|
Chúc
Mừng Năm Mới 2011
Đón
Tuyết & Tết & Bão
Thơ mỗi ngày
A Few
Memories
Shu Ting
A wine cup
knocked over
Stone paths
float in moonlight
On green
grass, pressed down
A lost red mountain flower
Eucalyptus
trees turn
Crowded
stars kaleidoscope
By the rusty
iron anchor
Eyes reflect
a dizzy sky
A book
raised to block off candlelight
Fingers held
gently between lips
In thin
crisp silence
Dreams are
half-awake
Translated
by Luo Hui, with Zheng Danyi and Martin Alexander
Vài kỷ niệm
Ly rượu đổ
Lối sỏi bập
bềnh dưới ánh trăng
Trên cỏ
xanh, bông hoa núi mầu đỏ đánh mất,
bị nghiền nát
Rừng bạch đàn
biến
sao trời chen chúc
thành kính vạn hoa
Bên chiếc
neo sắt rỉ
Mắt phản chiếu
bầu trời loạng quạng
Cuốn sách
nâng lên che ánh nến
Ngón tay nhẹ hờ trên môi
Trong nỗi lặng ròn, mỏng
Mộng chập chờn
*
One
Generation
Gu Cheng
Black night
gave me black eyes
But I use
them to search for brightness
Translated
by Luo Hui
Một
thế hệ
Đêm đen cho
tôi mắt đen
Tôi dùng
chúng để tìm ánh sáng
ASIA
LITERARY REVIEW, Winter 2010
*
LEOPOLD
STAFF 1878-1957
This poem
was written immediately after World War II. in Poland, among the ruins,
of
which those in the figurative sense were even more oppressive than the
physical
ones. There was literally nothing. How could a poet react to that
situation ?
What was left was to do what a child does, who when trying to draw a
house
often starts with the smoke from the chimney, then draws a chimney, and
then
the rest. So this is a poem of naked faith.
FOUNDATIONS
I built on
the sand
And it
tumbled down,
I built on a
rock
And it
tumbled down.
Now when I
build, I shall begin
With the
smoke from the chimney.
Translated
from the Polish by Czeslaw Milosz
Bài thơ này
được viết liền tù tì sau Đệ Nhị Chiến, ở Ba Lan, giữa những điêu tàn,
từ đó bật
ra điều này: cái cảm quan mang tính biểu tượng lại tỏ ra hung hăng hơn,
so với cảm
quan vật chất.
Chẳng còn gì hết, đúng là như thế, cái lai quần của Chị Út Tịch cũng
chẳng còn!
Nhà thơ phản
ứng ra sao trước tình cảnh đó?
Cái còn lại
để làm là cái mà đứa bé làm: nó vẽ 1 căn nhà, và thường bắt đầu bằng tí
khói
bay ra từ ống khói, rồi tới ống khói, và sau đó, tiếp tục phần còn
lại.
Như vậy, bài
thơ là 1 niềm tin trần trụi.
Có thể Bác H.
đã hình dung ra căn nhà này, khi sắp đi xa, và di chúc lại cho dân Mít:
Thắng
trận giặc này, Mít ta sẽ cây nhà Mít to bằng trăm ngàn lần nhà cũ!
Bằng
khói!
Khói gì?
Khói thuốc!
Lâu rồi, GNV đọc 1 cái phóng sự về dân ghiền
ở trong nước, tay ký giả cho biết,
bài hát, đúng hơn, câu hát mà họ cực mê là "một làn khói trắng ru đời
vào
quên lãng…".
Lần
đầu tiên Gấu nghe bản nhạc này, “Bài không tên số 7”, là ở nông
trường cải tạo
Đỗ Hòa.
Khi đọc bài phóng sự, Gấu mới thấm: Cú độc của VC, sử dụng ma túy đánh
Mỹ Ngụy, bây giờ mới cho thấy hậu quả của nó [cái gì gì, second-hand
effect, gậy
ông đập lưng ông?]
Một trong những lý do Mẽo rút khỏi Miền Nam, là GI lậm nặng
ma túy.
Xây Nhà
Tôi xây nhà
trên cát
Sụp
Tôi xây nhà
trên cục đá
Sụp
Thế là bây
giờ, bắt đầu từ đầu,
tôi sẽ xây
nhà bằng tí khói từ ống khói
Hoặc là Thượng
Đế thần thông, và, đếch ra cái chó gì, nhìn từ cái thế giới mà ông ta
tạo ra.
Đúng
là 1 Lão Tặc Thiên!
Hoặc là Thượng
Đế thì OK, và thế giới bị tuột ra khỏi tay của ông ta, và nếu như thế,
ông ta đâu
có thần thông chó gì!
Trường phái
Epicurus
[Czeslaw
Milosz trích dẫn]
Liệu tôi có
thể nói với họ: làm đếch gì có Địa Ngục,
một khi mà họ
học được từ trái đất, Địa Ngục là cái đó đó?
You who
were born this night
To tear us from the Devil’s might
-
TRADITIONAL POLISH CAROL
Đấng sinh
ra đêm nay
Để kéo chúng ta ra khỏi quyền năng của Quỉ
Đồng dao Ba Lan
[Czeslaw Milosz trích dẫn]
Whoever
considers as normal the
order of things in which the strong triumph,
and the weak fail, and life ends with death,
accepts the devil's rule
Kẻ nào coi ‘cái xứ mình nó
thế’, tức, coi trật tự sự vật, theo đó, kẻ
mạnh
thì thắng,
kẻ yếu thì thua, và đời thì chấm dứt bằng cái chết, kẻ đó chấp nhận
luật của Quỉ.
Czeslaw Milosz
Purification
by pain
The
masochism tango
Religion got
it right: pain seems to assuage guilt
CATHOLIC
theology says that heaven awaits the pure of heart while hell is
reserved for
unrepentant sinners. For the sinful but penitent middle, however, there
is the
option of purgatory-a bit of fiery cleansing before they are admitted
to eternal
bliss. Nor is inflicting pain to achieve purification restricted to the
afterlife. Self-flagellation is reckoned by many here on Earth to be,
literally, good for the soul.
Surprisingly,
the idea that experiencing pain reduces feelings of guilt has never
been put to
a proper scientific test. To try to correct that, Brock Bastian of the
University
of Queensland, in Australia, recruited a group of undergraduates for
what he
told them was a study of mental acuity. At the start of the study, 39
of the participants
were asked to write, for 15 minutes, about a time when they had behaved
unethically.
This sort of exercise is an established way of priming people with
feelings associated
with the subject written about. As a control, the other 23 wrote about
an everyday
interaction that they had had with someone the day before.
After the
writing, all 62 participants completed a questionnaire on how they felt
at that
specific moment. This measured, among other things, feelings of guilt
on a
scale from one (very slightly guilty or not at all) to five (extremely
guilty).
Participants
were then told they were needed to help out with a different
experiment,
associated with physical acuity. The 23 who had written about everyday
interactions
and 20 of the 39 who had written about behaving unethically were asked
to
submerge their non-dominant hand (i.e., left, if they were
right-handed, and
vice versa) into a bucket of ice for as long as they could. The
remaining 19
were asked to submerge their non-dominant hand into a bucket of warm
water for
90 seconds, while moving paper clips one at a time between two boxes,
to keep
up the illusion of the task being related to physical capabilities.
That done,
participants were presented with the same series of questions again,
and asked
to answer them a second time. Then, before they left, they were asked
to rate
on a scale of zero (no hurt) to five (hurts worst) how much pain they
experienced
in the warm water and the ice. Dr. Bastian reports in Psychological
Science
that those who wrote about immoral behavior exposed themselves to the
ice for
an average of 86.7 seconds whereas those who had written about everyday
experiences
exposed themselves for an average of only 64-4. The guilty, then,
either sought
pain out or were inured to it. That they sought it out is suggested by
the pain
ratings people reported. Those who had written about immoral behavior
rated the
ice-bucket experience at an average of 2.8 on the pain scale. The
others rated
it at 1.9. (Warm water was rated 0.1 by those who experienced it.)
Furthermore,
the pain was, indeed, cathartic. Those who had been primed to feel
guilty and
who were subjected to the ice bucket showed initial and follow-up guilt
scores
averaging 2.5 and 1.1 respectively. By contrast, the "non-guilty"
participants who had been subjected to the ice bucket showed scores
averaging
1.3 and 1.2 -almost no difference, and almost identical to the
post-catharsis
scores of the "guilty". The third group, the guilt-primed participants
who had been exposed to the warm bucket and paper clips, showed scores
averaging
2.2 and 1.5. That was a drop, but not to the guilt-free level enjoyed
by those
who had undergone trial by ice.
Guilt, then,
seems to behave in the laboratory as theologians have long claimed it
should.
It has a powerful effect on willingness to tolerate pain. And it can be
assuaged
by such pain. Atonement hurts. But it seems to work-on Earth at least. •
Note: Bài
này thú vị thực. Brodsky không tin chân lý, nhà văn phải đau khổ
mới có
tác phẩm lớn, nhưng đau khổ quả là liều thuốc thanh tẩy tâm hồn.
Thảo nào VC
bắt Ngụy phục hồi nhân phẩm qua Lò Cải Tạo!
Kẻ Lạ Lạ
Người đầu tiên
giới thiệu LD với độc giả Mít, "hình như" là GNV, qua bài viết về "Vu
Khống", trên mục Tạp Ghi của báo Văn Học, của NMG, thời gian 1997, có
thể, khi bản
tiếng Anh ra lò, trên tờ TLS.
Báo này không ưa Tây, và tất nhiên, chẳng
ưa
Linda Lê, và, qua bài báo, như Gấu còn nhớ được, coi bà là đệ tử của
Cioran, và đặt
bài viết dưới 1 cái tít rất ư là khốn nạn, Dẫn Khách Cho Văn
Chương! (1)
(1)
Pimping
for literature SLANDER By Linda Le Translated by
Esther Allen
156pp. Lincoln...influences on the Vietnamese-born writer, Linda
Le,
and these same terms abound in Le...well: habituation and
memory
loss." Linda Le has said...
Jean McNeil
14 February 1997
Cái đám bợ đít
VC ở Tây này chưa từng nhắc tới Bà, cho đến khi Bà trở về Việt Nam, bởi
vì những
tác phẩm của Bà đều nói về cái sự ăn cướp của VC cả!
Tôi mang
trong mình 1 cái xác chết của 1 đứa bé Mít, thí dụ.
Nhưng thôi,
kể ra thì chúng lại chửi là mi lúc nào cũng tự khoe, tự thổi!
TV đăng bài
nói chuyện, cùng bản dịch của Dương Tường, và nếu có thì giờ, lèm bèm
sau!
Tuy nhiên,
cái tít bài viết, ÉTRANGES ÉTRANGERS, dịch NHỮNG KẺ XA LẠ LẠ KÌ, theo
GNV, dở.
Cái tít này, 'có thể' muốn nhắc tới “Kẻ Xa Lạ” của Camus, và nếu đúng
như thế,
tới cái cú bắn 4 phát vào cái thây ma tên Ả Rập.
Có lẽ nên dịch là “Kẻ Lạ Lạ”,
chẳng cần để số nhiều, để vinh danh LD.
Nhân nói
chuyện hửi. Trang Diễn Đàn Forum của đám tinh anh Miền Nam bỏ chạy bợ
đít VC, đại
bản doanh Paris, lâu lắm, GNV không làm sao vô được, vì mỗi lần vô, là
hệ thống
bảo vệ PC cản lại. Bỗng hai bữa nay, nó lại OK. Nhân đó, được đọc bài
Dương
Tường dịch Linda Lê, trong có từ ‘exotique’, ông dịch là ‘nhu cầu ngoại
lai’,
và chú thích thêm, lòng dòng lắm, đại khái, từ điển Mít chưa có từ nào
dịch đúng
từ này.
GNV đã từng
dịch từ exotique, trong bài viết đầu tiên đầu quân xung phong cắp rổ
theo hầu SCN, ở
Chợ Cá Berlin, là hương xa cỏ lạ, nói nôm na, [thèm hít
hửi] mùi lạ. Với Mít,
là thèm mùi đầm, với mũi lõ, thì là thèm mùi Mít.
Bởi thế mà Yiyun Li mới cảnh
cáo đám độc giả mũi lõ, Tôi đâu có ý định thỏa mãn
sự tò mò của mọi người về một cái
mùi lạ của một cô Xẩm ['I'm not going to satisfy
people's
curiosity about exotic China’]
Thấy có lá
thư của Trần Văn Thuỷ, v/v Nếu Đi
Hết Biển. Tay này viết kiểu huề vốn,
cả
sách, cả thư, do khôn quá. Mấy cuốn phim nổi đình nổi đám của anh ta,
cũng thế,
toàn thứ gãi ngứa chế độ, và gãi ngứa dân Mít, bên nào cũng đỡ ngứa 1
tí ti.
Cả cái
thư chỉ có 1 câu nghe được:
Bất giác trong tôi, mơ hồ
một mặc cảm
tội lỗi…
Mơ hồ cái
con khỉ!
Tình cảnh nước
Mít bây giờ, theo GNV, vượt quá sự hiểu biết, và can đảm, tất nhiên,
của đám này rồi.
Vượt quá
cả trò
giả đò mơ mơ hồ hồ mặc cảm này rồi.
Trên TV cũng
có 1 loạt bài về cuốn sách của anh ta, GNV được HKP tặng, lần ghé Tiểu
Sài Gòn.
Nếu
đi hết biển
Lần viếng
thăm Tiểu Sài Gòn mới đây, ghé Người Việt gửi anh em tòa soạn cuốn sách
mới ra
lò, tôi gặp lại HKP. Anh đưa tôi ghé thăm nhà anh, căn nhà được miêu tả
trong Nếu
Đi Hết Biển, qua bài phỏng vấn HKP của Trần Văn Thuỷ. Anh nói, những
lần tới, cứ
tự nhiên coi như nhà của Gấu. Nhân tiện, anh rút trên giá sách cuốn Nếu
Đi Hết
Biển.
-Nếu ông thực
tình muốn viết về 'nó', thì ít ra cũng phải đọc hết cuốn sách.
***
Thú thực,
tôi ít khi có ý định, "thực tình" viết về, bất cứ một cuốn sách. Bất
cứ một điều gì.
Những bài viết
của tôi, đa phần là tản mạn, manh mún, và đều ở dạng "chưa hoàn tất".
Một lần, PTH tỏ ý thích một bài của tôi trên tanvien.net, tôi ngần
ngại, nói,
bài chưa viết xong.
Bà "quạt"
lại liền:
- Anh chỉ
cho tôi một bài viết nào của anh, mà coi như là đã hoàn tất?
Thường ra,
tôi "tạm ngưng" một bài viết,
khi nghĩ rằng, đoạn kết, hay câu kết của bài viết đó, mở ra bài viết
mới, tiếp
theo sau. Nói một cách khác, mỗi bài viết
mới nào đó của tôi, là một tiếp tục một bài viết chưa hoàn tất nào đó.
Lần viết bài
cho PTH [một bài về NHT], tôi không thể nào "tạm ngưng" nổi bài viết,
và cứ thế liên tục gửi những revised texts, đến nỗi PTH thương hại,
nói, anh cứ
chấm dứt đại nó đi, tại làm sao mà làm khổ mình như vậy.
Còn NMG, chủ
báo VH, có lần nói, tôi ưa "cầu toàn", chẳng bao giờ hài lòng với một
bài viết.
Chỉ tới khi,
tôi mường tượng ra được, lý do tại làm sao, sau Tướng Về Hưu, Nguyễn
Huy Thiệp
gần như ngưng viết...
Chính vì thế,
bài trên net, một trang net của riêng mình, là một hình thức viết phải
nói là
tuyệt hảo cho tôi.
Bất cứ lúc
nào, cũng có thể lôi xuống, sửa lại, rồi lại post tiếp.
Trở lại với
bài viết cho PTH. Đó là bài viết 'Mỗi trường hợp mỗi khác", viết về ba
nhà
văn miền bắc, là Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, và Phạm Thị Hoài.
Tôi nhìn
ra được, khi viết Tướng Về Hưu, Thiệp muốn gửi vào nhân vật này, ý thức
tự vấn
của một miền đất, sau những lầm lẫn của nó. Để viết, phải có một quãng
cách với
thời đại của mình, và đó là những năm tháng cô đơn của NHT ở miền núi,
mà kết
quả trước, là Những Ngọn Gió Hu Tát., và sau, là Tướng Về Hưu, một thứ
Le Repos
du Guerrier, Khi Người Hùng Trở Về, "sống", trên đống xương vô định
đã cao bằng dẫy... Trường Sơn bị xẻ dọc, và "nhờ" đàn lợn, được vỗ
béo bằng những thai nhi.
Câu hỏi làm
tôi nhức đầu, khi viết "Mỗi trường hợp mỗi khác" là: Tại làm sao ý thức
tự vấn của Nguyễn Huy Thiệp lại 'tạm ngưng', sau khi ông viết xong
Tướng Về
Hưu. Hay, nói như Nguyên Ngọc, ngòi bút của Nguyễn Huy Thiệp cùn rồi,
ông ta hết
xí oát rồi?
Liệu chiến
thắng miền nam là một hồi chuông báo tử cho "cách viết" của Nguyễn
Huy Thiệp?
[Có thể có
người bắt bẻ, Tướng Về Hưu xuất hiện sau 1975, nhưng, như đây là một
thứ truyện
ngắn vào lúc tận cùng của một thời kỳ. Nó giống như Bếp Lửa của Thanh
Tâm Tuyền,
dính cứng vào biến cố 1954].
Liệu, ý thức
của tự vấn của miền đất, ở nơi NHT, như là một người đại diện của nó,
đã không
chịu nổi cú "đụng độ", khi va chạm với cái mà tôi tạm gọi là
"thiên tài của nơi chốn", hay là ông thần miệt vườn, của một miền đất
khác? Ngược lại, miền đất này cũng không thể làm sao hiểu nổi, cái ác
của một
miền đất khác, biểu lộ ra bằng hành động, thí dụ như, nhét 'gì gì đó"
vào
miệng đám sĩ phu, để cho nó thoát ra khỏi cơn mê muội vong thân, lành
nọc độc,
là chủ nghĩa cộng sản?
*****
Home is
where one starts from.
In my
beginning is my end.
What you own
is what you do not own.
T. S. Eliot
[Nhà là nơi
mà bạn bắt đầu]
[Trong cái bắt
đầu của tôi là cái tận cùng của tôi]
[Cái bạn sở
hữu là cái bạn không sở hữu]
Indians are
proud of their ancient, surviving civilization. They are, in fact, its
victims.
Người Ấn tự
hào về nền văn minh cổ xưa, còn hoài của họ. Hóa ra, họ là nạn nhân của
nó.
Naipaul: Lần
viếng thăm thứ nhì [in trong Nhà văn và
Thế giới]
Nguyễn Huy
Thiệp đã từng mơ 'đi hết biển', nhưng đi được một đoạn đường, ông quay
về. Ông
giải thích, 'vì nghĩ đến mẹ'.
Mẹ ở đây, là
'ẩn ngữ', chỉ văn minh lâu đời, dai như đỉa: nền văn minh đồng bằng
sông Hồng?
Nhưng Văn
Cao, chẳng hề mơ giấc mơ này. Như Joseph Roth, đã từng có vé của PEN,
mời đi Mẽo:
ông bèn quẳng vào thùng rác, và uống tiếp: Người đã viết một câu để
đời, nói
lên nỗi đau của cả một miền đất trong trận đói khủng khiếp năm đó, "Thề
phanh thây uống máu quân thù," người đó không thể bỏ đi. Vinh quang của
một tướng về hưu là như vậy. Vinh quang
đấy, mà
thất bại cũng đấy. Thất bại, vì không thể hiểu được một miền đất khác. Những người dân ở đó nói tới nghĩa khí ở
đời, nói trung hiếu với bố mẹ, anh em, bằng hữu...
chứ không với Dân, hay với Đảng.
Tưởng nhớ
Nguyễn Tôn Nhan
@ NDT's,
3/2008
NTN & NTK tại Gallery
của Khưu Đức
[Hình từ
website NTK]
Anh con nho
hinh anh nay khong?
Saigon 1972 tai quan Huong
Xua quan GoVap.
Cả 1
quãng đời thê lương, may nhờ NTK mà còn giữ được.
Tks NQT
GNV quen NTN
ở quán cà phê Bà Lê Chân của HT, cùng với NDT, và bạn của anh, sau cũng
là bạn
của GNV, những ngày sau 1975.
Nhớ về Tân Định
Quán lúc này
đã đổi chủ, HT sang lại cho bà con của họa sĩ TT, không biết bây giờ,
ai là chủ.
Hồi đó, chưa có thứ ghế nhựa sang như trên, mà là thứ ghể gỗ thấp, chắc
giờ vẫn còn, ở
những
quán vỉa hè.
*
Sở dĩ nhạc
Văn Cao tới được cõi Thiên Thai, vì ông, có thể, và dư sức.. giết người!
Mỗi lần PD
làm được 1 tình ca để đời, là ông phải làm thịt một em, y chang Vi Bức
Vương, mỗi
lần giở khinh công tuyệt đỉnh ra là phải hút máu người!
Bây giờ thì
Gấu hiểu ra là, những câu trên, đều bước ra từ câu nói thần sầu của
Walter
Benjamin:
Mọi tài liệu
về văn minh đều là một tài liệu về dã man.
Bữa trước, GNV đọc 1 blog ở trong nước, của 1 đấng VC. Đấng này kể về 1
lần
đóng vai hướng dẫn viên cho 1 đoàn khách du lịch nước ngoài, và 1 tay
mũi lõ hỏi,
xứ Mít đẹp như vầy, sao không có những công trình hiển hách như Vạn Lý
Trường
Thành của Thiên Triều?
Thế là anh
VC cao giọng dậy dỗ tên mũi lõ ngu đần:
Mi có biết Vạn
Lý Trường Thành làm chết bao nhiêu người dân TQ đói khổ không?
Nước Mít của
chúng ông lấy Đức Hiếu Sinh làm trọng, không thể bắt dân xây dựng những
đền đài,
những
công trình văn hóa dã man như thế!
Ui chao, GNV đọc mát cả… chim.
Cả 1 cái nước
Mít, chính là 1 cái công trình dã man của Cái Ác Bắc Kít.
Chúng sợ
Thiên Triều quá, rồi đẻ nhiều quá, đồng bằng sông Hồng nuôi không nổi,
cứ thế
tràn xuống Miền Nam, làm cỏ không biết bao nhiêu giống dân, sau cùng
làm cỏ
luôn thằng em Nam Bộ, thu đất Mít về một mối, cho đám Cùng Hung Cực Ác
ở Bắc Bộ
Phủ hưởng, thừa ra thì tới đám lau nhau!
Gửi
một người
yêu
Tôi thì
không nhận ra anh ngay. Bởi vì nhìn chung anh không đổi. Rõ ràng tôi
vẫn biết
phải thế khi anh hẹn tới đón, nhưng khi anh rời gốc cây trước cửa nhà
cô bạn,
tôi đã không để ý. Không dễ gì tin được vào thực tại, bởi vì thành phố
của
chúng mình đất nước của chúng mình thay đổi nhiều thế này. Đến nỗi sự
ít đổi
thay lại thành đáng ngờ vực nhất.
Nhưng mưa thì vẫn như
thế. Dịu dàng như hơi
thở con gái. Và ấm.
Tại sao ngày xưa mưa
chúng mình rét vậy! Thế
mà đi trên phố thấy chỗ nào cũng quá sáng, chả có vùng tối nào để ngả
vào nhau.
- Rét là vì đói. Đói mà không còn thấy đói
là cái đói kinh niên. Bọn nhóc nhà mình bây giờ không khi nào thấy kêu
rét từ
ruột rét ra như bọn mình ngày trước đâu Ngân ạ. Chao, ngày đó sao mà
mình ghét
những buổi tập hợp ngoài sân trường vào những hôm mưa nhẹ như sương này
thế.
Răng khua trước đầu gối khua sau. Mà ông thầy bí thư đoàn trường mình
cứ gào
lên Tổ Quốc đang chờ. Thầy tên Châu. Bọn mình gọi nhại sau lưng là thầy
Trâu
Điên. Bố khỉ, chính ông thầy hồi trẻ thì lại tìm cách trốn phân công
công tác
lên Tây Bắc. Sau này mình không bao giờ đến thăm ông thầy ấy nữa, mặc
dù từng
có một năm học văn thầy ấy. Vì sao ấy à. Vì mình thấy thương cụ, đầu
tiên cụ dối
lòng, rồi dối bọn mình, rồi không còn khả năng đằng sau quay mà nghĩ
khác ít
nhiều. Nghĩ khác có nghĩa là tự phủ nhận ngần đấy năm đội trời đạp đất
còn
gì... Nói chung mình không chịu được sự thương hại… ngay cả khi nó là
một cái
quyền, thuộc về mình.
- Còn cả cái gì ngoài
lòng thương hại nữa chứ.
Ví dụ...
- Để mình nói nốt. Ví
dụ như là Ngân chứ gì?
Lan man với Vương
Trí Nhàn
Văn học Việt
Nam đang phải trả giá cho một giai đoạn khủng hoảng từ những năm trước,
những
năm 1980, 1990. Thế hệ nhà văn lẽ ra phải viết sung sức nhất là thế hệ
nhà văn
khoảng 30 tuổi, thế hệ nhà văn sinh vào những năm 1980 nhưng đó lại là
một thế
hệ mất niềm tin, mất các giá trị.
NTS
Bà
có nhớ hồi nhỏ học sinh vật có cái thí nghiệm phản xạ có điều kiện
Paplop
không. Con gà mổ hạt ngô, đến lúc người ta không bỏ ngô vào, nó vẫn mổ
toét cả
mỏ cho đến chết….
VTN
Đây
chỉ là sự tình cờ, nhưng cái giá mà văn học VN phải trả không phải vì
mất niềm
tin.
Nó vẫn còn đó, như là hạt ngô ngày nào. Nhà văn Mít muốn viết văn,
là phải
viết dưới ánh sáng của 1 cái gì đó! Bởi thế, NTS phán: Nói thì có vẻ
hơi sáo, nhưng nói thật, văn chương phải phấn đấu vì một điều gì đó cao
quý.
Văn chương phải lớn hơn cuộc sống.
Cái
chết của văn Mít ở trong nước, theo Gấu, là do nó không dám viết về
những gì cần
phải viết, [phấn đấu vì một điều gì đó cao quí], vì nếu viết ra, thì
tác giả phải
đi tù. Đơn giản chỉ có thế.
Không
phải tự nhiên VTN nhắc tới phản xạ Paplop: Ông cũng bị nó hành, như bất
cứ 1
nhà văn VC, về 1 giấc đại mộng Mít: giải phóng Miền Nam, thống nhất đất
nước, ‘hạt
ngô tuyệt vời’ nhà nước hứa lèo với Miền Bắc.
Văn
học Mít hải ngoại, có đấy, nhưng ở những nhà văn không còn viết bằng
tiếng Việt
nữa, và đây là 1 điều đáng mừng. Linda Lê là nhà văn Việt Nam dù bà
viết bằng bất
cứ thứ tiếng nào. Thí dụ.
Để
'mimh họa' cho vấn nạn trên, TV sẽ giới thiệu trường hợp Yiyun Li, nhà
văn TQ, viết
bằng tiếng Anh, qua bài phỏng vấn mới nhất trên tờ ALR Winter, 2010,
đặc
biệt về China
Note: Yiyun
Li quả được Mẽo lì xì nửa triệu đô:
She is
part-way through a book tour behind Gold Boy, Emerald Girl. But just
when she
thought her promotional duties could not be any more intense, she was
awarded
one of this year's MacArthur "Genius" awards. Bestowed annually,
MacArthur fellowships recognize "talented individuals who have shown
extraordinary originality and dedication in their creative pursuits",
rewarding them with grants of US $500,OOO, paid quarterly for five
years.
Diễn Văn Nobel 2010
Đêm
giữa ban
ngày
Ghi chú
trong ngày
09 février
2011
“Un homme,
ça peut être détruit et pas vaincu"
Thấy câu này,
nhờ link trên Blog NL.
Nguyên tác tiếng Anh,
trong Ngư Ông và Biển Cả hách
hơn
nhiều:
A man can be destroyed but not defeated: Con người có thể bị huỷ diệt,
nhưng không thể bị đánh gục, [nhà thơ NTH đề nghị thay bằng từ ‘vấp
ngã’, trong
1 bài viết ‘cám ơn’ LCD!]
Gấu lần đầu đọc Ngư Ông, và bị câu
này làm chấn động, bất giác nhớ đến người hùng Lê Văn Trương
của Gấu, thời mới lớn!
*
Nội
Cỏ Của Thiên Đường
Nội Cỏ Của Thiên Đường, truyện ngắn
Steinbeck, viết về tuổi thơ,
Gấu đọc bản dịch [hình như của Truơng Bảo Sơn], hồi còn đi học, và nhớ
hoài đến
già.
TBS còn dịch một truyện dài, có tên tiếng Việt là Con Nai Tơ thì
phải, cũng thật tuyệt vời.
Nội Cỏ Của Thiên Đường là câu
chuyện của hai bố con, ông bố làm
thư ký thành phố, hình như mất việc, về quê sống, và lạc vào Xứ Thần
Tiên. Ông
bố chỉ tỉnh giấc, khi, tới mùa tựu trường, bà con lối xóm thương thằng
bé, bèn
kéo nhau tới thăm, với một bọc quần áo.
Thế là sáng hôm sau, hai bố con
đành từ giã nội cỏ của thiên
đường, trở lại thành phố.
Con Nai Tơ là câu chuyện một chú bé
với con nai nhỏ xíu của cậu.
Nhưng làm sao người và vật cứ nhỏ xíu được mãi. Con nai lớn, gây đủ thứ
phiền
hà, khiến ông bố đành phải giết con vật. Cậu bé bỏ đi, và thế giới bên
ngoài
làm cho cậu hiểu, đời sống bắt buộc phải khốn nạn như vậy. Cậu trở về,
xin lỗi
bố và hứa, sẽ thay ông, làm nốt công chuyện của một người đàn ông trong
gia
đình.
Làm sao cứ nhỏ xíu được mãi.
Đây chính là câu mà Bông Hồng Đen
mắng mỏ Gấu, khi từ giã Nội Cỏ Của Thiên Đường. "Mi đâu có thương ta?
Mi
thương con bé mười một tuổi, là ta, từ đời thuở nào. Và Hà Nội của mi,
ở trong con
bé đó!"
Trong những nhà văn Việt Nam
viết cho nhi đồng, có một, ít được
nhắc tới, và khi nhắc tới, thì lại bị coi là nhà văn chuyên viết truyện
cho
người lớn đọc, và thứ văn chương của ông sau thành một "thương hiệu",
văn chương triết lý người hùng Lê Văn Trương, với những cuốn để đời: Trường
Đời, Người Anh Cả, Ngựa Đã Thuần Mời Ngài Lên, Bốn Bức Tường Máu....
Nhưng ông không hề quên thiếu nhi. Trong số những truyện viết cho thiếu
nhi của
ông, Gấu còn nhớ được hai, thật là tuyệt vời.
Một, viết về hai thằng bé đánh
giầy ở Hà Nội. Truyện này, Gấu chỉ
nhớ, mang máng cái tên truyện, như trên, khi đọc Dickens viết về những
đứa trẻ
khốn khổ của Luân Đôn.
Và một, về một đứa bé, con nhà
giầu, ở Hà Nội, ham chơi, bố mẹ bèn
tống lên ở với một ông cậu, hay bà bác, ở mãi trên Tuyên Quang,
hay Phú
Thọ. Thằng bé nhớ Hà Nội, nhớ bố mẹ, không chịu nổi cuộc sống buồn tẻ ở
mạn
ngược, bèn lùi lũi, cứ thế đi bộ về... Hà Nội.
Cuộc" vạn lý trường
chinh", về "tiếp
quản" thủ đô, xuyên qua đồng bằng sông Hồng, những làng mạc ven bờ đê,
trở
thành một kỷ niệm để đời trong chú bé. Nhưng chú hoàn thành được cuộc
"vạn
lý trường chinh, chín năm trường kỳ kháng chiến", là nhờ một thằng bé
nhà
quê. Chính thằng bé nhà quê, khi chú đói lả, đem chú về nhà, cho chú
ăn, dậy
cho chú cách vo gạo, ở một cái cầu ao, cách nấu gạo thành cơm, từ một
cái bếp
rơm, từ một cái nồi đất... nghĩa là chỉ cho chú thấy cuộc sống bần hàn,
quê
mùa, của làng quê, cùng lúc, dậy cho chú bé thành phố con nhà giầu kia,
biết, ý
nghĩa của cuộc đời. Chú bé thành phố như được gột rửa, và khi về đến Hà
Nội,
gặp lại người thân, trở thành một thằng bé khác.
Cuốn sách trên, người đưa
cho Gấu đọc, Gấu vẫn còn nhớ. Đó
là cậu Toàn, em của mẹ Gấu. Nhớ luôn cả lời bình của ông cậu, ghi ngay
ở cuối
sách.
"Cái thằng bé này là một
thằng bé vô ơn. Khi nó về đến
Hà Nội, gặp bố mẹ, trở thành một thằng bé tốt, nó không hề nhắc tới
thằng bé
nhà quê đã cứu sống nó, đã đem cho nó ý nghĩa của cuộc đời."
Về già, Gấu mới hiểu ra
được lời mắng mỏ nặng nề của ông
cậu, đối với một thằng bé vô ơn. Ông cậu Gấu, khi viết những dòng đó,
không hề
nghĩ đến một điều, như Gấu nghĩ, sau hơn nửa thế kỷ xa cách Hà Nội, và
khi trở
về, gặp lại ông cậu, nhớ lại bao chuyện cũ, chuyện mới, và hiểu ra được
rằng
là:
Cái thằng bé vô ơn đó,
biết đâu đấy, là cả một thế hệ, nhiều
thế hệ, của những chúng ông, những ông con trời, ở Hà Nội?
Như thế, thì lại thành
chuyện người lớn mất rồi.
Nhưng tôi tin rằng, những
đứa trẻ của Hà Nội, hay nói rộng
ra một chút, những đứa trẻ của cả một miền đất. đã không hề được đọc,
những
truyện viết về thiếu nhi như thế, của một ông nhà văn của Miền Bắc, thí
dụ như
Lê Văn Trương.
Họ được dậy cách cắm cờ
đỏ, lên một thành phố Miền Nam, mà
sau này, cái hành động vinh dự ngày nào trở thành một "mặc cảm", hay
là “cái còn lại”, ở một nhà văn. (1).
Nói qua nói lại mới toại
lòng nhau.
Gấu tui có được đọc một
ông Miền Nam viết về thời học sinh,
và kỷ niệm cay đắng của ông, khi phải xếp hàng đón Tổng Diệm, hình như
vậy. Cay
đắng thiệt, nhưng chưa cay đắng bằng cảnh, một người quen của Gấu kể
lại, anh
đi coi ciné mà không chịu đứng dậy chào cờ, và suy tôn Ngô Tổng Thống,
đã bị
mật vụ chìm, ngồi chung với khán giả trong rạp lôi ra tẩn cho một trận
để đời!
Tuy nhiên, không hề có
một thầy cô giáo nào thưởng công học
trò tiên tiến theo kiểu như trên cả. Thầy cô Miền Nam dậy học trò,
những cuốn
như Tâm Hồn Cao Thượng, [Hà Mai Anh dịch Les Grands Coeurs, của de
Amicis,
nguyên bản tiếng Ý, nhật ký của một học sinh, bản tiếng Anh The Heart
of a
Boy], Kho Tàng Trong Căn Nhà Có Ma [dịch Những cuộc phiêu lưu của Tom
Sawyer
của Mark Twain], Con Nai Tơ, Cuộc Phiêu Lưu Trên Lưng Ngỗng [Lý Quốc
Sỉnh dịch
The Wonderful Adventures of Nils, của Selma Lagerlöf (1858-1940), Nobel
1909]...
Miền Bắc chỉ dậy học sinh
có một việc: cắm cờ! Kết quả thần
sầu, là chiến thắng Miền Nam.
Nhưng hậu quả của nó,
khủng khiếp hơn nhiều, thê lương hơn
nhiều!
Bởi vì khi anh đã nói dối con
nít, lợi dụng con nít, bao nhiêu thế
hệ con nít, một khi mà chúng vỡ ra được, là... bỏ mẹ!
Hơn thế nữa, khi đã quen cắm cờ
thì khó mà rũ bỏ đi được.
Đây là điều mà triết gia người Pháp, André Glucksmann, nhận ra, khi ông
cho
rằng, "họ" (ông muốn nói Cộng Sản Miền Bắc) bị kết án phải gây chiến
tranh, như là "yếu tính" của họ [của một miền đất?].
[Đọc Ngợi Ca Mì Gói]
Tất cả những gì gọi là sa đọa,
ở nơi thế hệ trẻ ở trong nước, là
phản ứng ngược lại với cái việc cắm cờ ngày nào.
Có thể nói, chưa có trẻ con nơi
nào ngoan như trẻ con Miền Bắc
trước 30 tháng Tư, 1975. Ngoan đến nỗi bố mẹ mà còn đem ra đấu tố, thép
đã tôi
đến mức như thế, thì làm sao hư được nữa!
Và chưa có trẻ con nào hư, như họ, sau ngày đó.
Ngay cả khi họ học giỏi.
Học càng giỏi, càng hư.
Bởi vì những phần tử ưu việt của chế độ Đỏ, tốt nghiệp đại học Tây
Phương, nào
Sorbonne, nào Harvard... khi về nước, thay vì cắm cờ như ngày nào, bèn
"ngồi lên đầu nhân dân"!
Đó là ý nghĩa của cụm từ "cà rem của cà
rem" của Joseph Brodsky, trong bài Diễn Văn Nobel của ông.
*
Salvation or Ruin?
Trong một xã hội tan rã, một
khi thế hệ trẻ mù lòa đi theo chân lý
muôn đời, hết cắm cờ, thì lại ngồi lên đầu nhân dân, tai ương thảm họa
là điều
không thể tránh khỏi, và được báo trước. Nhưng chính cứu rỗi, chứ không
phải
điêu tàn mới là điều "tới mà chẳng ai biết trước, chẳng ai trông chờ,
chẳng làm sao tiên đoán...", bởi vì cứu rỗi, chính nó, chứ không phải
điêu
tàn, tuỳ thuộc vào tự do và ý chí của con người.
[Mô phỏng Hannah Arendt, trong Franz Kafka: A Revaluation,
trong Essays
in Understanding 1930-1954, nhà xb Schocken Books, New York: In a
dissolving society which blindly follows the natural course of ruin,
catastrophe can be foreseen. Only salvation not ruin, comes
unexpectedly, for
salvation and not ruin depends upon the liberty and the will of men].
Chỉ một khi thế hệ trẻ, tốt nghiệp Harvard, trở về nước, bằng tự do và
ý chí
của chính họ, từ chối không chịu ngồi lên đầu nhân dân, thì mới mong có
cứu
chuộc được.
NQT
(1)
Về chi tiết cắm cờ, xin
xem bài viết “Còn Lại Gì”,
của Phạm Thị Hoài, trên talawas.
Cái tít bài viết, khi được dịch sang tiếng Anh, biến thành “Cái Còn
Lại”, What
Remains, không đúng tinh thần của nguyên văn tiếng Việt, theo tôi. NQT
Mémoirs
Thời Tập
5.5.1974
Gấu Nhà Văn đọc Tắt Lửa Lòng
Khi
viết Tắt Lửa Lòng, Nguyễn
Công Hoan có lẽ chỉ muốn cuốn sách của ông nằm trong dòng văn chương xã
hội….
nhưng đã vô tình ‘điểm thêm mắt rồng’ cho nó, khi hoàn thành tác phẩm,
nó bay
mất và lạc vào thế giới tình yêu, một thế giới hoang đường với những
Tiểu Nhiên
Mị Cơ, Mỵ Châu Trọng Thủy… và Lan và Điệp.
… Đây
là chiếc chìa khoá để
cho các tiểu thuyết gia chuyên viết truyện tình dùng để mở căn nhà mồ
Lương Sơn
Bá: Hãy làm sao cho nhân vật trong truyện tình chết đi [ở trong tiểu
thuyết] để
rồi sống lại [trong huyền thoại]...
NQT
Ui
chao, liệu ‘ba trăm năm
sau’, (1) truyện tình của BHD và anh cu Gấu cũng sẽ ‘chết đi ở trên
không gian ảo’
và rồi ‘sống lại ở trong huyền thoại’?
Hà, hà!
(1) TV:
Đúng rồi, nên thay
đổi, kẻo không như O nói, ba trăm năm sau (hihi) có người đi tìm tác
phẩm của
NQT chỉ thấy toàn ‘kít’ với ‘đếch’, ‘như kít’… thì không biết sẽ xếp
tác phẩm vào
loại văn chương gì?
Hihi
K
Phận
lưu vong
Ở hay Về?
Kafka et son
prophète
Par Olivier
Le Naire (L'Express),
publié le
09/07/1998
L'intérêt de
Vialatte pour l'auteur du Procès confinait à la passion, comme
l'atteste un
recueil de textes brillants et inédits
Le facteur
ouvrit la porte. Il ressemblait à l'arbre de Noël.» Ainsi parut à
Alexandre
Vialatte ce messager qui, dans un paquet de l'épaisseur d'une brique,
lui
apportait, à Mayence, en 1925, Le Château, de Franz Kafka. Le Tchèque
venait de
mourir d'une tuberculose un an plus tôt. L'Auvergnat, à peine âgé d'un
quart de
siècle, rédacteur à La Revue rhénane, esquissait tout juste sa carrière
littéraire. Kafka, on le sait, fut pour lui une révélation. Avant même
de
publier Battling le Ténébreux, en 1928, le futur chroniqueur de La
Montagne
allait prouver qu'il savait lire. Premier Français à découvrir Le
Procès, il le
traduit et le fait publier en France par l'intermédiaire de ses amis
Henri
Pourrat et Jean Paulhan, en 1933. Mieux qu'une passion, une mission.
Sacrée.
Celle du passeur de textes.
“Kafka était
un dieu, mais un dieu inconnu et je me suis fait son prophète»,
écrit Vialatte
dans l'une des multiples chroniques qu'il consacra à l'auteur de La
Métamorphose. Toute sa vie, et plus particulièrement des années 20 aux
années
50, il rédigea des notes, des articles, des préfaces sur son guide au
temple de
l'absurdité humaine. Réunies en partie par Les Belles Lettres et
savamment
commentées par François Taillandier, ces réflexions, pour beaucoup
inédites,
bourrées d'anecdotes, truffées de formules brillantes, livrent non
seulement
une analyse fine et évolutive de l'auteur du Procès et de son œuvre,
mais
également, en filigrane, un portrait presque trop humain de Vialatte.
On sait que
ses premières traductions ont été très discutées, et l'on comprend
mieux
pourquoi à la lecture de ce recueil. Vialatte est un pionnier au pays
de Kafka.
Il traduit «de l'inconnu», tant l'auteur du Château est
révolutionnaire. Et
Vialatte ne cache pas sa partialité: «Kafka n'est pas pour moi un sujet
objectif.»
Comme Flaubert se refusait de toucher aux idoles de peur que «leur
dorure ne
lui reste collée aux doigts», Vialatte, tel un membre de la famille,
refuse de
trop le connaître. Et s'incline très bas devant la statue du Commandeur
au
point d'oser écrire ceci, en préface à L'Amérique: «Proust n'était
inquiet que
des soucis de la terre. Le coffre-fort dont il grattait si vaillamment
la porte
n'était plein que du temps terrestre, de tasses de thé, d'âmes
frelatées, de
codes mondains. Celui de Kafka est plein de ciel.» En compagnie de
Vialatte,
bienvenue donc au plus haut des cieux de la littérature.
Trang Kundera
La mémoire de Prague: Hồi
ức Prague
Pour Kundera, «Kafka est
le prophète d'un monde sans mémoire»
et Gustáv Husák, septième président de son pays, est le «président de
l'oubli».
Pour lutter contre l'oubli, les Tchèques ont trouvé la meilleure
solution:
écrire. Ils furent aussi les premiers à élire un écrivain, Václav
Havel, comme
président.
Khi
Đỏ
là Đen
|
|