Thơ mỗi ngày
NOTO
TO GEORGIA
AND MICHAEL
Noto, a town
that would be flawless
if only our
faith were greater.
Noto, a
baroque town where even
the stables
and arbors are ornate.
The
cathedral's cupola has collapsed, alas,
and heavy
cranes surround it
like doctors
in a hospital
tending the
dangerously ill.
Afternoons
town teenagers
gather on
the main street
and bored
stiff, whistle
like captive
thrushes.
The town is
too perfect
for its inhabitants.
Adam Zagajewski
NOTO
Noto, thành
phố kể như là tuyệt hảo
Nếu và chỉ nếu
như niềm tin của chúng ta
Bảnh hơn cái
tuyệt hảo, số dách.
Noto, thành
phố baroque
Nơi ngay cả
những chuồng trâu bò, những lùm cây
Thì cũng hoa
mỹ.
Than ôi, vòm
nhà thờ sụp đổ
Và những cần
trục nặng nề vây quanh
Như bác sĩ
trong bịnh viện
Chăm sóc một
căn bịnh hiểm nguy
Ðám con nít
mười mí của thành phố, vào xế trưa
Tụ tập nơi
con phố chính
Và ngán ngẩm,
uể oải,
Huýt sáo
Như những
con chim hét bị giam giữ
Thành phố thì
quá tuyệt hảo
Cho những cư
dân của nó.
An ủi
Ví thử luân
hồi là có thật
Ta về soi lại
vạn kiếp xưa
Xem thử kiếp
nào ta gây tội
Mà đeo nhau
mãi đến bây giờ
Biết đâu ta
từng là bọ ngựa
Cắn cổ người
tình lúc giao hoan
Kiếp này tạ
tội ngàn đêm lẻ
Trả từ ngọn
tóc đến bàn chân
Hay trước ta
là tù giữ ngục
Hành nhau đến
ma dại thân tàn
Kiếp này tha
mãi từng sợi cỏ
Tự kết cho
mình chiếc lồng son
Thản hoặc
trước ta là con nhện
Chiều chiều
sau ngõ cứ giăng tơ
Kiếp này gom
hết bao mầu sắc
Dệt cho người
hạnh phúc như mơ
Hoặc giả ta
là sam thuở trước
Thảo nào thấy
trông trống trên lưng
Nhìn quanh cả
biển người trùng điệp
Chỉ lụy một
người, có lạ không
Thôi thế kiếp
này ta tu nhé
Không hờn,
không oán, chỉ cười vui
Đừng trách,
đừng buồn, đừng kể lể
Mai sau làm
mây trắng ven trời
Đặng Lệ
Khánh
Note: Bài
này tuyệt quá.
Tks. NQT
Michel Houellebecq, the poet
Urban poetry
in French begins with Baudelaire, who saw Paris as “an anthill of
dreams”:
“Fourmillante cité, cité pleine de rêves . . .”. Baudelaire is
Houellebecq’s
dark master in the lyrics and prose poems of The Art of Struggle; he
pays an
obvious homage in “Fin de Soirée”, which, with its descriptions of a
desolate
night (“Suspended without any foothold in the world, night might seem
long to
you”), evokes Baudelaire’s “Le Crépuscule du soir” (“Voici le soir
charmant,
ami du criminel . . .”). The opening section of The Art of Struggle is
dominated by the lowering presence of the tower of La Défense, also
called The
First or GAN Tower, the giant phallus under which Houellebecq worked
for years,
as a computer clerk in a government office. A picture of this charmless
modern
monolith prefaces the poems.
While the
media often portray Michel Houellebecq as something of a sexist weirdo,
in
interviews he seems curiously vulnerable, in fact fragile, a timid,
unprepossessing man who is clearly uncomfortable discussing his own
achievement. Or is that what used to be called a persona?
Tuesday,
September 20, 2011 3:53 AM
Tưởng tượng
khi mình là hạt bụi
Chủ nhật lên
chùa dự cầu siêu
Khoanh chân
ngồi dưới đất buồn hiu
Sau lưng những
vành khăn tang trắng
Quấn hờ giữa
sợi muối sợi tiêu
Tưởng tượng
mai kia thành tro bụi
Mình chắc vờn
quanh nhành ngọc lan
Sẽ lăn giữa
những vồng hoa cải
Sẽ theo suối
đổ tự trên ngàn
Mình sẽ lang
thang như cánh bướm
Sẽ trôi như
ngọn gió mùa thu
Sẽ nằm trên
đỉnh thông cao ngất
Sẽ bơi theo
tiếng sáo vi vu
Mình sẽ thả
mình trên ngọn lúa
Sẽ sà bên bếp
lửa ngày đông
Sẽ đậu trên
nắng chiều sắp úa
Sẽ vào trong
mộng một người dưng
Mình sẽ nằm
đầy phím dương cầm
Trong góc một
căn phòng bỏ không
Góp nhặt từng
âm thanh vất vưởng
Trên bốn bức
tường đã lặng câm
Mình
sẽ lơ mơ nhìn trăng chiếu
Trên mái
hoàng thành một thuở xưa
Nghe rêu,
nghe cỏ ru nhè nhẹ
Văng vẳng
câu hò mái nhị đưa …
Nhưng … lỡ
như mình là hạt bụi
Dính trên
lưng áo lính phương xa
Thấm giọt mồ
hôi cay nắng gió
Nghe súng dồn
theo nhịp nhớ nhà
Nếu lỡ như
mình là hạt bụi
Chờ khô trên
má trẻ ngu ngơ
Đang ngồi đợi
mẹ trên thềm đất
Một nắm cơm
là một giấc mơ ...
Một mai nếu
khi mình nằm xuống
Muốn làm hạt
bụi cũng không xong
Phật độ đưa
về miền Cực Lạc
Lòng chắc buồn
tênh, tội cõi trần ...
Xếp lại tờ
kinh trả lại chùa
Chuông mõ đã
im từ bao giờ
Chỉ có khói
nhang còn nhẹ tỏa
Và mình, hạt
bụi đứng lơ ngơ
Đặng Lệ
Khánh
“Remember
me, whispers the dust”.
['Hãy nhớ
tôi, hạt bụi DLK thầm thì']
Peter
Huchel, Brodsky trích dẫn,
trong Ca Ngợi Buồn Phiền, In Praise
of Boredom
Wednesday,
September 21, 2011 11:20 AM
Lâu mới quay
lại, thấy Tin Văn hôm nay thật phong phú, đầy giọng ông Gấu, dễ ghét và
rất có
giá trị, bèn gửi mấy hàng thăm ông và ca ngợi. Người có đầy người
ngưỡng mộ,
(fan) uy tín và nổi tiếng, như ông Gấu thì chẳng cần xem thêm / nghe
thêm mấy
lời tẹp nhẹp của một anh già vô danh, duy, tôi muốn nhờ ông chút chuyện
nên cứ
mạnh bạo viết lấy lòng (nhưng thật tình) như thế … xin ông ...
Số là, tôi mê bản
dịch bài thơ Barbara của Jacques Prevert của ông anh TTT của ông
mà nay tôi để lạc mất đâu đó không tìm ra bản dịch tài hoa ấy, chợt
nghĩ chắc
ông Gấu có thể giúp, bèn, xin ông post lên trang nhà của ông cho tôi
được một
lần nữa nhớ những xúc động thời trẻ dại được đọc tuyệt phẩm ấy.
Cảm ơn ông và kính
chúc ông bà và bảo quyến an hảo.
Ða tạ.
NQT
TV
post lên đây, hy vọng có độc giả nào còn giữ được bản dịch Barbara của
TTT.
Trong khi chờ
đợi chúng ta đọc bản dịch của TTS
BARBARA
Jacques
Prévert
( Bản dịch :
Thân Trọng Sơn )
Barbara hỡi,
em hãy nhớ
Cơn mưa dầm
trên thành phố Brest ngày xưa
Em bước đi
sũng ướt
dưới mưa
Cười tươi tắn
hân hoan rạng rỡ
Barbara hỡi,
em hãy nhớ
Hôm trên
thành phố Brest mưa triền miên
Ta gặp em
ngoài phố đường Xiêm
Em nở nụ cười
rạng rỡ
Và ta cũng rạng
rỡ nụ cười
Barbara hỡi,
em hãy nhớ
Em với ta
chưa từng gặp gỡ
Em với ta chẳng
hề quen nhau
Em hãy nhớ
Ngày xưa ấy
dẫu sao
Em hãy nhớ,
đừng quên.
Có chàng
trai trú trước cổng nhà
Réo gọi tên
em
Barbara
Em chạy đến
dưới làn mưa xối xả
Mình đẫm ướt
vui tươi hớn hở
Ngã vào tay
chàng trìu mến thương yêu
Chuyện này,
Barbara hỡi, em hãy nhớ
Và đừng phiền
lòng khi ta dịu dàng
xưng gọi anh
– em
Với người ta
yêu, ta luôn nói
tiếng ngọt mềm
Dẫu chỉ mới
một lần gặp gỡ
Và ta thân
thiết với mọi kẻ yêu nhau
Dẫu ta với họ
đã quen biết gì đâu.
Barbara hỡi,
hãy nhớ
Em đừng quên
Cơn mưa
ngoan hiền hạnh phúc đó
Trên khuôn mặt
em hân hoan
Trên thành
phố bình an
Cơn mưa trên
mặt biển
Trên xưởng
tàu
Trên con tàu
ven đảo Ouessant.
Hỡi Barbara
Cuộc chiến
tranh xuẩn ngốc xiết bao
Còn em giờ
đã ra sao
Dưới trận
mưa lửa thép
Dưới trận
mưa máu trào
Và người từng
siết chặt em trong tay
Tha thiết
ngày nào
Hiện sống
còn đã mất hay biền biệt âm hao
Hỡi Barbara.
Brest hôm
nay trời vẫn mưa triền miên trên phố
Như cơn mưa
dầm thuở đó
Nhưng chẳng
giống ngày xưa , nay sụp đổ cả rồi
Mưa bây giờ
tang thương áo não
Đâu còn là
cơn mưa giông bão
Mưa sắt thép
máu đào
Mà chỉ là
mây tự trời cao
Mây lụi tàn
Như những
con chó mất dạng
Dưới làn nước
trong thành phố Brest
Rồi giụi chết
ở nơi xa
Xa, xa hẳn
Brest
Thành phố chẳng
còn lại chút dấu vết.
Barbarians
The
messengers finally arrived and said:
The
barbarians are coming.
They're
getting ready to welcome them in the city.
Elated young men already cheer their
names
And hurry to
celebrate the new gods.
Haven't the
poets said those people were a kind of solution?
Now they write poems in their
glory
Waiting for
the day when they'll declaim them in public
While the admiring, heavily armed
barbarians
Applaud them and learn their verses by heart.
Already they
see their poems in large letters
Hung in the
porticoes of the temples
From which
the impotent deities have been evicted,
And libraries full of their books
Taking the
place of stories that no longer speak to anyone.
Still, the
poets know they'll be the first to hang in public,
Together with the young men
who hurried to open the gates
And admit into the city those they eagerly
awaited,
Since
barbarians are barbarians and are no solution at all.
JOVAN
HRISTIC
[1933-2002]
Hristic
studied philosophy, and after many years of working in publishing, he
taught at
the drama school in Belgrade, where he was born. His first book, The Diary of
Ulysses came out in 1954, and his The Alexandrian School in 1963. He
wrote
five plays, a study of Chekhov, a book of essays, and translated T. S.
Eliot
and Cavafy. Hristic was also a drama critic.
The Horse
has six legs.
[Tuyển tập thơ Serbian do Charles Simic biên tập, dịch, và giới
thiệu]
Bọn Rợ
Những người đưa
tin sau cùng xuất hiện và phán:
Bọn rợ đang
tới.
Trong thành
phố mọi người đã sẵn sàng chào mừng.
Ðám trẻ tuổi
sẵn sàng hoan hô tên tuổi của rợ.
Hớn hở chào
mừng những vị thần mới.
Mấy tên thi
sĩ chẳng đã tuyên bố, rợ là một thứ giải pháp?
Chúng làm thơ
chào mừng chiến thắng rợ
Ðợi ngày đọc
lên giữa công chúng
Trong lúc đoàn
rợ binh tiến vào thành phố
Vỗ tay khen
những bài thơ, bài ca, và học thuộc lòng,
Ba mươi năm
mới có ngày hôm nay, thí dụ.
Những bài thơ
đã được dán lên ở những đền đài.
Thần thánh trong đền đài thì đã bị đá đít văng
ra bên ngoài.
Và những thư
viện thì đầy những sách báo của rợ
Thay thế những câu chuyện chẳng còn kể cho bất cứ ai nghe.
Tuy nhiên, bọn
thi sĩ thừa biết, chúng là những kẻ đầu tiên bị đem treo cổ giữa công
chúng,
Cùng với đám
VC nằm vùng, những tên Cách Mạng 30 Tháng Tư.
Hăm hở mở cửa thành phố.
Chúng chấp
nhận, và không chỉ chấp nhận mà còn chờ đợi bọn rợ
Kể từ khi rợ thì là rợ, và chẳng có giải pháp chó gì hết trơn!
ELEGY FOR
THE LIVING
The joy of
the moment turns suddenly
into a black
hood with openings
only for
eyes, mouth, tongue, grief. More grief.
The living
see off their days
that flee
like
negatives, exposed once
but never
developed.
The living
exist, so light-mindedly, so nonchalantly,
that the
dead are abashed.
They smile
sadly: Children,
we were like
you, just the same.
Above us,
robinias blossomed,
and in the
robinias, nightingales sang.
Bi khúc cho người
sống
Niềm vui khoảnh
khắc bất thình lình
biến thành 1
cái mũ chụp đầu có những lỗ hổng
Chỉ dành cho
Mắt
Mồm
Lưỡi
Và nỗi đau. Nhiều
nỗi đau.
Người sống nhìn
ngày đi
Như những tấm
phim
Ðã 1 lần được
phơi
Nhưng chẳng
bao giờ được rửa.
Người sống
hiện hữu, tất nhiên, nhưng bông lông,
cà chớn, hời hợt, chẳng ra làm sao cả,
khiến người
chết xấu hổ, nhục nhã.
Người chết bèn
cười buồn: Lũ nhỏ kia ơi,
Chúng ta thì
cũng như chúng mi, y hệt như vậy.
Trên đầu chúng
ta, hoa robinia nở rộ
Và trong đám
robonia,
những con sơn ca ca hát.
Adam
Zagajewski: Without End
cong. thu
mái cong. lá
cong
lá. nhiều
chiếc. cong. vàng
mái xòe. hứng
cong. cong
thấp bóng.
ngồi dáng. thu
những bậc
thang. trải
rung rẩy. bước
chân. chậm
giọng kèn đồng.
khô. vắc
cái chớp mắt.
vàng. lá
dáng cây.
cong buồn. lá
lời thu.
cong ngày. lơi
vòng ngực.
cong hơi. thở
chớm hơi. lạnh
vòng. môi
ký ức. vàng.
cong. đứng. đợi
nói hộ lời.
chia tay. với bàn tay
nói hộ lời.
tình iêu. với trái tim
bằng những.
lời cong. lá
bằng liêu
xiêu. vàng. rơi
nhanh.
nhanh. nhanh hơn
Ðài Sử
Lá
Thu Vàng
*
TO MYSELF,
IN AN ALBUM
The grayish
cloud flows fast,
the petals
of peonies unfold,
nothing
links you to this earth,
nothing
binds you to this sky.
Distant
gardens loom in the heat,
a cat yawns
on a porch,
you walk a
street of lindens,
but you
don't know which town's.
You can't
remember in which country
gleam airy starlings,
evening's
step gently approaches,
rosebuds play hide-and-seek.
You're only
an image, a dream,
you're made up wholly of yearning;
when you vanish, so will
clouds,
you'll be a memory in sepia.
You'll haunt
rural rivers,
and the shadows of trees,
but finally
you'll subside, drowning
in the earth, in the earth, in the earth.
Về chính tớ, ở trong 1 tập album
Mây xám trôi nhanh
Những cánh mẫu đơn mở ra
Chẳng có cái gì móc tớ với trái đất này
Chẳng có gì nối tớ với bầu trời này.
Những cánh vườn xa xa mờ
mờ trong cái
nóng
Một con mèo ngáp 1 cái ở dưới cổng
Bạn đi lêu bêu trong con phố có những
cây đoan,
Nhưng bạn đếch biết nó thuộc thành phố
nào.
Bạn đếch có nhớ trong xứ
sở quái quỉ nào
Những con sáo đá lộng gió sáng loé lên
Và,
Từ vườn khuya bước về
Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa
Và
BHD chơi trò hú tìm.
Bạn chỉ là 1 hình ảnh, một
giấc mộng
Bạn làm bằng trọn một nỗi nhớ mong;
Khi bạn biến mất, thì cũng vậy, những
đám mây.
Bạn chỉ còn là 1 hồi tưởng trong màu đen.
Bạn sẽ ám ảnh những con
sông quê
Những bóng cây
Nhưng sau cùng bạn té xuống
Chìm vào đất, đất, đất.
AUTUMN
Autumn is
always too early.
The peonies
are still blooming, bees
are still
working out ideal states,
and the cold
bayonets of autumn
suddenly glint in the fields and the wind
rages.
What is its
origin? Why should it destroy
dreams, arbors, memories?
The alien
enters the hushed woods,
anger advancing, insinuating plague;
woodsmoke, the
raucous howls
of Tatars.
Autumn rips
away leaves, names,
fruit, it covers the borders and paths,
extinguishes lamps
and tapers; young
autumn, lips purpled, embraces
mortal creatures, stealing
their
existence.
Sap flows,
sacrificed blood,
wine, oil, wild rivers,
yellow
rivers swollen with corpses,
the curse
flowing on: mud, lava, avalanche,
gush.
Adam
Zagajewsk: Without End
Nguyễn Chí
Kham
1944 -
Còn Lại
đêm ôm lấy nỗi
mong đầy
tình chia mỗi
giọng rượu say nửa hồn
đèn khuya hắt
vắng chao buồn
chợt im lắng
tiếng khuất nguồn vẻ xưa
tìm nhau qua
mắt cơn mưa
nghe mờ xa
hát bơ vơ ngọt ngào
còn bên nhau
một buổi nào
phố hun hút
chảy mưa dào dào tuôn.
( VĂN số 118
ngày 15 tháng 11 năm 1968 )
NCK &
NQT & NDT
& Lý Kiến
Cắn's
Văn Hoá
Magazine, cc 2006
Nguyễn Tôn
Nhan
1947 - 2011
ĐÀ LẠT
Xuống đồi
anh hái vội cành khô
Tặng cho em
tượng đá chút sương mù
Hôm nay băng
giá như hôm trước
Như hôm nào
mưa rét bất ngờ
Rồi anh về
thở chẳng ra hơi
Trời quá ư
cao đến tím người
Và rừng
thông ấy xanh non lắm
Anh chẳng
làm sao hết mộng đời.
( Tuần báo
KHỞI HÀNH )
Nguồn: Gió O
Ðiêu khắc gia Dương Văn
Hùng & NQT & NTN
@ Chùa Tây
Lai, Cali 3.08
September
-For Petr Král
I was in Prague looking for
Vladimir
Holan's house,
the prison-house where he spent fifteen years.
(I thought I'd find it easily, roosters
would guide me and an old priest
in a neatly mended cassock would say:
here lived the poet, and suffering slept here
like a stray cat, hiding once a week
in a fur coat's sleeve.)
The light already felt like fall,
the sun was a bit offended. September kissed the hills
and treetops like someone leaving
on a long trip who realizes only at the station
that he's lost his keys.
Inside the labyrinth tourists moved warily,
consulting the black void of their cameras.
The elms' flames floated over parks
like Saint Elmo's fire. Bonfires in gardens
and gray smoke above the earth, the wells.
But chestnut leaves, light and dry,
like a certain kind of unconcerned old age,
kept sailing higher.
What are baroque churches? Deluxe
health clubs for athletic saints.
They didn't want to help me. (Whoever seeks another's home, one
handsome,
learned angel whispered,
will never find his own.) No one would help me.
Children shrieked happily
for no reason (full of cruelty just in case).
The wind was full of air, the air full of oxygen,
the oxygen held memories of a trip beyond the sea.
Was I right, were the palaces' walls, yellowed
as from nicotine, absorbed in border disputes?
I couldn't find Holan's house.
Life triumphed, as always, but the dead poet
dwelled in oblivion, in the sparks shooting
from beneath the welder's palm, in my growing exhaustion.
Nowhere, nowhere, nowhere at all.
He comes here, but only at night,
someone finally told me who wasn't there.
Adam Zagajewski: Mysticism for
Beginners
Tháng Chín
Tôi ở Prague kiếm nhà
Vladimir Holan
một căn nhà tù, nơi
ông trải qua 15 năm
(Tôi nghĩ, dễ
kiếm, những chú gà trống sẽ chỉ đường,
và một vị tu sĩ già trong chiếc áo tu khâu
vá thật ngon lành, sẽ nói:
đây là nơi nhà thơ sống, và đau khổ ngủ ở đây như con mèo lạc,
có lần trốn một tuần lễ trong cái tay áo choàng lông thú).
Trời đất như
chập tối,
và mặt trời
như có chút bực bội.
Tháng Chín hôn
những ngọn đồi,
và những ngọn
cây như một kẻ giã từ
cho một chuyến
đi dài, nhưng chỉ đến khi đến sân ga
thì mới biết là mất mẹ chùm chìa khóa.
Bên trong mê
lộ, du khách lò mò chuyển động
lâu lâu mầy mò coi lại cái khoảng trống không
đen thui
của những chiếc máy chụp hình.
Ánh lửa những cây đu lấp loáng trên những công viên
như lửa
Saint Elmo. Những đống lửa trong những khu vườn,
và khói xám bên trên mặt
đất, những cái giếng.
Nhưng những
chiếc lá cây hạt dẻ, nhẹ và khô
giống như một
thứ tuổi già chẳng còn được ai quan tâm
cứ thế bay cao mãi lên.
"Những nhà thờ
baroque gì vậy?”
Những câu lạc
bộ sức khoẻ hạng sang cho những vì thánh lực lưỡng, khoẻ mạnh.
Họ chẳng muốn
giúp tôi.
(“Ai lo kiếm nhà ai, thì sẽ chẳng bao giờ kiếm ra căn nhà của chính
mình”,
một thiên thần đẹp trai, có học, nói nhỏ).
Chẳng ai sẽ giúp tôi.
Những đứa trẻ ré lên hạnh phúc, không lý do
(đầy sự độc ác, có thể nói như vậy).
Gió đầy không
khí, không khí đầy dưỡng khí,
Dưỡng khí nắm
giữ kỷ niệm một chuyến đi quá biển.
Mình có đúng
không đấy, liệu có phải những bức tường cung điện,
ám khói thuốc vàng ệch từ
những cuộc cãi cọ về biên cương?
Tôi không kiếm
ra nhà của Holan.
Ðời sống chiến
thắng, luôn luôn là như vậy,
nhưng nhà thơ đã chết chìm mãi vào quên lãng,
trong
những tia lửa từ lòng bàn tay người thợ hàn,
trong khi tôi mỗi lúc một thêm mệt nhoài.
Ðâu có đâu đâu.
Ðâu có chỗ nào.
Ðâu có nơi nào.
Sau cùng.
Anh ta có tới
đây, chỉ vào đêm.
Một người nào
đó biểu tôi,
Một kẻ không
ở đó.
Adam
Zagajewski: Mysticism for Beginners
Nowhere, nowhere, nowhere at
all.
He comes here, but only at night,
someone finally told me who wasn't there.
Khi từ Phú Thọ ra, ghé lại
Hànội chờ tầu
về Nam, lúc chiều tối đứng trên ga Hàng Cỏ, trông xuống phố Hàng Lọng,
phố Trần
Hưng Đạo sâu hoắm bóng đêm rét lạnh của một ngày cuối năm, tôi thầm
nhắc thành
tiếng bên tai "... Nhìn xuống vực thẳm... dưới ấy..",
TTT: Trong Đất
Trời Nhau
Le Parfum des humanités
Blog
NL
Les humanités
Je vais vous dire ce
que me rappellent,
tous les ans, le ciel agité de l’automne, les premiers dîners à la
lampe et les
feuilles qui jaunissent dans les arbres qui frissonnent ; je vais vous
dire ce
que je vois quand je traverse le Luxembourg dans les premiers jours
d’octobre,
alors qu’il est un peu triste et plus beau que jamais ; car c’est
le temps
où les feuilles tombent une à une sur les blanches épaules des statues.
Ce
que je vois alors dans ce jardin, c’est un petit bonhomme qui, les
mains dans
les poches et sa gibecière au dos, s’en va au collège en sautillant
comme un
moineau. Ma pensée seule le voit ; car ce petit bonhomme est une ombre
; c’est
l’ombre du moi que j’étais il y a vingt-cinq ans.
…
Il y a vingt-cinq ans, à pareille époque, il
traversait, avant huit heures,
ce beau jardin pour aller en classe. Il avait le cœur un peu serré :
c’était la
rentrée.
Pourtant, il trottait, ses livres sur son dos, et sa
toupie dans sa poche.
L’idée de revoir ses camarades lui remettait de la joie au cœur. Il
avait tant
de choses à dire et à entendre.
…
C’est ainsi qu’il traversait le Luxembourg dans l’air
frais du matin. Tout
ce qu’il voyait alors, je le vois aujourd’hui.
C’est le même ciel et la même terre ; les choses ont
leur âme d’autrefois,
leur âme qui m’égaye et m’attriste, et me trouble ; lui seul n’est plus.
C’est pourquoi, à mesure que je vieillis, je
m’intéresse de plus en plus à
la rentrée des classes”.
Anatole
France, Le livre de mon ami, X.
Les humanités
"Les Humanités", Gấu nhớ,
đã
từng được ai đó dịch là "Sự Tồn Cổ".
Cái đoạn văn đầu tiên mở ra bài viết của A France trên
đây, đã có 1 thời. gần như bất cứ một học sinh Trung Học, trong có Gấu,
thuộc lòng.
Sau này, khi viết về BHD, Gấu lại thuổng, khi nhìn em tha thẩn trong
vườn Bờ Rô,
mỗi lần đưa cô em đến trường, trường Kiến Thiết, ở 1 con hẻm Phan Ðình
Phùng gần
Chợ Ðũi, trở về nhà. (1)
(1)
"Sao không hát cho những người
vừa nằm xuống..."
Đã có một thời, tôi không sao chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt lả. Đầy sũng
nước
mưa, nước mắt. Chúng gọi tên thảm kịch. Thảm kịch của những cái vô ích.
Của cuộc
chiến điêu đứng, rồ dại. Chúng gợi tâm trạng nhớ. Nhớ bùn. Nhớ đời sống
thảm hại,
nhàm chán. Nhớ những kỷ niệm chẳng đáng nhớ. Nhớ ngã tư đường Lê Văn
Duyệt-Phan
Đình Phùng gần nhà cô bé, khi chưa có tượng Thích Quảng Đức. Cô bé hớt
hải chạy
ra, hớt hải lắc đầu, rồi lại hớt hải chạy về. Nhớ những ngày nhà cô bé
dời lên
đường Gia Long. Buổi sáng, cô đưa em đi học trường Kiến Thiết gần khu
Chợ Đũi,
đưa mắt nhìn người yêu đang chờ đợi trong quán cà phê Tầu ở ngay đầu
đường. Khi
về, cô tha thẩn giữa những hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo
chiếc lá
nhẹ nhàng đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở thành người lớn.
Lần
Cuối Sài Gòn
Bạn đang nhìn bức hình, thì đây
là con đường băng qua vườn Bờ Rô, sau lưng bạn là đường Nguyễn Du,
Gấu đang chạy
xe solex có em BHD ngồi phía sau, tới trường Gia Long, phía trước mặt.
Hà, hà!
Bức hình này, đúng là thời gian đó, cỡ 1966-7.
Tôi sẽ nói
cho bạn biết hàng năm bầu trời chập chùng mùa thu, những bữa cơm chiều
đầu tiên
ăn dưới ngọn đèn, những chiếc lá úa vàng trong những hàng cây run rẩy;
tôi sẽ
nói cho bạn biết điều mà tôi nhìn thấy khi băng qua vườn Lục Xâm Bảo
những ngày
đầu tháng Mười, trời thì hơi buồn nhưng đẹp như chưa bao giờ đẹp như
thế;
Ui chao, hình như Gấu, hồi
nảo hồi nảo, đã từng tập tành dịch….
Xưa rồi Gấu
ơi!
Hằng
năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những
đám mây
bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu
trường.
Tôi
không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng
tôi như
mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
Những
ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi
và ngày
nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới
nón mẹ lần
đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.
Buổi
sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm
nắm tay
tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi
lại lắm
lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều
thay đổi,
vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.
My hunger is
infinite and my hands always empty.
Down city
streets I carry at night the moon on my fingers
and leave my
sadness under the windows of unhappy women.
I would give
everything and yet I have nothing.
My hunger is
infinite and my hands always empty.
RADE DRAINAC
[1899-1943]
Drainac was
a famous Belgrade bohemian who spent his life in the taverns of the
city often
playing the violin. He served in the Serbian army in the First World
War. His
first book Purple Laughter was published in 1920. He wrote three more
collections of poetry plus a novel and a war diary. He was influenced
by
Apollinaire, Cendrars and Esenin. He died of consumption.
Cơn đói của
tôi thì vô cùng, hai bàn tay của tôi thì trống trơn.
Dưới phố,
tôi nhón mặt trăng bằng những ngón tay
và để nỗi buồn
của tôi ở bên dưới cửa sổ những phụ nữ bất hạnh.
Tôi cho mọi
thứ, tuy nhiên, tôi chẳng có gì.
Cơn đói của
tôi thì vô cùng, và hai bàn tay của tôi thì trống trơn.
Rimbaud's
renunciation of poetry is a mystery that continues to haunt his fans.
Trường hợp
Arthur Rimbaud chối từ, phải nói, ghê tởm thơ,
mặc dù được coi như người thành lập, founder,
“thơ Âu châu hiện đại”, cho đến nay, vẫn là một bí ẩn và làm nhức đầu
fans của ông.
The
sixteen-year-old went on to make an
assertion that Graham Robb, in his idiosyncratic yet magisterial 2001
biography,
refers to as the "poetic E=mc2”: “Je est un autre” (“I
someone else").
Câu phán
"Tớ là kẻ khác", của Rimbaud, chẳng thua gì công thức E = mc2, của
Eienstein.
TTT, khi nhìn lại Bếp Lửa,
cho biết, trong bản thảo đưa đi xb, ông chơi câu
của Rimbaud làm đề từ, nhưng phút chót gạch bỏ.
Vấn đề là liệu chúng ta
có thể coi TTT, người tạo dựng thơ Mít hiện đại?
Why not?
Trả
lời 1 vị
độc giả trên DTL.com, v/v nhà thơ Mít thường chỉ làm thơ được ít lâu,
rồi xuội le, TDT, Nobel Thơ Mít Diệm ban cho, có nhắc tới
Arthur Rimbaud,
ra ý, ông mũi lõ
này cũng chỉ làm thơ thuở yêu em, rồi tịt.
TV post bài viết trên tờ Người Nữu Ước, và nếu có thì giờ,
sẽ dịch
lai lai ba sợi, chơi!
Một trong những lý
do Rimbaud bỏ thơ, là… “mắn nỳ”, lợi nhuận đếch cần danh dự, profit
without
honour, như 1 tác giả trên tờ TLS viết.
Vấn đề là,
những nhà thơ Mít, thành đạt, như Ông Số 2, TDT, liệu... cũng rứa?
Rimbaud, đã
từng buôn súng.
Mấy nhà thơ Mít, trên, nhờ chiêu bài Chống Cộng?
Một trong những
đấng bạn học cũ của GCC, dân Cali, nhân nhắc tới TDT, có đưa ra nhận
xét, tay này
làm "bi di nét" giỏi lắm, cái cú Viết Về Nước Mẽo là của anh ta đấy.
Sau
1 bà vợ thành đạt, luôn có 1 nhà thơ đảm đang!
Còn Ông Số
2, sau mỗi lần thanh toán nội bộ, là 1 một lần thoát hiểm, vì Người
luôn ngửi
ra thời cuộc, nếu không muốn nói, là mastermind của “cú độc”, và bây
giờ trở thành
Thái Thượng Hoàng của bộ lạc Cờ Lăng!
Toàn Bắc
Kít, như… Gấu Cà Chớn.
Chẳng thấy có tên nào ngu cả!
Liên hệ
giữa
Nguyên Sa, Sáng Tạo và, những ngộ nhận.
DTL
Theo GCC chẳng
hề có cái gọi là “ngộ nhận” giữa Nguyên Sa và Thanh Tâm Tuyền.
Gấu còn nhớ,
khi NS mất, tờ NV đã để tên TTT trong số những người thương tiếc ông
nhà thơ Áo
lụa Hà đông, và thi sĩ TTT đã rất ư là bực mình, và sự bực mình này rất
ư là có lý.
Bởi
vì khi còn sống, NS đã ban cho TTT cái nick Ðông Phương Bất Bại, với
một lũ đệ
tử lau nhau, sẵn sàng tung hô “muôn năm trường trị thống nhất giang
hồ”!
Cái mục
bài viết trang bìa của tờ VÐ, theo Gấu, có, là do TTT đề nghị, và bài
viết đầu
tiên, là của ông, viết về Bọn Ngốc [chữ này hình như là của Nhượng Tống
thì phải,
người dịch Mái Tây, và từ
này, ông dùng để chỉ đám ngu ngốc không đọc nổi một
tuyệt tác như Tây Sương Ký!]
Không chỉ
ban cho TTT cái chức giáo chủ giáo phái tà ngụy do luyện thần công mà
súng không
còn sử dụng được nữa, NS còn tố cáo luôn băng ST lấy tiền Xịa làm tờ
báo này, và,
thừa thắng xông lên, tố luôn PCT không có tí bằng cấp…
NS gọi
TTT là Ðông Phương Bất Bại là cũng có lý do của nó.
Nhà thơ NS rất ư là bực, và nực, vì đám viết trẻ, kế
tiếp thế hệ của ông, coi TTT mới đúng là đàn anh của họ, lúc nào cũng
chỉ nhắc
tới TTT, thí dụ như thằng cha Gấu, trong khi chính thằng khốn này, ngựa
non háu
đá, dám coi thi sĩ NS, là nhà văn “dễ dãi, sung sướng, và hạnh phúc”,
khi
viết những truyện
ngắn trong “Mây Bay Ði”.
Nhưng, vượt
lên tất cả những lẩm cẩm thuộc về “thói đời” như thế, còn là sự khác
biệt, cực,
của hai cõi thơ; một, thơ ca tình cảm, ướt át, tán tỉnh, tán gái, nịnh
gái…. và
một, thơ trí tuệ, thi sĩ dám đối mặt với vực thẳm, chứ không phải chỉ
với cuộc đời.
Ngay từ năm
1973, Gấu Cà Chớn đã đọc TTT như vậy rồi.
Cái mà thơ Mít thiếu, cực
thiếu, là cái chất đàn ông, viril.
Và cùng với nó, là cái chất trí tuệ.
Aó nàng vàng
anh về yêu hoa cúc
Aó nàng xanh anh mến lá
sân trường
thì làm sao
mà đặt kế bên:
Ném mẩu thuốc
cuối cùng xuống dòng sông
Mà lòng mình phơi trên kè đá.
Hai
cõi thơ đối nghịch
hẳn nhau, làm sao mà có chuyện ngộ nhận được.
Ðỉnh cao của sự "ngộ nhận", là giải thưởng Nobel về thơ của Diệm, ban
cho nhà thơ TDT.
Gia Ðịnh
23/4/87
mổ và người
tep tóp lại. Rất muốn đọc những bài thơ cuối đời của ông. Tặng bạn món
quà chung,
mấy câu thơ viết cho con trai
Rõi trông cố
lý mây vô xứ
Ngầu đục u mông
tản mạn trời
Triều ngút
ngọn giăng vách sóng bủa
Bọt xóa
thiên thanh gieo vực khơi…
Chúc anh và
gia đình vui hưởng mùa hè sắp tới. Sài gòn nửa tháng nay nóng chẩy mỡ,
đang chờ
mưa. Mong thư anh và những tin vui cho tên lưu vong tại chỗ.
Thân
Thủ
bút TTT. Thấy cái này trong archives, chẳng biết nguồn từ đâu.
Bỗng nhớ cô Hiền, trong Một Chủ Nhật Khác.
Gấu
nhớ ra rồi. Cái thủ bút trên, của một vị độc giả rất thân với TV, còn
là 1 nhà
thơ, Gấu không tiện nêu tên, vì chưa xin phép, gửi cho Gấu. Vị này gọi
nó là
"Thơ Thất Tán".
Tks.
NQT
Death
Sentences
I was born
too late and I am much too old,
My dear Hamlet,
To be your
pimply Ophelia,
To let my
hair like flattened wheat
Spread over the dark waters
And upset
the floating water lilies
With my floating eyes,
To glide
fishlike between fishes,
Sink to the
bottom like a dead seashell,
Burrow in sand next to shipwrecks oflove,
I, the
amphora, entangled in seaweeds.
1'd rather
you take off my dress,
Let it fall
at my feet like aspen leaves
The wind shakes without permission
As if there's
nothing to it.
1'd rather
have that death sentence:
Eternity of
your arms around my neck.
Án
Tử
Ta sinh ra quá trễ, và ta lại
quá già
Ðể làm nàng Ophelia đầy mụn
trứng cá của mi,
Tên hoàng tử thân thương vừa
Hâm lại vừa Liệt của ta ơi!
Ðể tóc
ta như lúa mì
Trải dài trên mặt nước tối
Và làm bực mình những bông hoa kèn
Với cặp mắt trôi lềnh bềnh của ta
Ðể lướt như cá giữa đám cá
Chìm xuống đáy biển như cái vỏ
Của một con sò chết
Lặn lội trong cát kế bên những
mảnh vỡ của chiếc thuyền tình
Ta, chiếc bình hai quai, bị
quấn quýt giữa mớ rong biển
Ta thà để cho mi lột quần áo
của ta ra
Và chúng rớt xuống chân ta như những chiếc lá dương
Và gió, vô lễ, chẳng thèm xin phép ta
Nghịch ngợm với chúng
Như thể chẳng có chi là quan trọng
Ta thà có bản án tử, này:
Thiên thu, vĩnh viễn
Vòng tay của mi vòng quanh cổ ta.
RADMILA LAZIC
[1949-]
Radmila Lazic là 1 trong nữ thi
sĩ Serbian bảnh nhất hiện đang còn
sống. Tác giả 6 tập thơ, với rất nhiều giải thưởng. Viết nhiều tiểu
luận văn học
và là nhà biên tập một tuyển tập thơ nữ, và một tuyển tập khác, về thư
phản chiến,
là người thành lập và chủ biên của tạp chí Profemina. Tác phẩm Ðánh thức kẻ đang sống, A Wake for the Living được nhà Graywolf Press xb vào năm 2003
RADMILA
LAZIC
[1949-]
Radmila
Lazic is one of the best living Serbian poets. She is the author of six
collections of poetry, for which she has received several literary
prizes. She
has published numerous essays on literature and is the editor of an
anthology
of women's poetry and another of anti-war letters, and the founder and
editor
of the journal Profemina. A Wake for the
Living was published by
Graywolf Press in 2003.
Vào cái thời
mới lớn của Gấu ở Sài Gòn, có 1 dạo, Saint-Exupéry rất là được đọc và
đám con nít
mới lớn trong có Gấu rất mê một câu của ông, “cái gì gì”, yêu không
phải là nhìn
nhau mà là nhìn về cùng một hướng. (1)
Về già, nhìn
lại cuộc chiến, nhìn lại cõi thơ Mít, Gấu ngộ thêm ra 1 điều, đây là 1
cảnh báo.
Bạn thử đọc
bất cứ một bài thơ tình nào của thi sĩ Mít coi, có bao giờ cả hai anh
chị cùng
nhìn về 1 hướng, hay chỉ nội nhìn nhau cũng.. đủ rồi?
Nhưng khủng
nhất là khi chúng cùng nhìn về một hướng, hướng Nam Kít, thế là bỏ mẹ,
thế là
ra cái thứ thơ phải có thép, có máu, đường ra trận mùa này đẹp lắm.
Thấy mấy ông
VC, Ðại VC, chuyên đẻ ra anh hùng, dũng sĩ diệt Mỹ Ngụy, thí dụ NN,
phát điên
lên vì bị nhà nước của chính họ, do họ dựng lên, gọi là phản động, Gấu
bỗng nhớ
đến lần đi trình diện cải tạo tại chỗ, thời gian ngay sau 30 Tháng Tư
khi còn
là nhân viên Bưu Ðiện, và khi ông cán bộ
quản giáo nhìn Gấu, và, than giùm Gấu, cả nhà mày là Cách Mạng, chỉ có
mày là
phản động, thú thực, lúc đó Gấu cảm thấy mừng quá, thực sự là như vậy,
Bởi vì như vậy Gấu trở
thành tên mọi da đỏ cuối cùng! [Le dernier des Mohicans,
Le
dernier des Justes!]
Bỗng nhớ... Cao Bồi.
Sinh thời, anh rất thích mặc đồ lính VNCH, thứ màu xanh, bó sát người,
những lần Gấu gặp anh, thì đều thấy diện bộ đồ như vậy.
Làm sao mà anh không mơ được có 1 ngày là Ngụy, thực sự Ngụy, không
phải thứ Ngụy cà chớn đó?
Bởi vì phải
xấu hổ, nhục nhã lắm, hơn cả “như 1 tên phản động, một tên Ngụy"
thì
PXA mới làm được cái việc, làm nhục mình, và làm nhục cái chiến công do
ông làm
nên, là ăn cướp Miền Nam, khi viết thư xin bạn ký giả Mẽo cũ của ông 32
ngàn
đô, cho con trai của ông đi du học ở Mẽo.
(1)
Life has
taught us that love does not consist in gazing at each other but in
looking
outward in the same direction.
Antoine de
Saint-Exupery
Bài “thơ tình”
trên, của một em Serbia, liệu có em Mít nào làm nổi?
Và “bà mẹ
huyền thoại” của TCS, hẳn là thua bà mẹ trong bài thơ “Chiến Tranh” sau
đây, của
Charles Simic.
War
The
trembling finger of a woman
Goes down
the list of casualties
On the
evening of the first snow
The house is
cold and the list is long.
All our
names are included.
Ngón tay run
rẩy của người đàn bà
Chạy dọc
theo, không phải
danh sách
chiến lợi phẩm,
mà là những
mất mát, tổn hại.
Vào một buổi
chiều đầu tuyết.
Căn nhà thì
lạnh, và danh sách thì dài.
Tên của tất
cả chúng ta thì đều có trong đó.
письмо о
публикации в Times Literary Supplement
To the editors:
I would like to offer two comments on your June 12 review
of Valentina Polukhina's "Brodsky
Through the Eyes of His Contemporaries."
The reviewer, Gerald Smith, writes, "Access to Joseph Brodsky's private
papers has been blocked for fifty years following his death." This is
not
precisely correct. In 1995, Brodsky himself closed certain private
papers held
by the National Library of St. Petersburg, which he had been unaware
were
publicly available there, for forty years. The remainder of that
archive,
consisting of thousands of pages of manuscripts, notebooks, and other
documents
left behind by Brodsky upon his emigration in 1972, is open to
scholars. The
Beinecke Rare Book and Manuscript Library in New Haven, Connecticut,
holds
papers in Brodsky's possession at the time of his death, including
those he
preserved after his emigration and a number that he saved or
accumulated from
before his emigration. Except for a few pages closed for
non-biographical
reasons, these are entirely open to scholars, again thousands of pages.
These
terms are available to any scholar who inquires about access to the
papers. The
Brodsky archives are being actively studied and have been cited in
numerous
scholarly settings and are currently being analyzed by a team of
textologists
for a multi-volume, bilingual scholarly collection of Brodsky's work.
Second, Professor Smith writes, "That his estate puts obstacles in the
way
of [Professor Polukhina] of all people is baffling." The Estate of
Joseph
Brodsky has a policy of not interfering with scholarly research. The
only
source I can identify for this remark is that Brodsky himself, a well
known
skeptic about the value of literary biography, asked that a request be
distributed to his friends and relatives after his death that they not
participate in biographical research. (Indeed, he wrote to Professor
Polukhina
herself in 1988: "I am willing to help you in any way I can with regard
to
your textological studies—in so far as they touch upon one or another
of my
texts. As for my life, the physical existence of my person that is, I
would ask
you and all those who are interested in my work, to leave it in
peace.")
We distributed this message as requested, but leave to its recipients
how to
respond to it, and we do not undertake to interpret or enforce it.
I apologize for wearying non-specialists with such arcana, but felt I
should
state the matter clearly to avoid confusion.
Ann Kjellberg
Executor and Trustee
Estate of Joseph Brodsky
Русский оригинал цитируемого письма Бродского Валентине Полухиной от 10
сентября 1988 года, отрывок: «Я готов оказать Вам посильную помощь в
Ваших
текстологических студиях — в том, что касается тех или иных моих
текстов. Жизнь
мою, то есть физическое существование моей личности, я просил бы и Вас,
и всех
тех, кто моим творчеством интересуется, оставить в покое».
Note:
Bài này, của em quản
thủ kho tàng Brodsky, là để trả lời 1 bài trên TLS, do Tin Văn post lên!
Thú vị hơn nữa,
là sau đó, tờ báo giấy TLS phải đi một bài phản biện bài này.
Nguyên Sa vs TTT
by DTL
Note: Bài viết
liên quan tới giải Nobel Thơ Mít của Diệm ban cho TDT. GNV sẽ đi 1
đường cà chớn,
sau.
Thanh Tâm
Tuyền, Con Ngựa Chứng Của Thi Ca Hôm Nay, (Kỳ 1)
Ra trường năm
1963 ông được tuyển dụng về nha C.T.T.L.
Ông viết cho
tờ Bách Khoa với truyện dài “Vũng Lầy” và Văn với truyện dài “Ung Thư”.
Vì chương
này được viết trong lúc tác giả đang công tác xa Saigon, do đó phần ghi
nhận về
khuôn-mặt-đời của Thanh Tâm Tuyền có phần thiếu xót. Nhưng bù lại, phần
nói về
tiếng thơ của ông lại tương đối đầy đủ hơn cả, vậy xin mời độc giả bước
vào
căn-nhà-tâm-hồn của người lãnh đạo phong trào thơ hôm nay.
DTL.com
Note: TTT ra
trường làm lính gác kho xăng, trước khi được đưa về CTCT [Chiến tranh
chính trị]
Không phải "Vũng
Lầy", mà là "Cát Lầy".
Bạn ta viết
toàn theo kiểu nhớ sao viết vậy người ơi. Mấy bữa ở Cali, Gấu đọc tờ Khởi Hành, thấy bà
Tà Cúc chê bạn ta quá. Toàn viết nhảm, đến nỗi Duy Thanh cũng
phải lên tiếng đính chính vài chi tiết liên quan tới ông, và vụ Sáng Tạo nhận
tiền của Mẽo.
TTT, ngựa chứng?
Cuộc “cách mạng thi ca” là do 1 con ngựa
chứng làm ra ư?
DZƯ VĂN TÂM
tức Thanh Tâm Tuyền, sinh năm 1936 tại Nghệ An (Vinh). Tuy sinh tại
miền Trung
nhưng ông lại lớn lên và theo học tại Bắc Việt (Hà Nội). Cho nên, trong
các tác
phẩm của ông, người ta thường bắt gặp những hình ảnh, những kỷ niệm
thuộc về Hà
Nội xưa. Điều đó chứng tỏ rằng “chốn ngàn năm vạn vật” với 36 phố
phường đã in
hằn, khắc sâu trong tiềm thức nhà thơ. Phải chăng dĩ vãng ấu thơ đóng
một vai
trò quan trọng trong việc sáng tác?
DTL
Nhảm. Tuổi
thơ của TTT là xứ Xề Gòn. Chứng cớ:
TTT & Ông em C
Chất kể lại,
hồi nhỏ nhà tớ ở
gần hồ Trúc Bạch. Ông cụ tớ, một bữa
đạp xuồng dạo chơi trên mặt hồ, không may xuồng lật. Khi đó ông cụ mới
29 tuổi,
bà cụ 24. Bà cụ giao tụi tớ cho bà ngoại ở Đáp Cầu, và lo buôn bán xuôi
ngược.
Cụ vô tận trong Nam, tình cờ gặp bà cô tớ, thế là cụ đem hai thằng vô
Nam nhờ
bà cô trông coi giùm.
Hình trên chụp ở vuờn Bờ Rô.
Bạn hàng cùng với cụ hồi đó có bà C, bà Th. cậu biết rồi.
Lần đầu đọc Cuối Đường,
Gấu cứ thắc mắc, liệu tự truyện, và tác giả đã có lần ở Sài Gòn?
Như vậy, cũng như trong Cuối Đường, những sự kiện như được mô
tả trong
Bếp Lửa đều dựa trên đời sống thực.
Chị Ng, bà xã bạn Chất nói, tụi này đã từng gặp cô Thanh Tuyền.
Cô Thanh cũng có nguyên mẫu ở ngoài đời.
Chị Ng nói thêm: Tui không đọc được từ màn ảnh PC, anh Chất phải in ra
cho tui
đọc, nhưng chẳng thấy những chi tiết sự kiện nào liên quan tới anh Chất
hết.
Không lẽ anh không viết gì về những mối tình của anh Chất, giống như
mấy anh em
khác trong... Thất Hiền?
Chất cuời: Đảng trưởng thì phải gương mẫu cho anh em noi theo đó mà
sống chứ!
Cậu nhớ không, hồi đó tớ còn có nickname là Ông Thánh!
Source
Quê
TTT là
Hà Ðông. Ông cụ vô Vinh làm việc, bà cụ sinh ông tại đây.
Hà Nội của TTT là Hà Nội 1954 của Bếp Lửa của Ung Thư, “đi và ở đều là những chọn lựa miễn
cưỡng, chia lìa hoặc
cái chết. Lập tức có phản ứng của những nhà văn cách mạng. Trong một
bài điểm
sách trên Văn Nghệ, một nhà phê bình hỏi tôi: "Trong khi nhân dân miền
Bắc
đất nước ra công xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân vật trong Bếp Lửa đi
đâu?". Tôi trả lời: "Anh ta đi đến sự huỷ diệt của lịch sử," mỗi
nhà văn là một kẻ sống sót.
Tác phẩm thứ nhì của tôi, Ung Thư (1970) có thể coi như tiếp nối Bếp
Lửa. Ung
Thư là chấp nhận giữa "vô thường", và chút hơi ấm của nỗi chết
(l'existence de notre acceptation entre la vanité et la tièdeur de
mort). Cuốn
sách chẳng bao giờ được in ra...”
New York
City đóng cửa!
Vậy là tiêu US Open!
bão
irene. tên gọi. mềm. con gái
bình
an. ngày thứ năm. trong
tuần.
em. sẽ đến vào. thứ bảy
chỉ
với. gió. và mây. và. nước
em.
chân trần. rên. xiết
cuộc
động tình. cùng biển
bàn
tay. xoáy. vòng. mơn trớn
irene
em. mắt bão. nhiều màu
những
lần ghé. vội môi. hôn
cùng
khắp. và. nước mắt. và
ra
đi. ngày. gội rột hết. kỷ niệm
irene.
ngày mai. nắng sẽ. đến
tối
về. cùng cơn mộng. huyễn
gọi.
em irene. irene. nhạt
nhòa
nước. đậm. đầy gió
em
đi. khi mặt trời. lặn
em
đi. không người. đưa tiễn
về.
lại biển. để mặn mà
phục
sinh. thời con gái
irene.
lần nữa
Đài Sử
Note: Em
Irene hình như đã làm thịt vài mạng rồi, cho tới giờ này, 6.50
PM,
27/8/2011, local time.
NQT
Seven dead as Hurricane Irene edges into
Virginia
Boy killed when
tree slams into home; surfer dies in huge
waves off Florida
SUPPLICATION
The sea took
a sailor into its depths–
His mother,
unaware, goes to light
a tall
candle before the Virgin Mary,
that he
return soon and meet with fine weather-
all the
while turning windward her ear.
But as she
prays and supplicates,
the icon
listens, solemn and sad, well aware
that he'll
never come back, the son she awaits.
C.P. Cavafy
Năn Nỉ
Biển lôi
thằng
con tới rún của nó.
Bà mẹ đâu biết,
bèn đốt cây nhang trước tượng Ðức Mẹ
Năn nỉ cho ông
con sớm trở về trong 1 ngày đẹp trời.
Và dỏng tai
nghe ngóng.
Ðức Mẹ, buồn
ơi là buồn,
Trang nghiêm
ơi là trang nghiêm
Biết tỏng thằng con chẳng bao giờ trở về
WIND AT
NIGHT
The wind
rose at night,
the young,
short-tempered wind,
a bubbling
wine, Eastern prince.
It spoke
indistinctly, in the accents
of languages living and dead.
Babylon's curses
whirled within it,
the bells of Byzantium pealed.
Beneath its imperious blow,
trees
obediently bent,
the shutters
shook on our flimsy cottage.
We heard
those voices with half
our
attention, and, understanding little,
turned again to sleep, and to love.
Adam
Zagajewski
Gió đêm
Cơn gió nổi
vào đêm
Thứ gió trẻ,
dễ cáu giận,
rượu vang nổi
bọt, hoàng tử Ðông Phương.
Nó nói lù mù,
lu xa bu, bằng âm sắc
của những ngôn ngữ sống và chết.
Những lời trù
yếm Babylon quay mòng mòng ở trong đó
Những tiếng
chuông Byzantium rung lên.
Ở bên dưới cú
thổi quyền uy, hách xì xằng này
Cây cối răm
rắp rạp xuống
Những cánh cửa
rung lên bần bật
ở trong túp lều nhỏ mọn, bèo bọt của chúng ta.
Chúng ta
nghe những giọng đó với một nửa cái tai
Hiểu tí tí
Và quay vô
ngủ tiếp, yêu tiếp.
A HISTORY OF
SOLITUDE
Birdsong
diminishes.
The moon
sits for a photo.
The wet
cheeks of streets gleam.
Wind brings the scent of ripe fields.
High
overhead, a small plane cavorts like a dolphin.
Adam
Zagajewski
Chuyện Tình
Buồn
Tiếng chim loãng
dần.
Mặt trăng ngồi
vào một bức hình
Má phố ướt, ánh
lên ánh trăng.
Gió mang mùi
lúa đang độ chín
Mãi tít phía
bên trên, một cái máy bay
quẵng 1 đường,
như chú cá
heo.
Cái tít Chuyện
Tình Buồn này, thay vì Một
chuyện về nỗi cô đơn, là do Gấu nhớ đến cô bạn, và
những ngày Ðỗ Hòa.
Lần đầu tiên Gấu nghe Chuyện Tình
Buồn, là ở Ðỗ Hòa, 1 buổi
tối văn nghệ tổ, trong 1 lán nào đó, khi là Y Tế Ðội, và
khi 1 anh
tù hát lên bản này, một anh khác cầm hai cái muỗng đánh nhịp, Gấu bèn
nhớ ra liền buổi tối mò đến thăm em, đứng tít mãi bên ngoài, trong
bóng tối nhìn
vô căn nhà cũ, em thì đã lấy chồng, có đến mấy nhóc:
Anh một đời
rong ruổi
Em tay bế tay bồng
Bèn lủi
thủi
ra về. Trưa hôm sau, bị tó ở bên Thủ Thiêm, đưa vô trường Phục Hồi
Nhân Phẩm,
Bình Triệu, vừa hết cữ vã, là xin đi lao động Ðỗ Hòa liền, hy vọng
trốn Trại, kịp chuyến vượt biên đường Kampuchia.
Ngoài hai cái
nhớ, một, nhớ câu thơ thần sầu, “đứng trước gió/lúc lắc cho thằng nhỏ
thức giấc”,
và, nhớ bản nhạc thần sầu, “người đi qua đời tôi, không nhớ gì sao
người”, Gấu
còn tới hai kỷ niệm cũng thần sầu với nhà thơ Nobel Diệm ban, TDT.
Kỷ niệm thứ
nhất, là vào cái lần thứ nhất ông bạn quí HPA từ Ðà Lạt về Sài Gòn sau
những
ngày học sư phạm, và có bài đầu tiên đăng trên Văn.
Như còn nhớ thì chưa 1 lần Gấu được nhìn thấy Ông Số 2 ghé Quán Chùa.
Nhưng bạn
ông, là nhà thơ Nobel Diệm ban, TDT, thì có đôi lần, vào những ngày
Diệm mới ngỏm
ít lâu, tờ Nghệ Thuật thì cũng mới ngỏm, cả đám quay qua viết cho tờ
Văn, và tờ
này bèn ra 1 ấn bản mới đặc biệt về phê bình văn học, và Gấu là người
giới thiệu
ông bạn quí với NDT, và qua NDT, ông viết cho Văn, một bài biên khảo,
hay tiểu
luận.
Và cái lần ở Quán Chùa đó, có NDT & HPA & GNV, và sau, TDT xà
vô bàn.
Câu đầu tiên, ông phán, là, cái thằng chó chết nào viết cái bài…., tao
đếch hiểu
nó viết cái gì cả!
[Ðây là ngôn
ngữ của Gấu. Ông nói lịch sự hơn, tất nhiên, nhưng thực chất thì cũng
rứa, thì
vẫn cái giọng “lúc lắc” trên!]
Khỏi cần nói
thì bạn đọc cũng biết, cả ba đứa, ông bạn quí HPA, NDT người giới thiệu
con gà
nòi mới xuất hiện, và Gấu Cà Chớn, mặt mày sượng trân:
Biết nói gì đây!
Có thể, nhìn ba bộ mặt ngẩn tò te, ông nhà thơ lúc lắc chắc hiểu, và
sau vài
câu xã giao, chuồn qua bàn khác.
Kỷ niệm thứ nhì, có nhà văn nhớn Mai Thảo ngồi cùng bàn, và cùng chia
sẻ.
Tham dự, đúng hơn.
*
Mỹ Dung:
Thưa ông tôi chỉ một câu hỏi
trong lá thư ngắn này. Đó là điều tôi
thấy hình như các nhà văn, nhà thơ Việt Nam mình, khi lớn tuổi rồi thì
không
còn làm thơ được nữa? Hoặc giả họ vẫn còn làm thơ nhưng họ thấy không
ưng ý nên
không cho phổ biến? Nếu đúng vậy thì theo ông nguyên nhân sâu xa của nó
nằm ở
đâu? Trong khi tôi thấy các nhà văn nhà thơ tây phương, lớn tuổi họ vẫn
sáng
tác được mà có khi còn hay hơn cả thời gian còn trẻ nữa.
Nhà thơ Trần Dạ Từ trả lời:
Nhiều người khi lớn tuổi không
làm thơ nữa... Đây là điều thường
thấy ở bất cứ đâu. Ví dụ, thi sĩ Pháp Athur Rimbaud chỉ làm thơ trước
tuổi 20
rồi ngưng. Riêng tại Việt Nam, thời nào nơi nào cũng có những thi sĩ
vẫn tiếp
tục làm thơ dù lớn tuổi, làm thơ ngay cả trước khi chết, và đây thường
là những
bài thơ bậc nhất, đặc biệt nhất của chính họ. Xin mời coi lại và sẽ
thấy yên
tâm:
- Ca trù/ hát nói của Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê: “Ngã lãng du thời
quân
thượng thiếu” và “Hồng Hồng Tuyết Tuyết.”
- Thơ Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê, “Tuổi già hạt lệ như sương.”
- Tại miền Nam VN, Vũ Hoàng Chương có “Thơ xuân Năm Thìn.” Đây là bài
thơ có
chữ nghĩa xúc tích, tối tân và hào hùng nhất của thi sĩ, trước khi ông
bị cộng
sản bắt đi tù và bị giết vào tuổi sáu mươi.
- Tại miền Bắc VN, hai nhà thơ Chế Lan Viên và Nguyễn Đình Thi trước
khi từ
trần đã làm thơ để lại như những di cảo lên án chủ nghĩa bánh vẽ và chế
độ
chuyên chế của cộng sản. Đây là những bài thơ xúc động mới lạ nhất của
họ.
- Tại hải ngoại, rất dễ thấy ‘thơ hay hơn bao giờ’ của các nhà thơ tuổi
sáu bó,
bẩy bó: Nguyên Sa, Mai Thảo, Du Tử Lê, Phạm Công Thiện, Đỗ Quí Toàn...
Đặc biệt
trong phạm vi người Mỹ gốc Việt, ta thường thấy số người lớn tuổi làm
thơ đông
hơn là lớp người trẻ tuổi.
DTL.com
GNV để ý, TDT vờ TTT, Tô
Thùy Yên, Nguyễn Xuân Thiệp… đi tù,
ra tù, về già, vưỡn tiếp tục làm thơ.
Về câu hỏi của vị độc giả,
Gấu mới kiếm ra 1 câu trả lời thật
bảnh, của Aleksander Wat:
"Già quá rồi, làm thơ, sao
không hổ thẹn?"
“He’s so old, isn’t he ashamed to write poems?”
Bài viết của ông, là để
trả lời cho câu hỏi:
Tại sao tôi làm thơ?
Why do I write poems?
Trong số Brick,
Summer,
2011. TV đã giới thiệu, trong có bài phỏng vấn Brodsky, lần ông tới
Toronto, Oct 1995.
"He's
so old, isn't he ashamed to write poems?"
Alexsander
Wat, Thi sĩ và Nghi lễ trừ tà của thế kỷ
Milosz,
trong cuốn sách ABC của
ông,
dưới "đầu vào" [entry] Koestler, đã nhắc tới nhà
thơ Aleksander Wat, và cuộc trò chuyện của Wat với một tay cựu
Bôn-sê-vích, the
old Bolshevik, Steklov, liền trước khi xẩy ra cái chết của tay cựu đảng
viên
đáng kính này, trong nhà tù Satarov.
Theo Steklov, những tay như Rubashov thú tội, ngay cả những tội mà họ
không hề
phạm, không phải do tra tấn, mà là do quá tởm quá khứ đầy ứ những tội
ác của họ.
Và cái chuyện tự làm nhục chính họ, một lần nữa, chẳng tốn kém gì, và
tra tấn
là không cần thiết.
[According to Steklov, they confessed out of disgust at their own past:
they
each had so many crimes on their account, that it cost them nothing to
demean
themselves once more and torture was not necessary].
NKTV
V/v
kỷ niệm với TDT, ở Quán Chùa, có ông Trùm Sáng Tạo, Mai Thảo tham dự.
Gấu gặp MT ở Quán Chùa, mỗi tháng ít nhất 1 lần, thường là vào lúc quán
vừa mở
cửa. Ông ghé lấy bài, trước khi chợ họp. Lâu lâu, cũng gặp, khi đông đủ
bạn bè,
và thường có TTT, có khi có cả PLP.
Kỷ
niệm thú nhất là lần ngồi với TTT, MT, và 1 anh chàng cà
chớn nào
đó, đến
bàn, tự động kéo ghế ngồi, Mai Thảo bèn hỏi, xin lỗi, anh có quen
thằng nào trong
ba thằng này không, và khi anh ta lắc đầu, MT bèn xua tay, đi chỗ khác
chơi.
Cái
lần với TDT, thì cũng thế, nhưng có thể, còn dã man hơn nhiều!
Two Dogs
by Charles
Simic
for Charles
and Holly
An old dog
afraid of his own shadow
In some
Southern town.
The story
told me by a woman going blind,
One fine
summer evening
As shadows
were creeping
Out of the
New Hampshire woods,
A long
street with just a worried dog
And a couple
of dusty chickens,
And all that
sun beating down
In that
nameless Southern town.
It made me
remember the Germans marching
Past our
house in 1944.
The way
everybody stood on the sidewalk
Watching
them out of the corner of the eye,
The earth
trembling, death going by . . .
A little
white dog ran into the street
And got
entangled with the soldier’s feet.
A kick made
him fly as if he had wings.
That’s what
I keep seeing!
Night coming
down. A dog with wings.
Hai Con Chó
Một con chó
già sợ cái bóng của chính nó (1)
Trong 1 thành
phố Nam Kít nào đó
Chuyện này tôi
nghe qua một bà sắp mù
Vào một buổi
chiều tuyệt vời mùa hạ
Khi bóng tối
từ những cánh
rừng Sát
Bò ra
Con phố dài
Hồng Thập Tự
Với chú chó
già rầu rĩ
Và cặp gà bụi bặm
Và cả mặt trời đổ xuống
Một thành phố
mất tên Nam Kít
Nó làm tôi
nhớ buổi 30 Tháng Tư 1975
Ðám VC Bắc Kít
diễu hành qua căn nhà của tôi
Người dân đứng
bên lề nhìn chúng bằng một góc con mắt
Mặt đất rung
chuyển, và cái chết thì lờ vờ quanh đó..
Một con chó
trắng nhỏ chạy ra đường
Làm quẩn chân
đám nón cối
Và 1 cú đá làm
con chó bay lên trời
Như thể nó có
cánh
Ðó là điều mà
tôi đã nhìn thấy, và vẫn còn nhìn thấy!
Ðêm xuống thành
phố không tên
Một con chó
có cánh.
(1)
Sau cùng phải
cảm ơn cô bạn đã cho có đủ thời giờ kể hết mối tình. Con chó dại trong
một phút
cô đơn, tỉnh táo không còn sợ hãi cái bóng của chính nó. Những lần từ
biệt cô
trên đường trở về, thành phố những đêm run rẩy chờ đợi những đợt pháo
kích bất
thần giáng xuống. Những ngã tư đường chằng chịt những vòng kẽm gai. Có
những
khoảng đường phải xuống xe dẫn bộ. Đôi khi đi lầm vào một quãng đường
cấm phải
đi ngược trở lại. Trong bóng đêm nhợt nhạt của những ngọn đèn đường,
nhìn thấy
những mũi súng đen sâu thăm thẳm chứa đầy ngờ vực đe dọa. Nhìn thấy hết
mọi nỗi
bi thương, nếu chẳng may sinh ra mà không được gặp cô bạn, nếu chẳng
may bị cô
hất hủi, nói không, nói không thể yêu, không thể hiểu được tình yêu là
gì. Nhiều
lần tới nhà khi đã quá khuya, trong nhà đèn đã tắt, tất cả chắc đã yên
ngủ từ
lâu: Hoặc hết sức muốn gặp. Muốn nhìn thấy bóng dáng. Nghe tiếng chân
di động.
Tiếng lách cách mở cửa. Rồi tiếng nói, tiếng nói... Muốn liều lĩnh đập
cửa ầm ầm.
Bắt buộc cô hốt hoảng trở dậy, vội vã bật đèn, vội vã mở cửa. Bắt buộc
cô phải
nghe, phải nói, phải gật đầu ưng thuận, trong khi không có thì giờ để
phân vân,
cân nhắc...
Cõi Khác
Ngoài hai cái
nhớ, một, nhớ câu thơ thần sầu, “đứng trước gió/lúc lắc cho thằng nhỏ
thức giấc”,
và, nhớ bản nhạc thần sầu, “người đi qua đời tôi, không nhớ gì sao
người”, Gấu
còn tới hai kỷ niệm cũng thần sầu với nhà thơ Nobel Diệm ban, TDT.
Kỷ niệm thứ
nhất, là vào cái lần thứ nhất ông bạn quí HPA từ Ðà Lạt về Sài Gòn sau
những
ngày học sư phạm, và có bài đầu tiên đăng trên Văn.
Như còn nhớ thì chưa 1 lần Gấu được nhìn thấy Ông Số 2 ghé Quán Chùa.
Nhưng bạn
ông, là nhà thơ Nobel Diệm ban, TDT, thì có đôi lần, vào những ngày
Diệm mới ngỏm
ít lâu, tờ Nghệ Thuật thì cũng mới ngỏm, cả đám quay qua viết cho tờ
Văn, và tờ
này bèn ra 1 ấn bản mới đặc biệt về phê bình văn học, và Gấu là người
giới thiệu
ông bạn quí với NDT, và qua NDT, ông viết cho Văn, một bài biên khảo,
hay tiểu
luận.
Và cái lần ở Quán Chùa đó, có NDT & HPA & GNV, và sau, TDT xà
vô bàn.
Câu đầu tiên, ông phán, là, cái thằng chó chết nào viết cái bài…., tao
đếch hiểu
nó viết cái gì cả!
[Ðây là ngôn
ngữ của Gấu. Ông nói lịch sự hơn, tất nhiên, nhưng thực chất thì cũng
rứa, thì
vẫn cái giọng “lúc lắc” trên!]
Khỏi cần nói
thì bạn đọc cũng biết, cả ba đứa, ông bạn quí HPA, NDT người giới thiệu
con gà
nòi mới xuất hiện, và Gấu Cà Chớn, cả ba mặt mày sượng trân:
Biết nói gì đây!
Có thể, nhìn ba bộ mặt ngẩn tò te, ông nhà thơ lúc lắc chắc hiểu, và
sau vài
câu xã giao, chuồn qua bàn khác.
Kỷ niệm thứ nhì, có nhà văn nhớn Mai Thảo ngồi cùng bàn, và cùng chia
sẻ.
Tham dự, đúng hơn.
Charles
Simic, The Art of Poetry No. 90
Charles
Simic, Nghệ thuật Thơ
Charles
Simic sinh tại Belgrade, Yugoslavia, vào ngày 9 tháng Năm, 1938. Tuổi
thơ của ông
như thế làm sao không mang nặng dấu ấn của cuộc xâm lăng Nazi, và một
số bài thơ
mãnh liệt của ông là từ hồi ức những năm đó. Trong bài "Hai con chó",
thí dụ, ông
nhớ lại cảnh lính Ðức đi tuần hành qua nhà ông, vào năm 1944:
Ðất rung
chuyển, chết tiếp diễn…
Một con chó
chạy ra đường
Làm quẩn chân
lính
Một cú đá làm
nó bay bổng như có cánh
Ðúng thế, đúng
như tôi phán thế
Ðêm xuống. Một
con chó có cánh.
Ông già của
Simic bị tó vài lần, và sau cùng bỏ chạy quê hương Yugoslavia vào năm
1944 qua Ý,
ở đây, ông lại bị bỏ tù. Khi được thả vào lúc chấm dứt cuộc chiến ông
bố trải
qua 5 năm ở Trieste, và sau đó dời đi Mẽo; chỉ tái hợp với gia đình là
vợ và
hai con trai vào năm 1954.
Simic học tiểu
học ở Belgrade. Bà mẹ, Helen, nhiều lần toan tính bỏ chạy Yugoslavia
thời kỳ hậu
chiến, và cùng với mấy đứa con, bị nhà cầm
quyền CS hỏi thăm sức khoẻ. Sau cùng họ có được thông hành vào năm
1953, và bèn
lập tức chuồn qua Paris liền ngay tối hôm đó bằng xe lửa. Sau nhiều lần
bị trì
hoãn sau cùng họ có được nhập cảnh Mẽo, và xuống thuyến qua New York
vào Tháng
Tám 1954.
Lần chót ông “về” Belgrade?
1982. Tôi được học bổng
Fulbright và trải qua mùa hè ở đó, đi đủ
thứ nơi. Thú lắm, tuy nhiên tôi cảm thấy xa lạ hơn, so với chuyến 1972.
Nhiều nhà
văn, nhà trí thức, nhân sĩ vẫn giả đò như là VC thuận thành, hoặc ít
lắm thì cũng
Mạc xịt, thành ra có nhiều chuyện phải tránh hỏi hay phê. Tôi không
được phán nhảm
như mình vẫn thường, và cũng thấy mệt mất 1 thời gian. Sau đó, vào
những năm
Milosevic thì lại khác hẳn. Những báo chí lề trái mà tôi cộng tác, thì
thật là tự
do, và can trường hơn cả đồng nghiệp ở Tây Phương.
Ông thường không viết thẳng về những biến
cố chính trị hoặc tai ương
đặc biệt nào, nhưng rõ ràng là cuộc chiến vùng Balkans mà những viễn
tượng lịch
sử u ám của nó là nền của những bài thơ như “Ðọc lịch sử”, và “Ðế
Quốc”, cả hai
đóng vào lịch sử những năm đầu thập niên 1990
Ðúng như
thế.
“Ðọc Lịch Sử” được viết sau 1 trận nhậu tới chỉ và đọc cả một đống sách
lịch sử
Tầu và Ấn. Cứ vài trang là cái có 1 cú tàn độc, một cuộc đâm chém,
chiến trận, cả
ngàn người chết. "Ðế Quốc" là 1 bài thơ về bà ngoại của tôi, mất năm
1948 khi tôi
10 tuổi. Bà trông nom săn sóc tôi, từ khi còn nhỏ xíu, khi bố mẹ tôi
phải đi làm.
Bà thường nghe đám khùng điên lèm bèm trên la dô, những đấng như
Hitler,
Stalin, Mussolini… Bà biết vài ngôn ngữ, còn tôi thì chẳng hiểu gì cả,
và bà rất
bực vì những lời dối trá của đám này. "Có gì trật với thế giới", bà ưa
hỏi mọi
người. Quả là 1 câu hỏi thật bảnh. Tôi tới giờ mà cũng không tìm ra câu
trả lời.
Có quá nhiều cuộc chiến trong cuộc đời của
tôi. Có quá nhiều chết chóc, chém giết. Tôi cũng không hiểu được, như
bà ngoại
của tôi. Cái sự dễ dàng, và ngạo mạn, và luôn cả cái khốn nạn "đường ra
trận mùa
này đẹp lắm", qua đó, bao nhiêu người được đưa đi gặp cái chết của họ,
vẫn luôn luôn
làm tôi ngạc nhiên. Cái sự sử dụng sát nhân để làm cho thế giới tốt đẹp
hơn, thí
dụ, là phổ thông ở trong giới trí thức Mẽo, như thể chưa từng có tiền
lệ lịch sử. Tôi luôn nghĩ về những điều này
Như hầu hết
các bài thơ của Adam Zagajewski, có lẽ bác dịch thơ của nhà thơ này là
tới nhất
(mặc dù tôi không đủ năng lực tiếng Anh để kiểm chứng), khác với
thơ dịch
Simic, khó nuốt, (xin lỗi bác, đây chỉ là cảm nhận riêng mà thôi).
Ðộc giả TV
Thơ Simic trầm
trọng hơn so với Zagajewki. Trong thơ Simic có cái quá khứ Mít. Có
thể vì
thế mà chúng ta thích đọc thơ Zagajewski hơn chăng?
Bài dưới đây mà chẳng trầm
trọng sao?
Gấu cứ nghĩ đến 1 anh cu
Gấu, của một thời
vị lai, đang đọc sử Mít, và chứng kiến cái cảnh ông cụ của Gấu bị lịch
sử cho
đi mò tôm!
READING
HISTORY
for Hans
Magnus
At times,
reading here
In the library,
I'm given a
glimpse
Of those
condemned to death
Centuries
ago,
And of their
executioners.
I see each
pale face before me
The way a
judge
Pronouncing
a sentence would,
Marveling at
the thought
That I do
not exist yet.
With eyes
closed I can hear
The evening
birds.
Soon they
will be quiet
And the
final night on earth
Will commence
In the
fullness of its sorrow.
How vast,
dark, and impenetrable
Are the
early-morning skies
Of those led
to their death
In a world
from which I'm entirely absent,
Where I can
still watch
Someone's
slumped back,
Someone who
is walking away from me
With his hands tied,
His graying head
still on his shoulders,
Someone who
In what
little remains of his life
Knows in
some vague way about me,
And thinks
of me as God,
As Devil.
Đọc Sử Ký
Gửi Hans
Magnus
Đôi khi đọc ở
đây
Tại thư viện
Tôi được đưa
mắt nhìn
Những người
bị kết án tử hình
Những thế kỷ
đã qua
Và những đao
phủ của họ
Tôi nhìn mỗi
khuôn mặt nhợt nhạt
Cách ông tòa
tuyên án
Lạ làm sao,
là, tôi thấy mừng
Khi nghĩ rằng,
May quá, khi
đó mình chưa ra đời!
Với cặp mắt
nhắm tít, tôi có thể nghe
Những con chim chiều tối
Chẳng mấy chốc,
chúng sẽ mần thinh
Và đêm sau
cùng trên trái đất
Sẽ bắt đầu
Trong trọn nỗi
thống khổ của nó
Bao la, tối,
không cách nào xuyên thủng,
Là những bầu
trời sáng sớm
Của những
con người bị dẫn tới cái chết của họ
Trong một thế
giới mà tôi thì hoàn toàn vắng mặt
Từ cái chỗ của
tôi, tôi vẫn có thể ngắm
Cái lưng lảo
đảo,
Của một người
nào đó,
Một người
nào đó đang bước xa ra khỏi tôi
Với hai tay
bị trói
Cái đầu xám
của người đó thì vẫn còn trên hai vai
Một người
nào đó
Trong tí xíu
thời gian còn lại của cuộc đời của mình
Biết, một
cách mơ hồ về tôi
Và nghĩ về
tôi, như là Thượng Đế
Như là Quỉ
EMPIRES
My
grandmother prophesied the end
Of your
empires, O fools!
She was
ironing. The radio was on.
The earth
trembled beneath our feet.
One of your
heroes was giving a speech.
"Monster,"
she called him.
There were
cheers and gun salutes for the monster.
"I
could kill him with my bare hands,"
She
announced to me.
There was no
need to. They were all
Going to the
devil any day now
"Don't
go blabbering about this to anyone."
She warned
me.
And pulled
my ear to make sure I understood.
Charles
Simic
Đế Quốc [Đỏ]
Bà tôi
tiên
đoán ngày tàn của đế quốc [VC].
Ôi, lũ
khùng, điên, vô lại, bất nhân…
Bà đang ủi đồ.
Đài phát thanh thì đang ra rả, "Nối Vòng Tay Nhớn".
Mặt đất rung
chuyển dưới chân chúng tôi.
Một trong những
anh hùng, Sáu Dân, đang diễn thuyết.
“Tên Quỉ Đỏ,”
bà tôi la lên.
Có những tiếng
vỗ tay, tiếng súng hoan hô chào mừng Sáu Dân.
"Ta có
thể giết nó, bằng đôi tay trần của ta".
Bà tôi tuyên
bố với thằng cháu của bà.
Bà ui, đâu cần
làm dzậy.
Tất cả bọn
chúng thành Quỉ thành Ma thành Bọ liền tức thì mà Bà.
“Đừng có mà
rỉ tai cho bất cứ ai nghe Tin Mừng đó!”
Bà tui cảnh
cáo.
Và kéo tai
tôi đến đỏ ửng, để tin chắc thằng cháu của bà đã hiểu.
SHELL
At night the
monks sang softly
and a gusting wind lifted spruce branches like wings.
I've never
visited the ancient cities,
I've never been to Thebes
or Delphi,
and I don't know
what the
oracles once told travelers.
Snow filled the streets and canyons,
and crows in
dark robes silently trailed the fox's footprints.
I believed
in elusive signs,
in shadowed
ruins, water snakes,
mountain springs, prophetic birds.
Linden trees bloomed
like brides
but their fruit was small and bitter.
Wisdom can't be found
in music or
fine paintings,
in great deeds, courage, even love,
but only in
all these things,
in earth and
air, in pain and silence.
A poem may hold the thunder's echo,
like a shell
touched by Orpheus
as he fled.
Time takes life away
and gives us
memory, gold with flame,
black with embers.
Adam
Zagajewski
Trái Phá
Ðêm, mấy tu
sĩ hát nhè nhẹ,
và trận
gió dữ nhấc cành như cánh.
Gấu chưa từng
tham quan thành cổ,
chưa từng tới
Thebes
hay Delphi,
và Gấu không biết
những sấm ngôn
mà du khách đã từng nghe.
Tuyết phủ phố,
hẻm
Và quạ,
trong áo đen,
lặng lẽ mò theo những vết chân của chồn.
Gấu tin vào
những dấu hiệu lẩn tránh
ở trong những
điêu tàn âm u, rắn nước,
mùa xuân ở
miền núi, những con chim tiên tri.
Cây linden nở
rộ như cô dâu,
nhưng trái mới
nhỏ và đắng làm sao.
Trái khôn không
thể kiếm thấy
ở trong âm
nhạc, hay tranh đẹp,
hành động lớn,
sự can đảm,
ngay cả tình
yêu thì cũng đừng hòng,
nhưng chỉ ở
trong tất cả những sự vật
ở trên mặt đất,
trong không khí, trong đau khổ, và im lặng.
Một bài thơ
có thể cầm giữ được tiếng dội của sấm,
Như trái phá đụng Orpheus,
khi anh ta bỏ
chạy. Thời gian lấy đi cuộc đời
và cho chúng
ta hồi nhớ, vàng với lửa,
đen với than
hồng.
Louis de
Bernières. Tác giả Captain Corelli's Mandolin, 1994, tiểu
thuyết.
Trên số Ðiểm
Sách Văn Học Á Châu, Asia Literary
Review Mùa Thu 2010, đặc biệt về Khờ
Me Ðỏ, có hai bài thơ thật tuyệt của ông, viết giùm cho GNV, gửi BHD!
Poetry
Louis de
Bernieres
Two poems
written after arriving in Hong Kong on the author's first visit; March
2010
The
Man Who
Travelled the World
He travelled
the world, restless as rain.
There was no
continent unexplored,
Scarcely a
city unworthy of days, a night, a week.
In all these
places he searched for her face
In the
streets, in the parks, in the lanes,
Always
pausing to look, listening out
For the
voice he'd never heard yet, yet
Always knew
he would know.
So many
lovers, so many encounters,
So many
years, so many lands.
Now he sits
by the window, a cat in his lap,
An ancient
man far off from the place of his birth.
And inside
that loosening frame of bones
Beats the
same heart as the heart that
Beat in the
young boy who knew she was there,
And set off
to travel the world.
He thinks of
the children he never had,
The ordinary things foregone,
The
perverseness of such an exhausting,
Such an impossible search;
A whole life
squandered on dreams.
It begins to
rain; he puts on his glasses
Looks
through the window, watches the girls
Step by, avoiding the puddles, protecting
Their hair
with their magazines.
He fondles
the ears of the cat,
This ancient
man far off from the place of his birth,
Still looking, still in fief to the
same unsatisfied heart
As the heart that beat in the young boy
Who knew she
was there, and
Set off to travel the world.
Người đàn ông
du lịch thế giới
Anh ta du lịch
thế giới, không ngừng nghỉ, như mưa.
Không có đại
lục nào mà không khám phá,
Không thành
phố nào không xứng
vài ngày, một
đêm, một tuần.
Trong mọi chỗ,
anh ta tìm kiếm khuôn mặt nàng
Ở phố, công
viên, đường nhỏ.
Luôn ngưng lại
để nhìn, để nghe ra
Một giọng nói
mà anh ta chưa từng được nghe, chưa, chưa.
Anh luôn biết có.
Bao nhiêu người yêu, bao
nhiêu gặp gỡ
Bao nhiêu năm,
bao nhiêu phong thổ.
Bây giờ anh
ta ngồi bên cửa sổ, một con mèo trên đùi.
Một người đàn
ông cũ kỹ, ở xa ơi là xa, nơi anh ra đời
Trong bộ xương
già lỏng leo sắp rụng ra từng mảnh
Thì cũng vẫn tiếng đập trái tim ngày nào khi
còn là 1 cậu bé
Nó biết có nàng ở ngoài đó
Và bèn lên
đường viễn du thế giới.
Anh ta nghĩ
đến những đứa trẻ anh ta chưa từng có
Những điều bình
thường đã qua đi
Và cái sự khư
khư cố giữ đến miệt mài
Cuộc tìm kiếm
vô vọng, bất khả:
Trọn một đời
biếu không cho những giấc mộng.
Trời bắt đầu
mưa. Anh già giương lên cặp kính
Nhìn qua cửa
sổ, ngắm những cô gái
Đi qua, tránh
những vũng nước. Che đầu
Bằng những tờ
báo
Anh già mân
mê tai con mèo
Anh già cũ kỹ ở xa ơi là xa nơi ra đời
Vẫn tìm.
Vẫn là chủ nhân của mảnh đất được phong tặng,
Thì cũng vẫn trái tim chẳng hài lòng.
Vẫn trái tim
đập trong ngực
Thằng cu Gấu nhà quê Bắc Kít ngày nào.
Nó biết chắc,
nàng có đó,
và lên đường viễn du thế giới.
Put Out the
Light
Close the
shutters,
Put out the light,
Place one
candle on the shelf
See, we are young again;
Our
malformations, all life's
Etchings in our flesh are gone,
Are evened out,
engoldened,
Softened by shadow.
Your hair
smells sweet, your
Head in the
crook of my arm, your
Hand on my chest.
We will lie
like this til the candle dies,
And then, in the dark, lie face to face.
They'll
glitter like moonlight on water,
Our old, experienced eyes.
Ðèn đi chỗ
khác chơi
Ðóng rèm,
Nghỉ chơi với
đèn,
Ðể một ngọn
cầy lên giá
Thấy chưa,
anh mí em lại trẻ như ngày nào.
Những lệch lạc,
xiên xẹo,
Vết a xít
trong thịt của cả đời
đều đi chỗ
khác chơi.
Coi như
không,
Biến thành
vàng,
Mịn màng dưới ánh mờ.
Tóc em ngọt
như mật
Ðầu em trong vòng tay anh
Tay em trên ngực anh.
Chúng ta nằm cho đến khi ngọn cầy chết,
Và rồi, trong bóng tối,
Nằm, mặt nhìn mặt,
Chúng
long lanh như ánh trăng trên mặt hồ,
Những con mắt già, đầy kinh nghiệm.
ASIA
LITERARY REVIEW Mùa Thu 2010.
Thú
thực Gấu chưa hề biết đến ông này. Cái phim, thì biết, nhưng cũng chưa
coi, mà
giả như coi, chắc cũng chẳng để ý đến, từ tác phẩm của ông.
Và lần đầu tiên thấy
tên ông, là qua bài viết của tay Prospero, về Vợ Cọp.
Một chuyên gia bậc thầy về
nghệ thuật xoa
đầu người khác, cùng nghề với Thầy Cuốc, nhưng bảnh hơn nhiều.
Thế
là được ngày đẹp trời, bèn xuống phố, bèn vô tiệm sách cũ, vơ mấy cuốn
của ông.
Hai cuốn sau đây, Gấu mua, chỉ vì đọc đề tặng và đề từ. Chúng làm Gấu
nhớ tới....
của Gấu:
Va, petit
livre, et choisis ton monde.
Topffer
Hãy lên đường,
cuốn sách nhỏ bé, và chọn lựa cái thế giới của mày.
Những ngày ở
Sài Gòn
This book [Notwithstanding] is dedicated to my
children, Robin and Sophie.
May they
take their village with them wherever they go.
Và bài thơ mở
ra cuốn sách:
Wilderness
There is a
wilderness where once I lived
Whose every
inch I knew and loved.
I roamed
there as a dreaming boy
I walked
there still, remembering,
As I grew up
beyond a man.
Sweet little
in that wilderness I knew
Of God's
indifference and of lovers' pain.
Too young to
suffer, I remember
Longer
summers, deeper slumbers,
Better
laughter, warmer rain.
A Partisan’s
Daughter, đề từ:
“Le mariage
bourgeois a mis notre pays en pantoufles,
et bientôt
aux portes de la mort.”
Albert
Camus, La Chute
Notwithstanding
còn cái tiểu tít, những truyện ngắn từ 1 làng Anh, stories
from an English village.
Ðọc lời đề tặng,
nhớ câu của Gấu, cũng đồ đi chôm, và nhớ câu của Anatole France, “Hãy
ngủ đi mấy
đứa nhỏ, sáng mai ông cháu mình lên đường”.
Ðọc bài thơ,
thì lại nhớ tuổi thơ của Gấu ở cái làng ven sông Hồng, sau được về Hà
Nội học,
và sau đó, đi khắp thế giới, quá một thằng đàn ông!
Hoang Dại
Có một hoang
dại mà có thời Gấu đã sống
Nơi mà từng
cục gạch từng hột cơm Gấu biết và yêu
Gấu lang
thang như một thằng bé mơ mộng
Trước khi thực
tế bắt đầu;
Gấu vẫn bước
ở đó, và nhớ,
Khi Gấu lớn
lên, quá thằng đàn ông.
Tí tí ngọt
trong hoang dại Gấu ngộ ra được
về cái sự dửng
dưng của Ông Giời
và nỗi đau của những người yêu nhau.
Quá trẻ để mà
đau đớn, Gấu nhớ lại
Những hè
dài, những giấc ngủ sâu
Tiếng cười
ngon hơn, mưa ấm hơn.
Nhưng, phải đọc
cái bản thú tội của tác giả, ở cuối cuốn sách thì mới thấm: cái gọi là
làng quê
thiên đường Hồng Mao của ông, và nói rộng ra, cả cái xứ Hồng Mao, sự
thực, là một
nhà thương điên lớn.
TV post bài
viết ở sau cuốn sách, và rảng rang, sẽ dịch hầu độc giả, trong có anh
cu Gấu, vì
cũng là 1 cách viết về cái làng ven sông Hồng của nó.
NOTWITHSTANDING:
AFTERWORD
I was at a salon
du livre in Pau a few years ago,
when I met a French artist called Jacques. He told me that he adored
Britain,
because it was so exotic. I was dumbfounded and asked him what he
meant. He
replied that if he went to Germany, or France, or Belgium, or Holland,
they all
seemed the same. But 'La Grande Bretagne,
c'est un asile immense.' On reflection I realized that I had set so
many of
my novels and stories abroad, because custom had prevented me from
seeing how
exotic my own country is.
Britain really is an immense lunatic asylum. That is
one of the things that distinguishes us among the nations. We have a
very
flexible conception of normality. We are rigid and formal in some ways,
but we
believe in the right to eccentricity, as long as the eccentricities are
large enough.
We are not so tolerant of small ones. Woe betide you if you hold your
knife
incorrectly, but good luck to you if you wear a loincloth and live up a
tree.
Cái xứ
Bắc
Kít đúng là 1 nhà thương điên lớn. Ðó là điều phân biệt nó với những
quốc gia
khác!
Ui chao, tại
làm sao mà chưa có 1 tên Bắc Kít nào nhận ra điều này?
Thơ mỗi ngày
Thấy
mấy ông bà mafia Do Thái không, họ đưa những là Isaac Bashevis Singer
thiên
tài, Imre Kertész thiên tài, Elfriede Jelinek thiên tài lên. Toàn là
những người
Do Thái khắp nơi trên thế giới của họ được kênh lên….
Lê
Thị Huệ, Gió O
V/v
Isaac Bashevis Singer thiên tài, Nobel văn chương được mafia Do Thái
ban cho.
Gấu
nghi là bà Huệ có đọc một hai bài viết nào đó, về vụ này. Trên TV có
giới thiệu
bài của Milosz, viết về Chaim Grade, theo ông, bảnh hơn
Singer, đáng được
Nobel hơn.
TV
tóm tắt ở đây, và, thừa cơ tán phó mát thêm, về trường hợp nhà thơ TDT
và giải
thưởng Thơ của tông tông Diệm. Cũng 1 giai thoại trong chốn võ lâm. Và
cái vụ
chỉ còn vài ngày thì mất nước mà nhà thơ TTT đăng đàn đi 1 đường vinh danh Vũ
Hoàng Chương, có thể có tí
liên
can. (1)
Cái vụ phát
Nobel văn chương cho IBS gây một trường tán loạn trong giới Do Thái nói
tiếng
Yiddish ở New York. Grade xứng đáng hơn, nếu nói về nền tảng. Ở Mẽo,
tốt nhất
là đến từ Wilno, tệ là từ Warsaw, quá tệ, từ Galicia. Theo ý
kiến của đa
số trong trường đấu đá này, Grade bảnh hơn Singer, nhưng lại ít được
dịch dọt
qua tiếng Anh, đó là lý do Viện Hàn Lâm Thụy Ðiển không với tới Grade.
Theo đa
số này, Singer vớ được giải bằng lối cửa hậu. Quá bị ánh ảnh bởi sex,
ông ta tạo
dựng một thế giới Do Thái Ba Lan của riêng ông ta, chẳng có gì chung
với thực
tại sex, nghĩa là kỳ quái, đầy những “ngoại hứng”, những ma tình, ma
nữ, yêu nữ… như thể đó là thực tại hàng
ngày ở khu vực
Do Thái trong những thành phố. Grade là nhà văn thứ thực, trung thực
với thực tại
mà ông miêu tả, và ông xứng đáng được Nobel văn chương.
Source
Lê Thị Huệ:
Trong đám đông túm lấy một người, thú thật với nhà thơ, phải vất vả lắm
tôi mới
tìm ra được một nhà thơ trong nhóm Thơ Tân Hình Thức mà tôi "đọc được".
Ai đó có quyền bắn ná vào người tôi, nhưng tôi phải nói là tôi có "cố
gắng"
thưởng thức Thơ Tân Hình Thức. Chính vì sự "cố" này nó làm phiền tôi.
Tôi chỉ là một người đọc. Đừng tin tôi. Bây giờ trở lại điều muốn thưa
chuyện với
nhà thơ, là hãy cho tôi biết, điều gì đã khiến cho bạn dấn thân vào
khuynh hướng
thơ Tân Hình Thức?
đài sử: tôi
tự hỏi mình. tại sao làm thơ. câu hỏi dội
ngược.
chị “túm”
ngay được tôi trong một nhóm có gần 100 người coi bộ tôi kém may mắn.
hay cũng
có thể tôi less tht nên chị “đọc được”. suy tưởng về việc chị thưởng
thức thơ
tht. tôi thấy mình có lỗi vì đã làm thơ kiểu này.
mà chị này
thơ tôi làm là tht hả?
chắc có lẽ
thơ tht ít người làm. gởi thơ tht khả năng được ông Khế Iêm chọn post
cao hơn
làm những loại thơ khác. (cười)
Gió O
Theo GNV, hoặc
với riêng GNV, thơ Ðài Sử không phải thơ Tân Hình Thức, và giả như nhà
thơ từ bỏ
cái trò tân hình thức với cái kiểu "đót, đót" loạn cả lên, chắc chắn
thơ dễ đọc
hơn nhiều, và từ dó, dễ thấm hơn.
Nhưng biết đâu, sau những thử nghiệm
như thế,
thơ Việt đổi đi chăng?
Chứng cớ: Bài
thơ sau đây, đâu phải THT?
Tháng Mấy
gửi một người không quen…
Tháng Mấy rồi,
Em có biết?
tấm lịch sắp
đi vào ngõ cụt
ngày không
còn dông dài nói chuyện cũ
hàng cây
thưa lá cho nắng và gió tự do bông đùa
chiếc xe em
về đậu mỗi chiều
con đường dầy
thêm với lá
rung rúc còi
tàu không tìm được sân ga
những ngôi
nhà nhả khói
và đêm về thắp
đèn
Tháng Mấy rồi,
Em có biết?
chạy luống
cuống những buổi sáng muộn
ngày se lạnh
no tròn hạt sương sớm
đọng trên
mái tóc
nụ hôn sâu
trong đêm
những đổ vỡ
chảy dài theo cuốn lịch
mất tích
Tháng Mấy rồi,
Em có biết?
con sông
ngưng chảy
nheo mắt qua
những xa lộ
nhịp thở chậm
Rồi buổi chiều
cuối năm sẽ đến
ai bấm
chuông cửa vào giữa đêm
tuyết chắc
chắn sẽ rơi
và trời sẽ lạnh
vô cùng
Tháng Mấy rồi
sẽ qua
Vẫn còn một
người đợi em
Đài Sử
Source
Thơ Ðài Sử,
vẫn theo tôi, là thơ, ở chất trí tuệ của nó. Phần tình cảm, nếu lộ ra,
thì cũng
ăn theo vóc dáng trí tuệ, khác hẳn thứ thơ vãi linh hồn của đa
số nhà thơ
Mít, và luôn cả, đa số những nhà văn, nhà phê bình, cứ động đến chữ là
vãi
ra rồi.
Ðây là 1 vấn
đề nghiêm trọng. Mô phỏng Kundera, nhà thơ và tên đao phủ
cùng ngự trị
cõi văn thơ của xứ Mít!
Trong Mặt
Trời Vẫn Mọc, ngay ở đoạn mở ra câu
chuyện, tay võ sĩ gốc Do Thái
tính bỏ vợ, để giang hồ, và viết văn, bị cả vợ
lẫn nhân vật kể chuyện [anh chàng mất chim do chiến tranh], chửi. Anh
mất chim
thì giải thích, mi đi đâu với cái đầu như thế, thì cũng vẫn không thể
viết gì được.
Còn bà vợ thì khuyên, đừng vãi nước mắt, mỗi lần làm tình, vì anh chỉ
lo vãi như
thế, thì còn đâu đủ lý trí, bình tĩnh mà viết văn, làm thơ?
Liệu đó cũng
là thất bại của văn thơ Mít?
Sau cuộc chiến,
đếch anh Mít nào còn chim?
Mỗi lần tính
làm văn làm thơ là... vãi?
Thơ, sở
dĩ đến
già Gấu mới ngộ ra, 1 phần vì Gấu chưa từng “cố gắng” đọc nó. Hồi còn
trẻ, đọc
nó không được, là thôi, không cố gắng. Cũng trong cách đó, Gấu đọc THT,
thấy không
được, là không đọc. Và cái cách Gấu đọc thơ Ðài Sử: bỏ hết dấu “đót”,
rồi mới
bắt đầu đọc. Gấu đọc thơ của ông vua tán gái, “bạn Gấu”, cũng vậy, bỏ
hết “xì lát”,
rồi mới đọc.