|
Snow
Approaching on
the Hudson
Passenger
ferries emerge from the mist
river and
sky, seamless, as one -
watered ink
on silk
then
disappear again, crossing back over
to the other
shore, the World of Forms -
as-if-
there- were, as-if- there-were-not
The
buildings on the far shore ghostly
afloat,
cinched by cloud about their waists -
rendered in
the boneless manner
Cloud need
not resemble water
water need
not resemble cloud -
breath on
glass
The giant HD
plasma screen atop Chelsea Piers
flashing red
and green -
stamped seal
in a Sesshu broken ink scroll
A tug pushes
the garbage scow, left to right, toward the sea
passing in
and out of the Void-
vaporising
grey, temporal to timeless
Clouds wait,
brooding for snow
and hang
heavily over the earth -
Ch'ien
Wei-Yen
Bustle of traffic
in the sky, here, as well, on the shore below
obliterated
-
empty silk
The wind
invisible
spume blown
horizontal in the ferry's wake -
wind
atmosphere, river silk
Heat
The
blue-bellied fence lizards have died back
into stone
or the walls they attach themselves to,
drinking in
mineral and sun, proliferating
almost
before one's eyes,
a
slow-motion saurian mitosis
threatening
to blanket every surface,
a
reticulated vine with eyes and split tongues.
Gone,
overnight it would seem,
like the sun
at day's end below the horizon
but not
returning: a conjury, the Lord
retracting
his edict ofjiery serpents upon the Israelites-
disappeared
into a compost of shadow.
The
summer's
heat retreats slowly here in the valley,
a dusting of
snow already on the mountain summits.
Tirelessly, the roots of camphor and live oak
probe in the
loam for moisture -
roof tiles,
brass doorknobs, hot as griddles,
silence in
the village.
Thơ
Mỗi Ngày
October
Arriving
I only have
a measly ant
To think
with today.
Others have
pictures of saints,
Others have
clouds in the sky.
The winter
might be at the door,
For he's all
alone
And in a
hurry to hide.
Nevertheless,
unable to decide
He retraces
his steps
Several
times and finds himself
On a huge
blank wall
That has no
window.
Dark masses
of trees
Cast their
mazes before him,
Only to
erase them next
With a sly,
sea-surging sound ..
Charles
Simic
Tháng Muời tới
Tớ có con kiến nhảm nhí
Để suy tư, bữa
nay
Những người
khác có những hình thánh
Những người
khác, những đám mây trên bầu trời
Mùa đông hẳn
là chực sẵn, ngay ngoài cửa
Thì lẽ dĩ
nhiên, tất cả chỉ cho “ẻn”
Và, trong vội
vã, để lẩn trốn
Tuy nhiên,
khó có thể quyết định
Hắn lần những
dấu chân của mình
Vài lần, và
tìm thấy, chính hắn
Trên bức tường
rộng trống trơn
Không cửa sổ
Khối đen
cây lớn
Ném mê cung
của chúng, trước hắn
Chỉ để xóa đi,
liền đó
Bằng một tiếng
động, như biển dâng, kín đáo.
Used Book
Store
Lovers hold
hands in never-opened novels.
The page
with a recipe for cucumber soup is missing.
A dead man
writes of his happy childhood on a farm,
Of riding in
a balloon over Lake Erie.
A sudden
draft shuts his book in my hand,
While a
philosopher asks how is it possible
To maintain
the theologically orthodox doctrine
Of eternal
punishment of the damned
Let's see.
There may be sand among the pages
Of a travel
guide to Egypt or even a dead flea
That once
bit the ass of the mysterious Abigail
Who
scribbled her name teasingly with an eye pencil.
Charles
Simic
Tiệm Sách Cũ
Những kẻ yêu,
nắm tay nhau, trong những cuốn tiểu thuyết chẳng bao giờ được mở ra
Trang có cẩm
nang làm món súp cucumber, bị mất
Một người chết
viết về thời thơ ấu hạnh phúc của mình ở một trang trại
Về chuyến cưỡi
bóng bay qua Hồ Erie
Cuốn sách bị
giật khỏi tay tôi
Trong khi một
triết gia hỏi, làm thế nào
Gìn giữ chính
thống giáo
Về hình phạt
đời đời, dành cho những kẻ trầm luân?
Để coi nào.
Có thể có cát giữa những trang sách
Về một hướng
dẫn du dịch tới Ai Cập, hay là,
Ngay cả một con bọ chét chết
Có lần đợp mông
đít một em Abigail,
Đã từng nguệch
ngoạc tên em bằng cái cây viết chì dùng để tô lông mi.
Sunlight
As if you
had a message for me ...
Tell me
about the grains of dust
On my night
table?
Is anyone of
them worth you trouble?
Your
burglaries leave no thumbprint.
Mine, too,
are silent.
I do my best
imagining at night,
And you do
yours with the help of shadows.
Like
conspirators hatching a plot,
They
withdrew one by one
Into corners
of the room.
Leaving me
the sole witness
Of your
burning oratory.
If you did
say something, I'm none the wiser.
The
breakfast finished,
The coffee
dregs were unenlightening.
Like a lion
cage at feeding time-
The floor at
my feet had turned red.
Charles Simic
Minds
Roaming
My neighbor
was telling me
About her
blind cat
Who goes out
at night-
Goes where?
I asked.
Just then my
dead mother called me in
To wash my
hands
Because
supper was on the table:
The little
mouse the cat caught.
Charles Simic
Một Cái
Đầu Chỉ Biết Rong Chơi
Bà hàng xóm biểu Gấu
Về con mèo đen của Bả
Tối qua đi hoang
Đi đâu? Gấu hỏi
Đúng lúc đó, bà cụ đã mất của Gấu
Kêu vô rửa tay
Chơi tô súp, ở trên bàn:
Chú chuột nhắt
Con mi mi tó được.
Thơ Dã Viên
I
Tôi đã đến
bên anh,
những từ ngữ
lâu không được thắp sáng
và tôi ngồi
xuống bên anh
vây quanh
chúng ta là bóng tối
phảng phất
mùi nhang mùa cúng âm hồn
tiếng nói,
không cần ánh sáng
vẫn đêm ngày
vọng lên
nhưng không
giữ được nhịp của mình
đôi khi chỉ
là tiếng khàn từ nhiều thế kỷ trước
sót lại sau
nhiều trận đói
tôi đang
nghe anh nói nhưng âm thanh
như trôi về
từ xa xôi
từ rừng rú,
hang hốc, đầm phá, từ nước, và
từ đôi môi những
người đã thành ma rà
anh vê một
điếu thuốc để tâm trí
trở về từ những
vực tối
-chúng ta là
những bộ xương từ ngữ-
anh nói, từ
miệng túa ra một bụm khói.
IX
Nhà không là
nhà. Nhà là một vòm cong
dưới trời, bốn
bề màu xanh lá cỏ.
Bậc thềm là
Bờ. Trên đó những con người
đang miệt
mài cải tạo đô thị, trau chuốt vẻ ngoài
và che đậy
phần bên trong.
Dưới trời sao, họ lễ lạc, ca hát
nhảy múa. Thỉnh
thoảng có những con
người khóc
than, treo cổ lên chạc cây
hoặc nhảy xuống
nước…
Cửa không là
cửa. Cửa là một lỗ trống hoác hình
nửa mặt
trăng, nơi nhóm lửa chài khuya, đón
khách là
gió, khách chơi đò, hay ma rà
xoã tóc đêm
mưa. Là người con gái đang hát.
lời hoài cựu
hay về mối tình bi. Thường thường
về đêm, cửa
là một khoảng trông trống lạnh ngắt.
người hoạ sỹ
gác mái, nằm ngắm sao trời.
XXVI
Những ngôi
sao thì sáng
Chúng tôi ở
trong bóng tối
Những ngôi
sao nhìn thấy chúng tôi
bằng ánh
sáng mà chúng toả xuống
chúng thấy
gì?
Chúng tôi vận
toàn đồ đen
Những dòng
tóc dài đen
Chỉ nụ cười
chúng tôi nở trắng
Nước mắt chúng tôi có vị cát
mặn.
Dã Viên
HISTORICAL
IMAGINATION
WHILE STILL
A high school student hungry for knowledge, I often attended lectures
given by
well-known personages who would visit our provincial city.
Usually these were
specialists in very narrow areas: one speaker lectured on Elizabethan
theater,
another on the golden age of Dutch painting and yet another on
Stanislaw Wyspianski.
The public was usually made up of high school
students just like me and of
retired people. The first group wanted to know what the life awaiting
them was
about; the second was trying to understand what it had been.
Even the most
successful talks-for example, a splendid lecture on medieval
architecture given
by a tall, gray visitor from Warsaw, who spoke with such zeal that one
would
have thought he was presenting a plan for a city of the future-left
both groups
mildly disappointed, as they never brought answers to the fundamental
questions.
One day there was going to be a lecture on
historical imagination.
We, the frequenters of these meetings, always asked the director who
the next
guest would be. This time we were told that it would be neither a
historian nor
a scientist but a poet, and that he was very talented but not well
known. For many
years he had been in the authorities' disfavor, but then his situation
had
improved at least so he could publish and meet with the public. ("What
of
it," sighed my high school friend. "What of it, if the public did not
know him at all. The disfavor of the authorities is followed by the
disfavor of
the readers. ")
Finally he
appears. He speaks differently from those who lectured before him,
quietly,
almost without conviction, as if he did not believe that anyone would
understand him. There are exactly five people in the audience.
"We know so
little," he repeats. "We have given everything away to history. We
explain everything with history. The last war," he said, "was a
wretched misfortune not only because millions of innocent people died
in it.
Mainly. But in that war we lost not just the dignity of people who were
murdered after being put through interrogation and sentencing, but also
the
dignity of people who live as unhistorical, everlasting beings,
hopelessly
tangled in history but different from it, other.
"Have you noticed, ladies
and gentlemen," he asked us- five people: three high school students
and
two older women, one of whom fell asleep after a few minutes and slept
as soundlessly
as an Indian- have you noticed, ladies and gentlemen, that the poems,
novels,
or screenplays being written now blame everything on history? Have you
noticed
that we no longer exist, we, that is, people who are the heart of will,
of
thought, the lens of individual fate?
"Only history that fills, rents,
destroys, and exhaustively defines us is left. Historical imagination,
as you
most know, developed late but excessively, monstrously, parasitically,
devouring everything else, every other variety of imagination and
thought and
even depriving them of not freedom, no, but the least trace of dignity.
Long
ago we lived in the world as travelers who had accidentally come upon
scenes of
violence, death, battle. Some covered their eyes, others tried to run
away,
still others protested.
"We
were other, we came from elsewhere, evil amazed us, we did not
understand
suffering. Now everything has changed: we are historical. Some Stalin
or Hitler
stood at our cradle, shreds of uniforms were sewn into our suits; we
must
always avenge someone or save someone, and when it happens that we
ourselves
commit an error or a crime, historical imagination becomes our lawyer.
Why, it
is not me, we say, it is the epoch. We all did the same, we say, and
historical
imagination is our prompter.
"We
have become intimate with history, the borders between experience and
inexperience, between night and day, between music and statistics. But
I will
never agree to this; I prefer being mad to being historical, I prefer
being
ridiculous to being common, I prefer knowing nothing to understanding
everything.
"
He was
tired. He stopped and quickly left the auditorium, not waiting for
questions or
disagreements. We were left alone, we, five people of various ages. We
said
nothing and not one of us had the courage to waken the sleeping woman.
It was evening,
November; our watches ticked away quietly.
AZ: TWO
CITIES
Tưởng tượng
lịch sử
Ui chao đọc
bài này thì lại nhớ đến ngày 30 Tháng Tư 1975, và bài nhạc thần sầu của
1 nhạc
sĩ có 1 ông bố cực là nổi tiếng bị VC làm thịt ngay những ngày đầu Cách
Mạng:
Như có Bác Hồ
trong nhà thương Chợ Quán!
Đừng nghĩ là
Gấu THNM, mà Adam Zagajewski, đích thị xừ lủy!
Ông phán: Ta
thà trở nên khùng, bị ném vô nhà thương Chợ Quán, Biên Hòa, còn hơn là
“sống cùng
lịch sử”, thà là 1 tên nhố nhăng, cà chớn, còn hơn bình thường, chẳng
biết cái đéo
gì hết còn hơn là cái đéo gì cũng biết!
Nhân nhắc tới
“Sống Cùng Lịch Sử”, và ‘vấn nạn’, tại làm sao đếch có khán giả, tuy
chiếu đúng
vô dịp tưởng niệm Võ Tương Quân về Trời, Gấu bèn nhớ tới bài viết của
tờ Người
Nữu Ước, viết nhân vụ phim Lò Thiêu, Shoah, của Lanzmann, lại tái xuất
giang hồ.
Phim của Lanzmann, nói cái nào đó, thì cũng là 1 thứ “Sống Cùng Lịch
Sử”, tại làm
sao lại ăn khách, hà hà!
Witness
Vụ Tổng Công Kích Tết Mậu
Thân 1968 mà lực lượng chính là quân đội miền Bắc xâm nhập, đã thất bại
về mặt quân sự, nhưng mục tiêu bề trong thâm sâu của chiến dịch đó
chính là nhằm tiêu diệt những người chiến đấu chống chính quyền miền
Nam (VNCH) vì lý tưởng dân tộc chủ nghĩa (tin rằng Mỹ xâm lăng VN như
kiểu Tây thực dân), do đó đã phá nát lực lượng quân sự hậu thuẫn cho
phe MTGP miền Nam- Miền Bắc đã thành công trong mục tiêu đó, vì đã mượn
tay lực lương VNCH miền Nam để làm triệt tiêu trên 70% lực lượng chiến
đấu của MT Giải Phóng Miền Nam. Nhờ đó sau 1975, miền Bắc có thể áp đặt
quyền lực và mô hình kinh tế giáo điều XHCN trên toàn miền Nam mà không
bị phe miền Nam chống đối, cho dù kinh tế XHCN làm cho miền Nam phá
sản, sắp chết đói. (1)
Trước giờ, GCC nghĩ có 1 mình mình nhìn ra âm mưu thâm độc này, khi tố
cáo, trong cú Mậu Thân, anh VC Miền Nam nào cũng được hứa hẹn, cứ bám
trụ, sẽ có đại quân tiếp ứng!
Tuy nhiên, hai phe Cộng
Sản/Nazi cũng chơi nhau giống y chang VC Miền Bắc/VC Miền Nam.
Cái tay ký giả trên tờ The New Yorker, ["Shoah" and a new
view of history. BY DAVID DENBY], khi nhìn lại phim “Shoah”, là dựa
theo cái nhìn của tác giả cuốn "Bloodlands:
Europe Between Hitler and Stalin”:
As Snyder demonstrates,
the Nazis and the Soviets may have been trying to destroy each other in
the ferocious combat of 1941 to 1945, but, if one looks at the entire
thirteen-year period that he describes, the two totalitarian powers
occasionally acted in a kind of weird concert, in which each side
emboldened or even enabled the other. For instance, when the Soviets
murdered twenty-two thousand Polish reserve officers in the Katyn
forest, in 1940, they were mirroring the German slaughter of the Polish
professional classes in German- occupied western Poland. And when the
Polish Home Army revolted against the Germans in occupied Warsaw, in
1944, the Soviets, who had encouraged the uprising, fought and defeated
the Ger mans outside the city but then waited for months as the Nazis
crushed the Poles inside it. When the Soviets finally entered Warsaw,
they not only routed the Germans but, with the help of Polish
Communists, suppressed the surviving anti-Nazis, thereby finishing the
job of subduing the spirit of Polish independence. Without diminishing
in any way the Jewish Holocaust, Snyder insists that it should not be
seen as separate from the many other mass slaughters of civilians-the
millions of Poles, Belarusians, Balts, and Ukrainians killed for
political or ideological reasons, or merely because they were an
encumbrance that needed to be cleared away to make space for German or
Soviet occupancy.
Như Snyder chứng minh,
Nazi và Xô Viết có thể cố làm thịt lẫn nhau, trong cuộc đấu hung dữ từ
1941 đến 1945, nhưng, nếu có ai nhìn vào toàn thời kỳ 13 năm mà ông
miêu tả, thì hai tên siêu cường, đại ác, phát xít toàn trị lâu lâu, thi
thoảng lại đi một bản đồng ca, anh xướng tôi họa rất ư là kỳ kỳ, qua
đó, thằng nọ thay vì tính làm thịt thằng kia, thì lại hỗ trợ lẫn nhau,
y chang anh Tẫu, kẻ thù truyền kiếp của giống Mít, đã hỗ trợ anh VC Bắc
Kít suốt chiều dài cuộc chiến, trang bị đến cái lông chim anh Bộ Đội Cụ
Hồ, cũng “made in China”, chỉ đến khi anh Bắc Kít ăn cướp xong xuôi
Miền Nam thì mới đòi nợ. Stalin, khi ra lệnh tàn sát 22 ngàn sĩ quan
trừ bị Ba Lan ở Katyn vào năm 1940, là làm 1 cú đồng ca với việc làm
thịt những giai cấp chuyên nghiệp Ba Lan ở Đức của Nazi ở vùng đất Ba
Lan do Nazi chiếm đóng. Và khi lực lượng kháng chiến Ba Lan, the Polish
Home Army, làm cuộc nổi dậy ở Warsaw, vào năm 1944, Xô Viết đã đứng về
phía chính nghĩa của nhân dân Ba Lan, đánh tơi bời tụi Đức ở bên ngoài
thành phố, nhưng đợi hàng tháng trời, cho Nazi, ở bên trong thành phố,
làm cỏ đám nổi dậy. Cú này, cũng đã xẩy ra trong vụ Mậu Thân, Bắc Bộ
Phủ ra lệnh cho bộ hạ Miền Nam không được đụng tới những trại lính Mẽo,
và anh Mẽo, thì cũng chờ hàng tháng, coi bên nào thắng, thì mới ủng hộ
tiếp!
Đây là 1 cú tàn khốc của
BBP, thí hết đám Miền Nam, để sau 1975, không còn phải lo hậu họa, và
tiến hành Lò Cải Tạo.
Cũng thế, Snyder phán,
khi Xô Viết tiến vô Warsaw, họ không chỉ đánh đuổi Nazi, mà còn, với sự
hỗ trợ của CS Ba Lan, làm cỏ lực luợng chống Nazi còn sót lại, hoàn tất
tâm nguyện của cả hai, huỷ diệt tinh thần độc lập của Ba Lan.
Không hạ thấp cách nhìn Lò Thiêu của người Do Thái, Snyder nhìn nó bảnh
hơn nữa, không như là 1 hình thức khác biệt với những vụ tàn sát khác,
theo nghĩa Lò Thiêu.
RAYMOND
CARVER
THE BLUE
STONES
LỆ ĐÁ XANH
If I call
stones blue it is because blue is the
precise word, believe me.
-FLAUBERT
Nếu tôi gọi những giọt lệ này, lệ đá xanh, bởi là xanh đúng là từ, tin
tôi đi.
You are
writing a love scene
between Emma
Bovary and Rodolphe Boulanger,
but love has
nothing to do with it.
You are
writing about sexual desire,
that longing
of one person to possess another
whose
ultimate aim is penetration.
Love has
nothing to do with it.
You write
and write that scene
until you
arouse yourself,
masturbate
into a handkerchief.
Still, you
don't get up from the desk
for hours.
You go on writing that scene,
writing
about hunger, blind energy-
the very
nature of sex-
a fiery leaning
into consequence
and
eventually, utter ruin
if
unbridled. And sex,
what is sex
if it is not unbridled?
You walk on
the strand that night
with your
magpie friend, Ed Concourt.
You tell him
when you write
love scenes
these days you can jackoff
without
leaving your desk.
"Love
has nothing to do with it," you say.
You enjoy a
cigar and a clear view of Jersey.
The tide is
going out across the shingle,
and nothing
on earth can stop it.
The smooth
stones you pick up and examine
under the
moon's light have been made blue
from the
sea. Next morning when you pull them
from your
trouser pocket, they are still blue.
-for my wife
Parting
Three
hundred nights like three hundred walls
must rise
between my love and me
and the sea
will be a black art between us.
Nothing will
be left but memories.
o afternoons
earned with suffering,
nights
hoping for the sight of you,
fields along
my way, firmament
that I am
seeing and losing ...
Final as
marble
your absence
will sadden other afternoons.
-W.S.M.
J.L. Borges: Selected
Poems, Penguin Edition
Note: Bài thơ này, có tới
hai bản tiếng Anh, khác nhau, cùng do W.S Merwin dịch
Lên
đường
Ba trăm đêm như ba trăm
bức tường
Phải dựng lên giữa tình anh và anh
Và biển sẽ là nghệ thuật đen giữa đôi ta
Chằng còn lại gì nếu có chăng thì là kỷ niệm
Ôi những buổi chiều có được bằng khổ đau
Những đêm hoài vọng dáng em
Những cánh đồng trải dài con đường anh đi,
Bầu trời anh nhìn và mất dần...
Cuối cùng như cẩm thạch
Sự thiếu vắng em sẽ làm buồn những buổi chiều khác
Vũ Khí
Mùa Thu
Đấu tranh đi tới cực đoan
Khẩu hiệu đi tới cực đoan
Cây kéo ăn đá đi tới cực đoan
Tôi nghe không khí đang rụng rơi
Điều này hoàn toàn thích
hợp với mi
Trong mùa thu đời xưa
Một người chết vì điều này
Nuốt vào chán mứa
Nuốt cả hổ giấy
Mà miệng nhân dân không ngoác đến tai
Hôm nay tôi lại bắt đầu
Nghiên cứu các kiểu hi sinh
Thứ ánh sáng cao ngất trời
Xương cốt cách mạng sắc nhọn
Lúc này, ở Thành Đô
Mọi người ùa tới
Đưa xe hơi cho tôi
Đưa cực đoan cho tôi
Đưa bạo lực và quảng trường cho tôi.
Bá Hoa
Dã Viên
dịch, từ nguyên
tác tiếng TQ
Jorge Luis
Borges
Spanish
1899-1986
PARTING
Three
hundred nights like three hundred walls
must rise
between my love and me
and the sea
will be a black art between us.
Time with a
hard hand will tear out
the streets
tangled in my breast.
Nothing will
be left but memories.
(0
afternoons earned with suffering,
nights
hoping for the sight of you,
dejected
vacant lots, poor sky
shamed in
the bottom of the puddles
like a
fallen angel.. .
And your
life that graces my desire
and that
run-down and lighthearted neighborhood
shining
today in the glow of my love ... )
Final as a
statue
your absence
will sadden other fields.
1968
W.W. Merwin: Translations
Đi Xa
Ba trăm đêm
như ba trăm bức tường
Phải dựng
lên giữa tình Gấu và Gấu
Và biển sẽ
là nghệ thuật đen giữa đôi ta
Thời gian với
bàn tay tàn nhẫn sẽ xé nát
Những con phố
Xề Gòn ngày nào
Chằng chịt
trong ngực Gấu
Chẳng còn
chi ngoài kỷ niệm
(Ui những buổi
chiều có được nhờ đau khổ
Đêm mở ra bằng
cái thèm nhìn em,
những lô trống
buồn, bầu trời nghèo
Tủi hổ ở đáy
những vũng nước
Như một
thiên thần sa đọa...
Và đời em ân
sủng thèm muốn anh
Và cái khu
xóm xập xệ, vui tươi
Sáng ngời bữa
nay với tình anh…)
Cuối cùng
như bức tượng
Sự vắng mặt
của em
Sẽ làm buồn
những cánh đồng khác.
Note: Gấu tính dịch cái tít là “Một Mùa Thu Năm Qua Cách Mạng Tiến Ra”,
thuổng
PD, để tưởng niệm cuộc cách mạng của VC, nhân chúng mới bày ra triển
lãm CCRD.
Nhưng cái
tít cứ để nguyên như thế, thì lại nói ra được nhiều hơn thế nhiều, hà
hà!
Vũ Khí Mùa
Thu
CCRD đi đến
cực điểm
Khẩu hiệu CCRD
đi đến cực độ
Dao ăn đá chém
địa chủ đi đến cực điểm
Tôi nghe không
gian vỡ vụn, sụp đổ
Điều đó quá
hợp với VC chúng tớ
Trong mùa
thu cũ,
Cái gì gì,
Một mùa thu
năm qua cách mạng tiến ra….
Một người chết
Triệu triệu
người chết
Nuốt nỗi buồn
Và những con
hổ giấy
Dân Mít kéo
xệch miệng ra khỏi tai
Bữa nay, tôi
muốn khởi đầu, làm mới
Nghiên cứu mọi
kiểu hy sinh
Mặt trời chân
lý chiếu qua tim, sáng ngời ngời
Những cái xương
nhọn hoắt của cách mạng
Ngay lúc này
ở Chengdu
Mọi người xông
lên
Đưa xe cho tôi
Cho tôi cực điểm
Cho tôi bạo
lực và quảng trường
Winter 1986
Bá Hoa: Gió Nói
To DV: Mail
không thấy trả lời.
Hope
everything OK. NQT
Do you see a
poem as an experience or as an act?
Ông coi 1
bài thơ, là 1 kinh nghiệm, hay là 1 hành động?
One can't be
separated from the other. "Poetry is experience" - this is a
universally-known dictum from the German poet, Rilke. Even Nabokov who
detested
Rilke, also said, "Poetry is a distant past." But poetry must also be
an act - in a modern sense, and even more so in a post-modern context.
If I
must choose between the two of them, an old poet like me would go for
the
former.
Cái nọ không
thể tách ra khỏi cái kia. "Thơ là kinh nghiệm" – nhiều người biết câu
này, của nhà thơ Đức, Rilke. Ngay Nabokov, đếch ưa Rilke, cũng nói,
"Thơ
là quá khứ xa". Nhưng thơ cũng phải là 1 hành động - theo cảm quan hiện
đại,
và hơn thế nữa, trong nội dung hậu hiện đại. Nếu phải chọn, giữa hai,
một tên
thi sĩ già như tôi, sẽ chọn, thơ là kinh nghiệm.
How would
you describe the speaker(s) in your own poems?
Làm sao ông diễn tả [những] phát
ngôn viên trong thơ của chính ông?
According to
conventional principles in contemporary poetry, I am the director of
each poem.
I will direct every character in each mise en scène according to each
narrative. Thus, the speaker in my poems will also change accordingly,
playing
different roles with different pronoun references. In The Three Voices
of
Poetry, T.S. Eliot defines the three voices of poetry in the following
manner:
The first is
the voice of the poet talking to himself - or to nobody: The second is
the
voice of the poet addressing an audience, whether large or small. The
third is
the voice of the poet when he attempts to create a dramatic character
speaking
in verse; when he is saying, not what he would say in his own person,
but only
what he can say within the limits of one imaginary character addressing
another
imaginary character.
Theo những
nguyên lý quy ước trong thơ đương thời, tôi là giám đốc của mỗi bài
thơ. Tôi sẽ
hướng dẫn mọi nhân vật trong mỗi cú "bầy ra đấy", mỗi dàn dựng - lớn
hay nhỏ.
Như thế, phát ngôn viên trong thơ của tôi cũng sẽ thay đổi, theo như
thế đó, và
chơi những vai trò khác nhau, qua những đại từ khác nhau. Trong “Ba
GiọngThơ”,
Eliot định nghĩa:
Thứ nhất là
giọng của thi sĩ với nói chính mình - hoặc đếch với ai
Thứ nhì, giọng
thi sĩ nói với thính giả, ít hoặc nhiều
Thứ ba, giọng
thi sĩ, khi anh ta toan tính tạo 1 nhân vật bi kịch, nói bằng thơ...
Vũ Khí
Mùa Thu
Đấu tranh đi tới cực đoan
Khẩu hiệu đi tới cực đoan
Cây kéo ăn đá đi tới cực đoan
Tôi nghe không khí đang rụng rơi
Điều này hoàn toàn thích
hợp với mi
Trong mùa thu đời xưa
Một người chết vì điều này
Nuốt vào chán mứa
Nuốt cả hổ giấy
Mà miệng nhân dân không ngoác đến tai
Hôm nay tôi lại bắt đầu
Nghiên cứu các kiểu hi sinh
Thứ ánh sáng cao ngất trời
Xương cốt cách mạng sắc nhọn
Lúc này, ở Thành Đô
Mọi người ùa tới
Đưa xe hơi cho tôi
Đưa cực đoan cho tôi
Đưa bạo lực và quảng trường cho tôi.
Dã Viên
dịch, từ nguyên tác
That one
remaining, barely moving leaf
The wind couldn't get to fall
All winter long from a bare tree -
That's me! Thinks the old fellow,
The one they
roll out in a wheelchair
So that he can watch the children
Play in the park, their mothers
Gossip all day about their neighbours
While
pigeons take turns landing
And taking off from a newly arrived hearse
Parked in front of the parish church,
Dragging his gaze along as they do.
Charles
Simic
LRB [London
Review of Books] May 9 2013
Trong thời gian ngọt
ngào của riêng nó
Cái lá còn lại,
lâu lâu khẽ run 1 phát
Từ cái cây
trần-trụi-thùi-lụi
Suốt mùa đông
dài
Là Gấu đấy
Gió đếch làm
sao làm rụng được, ít ra là vào lúc này
Thằng chả ngồi
xe lăn
Được đẩy ra
công viên
Nhìn lũ trẻ
nô đùa
Mẹ của chúng
thì buôn chuyện tối ngày
Về lối xóm
của họ
Khi bồ câu xếp
hàng
Chờ tới lượt
xà xuống
Hay cất cánh
từ một cái xe tang mới tới
Đậu ngay đằng
trước nhà thờ giáo khu
Cũng lết lết
cái nhìn, từ con mắt lé của nó
Như lũ chim.
Without a
Sough of Wind
Against the
backdrop
Of a twilight
world
In which one
has done so little
For one's
soul
She hangs a
skirt
On the
doorknob
Put s a foot
on the chair
To lake off
a black stocking
And it’s
good to have eyes
Just then for
the familiar
Large swinging
breast
And the
cleft of her ass
Before the
recital
Of that long
day's
Woes and
forebodings
In the warm
evening
With the
drone of insects
On the
window screen
And the lit
dial of a radio
Providing
what light there is
Its sound
turned much too low
To make out
the words
Of what sounds
like
A silly old
love song
Charles
Simic: New and selected poems
Không một cọng
gió
Chống lại cái
nền của thế giới chạng vạng/loạng quạng
Trong đó, chẳng
ai làm gì được, dù chỉ một tí ti
Cho linh hồn
Gấu Cà Chớn
Nàng treo cái áo thun
Lên núm cửa
Để một cẳng
lên ghế
Lột cái vớ đen
Lúc này Gấu thoải
mái làm sao
Chiêm ngưỡng
cái quen thuộc
Cái gì gì, “ta
về ta tắm ao ta”, là
Cặp vú bự ơi
là bự
Lắc ơi là lư
Ui chao, cái
gì gì, như là 1 đường nứt đen đen
Ở chảo của nàng
Trước cuộc
trình diễn
Về những nỗi
thống khổ và những điềm gở
Của ngày dài
Trong buổi
chiều ấm áp
Với tiếng o
o của bầy ong
Trên màn kính
cửa sổ
Và cái chấm
sáng tìm đài của cái la dô
Thì cứ kể như
ánh sáng, “thôi thì thôi cũng thế thôi”,
Là thế đó
Âm thanh quá
trầm, quá nhỏ
Để bật lên
thành lời
Nhưng đúng là
1 bài tình ca của cái tay họ Trịnh cà chớn.
Ba lịch sử [bản dịch mới]
Có, ít ra là ba lịch sử
khác nhau, không phải một: lịch sử của sức mạnh, lịch sử của cái
đẹp, và lịch sử của khổ đau. Chỉ có hai cái đầu là được lên bảng, ít
hoặc nhiều.
Chúng có những vì giáo sư, có những cuốn sách, sổ học. Nhưng khổ đau
đếch có dấu vết.
Nó câm, nói về mặt lịch sử. Một tiếng la, khóc, thét… làm sao… kéo dài, hà, hà! Cũng đếch có một cái “note
symbol” - biểu tượng ghi chú - để đại diện cho nó, và làm cho nó kéo
dài.
Chính vì thế
mà thật là khó khăn để mà hiểu yếu tính của Lò Cải Tạo, của Lò Thiêu.
Từ cái nhìn
của lịch sử của sức mạnh, nó là một thời kỳ không đáng nghiên cứu cặn
kẽ. Làm sao
so được với đỉnh chao chói lọi, chiến thắng Điện Biên, Điện Biên Phủ
Trên Không,
thí dụ? Nhưng với lũ Ngụy, vốn thuộc dòng lịch sử của khổ đau, thì nó
là cơ bản,
là trung tâm, là tất cả - chúng làm đéo gì có 1 thứ lịch sử nào khác,
hà, hà!
Đau
đớn thay bất hạnh thay, đếch có thứ lịch sử của khổ đau, Những nhà sử
học của
nghệ thuật cũng đếch thèm quan tâm đến Trại Tù VC, Lò Cải Tạo.
Chứng cớ rõ ràng
là lũ VC, chúng đâu có nhớ có 1 thời kỳ chúng dâng vợ con của chúng cho
Tẫu, để ăn
cướp Miền Nam, nghĩa là để làm ra cái gọi là lịch sử khổ đau cho Lũ
Ngụy!
Trại Tù VC ư? Rừng thượng du Bắc Kít, bầu trời lùn tịt, sương trắng
Cổng Trời, đám họa
sĩ VC chưa từng triển lãm tranh về nó, và họa sỡi Ngụy thì cũng không!
THREE
HISTORIES
THERE ARE AT
least three different human histories, not one: the history
of force, the history of beauty, and the history of suffering.
Only the first two are cataloged and recorded, more or less.
They have their professors and their textbooks. But suffering
leaves no traces. It is mute. That is, mute historically. A scream
does not last long, and there is no note symbol to represent it
and make it last.
That is why
it is so difficult to understand the essence of Auschwitz.
From the point of view of the history of force, it was an
episode, undeserving of closer study. How much more interesting
was the Battle of Wagram, for example. As the history of
suffering, Auschwitz was fundamental. Unfortunately, the
history of suffering does not exist. Art historians are not
interested in Auschwitz either. Mud, barracks, low skies. Fog
and four skinny poplars. Orpheus does not stroll this way.
Ophelia doesn't choose to drown here.
Adam Zagajewski: Two Cities
Ba lịch sử [cũ]
Có ít nhất là ba lịch sử
con người khác nhau, không phải một. Lịch sử sức mạnh. Lịch sử nhan
sắc, và lịch sử của sự đau khổ. Chỉ hai cái đầu là được nghiên cứu, xếp
loại, ghi chú, ghi âm, ghi nhận… nhiều hoặc ít. Chúng có những vị giáo
sư, những sổ sách. Nhưng đau khổ đếch để lại một vết tích. Nó câm.
Nghĩa là, câm, về mặt lịch sử mà
nói. Một tiếng la đâu có kéo dài. Và đếch có 1 biểu tượng, sử
dụng như là ghi chú, tiểu chú cái con mẹ gì đó, để thay mặt nó, trình
nó ra, và làm cho nó có tuổi thọ.
Chính vì thế mà thật là khó khăn khi tìm, hiểu, cái gọi là yếu tính của
Lò Thiêu. Nhìn từ quan điểm lịch sử của sức mạnh, thì nó là một thời
kỳ, không đáng để bỏ công nghiên cứu, gần hay không gần, xa hay không
xa. Cuộc chiến tranh thần thánh đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, thí dụ, bảnh
hơn nhiều, cần nghiên cứu cho ngàn ngàn đời sau.
Nhìn từ lịch sử của khổ đau, Lò Thiêu là cơ bản, là chủ yếu. Nhưng than
ôi, làm đếch gì có thứ lịch sử của khổ đau?
Những sử gia của nghệ thuật cũng đếch thèm để ý đến Lò Thiêu. Bùn, trại
tù dây kẽm gai, bầu trời lùn tịt. Thềm sương mù lù tà mù, rừng bạch
dương trơ xương. Orpheus đâu có đi dạo hướng đó. Ophelia đâu chọn nơi
chốn tệ hại như thế để mà trầm mình.
Adam
Zagajewski: Two Cities
Vila-Matas
@ ML
Kafka:
Trước Pháp Luật
Bản dịch tiếng Anh mới nhất
IN FRONT OF
THE LAW
IN FRONT OF
the Law stands a doorman. A man from the country comes to this doorman
and asks
to be admitted to the Law, but the doorman says that he can't allow him
to
enter. The man reflects on this and then asks if he can assume that
he'll be
allowed to enter later. "It's possible," says the doorman, "but
not now." Since the gate to the Law remains open and the doorman steps
to
the side, the man bends down to look through the gate into the
interior. When
the doorman notices this, he laughs and says, "If it tempts you so
much,
try to get in despite my warning. But know this: I'm powerful, and I'm
only the
lowliest doorman. In every chamber stands another doorman, each more
powerful
than the one before. Though powerful myself, the very gaze of the third
is more
than I can endure." The man from the country hadn't anticipated such
difficulties;
the Law is supposedly accessible to anyone at any time, he thinks, but
now, as
he looks at the doorman in his fur coat more carefully, at his large,
pointed
nose, the long, thick, black Cossack beard, he decides to continue
waiting
until he receives permission to enter. The doorman gives him a stool
and lets
him sit down to the side of the door. There he sits for days and years.
He
makes many attempts to be admitted and wears out the doorman with his
pleas.
The doorman often subjects
him to a series of questions, asks him about his home and many other
things,
but they're questions posed in a detached way, the sort that great
lords pose,
and in the end he always repeats that he still can't grant him entry.
The man, who
had fully equipped himself for his journey, uses everything he has, no
matter
how valuable, to bribe the doorman. The latter accepts everything but
says at
the same time: "I'm only accepting this so that you won't think that
you've overlooked something." Over the many years the man watches the
doorman
almost constantly. He forgets about the other doormen, and this first
one seems
to him to be the only obstacle between him and access to the Law. He
curses his
bad luck, in the first years recklessly and loudly; later, as he grows
old, he continues
only to grumble to himself quietly. He becomes like a child, and since
in his
perennial observations of the doorman he has come to know even the
fleas in the
collar of his fur coat, he even asks the fleas to help him change the
doorman's
mind. Finally, his vision becomes weak, and he doesn't know whether
it's
getting darker around him or his eyes are only deceiving him. But now
he recognizes
in the darkness a brilliance which radiates inextinguishably from the
door of
the Law. He doesn't have much longer to live now. As he's near the end,
all of
his experiences of the entire time culminate in a question that he
hasn't yet
asked the doorman. Since he can no longer raise his stiffening body, he
motions
to him. The doorman must bend very low for him since their difference
in height
has changed much to the latter's disadvantage. "What do you want to
know
now?" asks the doorman. "You're insatiable." "Everyone
strives for the Law," says the man. "How is it that in these many
years no one except me has asked to be admitted?" The doorman realizes
that the man is already near the end, and to reach his failing ears he
roars at
him: "No one else could be admitted here because this entrance was for
you
alone. I'll now go and close it."
Trước Pháp Luật
Trước Pháp
Luật có tên gác cửa. Một người nhà quê tới và xin phép vô, nhưng tên
gác nói, ta
không thể cho phép. Người nhà quê suy nghĩ về vụ này và rồi hỏi liệu
lát nữa,
có được không. Tên gác nói, “có thể”, nhưng “lúc này thì chưa”. Bởi là
vì cửa mở,
và tên gác thì đứng né qua 1 bên, cho nên người nhà quê bèn cúi xuống
dòm vô
bên trong. Tên gác bèn cười và nói, Nếu mi thèm như thế, thì cần gì ta,
cứ vô đại
đi.
Tay dịch giả
này, có bằng tiến sỡi dịch, và những tiểu chú của ông về tại làm sao
lại dịch lại
Kafka, cực thú, Gấu có scan, và sẽ dịch cùng với truyện ngắn Trước Pháp
Luật.
Kết cục thì nó phải như thế đó: Đếch làm
sao giải thích được!
Trên TLS, số 7 Sept 2012,
GABRIEL JOSIPOVIC điểm 1 số sách mới ra lò về Kafka - vị thầy gối đầu
giường của Sến - đưa ra nhận xét, vào cái ngày 23 Tháng Chín này, thì
kể như là đúng 100 năm, ngày Kafka viết cái truyện ngắn khủng ơi là
khủng, “Sự Xét Xử”. Và có thể nói, vào giờ này, độc giả chúng ta cũng
chẳng hiểu ông nhiều hơn, so với những độc giả đầu tiên của ông, và có
lẽ sự thể nó phải như thế, nghĩa là nó phải chấm dứt bằng cái sự đếch
làm sao hiểu được Kafka!
Ở đây, cũng phải đi 1
đường ghi chú ngoài lề!
1. Cuốn Bếp Lửa
của TTT, chấm dứt bằng lá thư của 1 tên Mít, là Tâm, bỏ đất mẹ ra đi,
đếch thèm trở về, viết cho cô em bà con, buộc vào quê hương thì phải là
ruột thịt, máu mủ. (1)
Quái là, đây cũng là nhận xét của Walter Benjamin, về Kafka: Cái con
quái vật, con bọ VC, do Chúa Sẩy Thai mà có đó, nó chỉ trở thành bọ,
vào 1 buổi sáng, khi ngủ dậy, ở trong căn nhà của bố mẹ nó.
Điều này giải thích, sự
kiện, Nobel Toán Mít phải nhận cái nhà cho bố mẹ xong xuôi, rồi mới bỏ
đi được!
2. Cuốn Sinh Nhật
của bạn quí của Gấu, khi mới ra lò, Gấu đề nghị, nên đổi tít, là Sinh
Nhạt, và còn đề nghị viết bài phê bình điểm sách, “Đi tìm 1 cái mũ
đã mất”:
Ui chao, đây đúng là chuyện xẩy ra với tác phẩm của Kafka, theo bài
điểm trên như đoạn sau đây cho thấy:
Truyện ngắn mà Brod gọi là
"Prometheus", được kiếm thấy trong Sổ Tay Octavo Notebooks, của Kafka, đã
được gạch bỏ [crossed out]. Câu kết thúc của truyện: “Giai thoại thường
toan tính giải thích cái không thể giải thích; bởi vì dưng không trồi
lên sự thực [chữ của TTT, trong Cát
Lầy], nó phải lại chấm dứt trong không thể cắt nghĩa được”
[Nguyên văn: "Legend attempts to explain the inexplicable, because it
arises from a ground of truth, it must end in the inexplicable”]
Nói rõ hơn, nhân loại
không làm sao đọc được Kafka vì có 1 thằng cà chớn Gấu "nào đó",
nẫng mẹ mất cái nón đội đầu của ông!
Bạn quí của ông, là Brod, thì cắt mẹ mất chim của Kafka, để biến ông
thành Thánh!
Thánh đâu cần chim!
(1)
Thanh,
Không ngờ Thanh còn nhớ đến anh.
Anh cảm động khi đọc thư. Anh tưởng nơi quê hương không còn ai nhớ đến
anh nữa. Đôi lúc anh vẫn ân hận rằng anh không buộc với xứ sở một dây
liên lạc nào ngoài anh ra. Nguời ta gặp nhau ở ngoài phố rồi quên nhau
ngay, thì ở quê hương hay một phương trời nào khác gì nhau.
Một hôm tình cờ anh nghe đài phát thanh và được gặp giọng hát Thanh.
Vẫn giọng ấy. Trở về mái nhà xưa. Anh định viết cho Thanh nhưng anh
nghĩ biết đâu, Thanh chẳng đã quên anh rồi như mọi người. Được thư
Thanh anh phải cám ơn Thanh nhiều.
Thanh lại sống một mình. Nga đã lấy chồng. Chắc Nga thôi viết văn rồi
nhỉ? Bên này anh cũng có người bạn gái là văn sĩ nổi danh. Thanh hát
lại là phải, anh đã chẳng nói thế sao? Vợ chồng Minh vẫn mạnh khỏe,
được mấy cháu rồi? Hãy nói với Minh lấy tên anh đặt cho một đứa con của
Minh để anh được đinh ninh anh còn nhiều liên lạc với quê hương.
Chúng ta là những người sinh ra để đi một mình suốt đời. Thanh hãy can
đảm nhận lấy điều ấy. Đi một mình suốt đời khó nhọc đấy chứ. Không có
một sự gì ràng buộc ta, thật là bất hạnh.
Những buổi trời lạnh, tự sửa soạn bữa ăn lấy, anh nhớ Thanh hơn hết.
Anh chỉ còn có Thanh và chắc Thanh chỉ còn có anh. Hãy cho anh sự tin
tưởng khi anh có dịp trở về quê hương, anh đã có sự ràng buộc, ấy là
Thanh. Không phải những người bạn. Bạn chưa đủ. Buộc vào quê hương phải là những
người cùng máu mủ với mình.
Chúng ta phải tự tạo lấy sự ràng buộc nhau để cùng bám chặt quê hương,
nếu không chúng ta sẽ mất trong sự quên lãng.
Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng.
Tâm
Viết xong tại Thủ Dầu Một
vào tháng 10-1956
Đọc cái thư thấy sến ơi là
sến.
Nhưng
phải như thế, thì mới cân bằng được với cái nội dung của 1 cuốn sách,
viết về anh Bắc Kít, Hà Lội, chưa sống đã già, chưa già đã chết, trong Bếp
Lửa.
Thơ
Mỗi Ngày
Poems
September 15, 2014 Issue
Japanese
Maple
By Clive
James
Your death,
near now, is of an easy sort.
So slow a
fading out brings no real pain.
Breath
growing short
Is just
uncomfortable. You feel the drain
Of energy,
but thought and sight remain:
Enhanced, in
fact. When did you ever see
So much
sweet beauty as when fine rain falls
On that
small tree
And
saturates your brick back garden walls,
So many
Amber Rooms and mirror halls?
Ever more
lavish as the dusk descends
This
glistening illuminates the air.
It never
ends.
Whenever the
rain comes it will be there,
Beyond my
time, but now I take my share.
My
daughter’s choice, the maple tree is new.
Come autumn
and its leaves will turn to flame.
What I must
do
Is live to
see that. That will end the game
For me,
though life continues all the same:
Filling the
double doors to bathe my eyes,
A final
flood of colors will live on
As my mind
dies,
Burned by my
vision of a world that shone
So brightly
at the last, and then was gone.
Note: Bài
thơ thần sầu. Gấu & Bạn quí của Gấu đều cùng đọc, và cùng gật gù:
Chết ở đít
mi rồi đấy
Ui dào, nhằm
nhò gì ba cái lẻ tẻ!
Đâu thấy đau
đớn gì đâu.
Hơi thở ngắn
dần.
Thì cũng có tí khó chịu.
Óc như cạn
khô đi, nhưng suy tư - nhớ H/A vưỡn nhớ -
Và cái nhìn còn nguyên như bữa ở cà
phê Starbucks, Cali!
Hà, hà!
The Shadow
Bạn đọc TV
chắc còn nhớ ban nhạc này, với cái guitar điện. Có bản Apache ở đây.
Lại nhớ ông
anh nhà thơ.
Ngồi La
Pagode, nhắc tới bản nhạc này, ông nói, từ tiếng đàn Cung Văn và trò
Lên Đồng của
Mít.
Nghe, quả
đúng như thế!
Cám ơn
bạn VBT
NQT
Ít ra cũng phải đi 1 đường "ca tụng thân xác", thay vì, thô tục nhơ
bửn, "rửa bướm như rửa rau"!
Czeslaw
Milosz: “A Book of Luminious Things”.
GCC tính chuyển qua word,
nhưng post bài thơ, thay cho
"the nakedness of a woman"!
Cú nào nàng đánh
vô hồn Gấu
Cú nào nàng
thọi vô hồn Gấu
Cái cô nàng
khỏa thân với cái vòng cổ bằng vàng & cặp vú ngà
Cái thân thể
trần trụi kia mới thần sầu làm sao
Nó làm bật
ra cả một dòng sông
Nàng lên, như
trăng lên:
Từ bồn tắm, và chải ngược mớ tóc
thả xuống ngực
Đi một
đường tới vùng tối sáng chập choạng
Ôi linh hồn
khốn khổ của ta ơi, Gấu Cà Chớn!
Cú nào nàng đánh vô hồn mi
Khiến, cho đến
lúc này, mi vưỡn còn đang run rẩy!
WALKING
I never run into anyone
from the old days.
It's summer and I'm alone in the city.
I enter stores, apartment houses, offices
And find nothing remotely familiar.
The trees in the park-were
they always so big?
And the birds so hidden, so quiet?
Where is the bus that passed this way?
Where are the greengrocers and hairdressers,
And that schoolhouse with
the red fence?
Miss Harding is probably still at her desk,
Sighing as she grades papers late into the night.
The bummer is, I can't find the street.
All I can do is make
another tour of the neighborhood,
Hoping I'll meet someone to show me the way
And a place to sleep, since I've no return ticket .
To wherever it is I came from earlier this evening
Charles Simic
Đi Bộ
Tớ chẳng đụng đầu với 1 kẻ
nào quen thuộc ngày nào
Mùa hạ, tớ một mình trong thành phố
Tớ đi vô mấy tiệm, mấy căn nhà, mấy văn phòng
Và chẳng kiếm thấy 1 cái gì quen quen ngày xưa.
Cây trong công viên – Xưa
chúng cũng to lớn như vậy ư?
Và những con chim, cũng ẩn ẩn, im ắng như thế?
Cái xe buýt đi qua lối này, đi đâu?
Những cửa tiệm bán rau quả, tiệm cắt tóc?
Rồi cái ngôi trường giống
như căn nhà với cái hàng rào đỏ?
Cô Harding chắc vẫn ngồi ở bàn giấy
Thở dài khi sắp xếp giấy tờ muộn vào đêm
Chán mớ đời, tớ không kiếm ra con phố.
Tất
cả những gì mà tớ làm, là làm 1 tua nữa vòng vòng khu xóm
Hy
vọng kiếm ra ai đó chỉ đường chỉ hướng cho tớ đi
Và
kiếm ra 1 chỗ để mà ngủ, bởi vì tớ quên mua vé khứ hồi
Trở
về bất kỳ chỗ nào, tớ tới từ đó, vào đầu buổi chiều.
Note: Đúng
là cái lần Gấu trở lại con hẻm cũ, nhà ông anh nhà thơ, Xóm Gà.
Đếch làm sao kiếm ra nhà. Tới căn nhà yên chí là nhà ngày nào, đếch
phải, đành đi trở ra, nhưng bực quá, vô lý quá, lại quay lại, và 1 bà
trong xóm bèn nói lớn, vọng tới Gấu, cái nhà có hai ông sĩ quan đi cải
tạo ở đằng kia kìa, ở cuối cái sân....
Tới đó, thì bèn “ơ rơ ka” một phát, và tự nhủ thầm, tại làm sao mà lại
quên được nhỉ!
Thiếu mấy con chim nhảy lò cò ở bãi biển, nhưng thay vào đó, là mấy con
gà đang lang thang trong sân đất…

Two
Poems by Adam Zagajewski
SELF-PORTRAIT IN A LITTLE MUSEUM
A swarthy Christ watched me
from small trecento paintings;
I didn't understand his gaze,
but I wanted to open up before it.
A rapt, darked-haired Christ,
unswervingly attentive,
bounded by Byzantium's gold frame,
watched me while my thoughts
were elsewhere-
I followed, with growing vexation,
an elderly couple, French:
in the quiet museum, nearly empty,
he read out loud, too loud,
from the appropriate page in the guidebook.
Chân dung tự họa trong một viện bảo tàng nhỏ
Một đấng Ky Tô da ngăm
ngăm đen ngắm tôi,
từ những bức họa trencento nhỏ;
Tuy không hiểu cái nhìn của Người
Nhưng tôi muốn trải lòng ra trước cái nhìn đó
Đấng Ky Tô tóc đen, trong
cái khung Byzantium bằng vàng,
chăm chú theo dõi tôi, còn tôi thì thả hồn đi đâu đâu –
Tôi nhìn theo một cặp vợ
chồng già, người Pháp,
Và thật là bực:
Trong viện bảo tàng im ắng, gần như chẳng có ai,
Ông chồng đọc lớn, quá lớn,
một trang vừa ý, trong cuốn cẩm nang chỉ dẫn.
Pour saluer Semprun
La première
est de Maurice Blanchot : « Qui veut
se souvenir doit se confier à l’oubli, à
ce risque qu’est l’oubli absolu et à ce beau hasard que devient alors
le
souvenir ».
[Kẻ nào muốn
nhớ là phải “bán mình” cho lãng quên, cho rủi ro chẳng nhớ 1 tí chó gì
về em hết,
và cho nỗi tình cờ tuyệt vời, chính cái này sẽ trở thành kỷ niệm để
đời, "không
nàm sao quên lổi"]
La seconde
est d’André Malraux : « … je cherche
la région cruciale de l’âme où le Mal
absolu s’oppose à la fraternité ».
Người nào mong mỏi hoài
nhớ chắc hẳn đã tin
rằng có lãng quên, tin rằng có sự rủi ro tiếp đó là sẽ quên tuốt tuột,
và chính
từ sự ngẫu nhiên tuyệt vời này mà kỷ niệm được hình thành.
Người ta biết
rằng sẽ quên, không chừng quên tuốt, nên biến những gì đáng nhớ thành
ký ức, để
sau này khỏi quên đó mà .
K
I seek the
crucial region of the soul where absolute Evil and fraternity clash.
-Andre
Malraux
Tôi tìm vùng
chủ yếu của linh hồn, nơi Cái Ác tuyệt đối và tình anh em đụng độ
Có Ðức Ông “Don”
Quichotte, trong Jorge Semprun, vừa mới mất, 87 tuổi. Nhưng 1 Don được
những cơn hỗn mang của thế kỷ 20 đẽo gọt, tạo dáng. Ông là đứa con trai
của chiến tranh. Từ đầu đến
chân, ngửi chỗ nào cũng có mùi chiến tranh. Và thế là ông không làm sao
ra khỏi.
Như thể, lúc nào ông cũng cà khịa với 1 kẻ nào đó, hay 1 điều gì đó. Ba
cuộc
chiến quần ông nát bấy người, chúng biến thành gia tài của… riêng ông:
cuộc chiến
Tây Ban Nha, vũ trụ trại tập trung Nazi, và hoạt động bí mật dưới cờ VC
quốc tế
cho tới năm 1964.
“You ask what haunts my
writing,” Mr. Semprún said in 2007. “Well,
after the camp there was the moral question of being a Communist.
Trying to
explain the folly and the necessity of that choice. Trying to show how
it came
to be my raison d’être, and why this dead star hovered for so long
above the
previous century. Here are my obsessions, in no particular order:
torture, the
camps, the Jewish experience during the Holocaust, the singularity of
that
experience in the larger context of deportation. It is not easy to
reflect on
these issues today. Historically, the most significant pitfall has been
the
most dangerous — silence, the refusal to talk about what happened.”
“Ông hỏi, cái gì ám ảnh cái
viết của tôi”. “Sau trại tù thì lòi ra
câu hỏi đạo đức về cái chuyện là 1 tên CS. Cố gắng giải thích sự khùng
điên và
sự cần thiết của chọn lựa đó. Cố chứng tỏ, bằng cách nào một bữa đẹp
trời nó
biến thành lý do hiện hữu, và tại làm sao ngôi sao chết lại lửng lơ lâu
đến như
thế trên thế kỷ vừa qua. Ðây là những ám ảnh của tôi, không theo một
trật tự
đặc biệt nào: tra tấn, trại tù, kinh nghiệm Do Thái trong thời kỳ Lò
Thiêu.
Tính đặc thù của kinh nghiệm này ở trong một nội dung rộng lớn hơn là
tống xuất.
Không dễ dàng suy nghiệm những đề tài này vào những ngày này. Nói theo
tính
cách lịch sử, cạm bẫy ý nghĩa nhất thì nguy hiểm nhất – im lặng, chối
từ không
nói về những gì xẩy ra”.
C'est la mort de Primo
Levi qui est à l'origine de L'Écriture ou la Vie , n'est-ce pas
?
Oui. Primo Levi était un
de ceux qui semblait avoir le mieux assumé la mémoire de la mort. Il
avait
acquis une certaine sérénité, était revenu à la fin de sa vie avec un
livre qui
n'était pas un roman mais un essai d'ordre sociologique. Et puis un
jour, il se
suicide. Je peux très bien imaginer ce qui se passe alors. Nous sommes
un 11
avril. Le mois d'avril est en Europe le mois des commémorations liées à
la
déportation. Cette mémoire dominée, maîtrisée, assagie, éclate de
nouveau. Ce retour
du printemps est toujours très angoissant pour l'être humain en général
et pour
le déporté en particulier. Quel mois terrible et terrifiant, cela fait
trois
ans à peine qu'il est devenu à mes yeux un mois comme les autres...
L'effroyable leçon des
camps n'est-elle pas de constater que la liberté de l'homme, c'est de
pouvoir
faire tout le Bien et tout le Mal ?
Absolument. La grande
leçon spirituelle, métaphysique, philosophique, c'est que le Bien et le
Mal
sont ancrés dans l'homme parce qu'il est libre. La théologie catholique
a eu
beaucoup de mal à se sortir de cette question. Elle a inventé la ligne
du Bien
qui conduit à Dieu et la ligne du Mal qui est celle de la liberté
humaine. La
théologie catholique prend des risques énormes, car si la seule fois où
l'homme
est libre, c'est-à-dire peut se détacher de Dieu, c'est pour faire le
mal,
voilà qui ouvre à une théologie du Mal extrêmement dangereuse. Or on
est obligé
d'accepter cette réalité. On ne peut exiger la disparition de la
pulsion de
Mal. Tout juste peut-on construire des barrières efficaces, des schémas
de
droits, d'obligations et de contraintes sociales pour que prévale la
capacité
du Bien. Sans pour autant vouloir construire un homme nouveau, synonyme
d'utopie sanguinaire et sanglante. L'homme nouveau est
toujours un monstre.
Source
Cái chết của Primo Levi là
nguồn của cuốn Viết hay Ðời?
Ðúng thế. Primo Levi có vẻ như
là nhà văn bảnh nhất trong cái việc
“cưu mang” hồi ức của cái chết. Ông viết về nó, một cách thanh thản,
cuối đời
lại ban cho đời 1 cuốn sách, không phải tiểu thuyết mà một tiểu luận xã
hội.
Thế rồi 1 ngày đẹp trời ông tự tử. Tôi thật sự nghĩ mình hiểu được, và
tưởng
tượng ra được điều gì khiến ông làm như thế. Chúng tôi ở vào cái ngày
30, ấy
chết xin lỗi, 11, Tháng Tư. Tháng Tư là cái tháng chết tiệt không phải
chỉ ở
nước Mít mà ở toàn Âu Châu, tháng tưởng niệm tống xuất. Cái hồi ức này,
được
kìm giữ, lại bật tung ra. Sự trở lại của Tháng Tư luôn luôn là 1 nhức
nhối đau
thương, không chỉ cho loài người mà còn cho riêng từng kẻ bị tống xuất.
Thật
khủng khiếp, thật kinh sợ, riêng tôi phải mất 3 năm thì mới chịu nổi
nó.
Bài học ghê rợn về trại tù phải
chăng là từ nó, con người suy
nghiệm ra chân lý: tự do của con người, đó là khả năng làm tới chỉ, cả
hai thứ,
Cái Thiện và Cái Ác?
Ðúng tuyệt đối.
Bài học lớn tinh thần, siêu hình, triết học, đó là Thiện và Ác thì cắm
rễ ở
trong con người bởi là vì nó tự do.
Thần học Ky Tô nhức nhối khi đụng vô câu hỏi này, và nhức nhối, làm sao
thoát
khỏi. Nó phịa ra hai dòng, dòng Thiện đưa đến Chúa, và dòng Ác là dòng
của sự
tự do của con người. Thần học Ky Tô ôm vào nó đủ thứ rủi ro, ấy là bởi
vì, một
khi con người tự do một cái, là nó vờ Chúa, nếu Chúa làm quá, thì làm
thịt Chúa
luôn, để làm điều Ác, từ đó mở ra con đường, hay lý thuyết thần học về
Cái Ác
Tuyệt Ðối, cực kỳ nguy hiểm.
Chúng ta bắt buộc phải chấp nhận thực tại này. Chúng ta không thể nào
đòi hỏi
phải khu trục đến tận triệt để Cái Ác, 1 tiếng « cà rựt »,
của nó,
cũng không. Người ta có thể xây dựng thành lập những rào cản hiệu quả,
nhưng
phương án, đồ án về quyền lợi, bổn phận, và những cưỡng chế xã hội, để
làm bốc
lên Mùi Thiện. Nhưng, chớ bao giờ có cái ham muốn thay mặt Chúa, tạo ra
một con
người mới, sặc mùi không tưởng, sặc mùi máu, sặc mùi VC quốc tế!
Bởi vì thứ con người mới mà Bác H mơ tưởng đó, là 1 Con Quỉ.
Luôn luôn là như vậy
Vila-Matas
@ ML
ML Janvier 2008, Simone de
Beauvoir
Buồn với
"Nỗi buồn chiến tranh"
Báo Le Magazine Littéraire mới nhất,
về Simone de Beauvoir, trong mục thường xuyên của nó, Sổ Đọc, [Carnet
de Lecture], có một bài viết tuyệt vời về nhân vật Kurtz, của Trái Tim
Của Bóng Đen, của Conrad, nhân dịp tái xuất bản tuyệt tác này. Ông Từ
giữ đền "Sổ Đọc" này, Enrique Vila-Matas, là người Tây Ban Nha, viết
bằng tiếng Tây Ban Nha, được dịch qua tiếng Pháp Kurtz
des ténèbres [Kurtz của bóng đen].
Vila-Malta
viết về Conrad:
Ông gia nhập truyền thống rất xa xưa, theo đó, cái gọi là kỷ luật, sự
tu luyện phải đến từ bên trong, bởi vì đây chính là sức mạnh tâm thần
bật ra từ thiên tài về nơi chốn của chính bạn, le genius loci, nói một
cách khác, từ chính chúng ta.
[Joseph
Conrad adhérait à la tradition la plus ancienne, selon laquelle la
discipline doit venir de l'intérieur, puisqu'il s'agit d'une force
mentale émise par notre propre génie du lieu, le genius loci, autrement
dit nous-mêmes. L'homme ne se libère pas en donnant libre cours à ses
impulsions et en se montrant changeant et incapable de se contrôler,
mais en soumettant la force de sa nature à un projet prédominant, à un
code mental d'acier qui sache éliminer sa liberté la plus sauvage et le
situer dans le cadre d'une vie disciplinée, en faisant appel aux
desseins intérieurs du génie du lieu.]
*
Còn một bài viết nữa, trong cùng số báo, cũng thật tuyệt, của Linda Lê,
trong mục thường xuyên của bà, "Trở về với những tác giả cổ điển". "Tẩu
khúc của
thần chết", Missa sine nomine, nguyên tác tiếng Đức, của
Ernst Wiechert. Một bản di chúc tâm linh của một người sống sót trại tù
Buchenwald.
Bài
viết cũng khiến Gấu liên tưởng đến
Cánh Đồng Bất Tận.
Đối diện với điều không thể nói được, không thể gọi
tên, viết về sự phạm tội và cứu cuộc, liệu vẫn còn có nghĩa?
Câu trả lời:
Tiếng nói của tôi được
vời tới, và nó kể
[Ma voix a été appelée,
et elle raconte].
Của Gió và Nước
Nhưng Trái tim của Bóng Đen mà dịch là Bóng tốì của
Trái tim, thì tiếu lâm quá. Đây là Lê Đình Nhất Lang, của Da Mầu dịch,
trong nước, tay Cương Thi, bèn thuổng luôn!
Nếu như thế, cái tít Nỗi buồn chiến
tranh lại đúng hơn so với Thân
phận Tình Yêu!
Thơ
Mỗi Ngày
The Initiate
St. John of
the Cross wore dark glasses
When he
passed me on the street.
St. Therese
of Avila, beautiful and grave,
Came at me
spreading her wings like a seagull.
"Lost
soul," they both cried out,
"Where
is your home?"
I was one of
death's juggling balls.
The city was
a mystic circus
With all of
its lights dimmed,
The night's
performance already started.
On a wide,
poorly lit avenue,
Store
windows waited for me,
Watched for
me coming,
Knew what
thoughts were on my mind.
In a church,
where the child killer,
So the
papers said,
Hid himself
one night from the cold,
I sat in a
pew blowing on my hands.
Like a
thought forgotten till called forth-
The new snow
on the sidewalk
Bore fresh
footprints-some unknown master
Offering to
guide my steps from now on.
In truth, I
had no idea what was happening to me.
Four young
hoods blocked my way,
Three dead
serious,
One smiling
crazily as he laid his hand on me.
[suite]
Khai tâm, vỡ
lòng
Thánh St. of
the Cross đeo kiếng đen
Khi Ngài đụng
tôi trên phố
Thánh
Therese of Ávila, đẹp làm sao, ngầu làm sao
Tới với tôi
dang rộng cánh như… Hải Âu!
"Linh hồn lạc
lối!", cả hai la lớn,
"Nhà của… con
ở đâu?"
Con là 1
trong những trái banh tung hứng của Thần Chết
Thành phố là
một rạp xiếc thần bí
Với tất cả
ánh sáng lù tà mù của nó
Cuộc trình diễn đêm bắt đầu
Trên đại lộ
Hồng Thập Tự dài thòng, rộng lớn, tối thui
Những khung
kính cửa sổ tiệm đợi tôi
Căn me,
trông ngóng tôi tới
Biết, như đi
guốc trong đầu, thằng chả đang nghĩ gì
Trong nhà thờ,
tên giết con nít
Thì báo chí
nói như vậy
Tự nó chui
vô trốn, một đêm lạnh
Tôi ngồi
trên 1 ghế dài, thổi phù phù vào bàn tay của mình
Như 1 ý nghĩ
bị bỏ quên cho đến khi Thần Chết gọi lớn –
Tuyết mới
trên vỉa hè
Mang vết
chân mới tinh - một vì sư phụ vô danh
Đề nghị dẫn
dắt những bước chân của tôi, kể từ giờ này.
Sự thực Gấu
cũng đếch biết chuyện gì xẩy ra cho mình nữa
Ba tên lưu
manh trẻ măng chặn đường Gấu
Ba tên thật trầm trọng, tụi tao làm thịt mi liền bi giờ
Một, cười khùng điên, ba trợn, trong khi đặt tay lên Gấu.
The Lives of
the Alchemists
The great
labor was always to efface oneself,
Reappear as
something entirely different:
The pillow
of a young woman in love,
A ball of
lint pretending to be a spider.
Black
boredoms of rainy country nights
Thumbing the
writings of illustrious adepts
Offering
advice on how to proceed with the transmutation
Of a figment
of time into eternity.
The true
master, one of them counseled,
Needs a
hundred years to perfect his art.
In the
meantime, the small arcana of the frying pan,
The smell of
olive oil and garlic wafting
From room to
empty room, the black cat
Rubbing
herself against your bare leg
While you
shuffle toward the distant light.
And the
tinkle of glasses in the kitchen.
Charles
Simic: New and selected poems
Những cuộc đời
của những bậc giả kim
Lao động lớn
luôn là để xóa chính mình
Tái xuất hiện
như một cái gì hoàn toàn khác:
Cái gối của
một nường đang yêu,
Trái banh vải
giả đò là một con nhện
Buồn chán đen
thui, của những đêm mưa tỉnh lẻ, nhà quê
Giở những
trang viết của những bậc giả kim nổi tiếng
Đưa ra lời cố
vấn, làm thế nào để tiếp diễn trò biến hóa
Một mẩu thời
gian tưởng tượng, thành vĩnh cửu
Vị "Thầy của
Thầy", như Thầy K. thí dụ, một kẻ trong số họ, lèm bèm,
Cần đúng, đủ, bách niên
Để đẩy nghệ
thuật của Thầy tới mức tuyệt hảo
Trong khi đó,
bí quyết nho nhỏ của cái chảo chiên,
Mùi dầu
olive và thoáng mùi tỏi
Từ phòng tới
phòng trống, con mèo đen
Cọ cọ mình vô
cái chân trần của em
Trong lúc em
thả mình về phía ánh sáng xa xa
Và tiếng
linh tinh, linh tinh của những chiếc ly ở nhà bếp.
In Praise of
Worms
I only have
faith in you, Mr. Worm.
You are
efficient and dependable
As you go
about your grim business
There's a carcass
of a dead cat
Waiting for
you in a roadside ditch
And cries
from an outdoor birthday party
As one young
girl spins and falls
With a
blindfold over her eyes
Underneath
some trees festooned
With
pennants and Chinese lanterns.
A stroke of
lightning and a few raindrops
Is all it
took to make them 'run indoors
And restore
the peace in their yard,
So you could
take cover under a leaf
And go over
your appointment book,
Cross out a
name here and there,
Ponder an
address or two and set out
In your slow
way to pay someone a visit
Among the
rich scents of summer night
And the sky
brimming with stars.
Charles
Simic: New and selected poems
Bài ngợi ca
Giun
Tớ chỉ có niềm
tin ở nơi mi, Mr. Tin Văn, ấy chết xin lỗi, Mr. Giun
Mi thì hữu
hiệu, và tin cậy được
Khi chăm lo
cái bi-zi-nét chẳng thích thú chi của mi
Có xác con mèo
chết
Đang đợi mi ở
cái rãnh bên con lộ
Và những tiếng
than khóc từ một bữa tiệc sinh nhật ngoài trời
Một cô gái
trẻ lảo đảo và té
Với miếng vải
bịt mẹ cặp mắt của cổ
Ở bên dưới đám
cây kết thành tràng hoa
Với những cái
dây có móc, như thòng lọng, và những cái đèn lồng của Tẫu
Một cú sấm sét
và vài giọt mưa
Tất cả ba cái
lẩm cẩm đó khiến tớ bỏ vô trong
Và trả lại hòa
bường cho khu vườn của họ
Mi có thể núp
dưới cái lá
Và đi 1 đường
kiểm tra cuốn sổ hẹn của mi
Gạch bỏ một
cái tên, chỗ này, chỗ nọ
Cân nhắc 1,
hay 2, cái địa chỉ, và lên đường
Thì vưỡn
theo cái cách nhẩn nha của mi
Làm 1 cú viếng
thăm ai đó
Giữa những
mùi đậm đặc, giầu có của một đêm hè
Và bầu trời đầy sao.
Thơ
Mỗi Ngày
/notes_1/burden_childhood.html
Note: Bài này đang hot
Trong bài Gánh nặng tuổi thơ,
Graham Greene viết:
"Có vài nhà văn, khác nhau, như Dickens khác Kipling, chẳng ai giống
ai, nhưng đều có chung nỗi bất hạnh, chẳng làm sao hất đi được: gánh
nặng tuổi thơ. Đứa con nít bị tống vô một xưởng máy đen thui, trong
trường hợp Dickens, còn với Kipling, là những ngày tháng ăn cơm thừa
canh cặn nhà bà cô Aunt Rosa, bên một con đường cát bụi vùng ngoại ô,
cả hai đều chẳng bao giờ quên được. Tất cả những kinh nghiệm sau đó của
họ, đều như dính mắc tới những tháng, những năm bất hạnh đó."
"Thường thì cuộc đời tàn nhẫn nhe bộ nanh hung hãn của nó ra khi chúng
ta đã có tí ti kinh nghiệm, để mà tự vệ. Thê thảm nhất, là bị nó cắn
vào những năm tháng còn thơ dại như trên."
*
Giả như phải tìm một lời giải thích cho sự hiện hữu của một cái xuồng
chứa toàn những cay đắng ngày nào, (1) thì có lẽ những lời phán của
Greene xem ra cũng đặng.
Hai tuổi thơ bất hạnh của Gấu, đực và cái, đã tìm cách nương tựa vào
nhau, đâu lưng tự vệ, trước nanh vuốt của cuộc đời, "sống sót hai chế
độ, trốn thoát một cuộc chiến, trốn thoát hai quê hương, một Nam, một
Bắc, tìm ra được quê hương đích thực cho dòng Gấu, và sau cùng, trốn
thoát cả một lô những ông bạn quí hoá."

The Watcher
The light
enters and I remember who I am; he is there.
He begins by
telling me his name which (it should now be clear) is mine.
I revert to
the servitude which has lasted more than seven times ten years.
He saddles
me with his rememberings.
He saddles
me with the miseries of every day, the human condition.
I am his old
nurse; he requires me to wash his feet.
He spies on me in mirrors, in mahogany, in shop
windows.
One or
another woman has rejected him, and I must share his anguish.
He dictates
to me now this poem, which I do not like.
He insists I
apprentice myself tentatively to the stubborn Anglo-Saxon.
He has won
me over to the hero worship of dead soldiers, people with
whom I could scarcely exchange a
single word.
On the last
flight of stairs, I feel him at my side.
He is in my
footsteps, in my voice.
Down to the
last detail, I abhor him.
I am gratified
to remark that he can hardly see.
I am in a
circular cell and the infinite wall is closing in.
Neither of
the two deceives the other, but we both lie.
We know each
other too well, inseparable brother.
You drink
the water from my cup and you wolf down my bread.
The door to
suicide is open, but theologians assert that, in the subsequent
shadows of the other kingdom, there
will I be, waiting for myself.
-A.R.
J.B. Borges
W.S. Merwin,
nhà thơ nhà nước, the US Poet Laureate, và còn là 1 nhà dịch thơ thần
sầu. Ông được
Pulitzer Prize về Thơ, hai lần. Rồi the National Book Award. Quan niệm
về thơ dịch
của ông, y chang ông tiên chỉ Võ Phiến, làm đếch gì có thứ thơ dịch,
nhưng ông
làm ngược lại, nghĩa là dịch thơ, vì theo ông, chỉ có độc nhất cách đó,
để chứng
tỏ điều Ngài Tiên Chỉ xứ Mít phán!
Tuyệt!
Only the
original is unique and absolute: it essentially cannot exist "in other
words." And one part of the impossibility of translating any poem is
the
fact that what we want the translation to be exactly what it never can
be, the
original. Yet the impossibility of the whole enterprise is part of the
perennial temptation to try again.
W.S. Merwin: Listening
for the
original: A Retrospective foreword
[in “Selected Translations”]
Chỉ có
nguyên tác là độc nhất, tuyệt đối: nó không thể hiện hữu, yếu tính mà
nói,
"trong những từ khác". Cái sự bất khả dịch một phần là do sự kiện, điều
chúng ta muốn, dịch thuật, thì đúng là điều chẳng thể là, nguyên
tác.
Tuy nhiên, sự bất khả của trọn nhiệm vụ bất khả thi, là 1 phần của cái
mồi
ngon: té, té nữa, té cho bảnh.
ELEGY FOR A
WALNUT TREE
Old friend
now there is no one alive
who
remembers when you were young
it was high
summer when I first saw you
in the blaze
of day most of my life ago
with the dry
grass whispering in your shade
and already
you had lived through wars
and echoes
of wars around your silence
through days
of parting and seasons of absence
with the
house emptying as the years went their way
until it was
home to bats and swallows
and still
when spring climbed toward summer
you opened
once more the curled sleeping fingers
of newborn
leaves as though nothing had happened
you and the
seasons spoke the same language
and all
these years I have looked through your limbs
to the river
below and the roofs and the night
and you were
the way I saw the world
W.S. Merwin: The
moon before morning
Bi khúc cho
cây walnut
Bạn cũ bây
giờ chẳng còn ai
Nhớ khi em còn
trẻ
Đó là một mùa
hè rực rỡ khi anh gặp em lần đầu
Trong ánh sáng
chói chang của ban ngày của cuộc đời đã qua của anh
Cỏ khô thì
thầm trong cái bóng của em
Và em thì đã
trải qua những cuộc chiến
Âm vang của
chúng quấn quít sự im lặng của em
Qua những ngày
lên đường và những mùa vắng mặt
Với căn nhà
trống rỗng như những ngày tháng bỏ đi theo cách của chúng
Cho đến khi nó
trở thành nhà của lũ dơi và lũ sẻ
Và cho đến
khi mùa xuân bò về phía mùa hè
Em một lần nữa,
mở ra những ngón tay ngái ngủ, khum khum
Của những
chiếc lá mới sinh, như thể chẳng có gì xẩy ra
Em và mùa màng
nói cùng một thứ tiếng nói
Và tất cả những
năm tháng đó, anh nhìn qua em
Tới con sông
nằm ở bên dưới, tới những mái nhà, tới đêm
Em là cách mà
anh nhìn thế gian này
Poems
September 8, 2014 Issue
Almost
Like the Blues
By
Leonard Cohen

I
saw some people starving
There
was murder, there was rape
Their
villages were burning
They
were trying to escape
I
couldn’t meet their glances
I
was staring at my shoes
It
was acid, it was tragic
It
was almost like the blues
I have to
die a little
Between
each murderous thought
And
when I’m finished thinking
I
have to die a lot
There’s
torture and there’s killing
There’s
all my bad reviews
The
war, the children missing
Lord,
it’s almost like the blues
I let my
heart get frozen
To
keep away the rot
My
father said I’m chosen My mother said I’m not
I
listened to their story
Of
the Gypsies and the Jews
It
was good, it wasn’t boring
It
was almost like the blues
There is no
G-d in heaven
And
there is no Hell below
So
says the great professor
Of
all there is to know
But
I’ve had the invitation
That
a sinner can’t refuse
And
it’s almost like salvation
It’s
almost like the blues
Blues,
hầu như Blues
Tôi nhìn thấy vài người chết đói
Có sát nhân, có hãm hiếp
Làng mạc của họ đang bị cháy
Họ cố trốn chạy
Tôi không dám đụng vô ánh mắt của họ
Tôi nhìn xuống giầy mình
Như cường toan, như bi thảm
Blues, hầu như blues
Tôi phải chết 1 tí
Giữa mỗi ý nghĩ sát nhân
Và khi tôi ngừng suy tư
Tôi phải chết thật nhiều
Có tra tấn, và có giết người
Có tất cả những nhìn lại xấu của tôi
Chiến tranh, những đứa trẻ mất tích
Chúa ơi, blues, xém 1 tị.
Tôi để trái tim của mình đóng
băng
Để tránh khỏi thối rữa
Ông già tôi nói, ta được chọn
Bà già, không có ta trong đó nhe
Tôi lắng nghe câu chuyện của họ
Về những người Bô hê miêng, người Do Thái
Được, được, không đến nỗi chán
Blues, hầu như blues
Làm gì có G-d ở Thiên Đàng
Và cũng làm gì có Địa Ngục ở bên dưới
Một Thầy vĩ đại như Thầy K đã nói như thế
Vế tất cả những gì cần biết
Nhưng tớ có giấy mời
Mà 1 tên đại tội lỗi như tớ không thể nào từ chối
Thì hầu như là Cứu Chuộc
Hầu như là blues
Blues không xanh mà blues đen
Đen
Một người da
đen một khúc hát đen
Bầu trời đen
sâu không cùng
Những dòng
nước mắt
Xé nát thân
thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng giọng của
máu của tuỷ của hồn bắt đầu ngày tháng
Giữa rừng
không lời rừng mãi trống không
Ném mình ném
đám đông vào trần truồng tủi cực hờn xác thịt
Tan vỡ hôm
qua hôm nay kể gì ngày mai
Tội rằng
không quên chẳng thể được quên
Vì Blues
không xanh vì điệu Blues đen
Trên màu da
nức nở
Trong hộp
đêm
Bắt đầu chảy
máu thầm kín khóc cổ họng mình
Ngón tay cấu
lấy ống kèn như một bùa thiêng
Chọn ngoài
thể xác ngoài thương yêu ngoài dữ tợn
Chọn thế giới
va chạm những loài kim réo gọi
Thời gian mềm
Không gặp thời
gian
Không gian
quay thành những vòng kỉ niệm
Rồi một buổi
nào Blues hiện về xanh.
TTT
Vì blues
không xanh, vì điệu blues đen
Trên màu da
nức nở
(«Đen», Sáng
Tạo, số 8, tháng 5-1957)
Trong những bài
viết về TTT, bài của Đặng Tiến tưởng niệm nhà thơ, khi ông mất, thần
sầu, vì nối
được cả 1 cõi văn Mít, và còn nối nó với thế giới.
Đọc TTT như thế, còn làm
rõ ra mảng văn học Miền Nam trước 1975, trong lịch sử văn học
Mít.
Đâu có
khốn nạn như lũ mất gốc Mít ở Paris. Chúng vờ hẳn nó, không nhận ra,
nếu không
có TTT, thì cũng không có Bảo Ninh, thí dụ, cũng như, không có những
Nguyên Hồng,
Nguyễn Đình Thi, làm sao có TTT.
Về phong cách, Bếp lửa là một tác phẩm
làm mới văn chương chữ nghĩa theo nhận định của Nguyễn Quốc Trụ trong
bài đã dẫn. Vậy mới, là so với cái gì, và mới ra sao?
Trong một bài viết tưởng mộ Nguyễn Đức
Quỳnh, tác giả Thằng Kình,
Thanh Tâm Tuyền 1974 đã viết: «Cùng với Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Thằng Kình là quyển tiểu thuyết
quan trọng đối với tôi. Đó là quyển sách đã vỡ lòng, đã mở mắt (…) Tôi
không phải là người của một vài quyển sách. Trước và sau khi đọc Thằng Kình, Những ngày thơ ấu, tôi
đã đọc hầu hết tiểu thuyết Việt Nam, tôi hiểu được giá trị, tôi cảm
được cái hay của nhiều tác giả khác nhưng chỉ có hai tác giả Nguyễn Đức
Quỳnh và Nguyên Hồng gây được ở tôi lòng ngưỡng mộ. Văn chương phát
sinh từ lòng ngưỡng mộ. Nên tôi không bao giờ quên ơn người đã khơi dậy
lòng ngưỡng mộ nơi tôi». [4]
Một lời tình tự như vậy, ở một người
ít tự sự như Thanh Tâm Tuyền là quý hoá, là một chìa khoá đưa ta vào
thế giới tiểu thuyết, mối hạnh phúc đau đớn, bắt đầu từ Bếp lửa, rồi đến Khuôn mặt, Dọc đường, Cát lầy, Ung thư, Mù
khơi, Tiếng động…
Đối với Thằng Kình (1942, Hàn Thuyên, Hà
Nội), niềm ngưỡng mộ có lẽ dừng lại ở nội dung mới lạ của tác phẩm,
thêm chút tình riêng với tác giả. Chứ nhân vật Kình, khỏe mạnh, tự tin,
tích cực, rất xa với nhân vật truyện Thanh Tâm Tuyền; hành văn rậm rạp
của Nguyễn Đức Quỳnh cũng xa với lối viết trần trụi trong Bếp lửa.
Gần nhau hơn là Những ngày thơ ấu, Nguyên Hồng viết
năm 1938, khi 20 tuổi, như trường hợp
Bếp lửa, dưới dạng tự truyện ở ngôi thứ nhất. Bằng giọng văn đơn
giản, Nguyên Hồng kể lại tuổi thơ cơ cực, một cách thành thực, như
chuyện người mẹ ngoại tình bị gia đình nhà chồng hắt hủi mà đứa con một
mực yêu thương. Nhưng cơ bản thì hai truyện khác nhau: Những ngày thơ ấu là tự truyện của
một người, dĩ nhiên là mang nét xã hội;
Bếp lửa là truyện một thế hệ thanh niên ưu thời mẫn thế, mang
nặng chất trí thức và chính trị. Nguyên Hồng viết đơn giản, nhưng thỉnh
thoảng vẫn có những đoạn văn chương, ví dụ ngay ở chương I (Tiếng kèn): «Những buổi chiều vàng
lặng lẽ… Buổi chiều nào cũng vậy…», không hề có trong Bếp lửa. Và trong một bài báo,
«Nhân nghĩ về hội hoạ», 1956, Thanh Tâm Tuyền khước từ lối «văn chương
có thể đặt tên là văn chương của bài tập đọc, luận mẫu cho học trò»
(Văn 11/1973, tr. 78). Từ đó, đem Bếp
lửa ra giảng dạy ở học đường là việc khó, vì khó tìm ra một vài
trích đoạn tiêu biểu gọi là «trích diễm». Kinh nghiệm của tôi: yêu cầu
sinh viên phải đọc toàn bộ tác phẩm, rồi đưa ra những chủ đề tổng hợp,
về hình thức, nội dung. Ví dụ lối kể chuyện đơn tuyến, một mạch theo
dòng thời gian, không một lần quay lại quá khứ – cho dù có rơi rớt một
vài kỷ niệm – về người mẹ và bà ngoại. Lối dùng từ bình dị, ưu tiên cho
từ đơn âm, ít từ kép, càng ít từ Hán - Việt. Lối đặt câu ngắn, có khi
cụt ngủn, có khi lược từ. Câu văn cô đúc, có lúc khó hiểu, như là lời
nói nén chặt nội tâm: «Một bên đường cỏ hoang và núi đóng đồn binh»
(tr. 47). «Ngọn núi bắt đầu thấy cứng mình vì nghe nắng sắp về dữ dội»
(tr. 87). Câu được nhiều người nhắc: «Buổi sáng mùa đông ngây ngất vào
lối 10 giờ» (tr. 11). «Buổi chiều ngất ngư chưa muốn ngã» (tr. 28).
Nhưng nét mới quan trọng là không khí
chung của toàn truyện Bếp lửa,
không phân biệt nội dung, tư tưởng, hình thức, nghệ thuật và ngữ pháp.
Thậm chí người đọc có thể hỏi: Bếp lửa, bếp lửa nghĩa là gì?
Với tôi, có lẽ thêm vài kẻ bạn, Bếp lửa là
một bài hát.
Bài hát «chỉ được nghe một lần trong
đời. Bài hát xưa lắm, những người thích nó kẻ đã chết, người còn sống
thì quên không nhắc lại. Riêng tôi, tôi thường thì thầm với chính mình
những phút cô đơn» [5] .
Có ai đó đã viết đâu đó về âm hưởng
nhạc blues trong thơ Thanh Tâm Tuyền, tôi chỉ biết ông đã thiết lập
quan hệ mật thiết giữa các bộ môn nghệ thuật. Điều này, ngày xưa, nhóm
Tự Lực đã làm, nhưng còn hời hợt, dù rằng nhà văn Nhất Linh, nhà thơ
Thế Lữ, khởi đầu là những sinh viên trường Mỹ thuật. Thời đó, họ chỉ
đặt những tác phẩm nghệ thuật bên cạnh nhau. Hoạ hoằn lắm mới có bài
Nguyễn Tuân về tranh Nguyễn Phan Chánh. Ở Việt Nam, không có nhà thơ
sành hội hoạ như Baudelaire, cũng không có tình bằng hữu giữa các nhà
thơ như Aragon, Eluard với hoạ sĩ Picasso hay Chagall ở Pháp. Thanh Tâm
Tuyền thật sự muốn bắc cầu giữa các bộ môn nghệ thuật, nhất là giữa thơ
và hội hoạ, và thân thiết với các hoạ sĩ Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Duy
Thanh, bài «Nhân nghĩ về hội hoạ» viết năm 1956 - hai mươi tuổi - ông
đề tặng ba người ấy.
Hoạ sĩ Thái Tuấn kể lại rằng trong một
cuộc triển lãm năm 1958, ông có bức sơn dầu vẽ một người đàn ông đội mũ
đeo ống sáo trên vai, chừng mực nào đó, là một chân dung tự hoạ; ông
không biết đặt tên là gì. Thanh Tâm Tuyền đề nghị gọi là «Hoá thân»,
Thái Tuấn rất tâm đắc. Ý nhà thơ: anh vẽ cái gì thì cũng là hoá thân
vào bức hoạ, tranh nào rồi cũng thành chân dung hoạ sĩ. Nghe chuyện,
tôi cứ nghĩ Thanh Tâm Tuyền mượn ý từ một tựa đề tiểu thuyết của Kafka.
Đọc lại bài báo nói trên, tôi mới vỡ lẽ ông tham chiếu vào một chuyên
khảo về nghệ thuật của Malraux Những
hoá thân của Apollon – les Métamorphoses d’Apollon, 1951, và ông
thường tâm đắc với Malraux.
Ông viết trong bài «Nhân nghĩ về Hội
hoạ»:
«Tôi
công nhận nghệ thuật như một nghề như
mọi nghề khác khi tôi hiểu rằng muốn làm được nghệ thuật người ta cũng
cần học hỏi, luyện tập như tập sự bất cứ nghề gì. Đến đó thôi. Khi
những nhà nghệ sĩ chân chính, để bảo đảm sự thành thực của tác phẩm, đã
mang sinh mệnh chính mình ra thách đố, thì lúc ấy nghệ thuật không còn
là một nghề nữa, nó là hành động siêu việt của nhân loại trong cuộc tìm
kiếm đời sống chính đính» (Văn, số đặc biệt đã dẫn, tr. 78).
Đoạn trích văn này có thể
tóm lược quan niệm và sự nghiệp văn thơ, nghệ thuật của Thanh Tâm
Tuyền, và làm kết từ cho bài này
Note: «Buổi sáng mùa đông ngây ngất
vào
lối 10 giờ» (tr. 11).
Câu này, trong ấn bản đầu:
"Buổi sáng mùa đông ngây ngất, trưa
còn xa."
Bếp Lửa
Bếp
Lửa trong Văn Chương
Ui
chao, mới đọc lại một tí, mà thấy sướng điên lên được!
Gấu "1973" đây ư?
Muốn tìm một cách đọc
khác cho Bếp Lửa, có lẽ phải làm như Marx nói: Giải phóng nó ra
khỏi cái vỏ huyền hoặc, để tìm lại cái nhân thuần lý.
Ui chao, hoá ra hồi đó đã
"rành" Marx như thế này ư? Mà đọc câu này ở đâu nhỉ?
Hình như từ Pour Marx
của Althusser?
Nếu thế, có thể đếch phải
Marx, mà Althusser phán, và sau này, khi hấp hối, thú nhận [trước bàn
thờ], "chúng ta" đã phịa ra cả một nền triết học ảo cho Marx!
Nhân nhắc tới
Đặng Tiến, có ngay ĐT:
o

Tien Dang
Hoan nghênh Nhị Linh
ngay thẳng và dũng cảm đi ngược thời thượng.
GCC đã đi
trước NL, khi chê “Đèn Kù Nách” rồi.
Mà có gì mà “ngay thẳng,
dũng cảm,
đi ngược”?
Viết như kít, thì chê. Cỡ TDT mà làm như đứa con nít!
Ngay
cả bài viết về TDT của Bùi Tín cũng nhảm! NQT
Thơ
Mỗi Ngày
Late Call
A message
for you,
Piece of
shit:
You
double-crossed us.
You were
supposed to
Get yourself
crucified
For the sake
of the Truth ...
Who? Me?
The smallest
bread crumb
Thankfully
overlooked on the dinner table.
A born
coward.
A perfect
nobody.
And now
this!
In the
windowpane,
My mouth
gutted open.
Aghast.
My judges
all wearing black hoods.
It must be a
joke.
A big
misunderstanding, fellows.
A wrong
number, surely?
Someone
else's dark night of the soul.
Charles
Simic
Cú gọi muộn
Một “mét-xì”
cho mi,
Thằng chó chết:
Mi phản bội,
chơi trò hai mang với chúng ông
Mi xứng đáng
bị đóng đinh thập tự
Nhân danh Sự
Thực…
Ai? Gấu Cà
Chớn?
Mẩu bánh
mì
Trên mặt bàn
bữa tối
Đếch ai thèm
để ý
Một kẻ hèn
nhát, ngay từ lúc bò ra khỏi… lòng mẹ
Một tên hoàn
toàn vô tích sự
Và bây giờ,
cú này!
Trên khung cửa
sổ,
Miệng Gấu toang
hoác
Khiếp quá
Mấy ông tòa
của Gấu thì đều mặc áo đen chùm đầu.
Đúng là thằng
nào chơi Gấu đây
Tụi mi hiểu
lầm Gấu rồi, bồ tèo, bạn quí!
Gọi nhầm số,
hẳn là vậy rồi?
Đêm đen linh
hồn của thằng chó nào, đếch phải GCC
Madame
Thebes
That awful
deceit of appearances.
Some days
Everything
looks unfamiliar
On my
street.
It's
somebody else's life I'm living.
An
immaculate silent order
Of white
buildings and dark clouds,
And then the
open door
In a house
with lowered voices.
Someone left
in a hurry,
And they're
waiting for me to come in
With a lit
match.
There's a
rustle of a long skirt,
But when I
enter
It's only
the evening papers
Sliding off
the table
Birdlike
In a large
and drafty
And now
altogether empty room.
Charles
Simic
Bà Thebes
Sự lừa đảo
trắng trợn của những vẻ bề ngoài
Một vài ngày
Mọi thứ thấy
như lạ
Trên con phố
của tớ
Đúng là cuộc
đời của ai đó, tớ đang sống
Một trật tự
im ắng tinh khiết
Của những tòa
nhà màu trắng và những đám mây u ám
Và rồi cửa mở
Vô căn nhà với
những tiếng nói khe khẽ
Một người nào
đó vội vã bỏ đi
Và họ đợi tớ,
vô
Với lửa quẹt
Có tiếng sột
soạt của áo dài
Nhưng khi tớ
vô nhà
Chỉ là
những tờ báo buổi chiều
Trượt khỏi mặt
bàn
Như chim
Trong căn phòng rộng,
kín gió,
Và bây giờ nói chung, trống rỗng.
The One Who
Disappeared
By Charles
Simic
Now that
it’s warm to sit on the porch at night
Someone
happened to remember a neighbor,
Though it had been more than thirty years
Since she went for a little walk after dinner
And never came back to her husband and
children.
No one present could recall much about her,
Except how she’d smile and grow thoughtful
All of a sudden and would not say what about,
When asked, as if she already carried a
secret,
Or was heartbroken that she didn’t have one.
Người mà
biến mất
Lúc này, trời ấm, khi ngồi
ở cổng vào ban đêm
Một người nào đó dưng không bỗng nhớ tới một bà hàng xóm
Chuyện xẩy ra thì cũng đã hơn ba chục năm rồi
Sau bữa ăn chiều, bà đi 1 đường tản bộ
Và đếch thèm trở về với chồng và mấy đứa con.
Hơn ba mươi năm rồi, chẳng
ai nhớ nhiều về bà ta
Ngoại trừ điều này, cách bà cười, nụ cười của bà,
Và cái dáng vẻ trầm tư bất thình lình nở ra trên khuôn mặt
Và lắc đầu, nếu có ai cắc cớ hỏi, liệu có ôm trong lòng một điều
bí ẩn
Hay là quá đau lòng, vì chẳng có một
Quái đản
thay là trí tưởng tượng, sự liên tưởng: Đọc bài thơ thì Gấu lại nhớ đến
1 câu
chuyện thực ở ngoài đời, về 1 bà vợ sĩ quan, chồng đi cải tạo, có người
yêu –
không biết là từ lúc nào, từ hồi còn con gái cũng có thể - bèn mang mấy
đứa nhỏ
đến gửi 1 cặp vợ chồng bạn, để cùng người yêu vượt biển.
Chuyện nọ xọ
chuyện kia: Trong tất cả những gì được đám nhà văn Bắc Kít - VC tất
nhiên - viết
ra, về Ngụy, và số phận của chúng, sau 1975, thì gần như là con số
không, có 1, Gấu đọc trên blog của nhà văn NT.
Ông kể là
có 1 người quen, chức sắc, được 1 bà vợ sĩ quan Ngụy nhờ vả, để có được
phương tiện, đi thăm nuôi chồng, ở
đâu mãi tít 1 trại tù cận biên giới Tẫu.
Bà vợ hẳn là chẳng hoan hỉ gì trong cái
vụ nhờ này, nhưng không còn cách nào khác.
Cả 1 nền văn
học khốn nạn của VC chỉ có nhắc tới 1 bà vợ sĩ quan Ngụy, mỗi cas đó!
Vậy mà chúng
ra rả “thoát Trung”, ông Thầy của chúng, chúng đã từng dâng vợ, dâng
con, để lấy
cho được Miền Nam.
Gần đây,
ngoài các cây bút đã thành tên tuổi như Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình
Phương, Thuận,…
tôi thấy xuất hiện tiểu thuyết của một số tác giả trẻ rất đáng chú ý
như Trần
Nhã Thụy, Vũ Phương Nghi, Phan Việt, Đặng Thiều Quang, Nguyễn Đình
Tú... (1)
Hình như đếch
thấy 1 tên nhà văn nào của miền đất được VC giải phóng.
Toàn 1 lũ Bắc
Kít?
Thế còn Cô Tư,
thí dụ?
Nhất Bảo Ninh,
Bắc Kít, nhì Thuận, Bắc Kít bỏ chạy sang Tây, ba, tư, năm, sáu, bẩy,
Bắc Kít
Đúng là kít
không à!
GCC có cảm tưởng em này chưa từng biết đến văn chương Miền Nam, trước
1975, và ngay cả sau 1975.
Trong bài viết
về Kafka, trong Văn Chương và Cái
Ác, Georges Bataille nhắc tới vụ tờ Action,
một
tờ báo CS của Tẩy, ngay sau
khi cuộc chiến chấm dứt, đưa ra câu hỏi, “Liệu có nên đốt bỏ Kafka,
Should Kafka
be burnt?”
Bataille viết, trong tất cả những sự kiện liên quan tới cái
vụ đốt này,
thì, đối với những người CS, có 1 lô gíc bật ra:
Những ngọn lửa tưởng tượng cũng
góp phần vào việc hiểu những cuốn sách của K. Chúng là những cuốn sách
bị trù ẻo, phải bị phần thư! (1)
Ui chao đúng
là cái tình cảnh của văn chương Miền Nam trước 1975, đối với nữ phê
bình gia Mít
viết bằng tiếng Tẩy!
Dưới mắt em, làm gì có thứ văn chương đó?
Y chang anh
nhà văn ăn cắp cái tít của Koestler: Có cái thứ văn học Mít hải ngoại ư?
(1)
In all
events the idea of burning Kafka, even it if was no more than a
provocation,
had a certain logic for the Communists. Those imaginary flames
contribute to
the understanding of his books. They are books doomed to the flames:
they are
there, but they are there in order to disappear, as though they have
already
been annihilated.
“Nỗi buồn
chiến tranh” có thể coi là đỉnh cao nhất của văn học Việt Nam hậu
chiến. Lần đầu
tiên, cuộc chiến hiện lên một cách vô cùng bạo liệt, đau thương. Nhưng
“Nỗi buồn
chiến tranh” cuốn hút người đọc trên hết vì hoài bão của nó.
Viết về chiến
tranh, nhưng tác phẩm của Bảo Ninh chạm đến những phạm trù rộng lớn
khác: tình
yêu, thời gian, ký ức, sáng tạo văn học. Tất cả hòa quyện vào nhau để
tạo nên một
tiểu thuyết cực kỳ phức tạp, nhiều tầng lớp, đa âm thanh.
Thời gian là
một trong những sáng tạo lớn nhất của Bảo Ninh. Nó liên tục đổi chiều.
Chiều
thuận là chiều của sáng tạo: Người đọc chứng kiến tiến độ bản thảo của
Kiên,
nhân vật nhà văn.
Chiều nghịch
là chiều của kỷ niệm: Chiến tranh luôn ám ảnh, quấy phá tâm trí Kiên,
khiến anh
vĩnh viễn sống cùng lúc giữa hai điểm của thời gian, quá khứ và hiện
tại. Nhưng
có lẽ dĩ vãng mang sức mạnh ghê gớm hơn cả: Ngay khi Kiên tiếp tục sống
“những
ngày tháng phía trước”, cuộc đời anh cho ta cảm giác như đang bị đẩy
lùi, qua
hình ảnh tuyệt đẹp về một “con thuyền bơi ngược dòng sông”.
Dường như một
nghịch lý, Kiên ao ước là «nhà tiên tri những năm tháng đã qua đi,
người báo
trước thời quá khứ». Bấp chấp mọi qui luật, các đoạn đời đan xen pha
trộn để cuối
cùng biến thành những «vùng không gian mới», những «vùng quá khứ chưa
từng có»:
«Có vẻ như giờ đây anh lại một lần nữa bắt đầu yêu, một tình yêu mới
một tình
yêu khác nữa với Phương nhưng lẫn trong những trang chưa từng được giở
ra của
dĩ vãng. Và một cuộc chiến tranh khác.
Một thời buổi
bão táp khác. Dưới một bầu trời khác của quá khứ». Tác phẩm của Bảo
Ninh vì vậy
là một thử nghiệm phi thường về ký ức cá nhân.
Bà này phán
loạn cào cào về BN, trong khi với 1 người rành văn học Mít, tác phẩm
NBCT của
BN, không thể viết được, nếu ông không đọc VHMN trước 1975.
Đoạn cuối NBCT rất
giống kết thúc bỏ lửng của Tiếng Động
của TTT. Giọng văn độc thoại, ở trong NBCT, là cũng từ giọng văn độc
thoại TTT, thí dụ Cát Lầy,
Cuối Đường…
Không phải là BN thuổng TTT, nhưng chính cú đụng độ giữa ông,
như 1 tên lính Bắc Kít, và 1 nhà văn Bắc Kít, với 1 miền đất, khí hậu
của nó,
trong có khí hậu văn chương, khiến ông viết nổi NBCT.
Bảo Ninh, trên tờ Match du
Monde [mẩu tiếng Tây: kể câu chuyện về nhân vật phản diện và
những kinh
hoàng của cuộc chiến được sống bởi những người bộ đội nổi tiếng],
và tại nhà, do Gấu chụp, Hanoi cc 2002.
It was a soldier's story,
set in battlefields of rotted
corpses and the tortured soul of a young teenager who went off to serve
his
country, and when the novel was published in 1991 it brought Bao Ninh
the
closest thing in Vietnam
to instant literary celebrity.
Ninh never published again - although he is believed to have
finished another novel about the war, called Steppe, that he has
hesitated to
submit for publication.
Tại sao nhà văn nổi tiếng của Việt Nam im
tiếng
sau cuốn đầu tay?
Đây là câu chuyện của một
người lính được đặt
để trong khung cảnh của những trận đánh, và chiến trường thì đầy những
xác chết đã thối rữa, và thêm vào đó, là linh hồn bị tra tấn đến rách
bươm ra, của một chàng trai
trẻ, lên đường phục vụ xứ sở của mình, và khi nó ra lò vào năm 1991,
lập
tức tác giả nổi lên như cồn tại Việt Nam.
Tác giả không hề in gì nữa,
mặc dù người ta tin rằng, ông đã hoàn tất
một cuốn tiếp theo về chiến tranh mà ông đặt tên là Steppe, và ông ngần
ngại chưa đưa in.
'I stopped myself. I kept holding myself back,' Ninh told The Observer in a
rare interview at his home in a section of central Hanoi favoured
by
middle-ranking officials. 'I compared everything I wrote to everything
I wrote
in the past, and it's not natural like it was before.'
"Tôi tự kìm tôi lại, tôi tự kìm tôi lui về phía sau", Bảo Ninh nói với
phóng viên tờ Người Quan Sát, trong
một cuộc phỏng vấn hiếm hoi tại nhà
của ông, trong một khu trung tâm Hà Nội, nơi được đám nhân viên nhà
nước
bậc trung ưa thích. "Tôi so sánh mọi chuyện tôi viết với mọi chuyện tôi
viết trong quá khứ, và nó không có vẻ tự nhiên như trước."
*
Về
kỹ thuật viết, Nỗi Buồn là
một hồi
ức lộn xộn, một cách
hết sức tự nhiên, như tình trạng “da beo”, của cuộc chiến. Người đọc có
thể nhẩy
vô bất cứ đoạn nào và lập tức toàn bộ cuốn sách phơi mở, mời gọi. Chất
thơ của
hồi tưởng, kỷ niệm, ở, ngay cả những đoạn tàn nhẫn nhất, khi viết về
pháo bầy,
bom trải thảm.
Tác giả nhận diện đứa con tinh thần của ông: “Đây chỉ là
một sáng
tác dựa trên cảm hứng, [được] chỉ đạo [bởi] của sự rối bời”.
Sartre, đọc Âm Thanh và
Cuồng Nộ, của Faulkner, nói, đây là kỹ thuật của sự hỗn độn, và
ông
khẳng định:
Kỹ thuật tiểu thuyết luôn qui chiếu về một siêu hình học của tiểu
thuyết gia. Với
Faulkner, một siêu hình học về thời gian.
Đọc Nỗi Buồn, độc giả có thể
mường tượng
ra trục thời gian của nó, của chuyện tình đẹp, nghẹn ngào, đó là chuyến
tầu
định mệnh, khi Kiên đi vào Nam chiến đấu, và Phương chạy theo, rồi “tai
nạn” xẩy
ra.
Và,
đây mới là ý nghĩa đích thực, mang
tính “uyên nguyên, bi
đát” của cuốn truyện, của nỗi buồn: “Kiên có thể tha thứ cho cuộc
chiến, nhưng không thể tha thứ
cho cuộc tình”.
Như
chúng ta đã biết, truyện lúc đầu
có tên “Thân phận tình yêu”.
Cái tít này mới đúng với nó.
Và còn đúng cho cả một miền đất.
Toàn
truyện, mọi hồi tưởng, về chiến
tranh, lập tức kèm
theo, một hồi tưởng về cuộc tình, về tai nạn, về nỗi đớn đau một lần để
lỡ. “Chẳng
còn đem nào như đêm nay đâu. Anh muốn hiến đời anh cho một sự nghiệp gì
đó, còn
em quyết định sẽ phung phí đời mình, sẽ huỷ diệt nó trong cuộc chiến
này".
Introduction
to the Updated and Expanded Edition
Yugoslavia,
a country in
which all these newly added poets were born and grew up thinking of
themselves as Yugoslavs, ceased to exist in the 1990s in a series of
bloody wars. Many of its cities and villages were destroyed, thousands
of innocent people were massacred, while many more than that were
expelled from their homes. Serbs, who were one of the main culprits and
one of the main victims, were also divided among themselves regionally,
politically and in every other possible way that a people scattered
over a large geographical area-often intermixed with other ethnic
groups, and thus each having their own separate history and even
culture-can be. In 1999, NATO bombed Serbia for two and a half months
in order to stop the ethnic cleaning of Albanians in the disputed
Serbian province of Kosovo. Military and civilian targets were struck
and there were significant civilian causalities. That was followed by
the overthrow of the president Slobodan Milosevic in October 2000 by
popular uprising, the assassination of the reformist president Zoran
Djindjic in March 2003, and the continuous political turmoil and
economic crises that have not significantly subsided to this day. These
were the worst places to live in former Yugoslavia during these years,
but in Serbia too, isolated as it was and regarded as a pariah among
nations, it was difficult to have a normal life. Thousands of young,
educated and professional people escaped, most of them never to return.
Good books continued to be published, but their writers were rarely
translated and found it near-impossible to get a visa for even a short
visit abroad. Everyone knew the names of Serbian war criminals, but
almost no one knew the names of its writers and poets.
Nam Tư, một
xứ sở mà tất cả những nhà thơ mới được thêm vô tuyển tập, họ sinh và và
lớn lên
và nghĩ về họ, như là người Nam Tư, xứ sở đó đếch còn, trong thập niên
1990, với
cả 1 lô những cuộc chiến đẫm máu. Rất nhiều thành phố làng mạc bị tiêu
huỷ, hang
ngàn con người bị giết hại, tàn sát, trong khi nhiều hơn thế nhiều, là
những
con người bị tống xuất ra khỏi nhà của họ. Serb, là 1 trong số những kẻ
gây tội,
mà cũng là 1 trong số nạn nhân chính, chính xứ sở này, cũng bị chia năm
xẻ bẩy,
về miền đất, về chính trị, và về mọi đường hướng khác có thể có, qua
đó, con người
bị tung toé ra khắp mọi nơi, trên một vùng đất rộng - thường xuyên là
đụng độ,
va chạm, trộn trạo với những nhóm sắc tộc khác, và như thế, mỗi 1 nhóm
thì lại
có riêng cho nó, một lịch sử và ngay cả 1 văn hóa tách biệt.
Bạn có
thể đọc
đoạn trên, và so sánh nó với xứ Mít, sau 30 Tháng Tư 1975. Có 1 đất
nước Mít đếch
còn hiện hữu. Không chỉ về mặt địa lý, mà về đủ mặt. Một tên Mít lưu
vong, thí
dụ như Gấu Cà Chớn, giả như có nhớ nhà, thì đếch phải xứ Bắc Kít ngày
nào của
nó.
Thơ
Mỗi Ngày
IN THE JUNK STORE
A small, straw basket
Full of medals
From good old wars
No one recalls.
I flipped one over
To feel the pin
That once pierced
The hero's swelling chest.
Charles Simic: The
Little Something
Tại Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Thành Hồ
Một cái giỏ rơm nhỏ
Đầy những huy chương
Của hai cuộc chiến thần thánh
Chống hai tên thực dân đầu sỏ, cũ và mới
Chẳng tên Mít, thứ thiệt nào, còn nhớ!
Gấu lật lật 1 cái huy
chương Thành Đồng Tổ Quốc
Cảm nhận mũi đinh ghim
Đã 1 thời cắm vô bộ ngực căng phồng
Của Anh hùng Núp
Của nhà văn truyền kỳ Đất Nước Đứng
Lên
Rồi Đất Nước Nằm Xuống
Rồi Đất Nước Đi Luôn!
Hà, hà!
Junk Store: Tiệm bán ba đồ tạp
nhạp, phế thải, đồng nát, sắt vụn….

Trong bài “Dẫn
nhập” cho lần tái bản tuyển tập thơ ”Ngựa sáu chân”, Simic cho biết,
cái chuyện
ông dịch thơ thì thật là đơn giản. Nó bắt đầu khi vớ được 1 bài thơ
ngoại, được
quá, thì bèn chơi luôn, vì nghĩ rằng độc giả Mẽo của ông chắc là
sẽ đã
thèm, nếu được đọc nó, và sẽ thật là bất công, nếu không được.
Trước thảm họa thơ Mít như bây giờ - như bao giờ, đúng hơn -
thì lại càng phải dịch thơ, bởi là vì, thơ dịch chính là
liều thuốc cải tử hoàn sinh cho nó.
Gấu thực sự ngạc nhiên tại làm sao thơ dịch rất không được Mít đọc.
Cái
số phận
dân Serbia lại càng khiến chúng ta đọc thơ của họ. Có 1 cái gì đó,
chung chạ,
giữa hai số phận, của hai xứ sở, qua bài dẫn nhập của Simic, mà TV sẽ
giới thiệu toàn bài.
Nói rõ ra thì như thế này, nếu 1 tên Việt
Kiều nhớ nhà, thì không phải cái quê
hương như là bây giờ hiện lên trong trí tưởng tượng của nó, nếu nó là 1
tên gốc
Ngụy.
Death
Sentences
I was born
too late and I am much too old,
My dear Hamlet,
To be your
pimply Ophelia,
To let my
hair like flattened wheat
Spread over the dark waters
And upset
the floating water lilies
With my floating eyes,
To glide
fishlike between fishes,
Sink to the
bottom like a dead seashell,
Burrow in sand next to shipwrecks oflove,
I, the
amphora, entangled in seaweeds.
1'd rather
you take off my dress,
Let it fall
at my feet like aspen leaves
The wind shakes without permission
As if there's
nothing to it.
1'd rather
have that death sentence:
Eternity of
your arms around my neck.
Án
Tử
Ta sinh ra quá trễ, và ta lại
quá già
Ðể làm nàng Ophelia đầy mụn
trứng cá của mi,
Tên hoàng tử thân thương vừa
Hâm lại vừa Liệt của ta ơi!
Ðể tóc
ta như lúa mì
Trải dài trên mặt nước tối
Và làm bực mình những bông hoa kèn
Với cặp mắt trôi lềnh bềnh của ta
Ðể lướt như cá giữa đám cá
Chìm xuống đáy biển như cái vỏ
Của một con sò chết
Lặn lội trong cát kế bên những
mảnh vỡ của chiếc thuyền tình
Ta, chiếc bình hai quai, bị
quấn quýt giữa mớ rong biển
Ta thà để cho mi lột quần áo
của ta ra
Và chúng rớt xuống chân ta như những chiếc lá dương
Và gió, vô lễ, chẳng thèm xin phép ta
Nghịch ngợm với chúng
Như thể chẳng có chi là quan trọng
Ta thà có bản án tử, này:
Thiên thu,
vĩnh viễn
Vòng tay của
mi vòng quanh cổ ta.
IVAN V. LALÍC
[1931-1996]
Lalic
started publishing in 1952 and his first book, A Child Once came out in
1955.
Since then there have been many more books of poetry, all highly
regarded)
which have been translated into many languages, including English. Most
of the
poems here are taken from Roll Call
of Mirrors, a selection of Lalic's
poems
published in 1988. He translated Holderlin, Whitman, Dickinson, and
many other
American poets.
Love in July
I
Open this
evening like a letter,
Its
handwriting spotted with blood of birds
Devoured in
the bright lava of the afternoon.
Open this
evening like a rose,
1hat dust,
that bronze, and that sweat on your skin,
1hat
constellation that breathes.
Open this
evening like a letter.
I'm hidden
in its handwriting
Like a
shadow in the still leaves of a cherry tree,
Or like noon
in our blood.
Comes night
grown over with rain and cherries,
And the
wavering diamonds of sudden freshness.
Open this
evening like a letter.
The date is
illegible, time without beginning,
But the
signature is clear:
I love.
II
The taste of
the storm in the stalk of the invisible rose
1hat you
twirl absentmindedly between your fingers.
Summer
golden and dark.
But there's
no wind, and the rain glitters
On your
words like phosphorus
On the seams
of the water.
Summer
golden and dark.
The
lightning that travels slower than memory
Will never
again give us light in this place.
That
lightning still buried in snows and flowers
In its
journey around the year.
The taste of
rain on your lips,
Summer
golden and dark.
Bai Hua

Fiona Sze-Lorrain:
In your most recent
sequenced poems -
such as "The Book of Tibet," "Gift" and "Notes from
the Late Qing'; - that hybridize prose with verse, as well as different
voices,
musicalities and narratives, you employ various linguistic registers.
How do
you relate to such a multi-layered poetic structure, its emotional
responses
and interpretation?
Bai Hua:
When I was
young, I had already come up with this poetic ideal of "weaving prose
with
poetry," that is, "all mingled in one," mingling all linguistic genres
into one melting pot. When I began to write "An Immortal Companion to
Watercolor" and "Historical Annals," I started to find ways to
hybridize the novel, prose, theatre, and even journalism with poetry,
and to achieve
this intertextuality with skill and ease. Of course, such techniques
are not
original. Experiments with sound, voice and presence define much of
contemporary and avant-garde poetics. As to how I would blend all of
these
voices into a melting pot, I, too, don't quite know. I just do so with
a little
common sense, and let the technique function as it best can.
Do you see a poem as an
experience or
as an act?
One can't
be
separated from the other. "Poetry is experience" - this is a
universally-known
dictum from the German poet, Rilke. Even Nabokov who detested Rilke,
also said,
"Poetry is a distant past." But poetry must also be an act - in a
modern sense, and even more so in a post-modern context. If I must
choose
between the two of them, an old poet like me would go for the former.
The One Who
Disappeared
By Charles
Simic
Now that
it’s warm to sit on the porch at night
Someone
happened to remember a neighbor,
Though it had been more than thirty years
Since she went for a little walk after dinner
And never came back to her husband and
children.
No one present could recall much about her,
Except how she’d smile and grow thoughtful
All of a sudden and would not say what about,
When asked, as if she already carried a
secret,
Or was heartbroken that she didn’t have one.
Note: Bài thơ
này, Gấu nhớ là đã chôm, và đã dịch trên TV rồi, nhưng không làm sao
kiếm ra bản
tiếng Mít, chán thế!
Post lại, để mò sau, hà hà!
Trong số báo
có bài thơ, Gấu tình cờ cầm lên, trong khi dọn dẹp mớ sách báo, còn
bài viết,
về cựu binh tìm ra giọng của mình, về thứ văn học chiến tranh, viết bởi
chính
những kẻ cầm súng. Gấu đọc lại số báo là vì bài viết này. Tác giả là
George
Packer. Ông phát giác, cái tinh thần hiện đại của văn học - chủ yếu là
tiếu
lâm, cà chớn, hài, irony, Kundera cũng chỉ ra điều này, trong Những Di
Chúc Bị
Phản Bội - là do những kẻ đếch cầm súng phịa ra:
"Every
war is ironic because every war is worse than expected," Paul Fussell
wrote in 'The Great War and Modern Memory," his classic study of the
English
literature of the First World War. "But the Great War was more ironic
than
any before or since." The ancient verities of honor and glory were
still
standing in 1914 when England's soldier-poets marched off to fight in
France.
Those young men became modem through the experience of trench warfare,
if not
in the forms they used to describe it. It was Yeats, Pound, Eliot, Joyce,
and
Lawrence who invented literary modernism while sitting out the war.
Robert
Graves, Siegfried Sassoon, Edmund Blunden, Isaac Rosenberg, and Wilfred
Owen-who all fought in the trenches and, in the last two cases, died
there-remained tied to the conventions of the nineteenth century while
trying
to convey the unprecedented horror of industrial warfare, a condition
of existence
so murderous and absurd that a romantic or heroic attitude became
impossible.
The essence of modern understanding is irony, Fussell argued, and it
was born
on the Western Front.
Bài viết này, tuyệt lắm. The essence of modern
understanding is irony, Fussell argued, and it
was born
on the Western Front: Cái yếu tính của sự hiểu
biết hiện đại là... cà chớn!
Gửi Osip Mandelstam
Những người sống trong
khùng điên
Họ còn sợ chi?
Sợ sự thuần khiết của trần truồng?
Không, sợ tiếng động
Cái tiếng động đá văng suy tư
Nhà thơ trong giấc mộng tôi
Xuyên qua phương bắc nặng nề
Xuyên qua ấu thơ với ảo giác yếu đuối
Người đã buộc lòng đi đến cõi nhân gian
Hôm nay, một ngày tôi nhẫn
chịu sự kỳ cục của ông
Hôm nay, một ngày tôi nhẫn chịu sự ngây thơ của ông
Hôm nay, tôi làm nổi trội bi kịch của ông
Im lặng đang chỉ rõ
Áng thơ đang đập nhịp, đang tiếc thương
Lưỡi rảnh rang nhuộm lên ngôn từ
Đây cũng là một ngày nào đó trong trí nhớ tôi
Trâu bò đã ngưng cày bừa
Lưỡi hái đã từ bỏ mạng vong
Gió đang cưỡng lại hơi thở
A, lạnh lẽo, mi đang tranh thủ vận chuyển mùa đông
Moscow hồi hộp
Mi siết chặt cây đại phong cầm động lòng người
Chào đón đầy trời hoa tuyết, ngẩng đầu chờ trông
Kìa, coi, nhà thơ đến rồi
Một vong hồn đáng khóc
thương nhất trong đám thi sĩ chúng ta
Ông đang bước tới phía tôi
Tôi bắt đầu thuộc về nơi
này
Tôi bắt đầu chui vô hình hài ông
Phối dựng lại thiên đường tàn khốc của ông
Tôi, một đứa trẻ không lớn nổi của xứ sở khác
Trước tất cả điều này
Những người bên đường chỉ có thể càng lẻ loi hơn.
Bai Hua
Bản của Dã Viên, từ nguyên
tác
Là gì, kẻ sống trong nỗi
sợ khùng điên?
Sự trinh khiết của một xác thân trần trụi?
Không! Những tiếng nói –
Những tiếng nói thoát khỏi tư tưởng
Nhà thơ trong mộng của tôi
Đi qua Xứ Bắc nặng nề
Tuổi thơ hão huyền yếu đuối
Kẻ buộc lòng đến với trần gian này
Hôm nay tôi sẽ cưu mang
tính lập dị của ông
Vác lên vai sự ngây thơ của ông
Đẩy cao lên bi kịch của ông
Im lặng chỉ cho thấy -
Trái tim thơ đang đập, đang nức nở
Một cái lưỡi ngây thơ nhuộm ngôn từ
Đây cũng là
ngày đáng nhớ
Trâu bò
ngưng cày bừa
Những lưỡi hái từ bỏ công việc nặng nhọc
Gió kìm hơi thở của nó
Ôi lạnh lẽo, mi hối hả chuyển mùa đông đi xa
Moscow khắc
khoải
Mi xiết chặt những cây đàn organs nhức nhối
Chờ đợi trước trời tuyết
A, coi kìa, ông ta đây rồi
Một hồn ma bi thương nhất giữa những nhà thơ chúng ta
Ông ta đang bước tới tôi
Tôi bắt đầu
thuộc về đây
Tôi đi vô thân thể của ông
Thay thế thiên đàng độc ác của ông
Tôi - một đứa trẻ ngoại nhân chẳng bao giờ trưởng thành
Truớc những đám đông bên đường này
Chỉ cảm thấy càng thêm cô độc
NQT dịch từ
bản tiếng Anh
/Ky/when_there_is_talk_of_1945.html
Note: Đầu tháng, lòi ra bài
này, như để chào mừng 2/9:
Số Granta về Mẹ, có bài viết của
Ryszard Kapuscinski, When there is
talk of 1945 [Nói về năm 1945 khi nào nhỉ?], thật là tuyệt, với
Mít, vì 1945 đúng là cái năm khốn khổ khốn nạn của nó.
Ðây là 1 hồi ức về tuổi
thơ của ông, lần đầu nghe bom nổ, đâu biết bom là gì, chạy đi coi, bị
mẹ giữ lại, ôm chặt vào lòng, và thì thào, cũng một điều đứa bé không
làm sao hiểu nổi: “Chết ở đó đó, con ơi, There’s death over there,
child”.
Những năm tháng chiến tranh trùng hợp với ấu thời, và rồi, với những
năm đầu của tuổi trưởng thành, của tư duy thuần lý, của ý thức. Thành
thử với ông, chiến tranh, không phải hòa bình, mới là lẽ tự nhiên ở
đời, the natural state. Và khi mà bom ngưng nổ, súng ngưng bắn, khi tất
cả im lặng, ông sững sờ. Ông nghĩ những nguời lớn tuổi, khi đụng đầu
với cái im lặng đó, thì bèn nói, địa ngục chấm dứt, hòa bình trở lại.
Nhưng tôi không làm sao nhớ lại được hòa bình. Tôi quá trẻ khi đó. Vào
lúc chiến tranh chấm dứt, tôi chỉ biết địa ngục.
Một trong những nhà văn
của thời của ông, Boleslaw Micinski, viết, về những năm đó: Chiến tranh
không chỉ làm méo mó linh hồn, the soul, của những kẻ xâm lăng, mà còn
tẩm độc nó, với thù hận, và do đó, chiến tranh còn làm biến dạng những
linh hồn của những kẻ cố gắng chống lại những kẻ xâm lăng”. Và rồi ông
viết thêm: “Ðó là lý do tại sao tôi thù chủ nghĩa toàn trị, bởi vì nó
dạy tôi thù hận”.
Trong
suốt cuộc chiến,
hình như Bắc Kít chưa từng quên hai chữ thù hận. Nhưng hết cuộc chiến,
vẫn không bao giờ quên cả. Thành thử, cái còn lại muôn đời của cuộc
chiến Mít, theo GNV, chỉ là thù hận.
Một người
như Kỳ Râu Kẽm, “bó thân về với triều đình”, như thế, mà đâu có yên
thân. Chuyện ông bị đám hải ngoại chửi thì còn có lý, vì rõ là phản bội
họ. Nhưng khốn nạn nhất là lũ VC chiến thắng, chúng vẫn giở cái
giọng khốn nạn ra, thôi tha cho tên tội đồ. Cái “gì gì” đứa con hư đã
trở về nhà.
Thơ
Mỗi Ngày
Giới hạn
Trong tất cả những con phố
nhạt nhòa dần vào hoàng hôn
Phải có một (Gấu không chắc)
Vào lúc này, Gấu đang bước lần cuối,
Không đoán ra [Gấu là] một con tốt của Ai Đó
Kẻ thiết đặt trước những
lề luật vô hạn
Sắp xếp một “gam” bí mật, vững vàng
Cho tất cả những cái bóng, những giấc mơ, và những hình thể
Dệt thành miếng vải là cuộc đời này
Nếu có một giới hạn cho
tất cả những sự vật và một biện pháp
Và một lần cuối, và rồi chẳng còn gì nữa, và sự quên lãng
Ai sẽ nói cho chúng ta về người nào, trong căn nhà này,
Làm sao chúng ta biết, đã nói lời vĩnh biệt?
Qua cửa sổ hừng đông, đêm
giật lùi
Và trong những cái bóng ngổn ngang, của những giá sách
Đổ xuống mặt bàn lù tà mù
Hẳn có 1 cuốn Gấu chưa từng đọc
Có, hơn một cái cổng hư
hỏng, cái gì gì “khung rêu”, ở Miền Nam,
Với những bình xi măng đựng tro cốt, và cây xương rồng của nó
Cấm Gấu vô,
Không thể tới gần, như trong một thạch bản
Có 1 cái cửa, đóng lại đời
đời đối với mi
Và 1 cái gương nào đó, mong đợi mi hoài, vô phương;
Với mi, những ngã ba, ngã tư đều như mở toang,
Tuy nhiên, "căn me" mi, ba bề bốn bên, là 1 vị thần Janus
Trong tất cả những hồi ức
của mi, có một
Mất tiêu, vượt quá khỏi hồi nhớ, vọng tưởng
Mi sẽ chẳng được nhìn thấy, khi mò xuống con suối đó,
Bởi mặt trời trắng, không, hay, mảnh trăng vàng, cũng không
Mi chẳng bao giờ vớ lại
được, điều mà dân Ba Tư gọi,
Trong ngôn ngữ của họ, được dệt bằng chim và bông hồng,
Khi, vào lúc hoàng hôn, trước khi ánh sáng tan hoang,
Mi mong ước đem những từ đến
Cho những sự vật không làm sao quên được
FRATERNITY
INDEED
WRITING IS
PERHAPS an act of brotherhood, first and foremost. Writing
demands solitude, sometimes profound and radical solitude,
but it usually is a tunnel leading to other people, dug in a fertile
earth (and this earth is imagination and narcissism, compassion
and indifference, tenderness and arrogance, music and
ambition, blood and ink). Even suicides write letters. Poets kill
themselves. Critics kill authors. Readers are easily bored and drown
books as if they were kittens. But who said fraternity was easy?
Please turn to the Bible ...
Adam Zagajewski: Two Cities
Bạn quí, thực
đấy!
Viết có lẽ là
một hành động của tình anh em, trước hết và trước tất cả. Viết đòi hỏi
cô đơn,
đôi khi,
thứ cô đơn sâu thẳm, ráo riết, nhưng nó thường là con đường hầm dẫn tới
những
người khác, được đào ở mảnh đất màu mỡ (và mảnh đất này là tưởng tượng,
chỉ yêu
có mình, cảm thông và dửng dung, dịu dàng và ngạo mạn, âm nhạc và tham
vọng, máu
và mực). Ngay cả tự tử cũng viết thư. Thi sĩ tự sát. Phê bình làm thịt
tác giả.
Người đọc thật dễ nản và dìm sách như thể chúng là mấy con mèo con đỏng
đảnh.
Nhưng ai nói tình bạn dễ kiếm, nhứt là thứ… bạn
quí? Làm ơn đọc lại Thánh Kinh nhe!....
EVIL
TOTALITARIANISM-BECAUSE
IT is an organized, orchestrated, highly
developed evil on a historic scale-leads to the illusion that evil
can finally be understood. Isn't that why we are fascinated by a
variety of books, from memoirs to historical analyses,
devoted to Hitler and Stalin? We read them and hope that this
time we shall grasp the essence of evil. All the
efforts of the intellect are directed toward reducing this
sophisticated form of evil to a simple, uncomplicated form.
When we are
finally successful, we realize that the answer to our question
has once again eluded us. We are again as helpless as Job.
Adam Zagajewski: Two Cities
Cái Ác Bắc Kít
[Note: Dịch....
nhảm!]
Chủ nghĩa toàn
trị - Cái Ác Bắc Kít thì cũng là nó - Bởi là vì nó là Cái Ác được tổ
chức, dàn
dựng, phát triển cao về mặt lịch sử - thành
thử dẫn đến ảo tưởng là Cái Ác Bắc Kít sau cùng đã được thấu hiểu,
chúng ta đã
quá rành về Cái Ác Bắc Kít!
Mít chúng ta
chẳng đã sững sờ vì, nào là Đêm Giữa Ban Ngày, nào là Bên Thắng Nhục,
nào là Đèn Kù… ?
Chúng ta đọc
chúng và hy vọng, bi giờ chúng ta đã nắm được cái bản chất, cái yếu
tính của Cái
Ác Bắc Kít!
Tất cả những
cố gắng ghê gớm như thế của Mít, là để trói voi bỏ rọ, nghĩa là giản
lược Cái Ác
Bắc Kít thành 1 dạng đơn giản, không rắc rối. Đúng vào lúc chúng ta thở
phào, hài
lòng, thì chúng ta bèn nhận ra là Cái Ác Bắc Kít chuồn mẹ ra khỏi cái
rọ rồi! Và
chúng ta lại thấy mình bất lực, như Job.
Cái Ác
Chủ nghĩa toàn trị - Bởi
là vì nó là 1 cái ác được tổ chức một cách hoành tráng, như 1 dàn nhạc
đại hòa tấu, được phát triển tới mức độ cực cao theo chiều hướng/có tầm
vóc lịch sử - đưa đến ảo tưởng là cái ác sau cùng đã được thấu hiểu.
Phải chăng chính vì thế mà chúng ta hớp hồn, bởi đủ những cuốn này cuốn
nọ, từ hồi ức cho tới nghiên cứu, dành cho Hitler và Stalin? Chúng ta
đọc chúng và hy vọng, tới lúc này, chúng ta có thể tóm được yếu tính
của cái ác.
Bao nhiêu cố gắng của trí thức là đều hướng tới việc giản lược cái ác
rối rắm, thành một hình thức đơn giản, không rắc rối. Và, khi, sau
cùng, thành công, thành công, đại thành công rồi, chúng ta nhận ra là
câu trả lời cho câu hỏi của chúng, một lần nữa, như con trạch, con
lươn, tuồn mẹ ra khỏi kẽ tay của chúng ta. Chúng ta lại vô phương, lại
thất bại, lại bất lực, như Job.
Limites
Hay una
linea de Verlaine que no volvere a recordar,
Hay una
calle proxima que esta vedada a mis pasos,
Hay un
espejo que me ha visto por ultima vez,
Hay una
puerta que he cerra do hasta el fin del mundo.
Entre los
libros de mi biblioteca (estoy viendolos)
Hay alguno
que ya nunca abrire.
Este verano
cumplire cincuenta afios:
La muerte me
desgasta, incesante.
De Inscripciones
(Montevideo, 1923)
de Julio
Platero Haedo.
LIMITS (OR
GOOD-BYES)
There's a
line of Verlaine's that I'm not going to
remember
again.
There's a
nearby street that's forbidden to my footsteps.
There's a
mirror that has seen me for the last time.
There's a
door I've closed until the end of the world.
Among the
books in my library (I'm looking at them)
There are
some I'll never open again.
This summer
I'll be fifty years old:
Death
invades me, constantly.
From Inscripciones
by Julio Platero
Haedo
(Montevideo, 1923)
[Alan Dugan]
LIMITS
There is a
line of Verlaine I shall not recall again,
There is a nearby street forbidden to my step,
There is a mirror that has seen me for the
last time,
There is a door I have shut until the end of
the world.
Among the books in my library (I have them
before me)
There are some I shall never reopen.
This summer I complete my fiftieth year:
Death reduces me incessantly.
J.L. Borges
- Translated
by ANTHONY KERRIGAN
LIMITES
II y a
une
ligne de Verlaine don’t je ne dois plus me ressouvenir,
II y a une rue toute proche qui est défendue à
mes pas,
II y a un miroir qui m'a vu pour la dernière
fois,
II y a une porte que j'ai fermée jusqu'à la
fin du monde.
Parmi les livres de ma bibliothèque (je les ai
devant mes yeux)
II doit y en avoir un que je n'ouvrirai jamais
plus.
Cet éte j'aurai cinquante ans ;
La mort me rogne, incessante
JULIO
PLATERO HAEDO,
Inscripciones
(Montevideo,
1923).
[Jorges Luis Borges: Oeuvre poétique
1925-1965. Mise en vers francais par Ibarra)
Giới hạn
Có 1 dòng
thơ của TTT, Gấu không làm sao nhớ ra
Có 1 con phố ngay gần nhà, Gấu không được đặt
chân tới.
Có 1 cái gương nhìn thấy Gấu lần chót
Có 1 cái cửa Gấu đóng lại cho đến Tận Thế
Trong số
sách thư viện của Gấu (đang hiển hiện ra trước mắt Gấu)
Phải có 1 cuốn mà Gấu sẽ chẳng bao giờ mở ra nữa
Mùa Thu này Gấu tám bó
Cái chết gặm Gấu suốt ngày đêm.
Note: Borges có hai bài thơ, cùng có tên là Limite.
|
|