Watching them out of the corner of the eye,
The earth trembling, death going by . . .

A little white dog ran into the street
And got entangled with the soldier’s feet.
A kick made him fly as if he had wings.
That’s what I keep seeing!
Night coming down. A dog with wings.

Hai Con Chó

Một con chó già sợ cái bóng của chính nó
Trong 1 thành phố Nam Kít nào đó
Chuyện này tôi nghe qua một bà sắp mù
Vào một buổi chiều tuyệt vời mùa hạ
Khi bóng tối
từ những cánh rừng Sát
Bò ra
Con phố dài Hồng Thập Tự
Với chú chó già rầu rĩ
Và cặp gà bụi bặm
Và cả mặt trời đổ xuống
Một thành phố mất tên Nam Kít

Nó làm tôi nhớ buổi 30 Tháng Tư 1975
Ðám VC Bắc Kít diễu hành qua căn nhà của tôi
Người dân đứng bên lề nhìn chúng bằng một góc con mắt
Mặt đất rung chuyển, và cái chết thì lờ vờ quanh đó..
Một con chó trắng nhỏ chạy ra đường
Làm quẩn chân đám nón cối
Và 1 cú đá làm con chó bay lên trời
Như thể nó có cánh
Ðó là điều mà tôi đã nhìn thấy, và vẫn còn nhìn thấy!
Ðêm xuống thành phố mất tên
Một con chó có cánh.