Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
Thủ Thiêm
The Gift
"Thiên tài" Brodsky: Những hạnh của bất hạnh
Joseph Brodsky and the fortunes of misfortune.
Số đặc biệt
về K, khi ông được vô ed. Pléiade, ngay khi còn sống. Nhiều bài OK.
K có tới 4 ông thầy: Robert Musil, Herman Broch, Franz Kafka và Witold
Gombrowwiz
K đọc diễn
văn tại Hội Nhà Văn Tiệp, Mùa Xuân Prague
Trên sàn diễn
TV, chương trình văn học Apostrophe của MC, nay là ông Hàn
Goncourt,
Bernard Pivot.
Nhìn mấy ông Thầy của K,
GNV bỗng nhớ câu phán của TTT, nhà văn Mít
chết non, cứ
viết hết thời thanh xuân, là ngỏm.
Không hẳn vậy.
Nhà văn Mít chết non, cứ viết hết thời thanh xuân là ngỏm, tuy nhiên,
đó là do
không có Thầy, không kiếm ra Thầy.
Nhưng cũng
chính TTT khuyên thằng em, mày muốn viết văn là phải kiếm ra Thầy của
mày.
Quả đúng như thế. Gấu không chỉ gặp Thầy, mà còn bị thầy Faulkner tóm
lấy.
Mày kể cho
tao nghe, về Miền Nam Kít Sâu Thẳm của mày…
Gấu bận lo tán em BHD, bèn nhờ Cô Tư & Gấu Cái tả giùm!
« Ce n'était
pas seulement le temps de l'horreur, c'était aussi le temps du lyrisme!
Le
poète régnait avec le bourreau ".
Đâu chỉ là
thời của ghê rợn, của CCRD, của Đấu Tố, của Nhân Văn Giai Phẩm, mà còn
là thời
của thơ ca trữ tình, Mặt Trời Chân Lý Chói Qua Tim, Đường Ra Trận Mùa
Này Đẹp Lắm.
Thời Của Văn Cao: Thi sĩ
lên
ngôi trị vì cùng với đao phủ.
Roman
= poésie antilyrique
Tiểu
thuyết= thơ chống vãi linh hồn!
HENRI HUET
Trang Henri Huet bằng tiếng Nhựt Bổn
Ui chao, cả
1 trời [cả 1 thời cũng được] kỷ niệm: Gấu ở Sài Gòn, chẳng sợ chết, thế
mà xém
chết, xém mất luôn khẩu súng, ngồi trên thượng đỉnh, lầu chót biu đinh
số 5
Phan Đình Phùng, gửi hình chiến tranh…
Born: April, 1927, in Da Lat,
Vietnam
Died: February 10, 1971 in Laos
Son of a French father and a Vietnamese mother, he moved with his
family from
Da Lat to France when he was five years old.
Educated in Brittany and at art school in Rennes, Huet started out as a
painter, then went into the army, which sent him to study
photography.
At 22, he returned to Vietnam as a French combat photographer, and
stayed on
after his discharge as a civilian photographer for the American and
French
governments. He went to work for UPI, and later switched to the
AP.
Henri won the Robert Capa gold medal in 1967. He was respected for his
bravery,
dignity and skill, and he was loved for his kindness and sense of
humor. He was
killed with his colleagues, Larry Burrows of LIFE, Kent Potter of UPI,
and
Keisaburo Shimamoto who was working for NEWSWEEK, when their helicopter
was
shot down over the Ho Chi Minh trail in Laos.
Cha Tây
mẹ,
Việt, HH rời Đà Lạt đi Tây khi 5 tuổi. Trở lại Việt Nam làm phóng viên
chiến
trường, giải ngũ, làm cho UPI, rồi cho AP. Chết trận Hạ Lào, khi máy
bay trực
thăng bị bắn rớt.
Mới đây thôi, gia đình binh sĩ VNCH, đi cùng chuyến bay, mới biết được,
và có
được, hài cốt của người thân. TV có đi tin về vụ này, nhưng chịu thua,
không
tìm ra.
Bà mẹ trong hình
và ngoài đời
Tên của
cuộc chiến
Ký ức về AP Sài Gòn @ Cali
@ Sài Gòn
Văn
Phòng AP ở trên lầu Passage Eden. UPI, 19
Ngô Đức Kế, con đường, một đầu đi ra Chợ Cũ, một đầu ra Bến Tầu, nơi có
tượng Đức
Trần Hưng Đạo.
Cao
Bồi PXA
PXA không ưa
Greene, Gấu sợ rằng, do kỵ dzơ, jeu, [mày với tao cùng nghề, mày một
mang, tao
hai ba mang], nhưng còn do đố kỵ nữa, mày còn viết văn, như vậy là mày
muốn
chơi gác tao !
Không những
viết văn, mà còn suýt ẵm Nobel văn chương nữa, PXA làm sao mà không tức
cho được
!
Trường hợp
Greene hụt Nobel hơi giống Tolstoy.
Vào năm
1901, khi Viện Hàn Lâm Thụy Điển phát giải Nobel văn học đầu tiên cho
nhà thơ
Tây già Rene Sully-Prudhomme, thay vì tiểu thuyết gia Nga Leo Tolstoy,
lý do,
theo một nhận định của uỷ ban Nobel sau khi phát giải, ông Nga này rao
giảng một
thứ chủ nghĩa vô chính phủ, mang tính lý thuyết và một Ky Tô giáo thần
bí. Sau
khi phát giải cho nhà thơ Tây già, 42 nhà văn Thụy Điển cho ra một cái
thư ngỏ,
tố cáo giải thưởng và an ủi ông nhà văn Nga xấu số ! Và như một cái
"dớp",
sau này, cứ phát giải là có phản đối.
Greene bị
ông Hàn Arthur Lundkvist thù đến nỗi, không thèm giữ đúng luật omerta,
và la
làng, ông ta thề sống dai hơn Greene, chỉ để loại nhà văn này ra khỏi
giải. Còn
tay Per Wasberg thì cố hết sức tranh đấu cho Greene, trước và sau khi
trở thành
ông Hàn, nhưng sau cùng ông hiểu, chỉ uổng công.
*
Nhưng chỉ đến
khi đọc "người của chúng ta ở Paris" so sánh PXA với Greene, [Graham
Greene bắt đầu câu chuyện «A Quiet American » trong
khung cảnh Sài Gòn tháng 3.1950. Nhà văn Anh
không ngờ rẳng cuộc đời
điệp viên của Phạm Xuân Ẩn (mà Pomonti đặt tên là « Người Việt trầm
lặng »)
cũng bắt đầu từ địa điểm và thời điểm ấy], liên tưởng đến bài viết của
Zadie
Smith, Rợp Bóng Greene, trên Guardian, và cuốn Người Mỹ Trầm Lặng, giống như một
con phượng hoàng tái sinh từ tro than của nó, Gấu mới hiểu ra được là
PXA thực
sự đã cảm nhận ông thua Greene, thua tình yêu mà Greene dành cho Miền
Nam, thua
lòng nhân hậu của Greene, khi ông này đã nhìn ra được từng cái nón rơi
xuống,
và chẳng có ai chạy về phía những kẻ bị thua thiệt, bị làm nhục.
PXA chưa hề
nói ra được một lời nào, là chàng ân hận.
Nhưng cả đám
đó, có ai làm được điều này?
PXA lừa bè bạn,
tháng tháng lãnh tiền Time,
tối tối lén coi tài liệu mật chuyển cho VC, báo trước
những chiến dịch di chuyển lính Mẽo, để VC làm thịt họ.
Vậy mà khi
công thành danh toại, PXA lại nhục nhã viết thư xin tiền bạn cũ, bởi vì
ông
nghĩ, chỉ còn mỗi cách đó, hạ nhục mình để tạ lỗi ngày nào.
Đám bạn hiểu
ra, nên mới gom tiền cho PXA.
Gấu nghĩ ra
điều trên là do đọc Le Carré.
Trong Gọi
Người Đã Chết, bà vợ của Smiley bỏ chồng theo trai, và khi trai
bỏ, viết thư
năn nỉ chồng cho mình trở về lại.
Smiley lắc đầu
chịu thua.
PXA chính là
cái bà vợ bỏ chồng theo trai, [làm cho Mẽo, lãnh lương Mẽo, lừa Mẽo,
đưa tin
cho VC làm thịt Mẽo], và cái đám bạn cũ của PXA, là Smiley, gật đầu tha
thứ cho
PXA.
Thơ mỗi ngày
IN THE
BEAUTY CREATED BY OTHERS
Only in the
beauty created
by others is
there consolation,
in the music
of others and in others' poems.
Only others
save us,
even though
solitude tastes like opium.
The others
are not hell,
if you see
them early, with their
foreheads pure, cleansed by dreams.
That is why I wonder
what
word should
be used, "he" or "you." Every "he"
is a betrayal
of a certain "you" but
in return
someone else's poem
offers the
fidelity of a sober dialogue.
Adam
Zagajewski: Without End
Trong Cái Đẹp Được
tạo Ra Bởi Những Kẻ khác
Chỉ trong
cái đẹp được sáng tạo
bởi những người khác thì mới có sự an ủi,
trong nhạc của
kẻ khác, và trong những bài thơ của những kẻ khác.
Chỉ Kẻ Khác,
[Tầu Lạ, hà, hà], cứu vớt chúng ta
mặc dù cô đơn thì vị của nó giống như của thuốc
phiện.
Những kẻ khác
thì không phải là địa ngục
nếu bạn nhìn
thấy họ, sớm sủa,
với vầng trán trong trắng
được tẩy sạch bằng những giấc mộng.
Chính vì vậy mà tôi tự hỏi, từ nào nên dùng, “anh
ấy”, hay “bạn”.
Mọi từ ‘anh ấy”
thì là 1 sự phản bội một từ “bạn” nào đó,
nhưng đổi lại,
bài thơ của một người
nào đó
dâng hiến sự trung thuỷ của một cuộc đối thoại điềm đạm.
CHILDREN
OF OUR AGE
We are children of our
age,
it's a political age.
All day long, all through
the night,
all affairs-yours, ours, theirs -
are political affairs.
Whether you like it or
not,
your genes have a political past,
your skin, a political cast,
your eyes, a political slant.
Whatever you say
reverberates,
whatever you don't say speaks for itself
So either way you're talking politics.
Even when you take to the
woods,
you're taking political steps
on political grounds.
Apolitical poems are also
political,
and above us shines a moon
no longer purely lunar.
To be or not to be, that is the question.
And though it troubles the digestion
it's a question, as
always, of politics.
To acquire a political meaning
you don't even have to be human.
Raw material will do,
or protein feed, or crude oil,
or a conference table
whose shape
was quarreled over for months:
Should we arbitrate life and death
at a round table or a square one?
Meanwhile, people
perished,
animals died,
houses burned,
and the fields ran wild
just as in times immemorial and less political.
Wistawa Szymborska
Những đứa trẻ
của thời chúng ta
Chúng ta là
những đứa trẻ của thời chúng ta
Và đó là thời
chính trị.
Suốt ngày,
suốt đêm
Ngày nào đêm
nào thì cũng thế
mọi chuyện -
của anh, của chúng ta, của chúng nó –
thì đều là
chuyện chính trị
Dù thích hay
không thích
Cái gen của
bạn có một quá khứ chính trị
Da của bạn,
có màu chính trị
Con mắt của
bạn có cái liếc xéo chính trị
Bạn nói bất
cứ cái gì, là bèn có cái gọi là phản biện.
Bất cứ cái gì
bạn không nói, thì nó nói cho chính nó
Thành thử tránh
trời không khỏi nắng chính trị.
Ngay cả khi
bạn đi vô rừng
Thì bước đi
của bạn cũng chính trị
Trên nền đất
chính trị
Thơ không chính
trị thì cũng chính trị
Và trên đầu
chúng ta trăng chiếu sáng
Thì cũng không
còn là trăng trinh nguyên
Hiện hữu hay
không hiện hữu, đó là vấn đề.
Và mặc dù nó
làm cho bạn ăn không ngon, nuốt không vô
Thì nó vẫn là
1 câu hỏi, “vũ như cẩn”, về chính trị.
Để có 1 cái ý
nghĩa chính trị
Bạn đếch cần
phải là một con người.
Nguyên liệu
thô, đủ rồi
Hay tí chất
đạm, tí dầu nguyên
Hay một cái
bàn hội họp mà hình dáng của nó
cũng làm mất mẹ nó bao nhiêu ngày tháng:
Liệu chúng
ta bàn tại Paris,
Về sự sống và
cái chết của xứ Mít,
Trên cái bàn
vuông, hay là tròn?
Trong khi đó
con người cứ thế mà tàn lụi dần
Loài vật chết
Nhà cháy
Ruộng bỏ
hoang
Y hệt như những
thời kỳ xa xưa,
Hết ai còn
nhớ
Ít chính trị
hơn, so với bây giờ.
New poetry
Life in the
shadow
Audacity and
elegy
May 12th
2011 | from the print edition
Six
Children. By Mark Ford. Faber and Faber; 61 pages; £9.99. Buy
from Amazon.co.uk
The City
with Horns. By Tamar Yoseloff. Salt Publishing; 80 pages; £9.99.
Buy from
Amazon.co.uk
WALT WHITMAN
casts a long shadow over modern poetry. His work, delighting in slang,
cityscapes and the exuberance of being in the middle of a crowd,
created a
peculiarly American form of epic verse, with long lines
stretching—seemingly
endlessly—across the page. But, just as the iconic image of him in a
wide-brimmed hat and open shirt can appear ridiculously romantic now,
so too
has his work been successively embraced and ignored by modern writers.
And so when
a British poet and academic, Mark Ford, takes Whitman’s claim that
“though
unmarried I have had six children” as the starting point for this third
collection of poetry, he demonstrates a literary awareness that may not
immediately appeal to every reader. Indeed, in “Six Children” Mr Ford,
a
lecturer at University College London, seems intensely preoccupied not
only
with the grandfather of American verse, but also with the Mau Mau
insurrection
and the Münster Anabaptists. Such a wide scope is impressive, and Mr
Ford’s
enthusiasm for more obscure factual details, such as the decline of the
passenger pigeon, shines through. However, when a succession of his
poems turn
out to be adaptations or loose translations of Petronius, Sappho, Pliny
the
Elder and Boethius, you may find yourself hankering after an original
voice—even one as extravagant as Whitman’s.
There are
certain exceptions to this rule. Born in Kenya in 1962, Mr Ford writes
deftly
about moving to the London suburb of Surbiton, where the only reminder
of his
past home was “Red, African dust spilled from the wheels of our toy
trucks and
cars.” His elegy for a fellow poet, Mick Imlah, shows a directness and
clarity
that is not always felt in his allusive poetry. These momentary
glimpses into
Mr Ford’s life are tantalising, edging towards a striking poetic style.
And yet
when Mr Ford describes how “we hate/to be touched, however/gently, in a
slow-moving crowd” we may not think only of the urban claustrophobia he
speaks
of but also of the experience of reading his poetry, peopled as it is
with
other poets, only some of whom it is pleasing to come into contact with.
It is a
sensation that Tamar Yoseloff, American-born and now living in London,
also
writes of in her fifth collection, “The City with Horns”. Ms Yoseloff
describes
how in a London bus “we are too intimate in this folded space”, the
edge-to-edge contact with a stranger’s body momentarily disquieting.
Like Mr
Ford, Ms Yoseloff prefers the company of ghosts, taking the life of
Jackson
Pollock as the core of her book.
Over the
course of 13 poems, Ms Yoseloff traces Pollock’s explosive marriage to
Lee
Krasner, his death in a car crash aged 44, and the life of his
mistress, Ruth
Kligman, who survived the crash to be nicknamed “Death car girl”. Ms
Yoseloff
skilfully gives voice to such figures through subtle shifts of tone,
revelling
in a particular kind of American slang.
Using such a
well-known life is an audacious move, and Ms Yoseloff rises to the
challenge.
But the rest of the poems in her collection fail to live up to this
drama, too
often relying, like Mr Ford, on literary precedent. Both these
collections have
moments of joy, but their flaws make you want to turn to the writers
that
overshadow them.
Seagull in the rain
Hải Âu Trong
Mưa
Orhan Pamuk
Gấu Trẻ “Những
Ngày Ở Sài Gòn”
vs
Gấu Già “Tin Văn”
Ký
sự về 1 cú sát nhân chính bà vợ của mình, được
báo trước. Tên sát nhân đầu tiên của lịch sử triết học, Louis
Althusser. Lý
thuyết gia Trùm của chủ nghĩa CS. Thư gửi Vợ.
Nhưng đã có một thời, những triết gia như Henri Lefèbvre, Aron,
Merleau-Ponty... đã mơ tưởng một thứ tiếng nói phổ thông, duy nhất, cho
toàn thể
nhân loại: Chủ nghĩa Cộng Sản. Thứ tiếng nói phi chính trị, phi triết
học, phi
vong thân. Trước sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng Sản, Louis Althusser
- trước thềm cái chết - đã ngậm ngùi than thở, chúng ta đã sản xuất ra
một triết
học "ảo" cho Marx, một thứ triết học không có trong tác phẩm của ông.
Hôm nay nhân loại
nói chung một thứ tiếng
Lettres à
Hélène, de Louis Althusser
Critique |
Non-Fiction
« Je ne me
fais pas d’illusion sur la vie que je vais connaître. Mais il faut
sûrement
passer par là pour en sortir », confie, au moment d’un séjour en maison
de
santé, l’un des plus grands philosophes du XXe siècle, dans une lettre
adressée
à sa femme, Hélène Rytman, dite Legotien.
Que nous
révèle cette abondante correspondance de trente-cinq années, qui réunit
lettres, billets, télégrammes et cartes postales envoyés par Althusser,
entre
1947 et 1980, année de la tragédie où, le matin du 16 novembre, le
philosophe
étrangle sa femme ? Au-delà de la relation amoureuse, explique dans sa
belle
préface Bernard-Henri Lévy, qui fut son élève, c’est « la question clef
du lien
de cette folie et de cette philosophie et l’influence qu’elle aura eue
sur
notre génération ». À côté de son autobiographie et de ses oeuvres
philosophiques,
les lettres d’Althusser constituent une plongée dans l’histoire du
siècle
passé, à travers la rencontre des grandes figures intellectuelles comme
Cavaillès, Canguilhem, Lacan ou Derrida, tous fréquentés à l’École
normale
supérieure de la rue d’Ulm. Elles montrent aussi l’urgence de trouver
ces
nouveaux outils de pensée que seront pour Althusser la « coupure
épistémologique » de Marx, la « pratique théorique », ou
encore les
« appareils idéologiques d’État ». Entre malaises existentiels et
moments sereins,
légers, apaisés, un autre Althusser apparaît : « Il fait soleil, je
partage mon
temps entre sommeil, journaux, canot, bain et… spectacles. » Ou encore
: « Vu
La Putain respectueuse : c’est je crois la meilleure pièce de Sartre,
pas
vieillie : et quelle résonance ! » S’adressant à sa femme en mots
intimes et
tendres, « Ma carpillonne », « Choucha petite tête », « Ma bistoufle »,
le
philosophe dit sa passion du tennis, du cyclisme ou du football (« je
serai là
dimanche pour voir jouer l’OM à côté de mon père dans la tribune
officielle,
pour l’engueuler sur le néant conceptuel du jeu de son équipe »). «
Vive
l’appareil idéologique d’état sportif », conclut-il. On découvre son
plaisir du
cinéma : « Trop de pittoresque gratuit, trop de légèreté dans le
traitement des
problèmes politiques » dans Le Voleur de bicyclette, mais des
personnages
parfaitement justes dans La Grande Illusion de Renoir. On retrouve
l’effervescence des événements politiques : l’affaire de Suez, la crise
algérienne, les positions de De Gaulle. Quelques voyages nous
reviennent, en
Corse, dans les Pyrénées ou à Venise. « Casa Frollo, le jardin, la
lagune, la
Punta Sabbioni, la mer, le nombre de pas, l’eau »...Mais ces lettres
témoignent
également de l’épuisement physique, des souffrances, des cauchemars – «
les
rapports avec mon inconscient ne sont pas de tout repos » –, du
resserrement de
l’angoisse. L’objectif reste la construction de sa pensée, dans ses
mêlées de
tendresse : « Bon, je te laisse, mon tendre Chourin. Je vais me
replonger dans
Misère de la philosophie, texte de [18]47 que Marx a écrit directement
en
français » (8 juin 1970).
Ý niệm
"coupure épistémologique" (đứt đoạn tri thức luận), được Gaston
Bachelard đưa vào nghiên cứu "triết học của khoa học", sau được
Althusser sử dụng khi đọc Marx. (Chú thích của John Johnston, khi dịch
sang Anh
ngữ bài phỏng vấn M. Foucault, "The discourse of History", in trong tập
"Foucault Live" nhà xb Semiotext(e) Foreign Agents Series, Columbia
University, 1989).
Hanoi Saigon 2002
Đọc cái đám
tinh anh ở trong nước, thí dụ, thiên tài THT, người đã từng được tụi
"mafia Do
Thái" [chữ của bà Huệ, Gió O] ban cho Nobel Toán, hay bà VTH, “lương
tâm nhức nhối” Bắc Kít hiện
thời,
hay “em” TH, nhật ký ĐTT “tân thời”, tại sao lại như thế, không lẽ Mít
không
còn tí tình người, hay NDB, “tri thức và bản lãnh” nhất thời đại, tôi
là “cái
miệng của Mít”, hay nhà thơ NTT, đừng để cho còn những ngày 30 Tháng
Tư… Gấu
thành thực tin, họ đều suy tư với một nửa bộ óc. Nửa kia, liệt.
Đám tinh anh
Bắc Kít rên rỉ vì bô xít, vì Bản Giốc, vì Tầu Lạ, vì Cù Huy Hà Vũ,
nhưng chưa từng
có lấy 1 mống rên rỉ vì một anh Mít Nam Bộ, nhà bị Bắc Kít ăn cướp [thí
dụ, gia
đình Ngụy, ở kế bên nhà của Gấu bị 1 cán bộ VC ném đồ đạc ra sân], vợ
bị chúng
hãm hiếp, chồng bị chúng tống đi cải tạo.
Có đúng là
chúng suy nghĩ với, chỉ nửa bộ óc không?
Đọc mấy đấng
tinh anh Bắc Kít, mới thấy thân phận 1 tên Ngụy thật là thảm: Trước
1975, bám đít
ngoại bang, bồi Tây, rồi bồi Mẽo, rồi sau đó, tên tù cải tạo, rồi tên
phản quốc…
Thấy tội quá, thôi, ta cho phép giao lưu hòa giải, xóa bỏ hận thù, thì
chúng nhất
định không chịu, thế có khốn nạn cái lũ Ngụy không?
GNV bỗng nhớ
' "entry” dưới đây, của Milosz, về "Hận Thù".
Post, dịch dọt sau.
Có tí liên quan tới Brodsky, "tài hoa" cũng bằng NTHL của Mít thôi
mà!
[H]
HATRED. My
life story is one of the most astonishing I have ever come across.
True, it
lacks the clarity of a morality tale, as in Joseph Brodsky's story: he
was
tossing manure with a pitchfork on a state farm near Arkhangelsk, and
then,
just a few years later, he collected all sorts of honors, including the
Nobel
Prize. It does not lack similarities with the Polish fable about stupid
Jas,
however, because it required a great deal of stupidity to act
differently from
my colleagues in literary circles and to flee to the West, which was
convinced
of its own decadence. The dangers of such a flight are described very
well in
these lines from Hamlet, applied to
the Cold War:
‘Tis
dangerous when the baser nature comes
Between the
pass and fell incensed points
Of mighty
opposites. (1)
To be
despised and triumphant in the course of a single life, to wait for the
time
when it would become apparent that my enemies who made up disgusting
things
about me had made terrible fools of themselves. What interests me most
in all
of this is the difference between our image of ourselves and our image
in others'
eyes. Obviously, we improve upon ourselves, while our opponents seek to
strike
even imaginary weak spots. I muse over my portrait that emerges from
songs of
hatred, in verse and prose. A lucky guy. The sort for whom everything
goes
smoothly.
Incredibly
crafty. Self-indulgent. Loves money. Not an iota of patriotic feeling.
Indifferent to the fatherland, which he has traded in for a suitcase.
Effete. An
aesthete, who cares about art, not people. Venal. Impolitic (he wrote The Captive Mind). Immoral in his
personal life (he exploits women). Contemptuous. Arrogant. And so
forth.
This
characterization was usually supported with a list of my shameful
deeds. What
is most striking is that it is the image of a strong, shrewd man,
whereas I
know my own weakness and I am inclined to consider myself, rather, as a
tangle
of reflexes, a drunken child in the fog. I would also be inclined to
take the
side of my enemies when they track down my insolence as a
nonconformist,
because the polite little lad and Boy Scout is still quite firmly
inside me,
and I really do condemn the scandals I caused in school, and in each of
my
violations of the social norms I detect an attraction to brawling and
psychological imbalance.
My tendency
toward splitting hairs, and toward delectatio
morosa, the label used by monks for masochistic pleasures such as
those
they suffered by recalling all their sins, argues against my alleged
strength.
It is not exactly pride, but as for arrogance, it is well known that it
usually
masks timidity.
I count it
as great good fortune that I never fell into the clutches of the
political
police. A talented interrogator would immediately have guessed my
general sense
of guilt and, playing on it, would have led me to confess, in a great
act of contrition,
whatever crimes he named. So many similarly unfortunate people were
broken in
this way, and I feel profoundly sorry for them.
MILOSZ'S
ABC'S
(1)
Những kẻ
dưới
lúc nào cũng bị nguy hiểm khi bị đặt giữa các quyền lực đối đầu nhau.
HAMLET
Why, man,
they did make love to this employment.
They are not
near my conscience. Their defeat
Does by
their own insinuation grow.
'Tis
dangerous when the baser nature comes
Between the
pass and fell incensèd points
Of mighty
opposites.
(
HAMLET- Man, they
were asking for it. I don’t feel guilty about them at all. They got
what they
deserved. It’s always dangerous when little people get caught in the
crossfire
of mighty opponents.).
Tks
K.
NQT
Hận
thù
Câu chuyện đời tôi thì là một
trong những kỳ tuyệt nhất mà tôi đã
từng kinh qua. Đúng như vậy. Nó thiếu tí sáng sủa của chuyện đạo đức,
răn đời,
như của Joseph Brodsky: được nhà nước Đỏ cho đi bốc phân tại một nông
trường tập
thể gần Arkhangelsk, vài năm sau đó, ông lượm đủ thứ vinh quang, trong
có giải
Nobel văn chương. Tuy nhiên, đúng là câu chuyện của anh chàng ngu ngốc
Jas,
trong chuyện dân gian Ba Lan, bởi là vì, phải thật là khùng điên ba
trợn, thì mới
hành động khác hẳn những đồng nghiệp của tôi, trong giới văn chương, và
rồi còn
bỏ chạy quê hương qua Tây Phương suy tàn. Những nguy hiểm của chuyến đi
của tôi
thì được miêu tả thật là tuyệt vời bằng những dòng sau đây, trong tuồng
Hâm Liệt, áp dụng vào Cuộc Chiến Lạnh:
Những thân phận thấp
hèn lúc
nào cũng bị nguy hiểm, bị đặt giữa các quyền lực đối đầu nhau.
Cái vụ Bắc
Kít làm thịt thằng em Nam Bộ, theo GNV, là nguyên nhân của “trọn tính
người",
theo tinh thần của bài viết sau đây (1).
Nó hết còn là chuyện thù
hận quốc gia-cộng sản.
Trang TV sở dĩ lải nhải
hoài, chỉ mỗi chuyện này, là vậy.
Gấu đâu có thù VC, nhất là Bắc Kít? Anh em, bà con, bạn bè… tất tất Bắc
Kít.
Cũng có Trung Kít, Nam Kít, nhưng cốt lõi của tất cả, vẫn là Bắc Kít.
Cả lò nhà mày là CS, trừ mày ra, là thằng phản động.
Ui chao may quá!
(1)
Trọn
tính người
Một người nhờ
tôi lên 1 cái danh sách, những sách nên đọc. Tôi đề nghị, nên đọc Nếu có phải 1 người của Primo Levi. Rồi
thêm vô, Những Kẻ Thiện Tâm, của
Littell, rồi thêm vô, Đời và Số mệnh của Vassili
Grossman, Ba thằng lăng nhăng, của Tô Hoài, rồi thêm
vô, Đi tìm cái tôi của Nguyễn Khải…
Đến đây, thì ông bạn ngăn lại, thôi
đủ rồi. Bây giờ xin hỏi ông:
Có vẻ như ông khoái cái thú đau thương, chỉ khoái đọc ba cái
tởm lợm, morbide pour l'horreur?
Tôi đề nghị
ông bạn, đổi câu hỏi sao cho có vẻ bớt tởm lợm đi 1 tí:
Tại sao chuyện đó xẩy ra?
Tại sao khi BBP [Bắc Bộ
Phủ] ra lệnh làm thịt Nam Kít, không 1
tên Bắc Kít nói: Không được.
36 năm sau, cũng vẫn chưa có 1 tên Bắc Kít nào nói, không được?
Xã hội này
có phải đã mất hết ý thức về các giá trị làm người rồi không, mất hết ý
thức về
các giá trị nhân đạo rồi không, mất hết ý thức về công lý, lẽ phải rồi
không?
Không, tôi không tin là như vậy.
NTTH
Gấu thực sự
tin, nó là như vậy!
-
Cruel Radiance
Nhân
Gió-O 10
năm
Trong những
nhà văn được “mafia Do Thái” phát Nobel, mà Bà Huệ nêu tên, có Isaac
Bashevis Singer.
Trên
TV có
bài của Linda Lê giới thiệu ông này.
GNV rất mê Isaac Bashevis Singer,
và có
khá nhiều tác phẩm của ông, một tay kể chuyện bậc thầy. Ông được coi
như là người
phát hiện ra mẫu Thiên Sứ Tội Lỗi, the
"Sinful Messiah”, [đúng thứ Bắc Kít, đầy tội lỗi, ma quỉ, ác nhân,
nhưng
lại giương
cao ngọn cờ giải phóng Miền Nam], và nhập cảng, du nhập sex vô nghệ
thuật viết,
harnessing, importing, erotic energy to a work of art, [như Murakami,
sau này].
Milosz,
trong ABC’s có nhắc tới Isaac
Bashevis Singer, nhưng nghĩ, [cũng như bà
Huệ],
không xứng Nobel bằng nhà thơ Chaim Grade.
Post sau đây, cả hai
bài, một
của Linda Lê, và một của Milosz, [tuy không hẳn viết về Singer].
Có vẻ như bà
Huệ không khoái dịch dọt. Phải đọc Mít nguyên xi, thứ thiên tài NTHL,
không chôm
chĩa của
ai, sặc mùi Mít, mùi mắm tôm, thí dụ, thì mới được.
Trang TV
này, sở dĩ được mở ra, chỉ là để dịch dọt, nghĩa là chỉ đi ăn cắp của
tụi mũi
lõ.
Làm một tên biệt kích văn hóa!
Chẳng thèm xin phép, chẳng thèm để ý
gì tới luật bản quyền, vì nghĩ, tụi
mũi lõ, khi
chúng đi ăn cướp cả thế giới, chúng đâu có xin phép?
Tuy nhiên,
TV không hề hưỏng tí xái nào từ cái việc dịch dọt.
Và cũng rất
mong độc giả, đọc thoải mải, cho riêng mình, for personal use
only,
"đừng" như “cái tay” Vịt Nguyên, chôm sự kiện, về nguồn gốc từ “quần
đảo”, trong cái tít Quần Đảo Gulag, của Solz, rồi đi 1 đường tạp ghi,
kiếm tí
tiền còm.
Khủng nhất có lẽ là cái tay ‘gì gì’ đó, chôm cả 1 cuốn trường thiên
tiểu thuyết,
dịch dọt, đăng ‘fơi ơ tông’ lấy tiền bỏ túi, chưa thỏa, chưa đã, bèn
sáng tác
thêm, rồi phịa ra cả thiên giai thoại, [cái gì gì, lần đầu tiên khi vừa
đến được
Thiên Đường Tị Nạn, đọc, khóc òa, chẳng khác Bác H, khi đọc Lê Nin], để
trở
thành đồng tác giả, rồi cho xb ở trong nước, dõng dạc phán, đây là
tuyệt tác,
như “Chiến Tranh và Hòa Bường” của Tolstoi, một thứ thuốc tiên, hàn gắn
mọi vết
thương chiến tranh, mọi hận thù Mít!
Đọc blog,
cũng rứa, ông Mít nào cũng chôm, cũng dịch dọt tưới hột sen, vậy mà còn
đi 1 đường,
cấm chôm của tao đấy nhé!
Hồn Ma
Si
Tình
Linda Lê giới thiệu Isaac Bashevis Singer
Grade Chaim
by
Milosz
Dịch dọt là
phận người, sinh tử lão bịnh… và dịch. Tinh thần trang TV là của Tập
San Văn Chương (1)
ngày nào còn Sài Gòn, qua đó, là định nghĩa nhà văn [độc giả] là 1 kẻ
được thông
tri đầy đủ những dữ kiện của thời của mình, tạm dịch dọt cái từ “mieux
informer" của Tây mũi lõ.
Chỉ một khi được thông tri
tốt những dữ kiện,
thì độc
giả tự quyết định lấy vận mệnh của mình, đếch cần đến phê bình gia, còn
dốt hơn
cả độc giả!
Nhưng dịch
không có nghĩa là chôm để sử dụng vào mục đích đê tiện là kiếm tí tiền
còm, tiền
lớn, vờ nguyên tác, vờ tác giả.
Trên tờ Interlife
có 1 bài viết, về ăn nhậu, nhưng sử dụng nó như 1 ẩn dụ, vào việc dịch
dọt, thật tuyệt:
A
THIN LINE BETWEEN FERMENTATION AND ROT.
Đường ranh mỏng dính giữa
"lên men" và "thúi
rữa".
Lên men là cái
đẹp của dịch dọt, thơm tho như mùi mắm tôm của Mít.
Thúi rữa, chính là cái vụ dịch
dọt, để ăn cắp, để kiếm lợi cho cá nhân mình.
Gấu, Bắc Kít,
càng về già, càng thèm lại một lần, ngồi giữa 1 phiên chợ làng, với cái
mẹt lá chuối,
bên trên là miếng bánh đúc, và tí mắm tôm, và cơn đói dài dài của Gấu,
đang chờ
được thỏa mãn.
Cả cuộc chiến Mít, là cũng
được nhìn qua hình ảnh tuyệt vời này.
Lẽ ra, sau 30 Tháng Tư, Mít cả nước có… mắm tôm.
Nhưng thay vì
vậy, chỉ có CỨT.
(1)
Ngay trong lời
phi lộ số ra mắt, khi định nghĩa nhà văn, một người được thông tri đầy
đủ (những
dữ kiện của thời đại anh ta đang sống), chúng tôi đã hoài vọng một
điều: hãy
đưa ra thật nhiều thông tin, hãy giới thiệu những dòng tư tưởng đang
ảnh hưởng
đến toàn thể nhân loại, rồi để cho người đọc tự do chọn lựa, theo khẩu
vị của họ.
Cho phép tôi dùng chữ khẩu
vị, theo nghĩa của Roland Barthes: Chữ viết ở khắp
nơi, khi mà những từ có mùi, có vị (tri thức, savoir, và mùi vị,
saveur, trong
tiếng La-tinh là cùng một nguồn).
Russia:
Miền
Đông Hoang Dã
Raymond
Carver
Carver được
coi như là cha đẻ của thứ truyện ngắn mini.
Truyện ngắn
của ông, như Fat, được Enright diễn tả
thật tuyệt vời như sau đây:
Fat là 1 thí
dụ lớn về làm thế nào mà 1 truyện ngắn được “cắm vào đời” [dùng những
từ của bà
Huệ, Gió-O, khi "xoa đầu" NTHL, áp dụng vô đây thì thật là tuyệt: Cái
gì của Linh là do Linh nẩy bật ra. Tuổi đôi mươi sắc như một nhát dao.
Linh cứa
vào đời sống bằng tinh hoa và nội lực một ông cụ non lẫn một đứa trẻ
già]: cái
đầu vô của vết thương thì như là của 1 mũi dao, nhưng cái hệ quả thì
lại chết
người!
Enright viết:
Như tất cả
những truyện ngắn của RC, Fat có vẻ đơn
giản. Một cô bồi bàn không được nêu tên, kể với cô bạn, Rita, về chuyện
phục vụ
1 ông khách mập. Cô thích thằng chả, dù phì lũ. Cô thích phục vụ ông
ta. Cuộc
quen của họ mặc dù bình thường, ngắn ngủi, và chỉ có tính giao tiếp,
hình thức,
nhưng thật là dịu dàng - và, như một truyện tình, nó xuất hiện là để
chửi bố cái
thế giới loài người còn lại vây quanh nó!
Ui chao, đọc
1 phát, là Gấu nghĩ ngay đến truyện ngắn
của... Gấu Cái!
Cái thứ truyện
ngắn “viết như không viết”, về cái mảnh đất thần tiên Tara không còn
nữa, hóa
ra y hệt thứ truyện ngắn của RC: đầu vào thì nhỏ xíu như vết muỗi
chích,
như cái
xước da, nhưng đầu ra, là hậu quả của cả 1 cuộc chiến tàn nhẫn, dã
man...
Thảo nào H/A phán, hay hơn cả
Cô Tư, vì nó rất tự nhiên.
Cái gọi là tự nhiên, là cái
viết mà như không viết, nhưng, để có được
như vậy, là nhờ cái nền của nó, là cái xã hội Ngụy, bị VC kết án tử.
Một tí tỉ tì ti tình mà cô bồi bàn cảm
thấy – cái khoảnh khắc mà cô gật gù, thằng chả mập này cũng đường được
- mới nhức nhối làm sao, khi,
sau đó, vào buổi tối, khi cô ở trên giường với Rudy, bạn trai của cô:
Đúng là cái
cảm tưởng, lén chồng, lên sân thượng “ngắm trăng sao", của người đàn bà
ngoại tình của
Camus: giá mà có tí ti thay đổi, nhỉ?
COMMENT J'ÉCRIS
|
|