Notes
|
Tám Bó
TTT @ Phan Nguyên Blog
Những đứa trẻ của Dickens
17.2.1973
Em và anh thuộc loại máu lạnh ở xứ nóng
không hợp thật. Mấy ngày em ở Sài Gòn, tuy nói với em
là vẫn làm việc nhưng anh chẳng làm gì cả. Làm mấy bài thơ thì
có. Lúc nào anh cũng ngóng, biết em không đến, nhất là hai bữa
cuối trước ngày em đi. Em đi lần này không có anh đưa. Giả thử
anh có đưa chỉ làm em nặng thêm, máy bay nặng thêm. Bữa ấy - chắc
là có cô H.A đưa ra đến Phạm Ngũ Lão - có thấy nhẹ không?
Ngồi trước mặt em, anh thật chẳng hiểu mình
ra sao, mình muốn gì. Bởi anh toàn nói bậy không. Lúc
nào anh cũng cứ nghĩ chẳng nên làm em buồn, hãy cùng vui
lúc bấy giờ. Nhưng cái vui anh gây ra cũng tệ. Anh tự hỏi :
tại sao đối với em, anh không làm như với những người khác, hay
bình thường là hai kẻ yêu nhau, như mọi người. Bữa em hỏi anh có
sợ em không, bây giờ anh thấy có lẽ anh sợ em. "Sợ" như cái mặc
cảm anh biết bắt rễ tự nơi anh ngày nhỏ: không bao giờ anh có được
cái mà tất cả mọi người đều có. Đứa trẻ bất hạnh mồ côi ra đời quá
sớm mà. Nó chỉ nhìn đồ chơi bày trong tủ kính, nhìn đồ chơi những đứa
khác chơi, nó chẳng có, chẳng ai nghĩ đến cho nó. Em có biết anh đọc
Le Petit Chose năm nào không? Năm học lớp ba và
từ xửa xưa đó anh đã thấy nhân vật đó là anh rồi. Những đứa
trẻ của Dickens đều vậy, lớn lên khá hơn nhưng rốt cuộc vẫn khốn đốn
vì yêu người.
Note: Ui chao Le Petit Chose là
cuốn sách Gấu học tiếng Tẩy, với Thầy Roch Cường, thời gian học
Đệ Nhị, sửa soạn thi Tú Tài I, ở trưòng Hồng Lạc của Thầy
Đoàn Viết Lưu, đường Sương Nguệt Anh kế bên vườn Bờ Rô, sống
nhờ ông anh rể Nguyễn Hoạt, bà chị họ, Chị Hoạt, con ông Cả Hoán,
tối đi làm bồi bàn ở tiệm chả cá Thăng Long, một bữa ông thầy
cùng bà vợ ghé ăn,
bèn không lấy học phí nữa, chuyện này kể rồi, in ra rồi trong
Lần Cuối Sài Gòn, hình như thế.
Lại nói về Dickens, và những đứa trẻ
bất hạnh. Graham Greene, trong Gánh Nặng Tuổi Thơ, có
1 bài thần sầu về Dickens, trên Tin Văn cũng đã từng chôm.
http://www.tanvien.net/notes_1/burden_childhood.html
Trong
cuốn tiểu luận nho nhỏ trên, đa số là những phê bình,
nhận định, điểm sách, có hai bài viết về tuổi thơ, phải nói
là tuyệt cú mèo. Tin Văn sẽ post, và lai rai ba sợi về chúng.
Bài “Tuổi thơ đã mất”, The Lost Childhood,
viết về những cuốn sách mà chúng ta đọc khi còn con nít.
“Gánh nặng tuổi thơ”, theo Gấu, tuyệt hơn, phản ứng của con người,
ở đây, là ba nhà văn hách xì xằng, về thời thơ ấu khốn khổ
khốn nạn của họ, và bằng cách nào, họ hất bỏ gánh nặng này.
Khi Gấu trở về lại Đất Bắc, Gấu thấy mình
giống như một kẻ đi tìm gặp một thằng Gấu còn ở lại Đất Bắc,
và, tìm hiểu, bằng cách nào thằng Gấu đó hất bỏ được gánh
nặng tuổi thơ…
*
Trong bài Gánh nặng tuổi thơ,
Graham Greene viết:
"Có
vài nhà văn, khác nhau, như Dickens khác Kipling,
chẳng ai giống ai, nhưng đều có chung nỗi bất hạnh, chẳng làm
sao hất đi được: gánh nặng tuổi thơ. Đứa con nít bị tống vô
một xưởng máy đen thui, trong trường hợp Dickens, còn với Kipling,
là những ngày tháng ăn cơm thừa canh cặn nhà bà cô Aunt Rosa, bên
một con đường cát bụi vùng ngoại ô, cả hai đều chẳng bao giờ quên
được. Tất cả những kinh nghiệm sau đó của họ, đều như dính mắc tới
những tháng, những năm bất hạnh đó."
"Thường thì cuộc đời tàn nhẫn nhe bộ
nanh hung hãn của nó ra khi chúng ta đã có tí ti kinh nghiệm,
để mà tự vệ. Thê thảm nhất, là bị nó cắn vào những năm tháng
còn thơ dại như trên."
*
Giả như phải tìm một lời giải thích
cho sự hiện hữu của một cái xuồng chứa toàn những cay đắng
ngày nào, (1) thì có lẽ những lời phán của Greene xem ra cũng
đặng.
Hai tuổi thơ bất hạnh của Gấu, đực và cái, đã tìm
cách nương tựa vào nhau, đâu lưng tự vệ, trước nanh vuốt của
cuộc đời, "sống sót hai chế độ, trốn thoát một cuộc chiến, trốn
thoát hai quê hương, một Nam, một Bắc, tìm ra được quê hương đích
thực cho dòng Gấu, và sau cùng, trốn thoát cả một lô những
ông bạn quí hoá."
*
Hai ông nhà văn nhớn trên, bị cuộc
đời cắn, bất thình lình, đúng vào lúc chưa biết thế nào là
tự vệ. Khác thường làm sao, là cách họ phản ứng, sau khi bị cắn.
Dickens học được sự thân ái, sympathy. Kipling, sự độc ác. Dickens
phát hiện và khai triển một văn phong dễ dãi, tự nhiên, easy and
natural, đến có thể ôm trọn cả nhân loại vào trong sự hiểu biết của
nó.
Kipling chế tạo ra cỗ máy đi dã ngoại,
rất ư là hợp thời, vào thời đó.
*
Câu này, Bonaparte viết cho người yêu
Joséphine, Gấu mượn để tặng Gấu Cái:
Sự nghèo khổ, bị tước đoạt, và sự cùng
cực làm nên vợ nhà văn nhớn. La pauvreté, les privations
et la misère sont l'école du bon soldat. Napoléon Bonaparte.
Extrait d'une Lettre à Joséphine de Beauharnais.
Note: Tks. Napoléon Bonaparte. Gấu.
(1)
Đây là Gấu Cái nhớ lại kỷ niệm tuyệt vời nhất trong đời, là lần rời Cai Lậy
về Sài Gòn, và, vì nước lụt, xe cô dâu biến thành xuồng.
Bả than: Trên xuồng có đủ cay đắng,
đủ dùng cho... ba người, người thứ ba là cô phù dâu cũng ngồi
trên xuồng!
*
Gấu, nhà văn
Unpredictability,
not the inevitable death, Nooteboom seems to say, is at the
core of our life.
Nguồn
Không thể biết trước, chứ không phải
chết không thể nào tránh được, đó mới là cốt lõi của cuộc
đời của chúng ta.
Unhappiness wonderfully aids the memory.
Greene: The Burden of childhood
[Bất hạnh là thuốc bổ của hồi nhớ]
*
Không thể biết trước được.
Quả có thế.
Khốn đốn vì yêu người!
TTT
Chúc ai mãi giữ được nụ
cười
K
Tks
NQT
POEM OF THE GIFTS
To Maria Esther Vazquez
No one should read self-pity
or reproach
Into this statement of the majesty
Of God; who with such splendid irony
Granted me books and blindness at one touch.
Care of this city of books he handed over
To sightless eyes, which now can do no more
Than read in libraries of dream the poor
And senseless paragraphs that dawns deliver
To wishful scrutiny. In vain the day
Squanders on these same eyes its infinite tomes,
As distant as the inaccessible volumes
Which perished in Alexandria.
From hunger and from thirst (in the Greek story),
A king lies dying among gardens and fountains.
Aimlessly, endlessly, I trace the confines,
High and profound, of this blind library.
Cultures of East and West, the entire atlas,
Encyclopedias, centuries, dynasties,
Symbols, the cosmos, and cosmogonies
Are offered from the walls, all to no purpose.
In shadow, with a tentative stick, I try
The hollow twilight, slow and imprecise-
I, who had always thought of Paradise
In form and image as a library.
Something, which certainly is not defined
By the word fate, arranges all these things;
Another man was given, on other evenings
Now gone, these many books. He too was blind.
Wandering through the gradual galleries,
I often feel with vague and holy dread
I am that other dead one, who attempted
The same uncertain steps on similar days.
Which of the two is setting down this poem-
A single sightless self, a plural I?
What can it matter, then, the name that names
me,
Given our curse is common and the same?
Groussac or Borges, now I look upon
This dear world losing shape, fading away
Into a pale uncertain ashy-gray
That feels like sleep, or else oblivion.
(Alastair Reid)
J.L. Borges
Paul Groussac (1845-1929), Argentine critic and
man of letters, and a predecessor of Borges as director of the
National Library, also suffered from the accompanying irony of
blindness.
Quà
Đừng tỏ ra
thương thân hay trách phận giùm, khi biết, Chúa ban quà cho tớ,
Những cuốn sách, và, kèm theo sách, là sự mù lòa.
Mít, chúng nói, con tạo đành hanh, cực kỳ tếu táo, là như thế đó!
Mi hãy chăm nom thành phố sách, với cặp mắt mù tịt của mi,
Vốn chỉ còn đọc được thứ sách ở trong thư viện của giấc mơ,
Những mẩu đoạn nghèo nàn, vô nghĩa, mà bình minh đem tới sự săm
soi mong ước
Vô phương, vô ích, ngày hoang phí,
Cũng bằng cặp mắt mù lòa đó,
Những cuốn sách miên man,vô cùng của nó
Thật xa xưa
Như những cuốn, không thể nào tiếp cận được
Đã từng tiêu ma ở Alexandria
Trong đói, khát ( trong câu chuyện Hy Lạp)
Nhà vua nằm chết giữa suối vườn
Vu vơ, hoài hoài, tớ vạch những thành quách
Cao thăm thẳm
Sâu vời vợi
Vây hãm thư viện mù lòa này
Văn hóa Đông Tây, trọn bản đồ,
Bách khoa, thế kỷ, triều đại
biểu tượng, vũ trụ, vũ trụ học
Những bức tường bèn dâng hiến
Tất cả để, chẳng để làm gì.
Trong bóng tối, với cây gậy, tớ lò mò, dọ dẫm
Hoàng hôn chập choạng, chậm chạp, bề thế -
Tớ, kẻ hằng phán, Thiên Đàng,
Vóc dáng, hình ảnh của nó ư?
Một cái thư viện.
Một điều gì đó, hẳn nhiên không thể nào định nghĩa
Bằng cái từ vớ vẩn, nhảm nhí, “số mệnh”
Đã sắp xếp mọi điều này
Một tên đàn ông khác,
Đã được ban cho, vào những buổi chiều khác,
Tên này bây giờ đã đi xa,
Những cuốn sách nhiều ơi là nhiều này.
Ông ta thì cũng mù.
Lang thang giữa những hành lang, những phòng ốc
Tớ thường cảm thấy, một cách mơ hồ, và sợ, một nỗi sợ hãi thần
thánh
Tớ chính là gã đàn ông đã chết kia
Kẻ đã toan tính y chang tớ vào lúc này, với những bước chân quờ quạng
Những ngày y như là bi giờ
Trong hai tên mù, tên nào bày đặt ra những dòng thơ này
Chỉ 1 tên mù, hay nhiều tên mù, cùng tự nhận
Tao mới đúng là thằng Gấu Cà Chớn?
[Có mấy NQT?]
Gấu Cà Chớn, hay Hai Lúa, hay Thằng Củ Xê [cái này của Duyên Anh
ban cho]
Vào lúc này
Bèn nhìn về cái thế giới thân yêu đang mất dần hình bóng của nó,
nhạt nhoà mãi đi
Như chìm vào giấc ngủ, hay quên lãng.
THE LOST CHILDHOOD
PERHAPS it is only in childhood that books have any deep influence on our
lives. In later life we admire, we are entertained, we may modify some views
we already hold, but we are more likely to find in books merely a confirmation
of what is in our minds already: as in a love affair it is our own features
that we see reflected flatteringly back.
But in childhood all books are books of divination telling us about the
future, and like the fortune teller who sees a long journey in the cards
or death by water they influence the future. I suppose that is why books
excited us so much. What do we ever get nowadays from reading to equal the
excitement and the revelation in those first fourteen years? Of course I
should be interested to hear that a new novel by Mr. E. M. Forster was going
to appear this spring, but I could never compare that mild expectation of
civilized pleasure with the missed heartbeat, the appalled glee I felt when
I found on a library shelf a novel by Rider Haggard, Percy Westerman, Captain
Brereton, or Stanley Weyman which I had not read before. No, it is in those
early years that I would look for the crisis, the moment when life took a
new slant in its journey towards death.
I remember distinctly the suddenness with which a key turned in a lock
and I found I could read - not just the sentences in a reading book with
the syllables coupled like railway carriages, but a real book. It was paper-covered
with the picture of a boy, bound and gagged, dangling at the end of a rope
inside a well with the water rising above his waist - an adventure of Dixon
Brett, detective. All a long summer holiday I kept my secret, as I believed:
I did not want anybody to know that I could read. I suppose I half consciously
realized even then that this was the dangerous moment. I was safe so long
as I could read – the wheels had not begun to turn, but now the future stood
around on bookshelves everywhere waiting for the child to choose – the life
of a chartered accountant perhaps, a colonial civil servant, a planter in
China, a steady job in a bank, happiness and misery, eventually one particular
form of death, for surely we choose our death much as we choose our job.
It grows out of our acts and our evasions, out of our fears and out of our
moments of courage. I suppose my mother must have discovered my secret, for
on the journey home I was presented for the train with another real book,
a copy of Ballantyne's Coral Island with only a single picture to
look at, a colored frontispiece. But I would admit nothing. All the long
journey I stared at the one picture and never opened the book.
But there on the shelves at home (so many shelves for we were a large
family) the books waited - one book in particular, but before I reach that
one down let me take a few others at random from the shelf. Each was a crystal
in which the child dreamed that he saw life moving. Here in a cover stamped
dramatically in several colors was Captain Gilson's The Pirate Aeroplane.
I must have read that book six times at least - the story of a lost civilization
in the Sahara and of a villainous Yankee pirate with an aeroplane like a
box kite and bombs the size of tennis balls who held the golden city to ransom.
It was saved by the hero, a young subaltern who crept up to the pirate camp
to put the aeroplane out of action. He was captured and watched his enemies
dig his grave. He was to be shot at dawn, and to pass the time and keep his
mind from uncomfortable thoughts the amiable Yankee pirate played cards with
him - the mild nursery game of Kuhn Kan. The memory of that nocturnal game
on the edge of life haunted me for years, until I set it to rest at last
in one of my
own novels with a game of poker played in remotely similar circumstances.
And here is Sophy of Kraoonia by Anthony Hope - the story of a
kitchen-maid who became a queen. One of the first films I ever saw, about
1911, was made from that book, and I can hear still the rumble of the Queen's
guns crossing the high Kravonian pass beaten hollowly out on a single piano.
Then there was Stanley Weyman's The Story of Francis Cludde, and above
all other books at that time of my life King Solomon's Mines.
This book did not perhaps provide the crisis, but it certainly influenced
the future. If it had not been for that romantic tale of Allan Quatermain,
Sir Henry Curtis, Captain Good, and, above all, the ancient witch Gagool,
would I at nineteen have studied the appointments list of the Colonial- Office
and very nearly picked on the Nigerian Navy for a career? And later, when
surely I ought to have known better, the odd African fixation remained. In
1935 I found myself sick with fever on a camp bed in a Liberian native's
hut with a candle going out in an empty whisky bottle and a rat moving in
the shadows. Wasn't it the incurable fascination of Gagool with her bare
yellow skull, the wrinkled scalp that moved and contracted like the hood
of a cobra, that led me to work all through 1942 in a little stuffy office
in Freetown, Sierra Leone? There is not much in common between the land of
the Kukuanas, behind the desert and the mountain range of Sheba's Breast,
and a tin-roofed house on a bit of swamp where the vultures moved like domestic
turkeys and the pi-dogs kept me awake on moonlight nights with their wailing,
and the white women yellowed by atebrin drove by to the club; but the two
belonged at any rate to the same continent, and, however distantly, to the
same region of the imagination - the region of uncertainty, of not knowing
the way about. Once I came a little nearer to Gagool and her witch-hunters,
one night in Zigita on the Liberian side of the French Guinea border, when
my servants sat in their shuttered hut with their hands over their eyes and
someone beat a drum and a whole town stayed behind closed doors while the
big bush devil - whom it would mean blindness to see - moved between the
huts.
But King Solomon's Mines could not finally satisfy. It was not
the right answer. The key did not quite fit. Gagool I could recognize - didn't
she wait for me in dreams every night in the passage by the linen cupboard,
near the nursery door? and she continues to wait, when the mind is siCk or
tired, though now she is dressed in the theological garments of Despair and
speaks in Spenser's accents:
The longer life, I wote the greater sin,
The greater sin, the greater punishment.
Yes, Gagool has remained a permanent part of the imagination, but Quatermain
and Curtis - weren't they, even when I was only ten years old, a little too
good to be true? They were men of such unyielding integrity (they would only
admit to a fault in order to show how it might be overcome) that the wavering
personality of a child could not rest for long against those monumental shoulders.
A child, after all, knows most of the game - it is only an attitude to it
that he lacks. He is quite well aware of cowardice, shame, deception, disappointment.
Sir Henry Curtis perched upon a rock bleeding from a dozen wounds but fighting
on with the remnant of the Greys against the hordes of Twala was too heroic.
These men were like Platonic ideas: they were not life as one had already
begun to know it.
But when - perhaps I was fourteen by that time - I took Miss Marjorie
Bowen's The Viper of Milan from the library shelf, the future for
better or worse really struck. From that moment I began to write. All the
other possible futures slid away: the potential civil servant, the don, the
clerk had to look for other incarnations. Imitation after imitation of Miss
Bowen's magnificent novel went into exercise books - stories of sixteenth-century
Italy or twelfth-century England marked with enormous brutality and a despairing
romanticism. It was as if I had been supplied once and for all with a subject.
Why? On the surface The Viper of Milan is only the story of a war between
Gian Galeazzo Visconti, Duke of Milan, and Mastino della Scala, Duke of Verona,
told with zest and cunning and an amazing pictorial sense. Why did it creep
in and color and explain the terrible living world of the stone stairs and
the never quiet dormitory? It was no good in that real world to dream that
one would ever be a Sir Henry Curtis, but della Scala who at last turned
from an honesty that never paid and betrayed his friends and died dishonored
and a failure even at treachery - it was easier for a child to escape behind
his mask. As for Visconti, with his beauty, his patience, and his genius
for evil, I had watched him pass by many a time in his black Sunday suit
smelling of mothballs. His name was Carter. He exercised terror from a distance
like a snowcloud over the young fields. Goodness has only once found a perfect
incarnation in a human body and never will again, but evil can always find
a home there. Human nature is not black and white but black and grey. I read
all that in The Viper of Milan and I looked round and I saw that it was so.
There was another theme I found there. At the end of The Viper of Milan -
you will remember if you have once read it - comes the great scene of complete
success - della Scala is dead, Ferrara, Verona, Novara, Mantua have all fallen,
the messengers pour in with news of fresh victories, the whole world outside
is cracking up, and Visconti sits and jokes in the wine light. I was not
on the classical side or I would have discovered, I suppose, in Greek literature
instead of in Miss Bowen's novel the sense of doom that lies over success
- the feeling that the pendulum is about to swing. That too made sense; one
looked around and saw the doomed everywhere - the champion runner who one
day would sag over the tape; the head of the school who would atone, poor
devil, during forty dreary undistinguished years; the scholar ... and when
success began to touch oneself too, however mildly, one could only pray that
failure would not be held off for too long.
One had lived for fourteen years in a wild jungle country without a map,
but now the paths had been traced and naturally one had to follow them. But
I think it was Miss Bowen's apparent zest that made me want to write. One
could not read her without believing that to write was to live and to enjoy,
and before one had discovered one's mistake it was too late - the first book
one does enjoy. Anyway she had given me my pattern - religion might later
explain it to me in other terms, but the pattern was already there - perfect
evil walking the world where perfect good can never walk again, and only
the pendulum ensures that after all in the end justice is done. Man is never
satisfied, and often I have wished that my hand had not moved further than
King
Solomon's Mines, and that the future I had taken down from the nursery shelf
had been a district office in Sierra Leone and twelve tours of malarial duty
and a finishing dose of blackwater fever when the danger of retirement approached.
What is the good of wishing? The books are always there, the moment of crisis
waits, and now our children in their turn are taking down the future and
opening the pages. In his poem ‘Germinal' A.E. wrote:
In ancient shadows and twilights
Where childhood had strayed,
The world's great sorrows were born
And its heroes were made.
In the lost boyhood of Judas
Christ was betrayed.
GRAHAM GREENE: THE LOST CHILDHOOD
Trong cuốn
tiểu luận nho nhỏ trên, đa số là những phê bình, nhận định, điểm sách, có
hai bài viết về tuổi thơ, phải nói là tuyệt cú mèo. Tin Văn sẽ post, và lai
rai ba sợi về chúng.
Bài “Tuổi thơ đã mất”, The Lost Childhood, viết về những cuốn sách mà chúng
ta đọc khi còn con nít. “Gánh nặng tuổi thơ”, theo Gấu, tuyệt hơn, phản ứng
của con người, ở đây, là ba nhà văn hách xì xằng, về thời thơ ấu khốn khổ
khốn nạn của họ, và bằng cách nào, họ hất bỏ gánh nặng này.
Khi Gấu trở về lại Đất Bắc, Gấu thấy mình giống như một kẻ đi tìm gặp một
thằng Gấu còn ở lại Đất Bắc, và, tìm hiểu, bằng cách nào thằng Gấu đó hất
bỏ được gánh nặng tuổi thơ…
*
Trong bài Gánh nặng tuổi thơ, Graham Greene viết:
"Có vài nhà văn, khác nhau, như Dickens khác Kipling, chẳng ai giống ai,
nhưng đều có chung nỗi bất hạnh, chẳng làm sao hất đi được: gánh nặng tuổi
thơ. Đứa con nít bị tống vô một xưởng máy đen thui, trong trường hợp Dickens,
còn với Kipling, là những ngày tháng ăn cơm thừa canh cặn nhà bà cô Aunt Rosa,
bên một con đường cát bụi vùng ngoại ô, cả hai đều chẳng bao giờ quên được.
Tất cả những kinh nghiệm sau đó của họ, đều như dính mắc tới những tháng,
những năm bất hạnh đó."
"Thường thì cuộc đời tàn nhẫn nhe bộ nanh hung hãn của nó ra khi chúng
ta đã có tí ti kinh nghiệm, để mà tự vệ. Thê thảm nhất, là bị nó cắn vào
những năm tháng còn thơ dại như trên."
*
Giả như phải tìm một lời giải thích cho sự hiện hữu của một cái xuồng chứa
toàn những cay đắng ngày nào, (1) thì có lẽ những lời phán của Greene xem
ra cũng đặng.
Hai tuổi thơ bất hạnh của Gấu, đực và cái, đã tìm cách nương tựa vào nhau,
đâu lưng tự vệ, trước nanh vuốt của cuộc đời, "sống sót hai chế độ, trốn thoát
một cuộc chiến, trốn thoát hai quê hương, một Nam, một Bắc, tìm ra được quê
hương đích thực cho dòng Gấu, và sau cùng, trốn thoát cả một lô những ông
bạn quí hoá."
*
Hai ông nhà văn nhớn trên, bị cuộc đời cắn, bất thình lình, đúng vào lúc
chưa biết thế nào là tự vệ. Khác thường làm sao, là cách họ phản ứng, sau
khi bị cắn. Dickens học được sự thân ái, sympathy. Kipling, sự độc ác. Dickens
phát hiện và khai triển một văn phong dễ dãi, tự nhiên, easy and natural,
đến có thể ôm trọn cả nhân loại vào trong sự hiểu biết của nó.
Kipling chế tạo ra cỗ máy đi dã ngoại, rất ư là hợp thời, vào thời đó.
*
Câu này, Bonaparte viết cho người yêu Joséphine, Gấu mượn để tặng Gấu Cái:
Sự nghèo khổ, bị tước đoạt, và sự cùng cực làm nên vợ nhà văn nhớn. La
pauvreté, les privations et la misère sont l'école du bon soldat. Napoléon
Bonaparte. Extrait d'une Lettre à Joséphine de Beauharnais.
Note: Tks. Napoléon Bonaparte. Gấu.
(1) Đây là
Gấu Cái nhớ lại kỷ niệm tuyệt vời nhất trong đời, là lần rời Cai Lậy về Sài
Gòn, và, vì nước lụt, xe cô dâu biến thành xuồng.
Bả than: Trên xuồng có đủ cay đắng, đủ dùng cho... ba người, người thứ
ba là cô phù dâu cũng ngồi trên xuồng!
*
Gấu, nhà văn
Unpredictability,
not the inevitable death, Nooteboom seems to say, is at the core of our
life.
Nguồn
Không thể biết trước, chứ
không phải chết không thể nào tránh được, đó mới là cốt lõi của cuộc đời
của chúng ta.
Unhappiness wonderfully aids the memory.
Greene: The Burden of childhood
[Bất hạnh là thuốc bổ của hồi nhớ]
*
Không thể biết trước được.
Quả có thế.
*
Lại nói chuyện tuổi thơ bất
hạnh.
Trong bài ‘tạp ghi đầu tay’ mở ra sự
nghiệp‘Gấu nhà văn tạp ghi’ ở hải ngoại (1), Nước Cờ Của Hư Trúc , Gấu đưa ra nhận xét, những nhân vật của Kim Dung
đều bước ra từ cái bóng của Oliver Twist của Dickens. Những đứa trẻ bất hạnh.
Bài viết gây một trận sóng gió trên diễn đàn VHNT của Phạm Chi Lan, chỉ
mãi sau này Gấu mới biết, khi tình cờ ghé mục lưu trữ của báo. Và đây có thể
coi là bài đầu tiên Gấu viết cho báo này, không phải bài Mùa Xuân nói chuyện Mậu Thân bị PCL từ chối, kèm cái note thật là lịch sự, …
đây là một nhân vật gây tranh cãi, tốt nhất, anh đưa bài khác, cho khỏi xui
cái duyên văn tự giữa anh và VHNT.
(1) “Nick’ này, Gấu nhờ nhà thơ Luân Hoán mà có được. Trong đại tác phẩm
hàng ngàn trang Nhà văn Việt Nam của ông, hân hạnh có Gấu ở trong đó, phần
tiểu sử, ông ghi nhà văn, nhưng phần tác phẩm, thấy toàn tạp ghi, thành thử
‘chết tên’: Gấu nhà văn tạp ghi.
Bài viết đăng trên tờ Văn Học, trước khi Gấu giữ mục Tạp Ghi, vài tháng,
hoặc một niên sau đó. Một ông nhà văn ở tòa soạn báo này [hình như là PN]
bèn gửi cho VHNT. Thời gian đó, Gấu chưa biết net, chưa biết không gian ảo
là cái gì, tuy có tậu được một cái PC, nhưng chỉ sử dụng được trên Dos, không
có Window.
Thế là một bàn tròn văn học được mở ra, đây chắc là mục thường trực cuối
tuần của báo này. Gấu còn nhớ trong đó có nhà văn THT. Ông này thì chán Gấu
như chán cơm nếp nát, từ trước 1975, bèn lắc đầu, đọc văn đọc thơ là "cảm
nhận", chứ đâu có phân tích phân tiếc nhức đầu như thế này. Một ông, trẻ,
Gấu chưa từng nghe danh, ở trong ban biên tập, thì rất ư bực mình, Kim Dung
thì có liên can gì tới Dickens, đến những đứa trẻ bất hạnh? Đến cái đoạn Gấu
tán phó mát về nước cờ của Hư Trúc, ông càng bực, đây là nước cờ ăn may, là
vô chiêu thắng hữu chiêu, là buồn ngủ gặp chiếu manh, tình cờ may mắn mà
có được, liên quan gì tâm hư tâm trúc ?
*
Sau này, khi viết thường trực cho VHNT, Gấu cũng hân hạnh, thường xuyên
được là đề tài của bàn tròn văn học, và những lần như thế, đều được PCL gửi
cho một bản sao. Một lần, một ông tỏ ra hết sức bực mình về chuyện Gấu rất
ư là nhập nhằng giữa những gì viết ra, và những gì được coi là trích dẫn,
dịch thuật, "his own style", như ông viết.
Quả có chuyện đó, thành thử sau này, Gấu cố gắng, mỗi lần trích dẫn, là
mở ngoặc, đóng ngoặc thật là đàng hoàng. Tuy nhiên, cách tốt nhất, cứ coi
như chẳng có Gấu ở trong đó.
Toàn là của người, cả.
Đây là giấc đại mộng của Walter Benjamin, làm sao viết tác phẩm, chỉ gồm
toàn trích dẫn, và phần của ông, giống như những giàn dựng, khi tác phẩm hoàn
thành, được rút ra, dẹp bỏ.
Đây còn là giấc đại mộng của Roland Barthes: Tác giả, mi hãy chết đi, để
cho độc giả xuất hiện.
*
Đỗ Long Vân, khi viết Vô Kỵ giữa chúng ta, tuy trân trọng tiểu thuyết chưởng
Kim Dung, nhưng tự hỏi, Vô Kỵ là ai, mà ở giữa chúng ta, và nghi vấn này,
[cơn sốt, hiện tượng mê Kim Dung tại Miền Nam lúc đó, do đâu mà ra], người
đời sau sẽ giải đáp.
Nghi vấn này, cho đến nay, vẫn chưa sao giải đáp. Trong nước sau 1975 còn
mê Kim Dung hơn trước nhiều. Những bản dịch sau này, đầy đủ hơn, từ những
bản văn đã được Kim Dung nhuận sắc, bỏ đi những đoạn mà tác giả coi như là
dài dòng.
Trước 1975, đọc Lục Mạch Thần Kiếm, Gấu không hiểu, tại làm sao mà pho
tượng trong động, nơi Đoàn Dự học Lăng Ba Vi Bộ, lại y chang Vương Ngọc Yến,
y chang người đẹp trong tranh của Hư Trúc.
Hoá ra là tất cả là cùng một nguồn gốc.
Tuy nhiên đọc mấy ông dịch giả kiêm phê bình gia, biên khảo gia, thí dụ
như ông Vũ Đức Sao Biển chẳng hạn, thì hỡi ôi, sao lại có những ông liều lĩnh
đến như thế, và mới hiểu ra, là Kim Dung thật không dễ đọc, và vấn nạn Nước
Cờ Hư Trúc quả thật không dễ giải đáp.
Và càng khó thực thi.
Giai thoại Nước Cờ Hư Trúc là từ tư tưởng Phật giáo, nhưng nó làm nhớ tới
giai thoại "rau vô tâm" trong truyện Đát Kỷ giết Tỷ Can, bằng cách moi tim
ông làm thuốc. Ông này nhờ được mách bảo, sau khi bị móc tim, hãy ngậm miệng
đừng nói thì toàn mạng, và khi không thoát khỏi sự tò mò, hỏi cô gái bàn rau,
rau vô tâm là rau gì, và khi nghe trả lời rau muống, thế là ngã xuống, đi
luôn. [Nên nhớ rau muống là rau 'quốc hồn quốc túy' của dân Việt].
Thành thử "hư trúc" thì mới giải được nước cờ, nhưng "hư trúc" thì chết!
Trong lời
giới thiệu, đại gia VĐSB phán, chúng tôi gọi Tiếu Ngạo Giang Hồ là một siêu
phẩm. Toàn bộ tác phẩm gồm 40 chương hồi. Tuy nhiên tác phẩm lớn không ở chỗ
dài hơi đó. Nó lớn vì chiều sâu kiến thức chứa ngay trong tác phẩm.
Tuy nhiên sau đó, đọc ông viết về những chiều sâu kiến thức, nào Phật nào
Lão mà ông gán cho Kim Dung qua những nhân vật này nọ, thì hóa ra là ông tán
tào lao tất cả.
Điều này chứng tỏ ông không đọc nổi Kim Dung, và có thể không đọc nổi bất
cứ một cuốn tiểu thuyết, bất cứ một thứ giả tưởng.
Chứng cớ. Ông viết, "cơ duyên nào đưa đẩy một nàng Nhạc Linh San mới muời
sáu tuổi say mê cái mã đẹp trai của Lâm Bình Chi và dễ dàng phụ dẫy thâm tình
ban đầu mà cô đã dành cho Lệnh Hồ Xung? Cho đến khi lấy Lâm Bình Chi, nhận
ra bản chất tàn bạo của gã, cô mới hối hận vì đã đánh mất một báu vật trên
đời?"
Đọc, Gấu này thực sự thấy thương cho đại gia VĐSB. Thương cho những nhân
vật của Kim Dung.
Lâm Bình Chi đâu phải bản chất tàn bạo. Tay
này cũng một thứ tuổi thơ bất hạnh. Hắn trở thành độc ác, thì đó là do bị
cuộc đời cắn cho một miếng thật bất thình lình, đúng vào lúc chú bé hăm he
làm việc thiện, giải cứu người đẹp, một cô gái bán rượu, vô tình sa vào tay
con người độc ác mưu mô, tàn nhẫn, là Nhạc Bất Quần, đem cả con gái ra làm
mồi nhử chú bé con nhà giầu mang trong mình kho tàng Tịch Tà Kiếm Pháp.
Đã có lần Gấu lèm bèm về nhân vật này, và mối tình Nhạc Linh San dành cho
Lâm Bình Chi, và gọi đây là một thứ “tình nghiệt”. [Trong bài viết Ngọa Hổ
Tàng Long].
Nhưng sau đọc “Sebald đọc Weiss”, mới khám phá thêm một khía cạnh của thứ
tình nghiệt này: Nhạc Linh San là mẫu người muốn trả nợ, muốn đem lại cho
họ Lâm tất cả những gì đẹp đẽ nhất của đời người - cái gọi là hạnh phúc -
để đền bù lại sự độc ác của loài người, qua tác nhân là cha cô - đã giáng
lên đầu đứa trẻ bất hạnh này, trong đó có cả sự độc ác của chính cô, khi giả
làm cô gái bán rượu.
Có thể nói, cái chết của Nhạc Linh San, là đã được "tiên đoán", khi cô
khoanh tay đứng nhìn Lâm Bình Chi giết người vì cô. Chính vì thế khi chết,
cô cố năn nỉ “người anh”, “người yêu cô”, “người bạn thời thơ ấu”, Lệnh Hồ
Xung, hãy chiếu cố cho họ Lâm. Bà mẹ của cô, khi biết, mới than, ôi oan nghiệt,
là theo nghĩa đó.
Sự kiện, Nhạc tiểu thư năn nỉ Lệnh Hồ Xung đừng giết Lâm Bình Chi còn là
một mệnh lệnh: Đừng làm hỏng ước mong trả nợ, cho bố ta trước tiên, và, cho
sự độc ác của cả giống người. Và chuộc tội cho cả ta nữa.
Đẩy đến tận cùng ước mong này, là sự thực thê lương: Không ai có thể giết
được Nhạc Linh San, ngoài Lâm Bình Chi! Mạng đòi mạng, oan oan tương báo là
như vậy.
Bảo rằng, Nhạc Linh San say mê Lệnh Hồ Xung chứng tỏ chưa đọc Tiếu Ngạo,
tuy dịch, bởi vì chính Nhạc Linh San, khi Lâm Bình Chi trổ mòi ghen tuông,
và sau đó giết cô, đã giải thích cho ông chồng hờ, về mối tình khi còn là
con nít này.
Ngay Lệnh Hồ Xung sau cũng nhận ra, anh không phải mẫu người của Nhạc Linh
San. Nàng yêu một người nào như cha nàng, nhưng lại không phải như cha nàng:
Một người như Nhạc Bất Quần nhưng trừ bỏ đi, sự độc ác.
Người tình trong mộng của Nhạc tiểu thư, như thế, chính là Lâm Bình Chi,
khi còn là một công tử miệt vườn Phúc Kiến mê mẩn tiếng hát [quan họ?] của
mấy cô hái chè quê mình, không phải quê người.
Cái chết của Nhạc Linh San, ở tay người chồng hờ, mang tính tình nghiệt,
của Đông Phương. Do đó, trước khi chết Nhạc Linh San năn nỉ Lệnh Hồ Xung chiếu
cố tới Lâm Bình Chi, và tiễn nàng ra đi, là âm thanh của những bài hát của
những cô gái hái chè vùng [Phú Thọ] Phúc Kiến, quê hương nhà chồng trong
trí tưởng của nàng.
Ngọa Hổ Tàng Long
Ui chao thế
"lày" thì, khi Gấu đi, Gấu Cái nhớ cho đội kèn đồng tấu bài "Đôi Mắt Người
Sơn Tây", nhé!
Đi?
Gấu lại nhớ đến lời mời của Má Mì, lần đầu tiên tới xóm:
-Thế cậu có đi không?
Ngu quá, cù lần quá, Gấu bèn lắc đầu, dõng dạc phán:
-Tôi không đi!
Nhật Ký Tin Văn
Gấu đọc lại
đoạn trên, viết về Nhạc Linh San, ngộ ra một điều, cái xứ Bắc Kít, và cái
tuổi thơ bất hạnh của Gấu, nó hành Gấu thật là khủng khiếp, thê lương!
BHD sở dĩ bỏ đi, một phần còn do cô nhận ra, Gấu không chỉ yêu cô, mà còn
thù cô, như yêu và thù xứ Bắc Kít, và tuổi thơ Bắc Kít của Gấu!
Mới đây thôi, Gấu còn cố thực hiện mối tình khốn khổ khốn nạn với cái xứ
Bắc Kít khốn nạn khốn khổ khốn kiếp, bằng cách đằng đẵng, cúng hết cả cái
quãng đời ở hải ngoại vào cái việc mơ tưởng thực hiện một mối tình tưởng tượng,
với một “em”, phải nói, một “ bà già”
Bắc Kít, một "Me Mẽo" thì đúng hơn.
Gấu muốn nói với em đó, bằng cái tiếng Bắc Kít, “Anh Yêu Em”, thực hiện
giấc mơ điên khùng ngày nào với cô bé con Bắc Kít 11 tuổi!
[Note: Đừng có tin, phịa đấy!]
Cũng là một cách trả ơn những "Me" của Gấu, có thể nói như vậy.
Bởi vì không có bà cô, Cô Dung, một Me Tây, làm sao có Gấu nhà văn!
'Bored
to the point of murder' ...
HH Munro.
Photograph: Time Life Pictures/Mansell Collection
Saki
Trong Gánh Nặng Tuổi Thơ,
Greene nhắc tới Munro, [một trong ba ông, mỗi ông tìm mỗi
cách hất bỏ gánh nặng tuổi thơ, hai ông kia là Kipling, và Dickens], và tự
hỏi, không biết ông lấy ở đâu ra bút hiệu Saki.
Bài viết trên Guardian giải thích:
Hector Hugh Munro's pen-name refers either to the cupbearer in the Rubáiyát
of Omar Khayyam, which is spoken of disparagingly in more than one of his
stories, or a type of South American monkey. I prefer to think it was the
latter: not only did Saki have an abiding love for animals, but his mischievousness
and capability for sudden viciousness are traits that seem, at least to my
limited zoological knowledge, eminently monkey-like. [Saki là từ tác phẩm
của Omar Khayyam, chỉ một sĩ quan hầu rượu, hoặc, một thứ khỉ Nam Mỹ]
*
Greene viết, bất hạnh, tuyệt vời thay, trợ giúp, aid, hồi ức, [Gấu đã từng
dịch ẩu là, bất hạnh là thuốc bổ của hồi ức]. Và những truyện ngắn hay nhất
của Munro thì tất cả đều là về thơ ấu, sự hóm hỉnh, ẩu tả, anarchy, cũng như
là sự độc ác, và bất hạnh của nó.
Even when Saki is not writing explicitly "horrific" stories, however, the
unease is present. His stories are more subtle variations on what William
Burroughs, writing of Naked Lunch, described as the "frozen moment when everyone
sees what is on the end of every fork". Or as VS Pritchett put it, "Saki writes
like an enemy. Society has bored him to the point of murder. Our laughter
is only a note or two short of a scream of fear."
Saki
Ngay cả khi Saki không viết
về [tuổi thơ] kinh dị, thì vẫn thật nhức nhối khi đọc ông... Saki viết như
một kẻ thù. Xã hội làm ông buồn bực đến nỗi chỉ muốn làm thịt một kẻ nào
đó. Độc giả đọc ông, "thi thoảng" bật ra một tiếng cười, ấy là do quá sợ!
*
-Sơ Dạ Hương, tại sao?
-Một cái tên mượn từ Lâu Đài Họ Hạ, truyện Hoffmann, Vũ Ngọc Phan dịch.
Trong đó chỉ có một từ, là thực.
Phỏng vấn Gấu
*
Có nhiều những hao hao rất giống nhau trong quãng đầu đời giữa Kipling
và Saki, và phản ứng của Saki đối với sự cơ cực, thì gần Kipling hơn là Dickens.
Kipling sinh ở Ấn Độ. H.H. Munro, [tôi không khoái cái bút hiệu Saki không
biết lấy ở đâu ra của ông, nghe vô duyên làm sao!], sinh ở Burma, [Miến
Điện]. Cuộc sống gia đình của những đứa trẻ như thế thì luôn bị đổ vỡ. Những
nỗi cơ cực Kipling và Munro ghi lại cũng là những kinh nghiệm của đám con
cái nhân viên dân sự, hay sĩ quan phục vụ tại những xứ sở thuộc địa tại
Đông phương: một chiếc tắc xi đưa đến một căn nhà bà con lạ hoắc, đồ đạc
lỉnh kỉnh khui ra, miếng ăn nước uống không làm sao nuốt trôi, và 4 năm trời
xa cách bố mẹ, thiếu vắng sự thương yêu vỗ về chăm sóc, chỉ 4 năm thôi mà
dài bằng cả một thế hệ [4 tuổi, thì là một đứa bé, 8 tuổi, đã là một cậu
con trai]. Kipling tả nỗi ghê rợn của thời gian này ở trong những cuốn như
Baa, Baa Black Sheep - một câu chuyện mặc dù cái vẻ tình cảm của nó, nhưng
thật khó mà đọc nổi: Những lời cầu nguyện của bà cô, những trận đòn, lá bài
với từ “LIAR” [Tên Nói Dối] ở mặt sau, sự quờ quạng do bị bỏ mặc không biết
bấu víu vào đâu cứ thế lớn dần và sau cùng, là nổi loạn
Có một điều gì thật hao hao giống tuổi thơ của Gấu, ở những dòng trên.
Quái thế.
Gấu cũng từng có những chuyến di chuyển như thế, tuy có tí khác: Ông cụ
hồi còn sống, làm hiệu trưởng một trường tiểu học, không ưa Tây, nên bị chúng
đì, không bao giờ được ở yên chỗ, di chuyển liên tục. Trong những kỷ niệm
của Gấu, có những cảnh nằm ngủ tại nhà ga, chờ xe lửa giữa đống hành lý.
Thế rồi ông cụ bị một đấng học trò làm thịt, và những năm tháng bất hạnh
sau đó chính là cái tuổi thơ mất mát của Gấu, y chang những dòng trên đây.
*
An unfathomable mystery
Scholars
have pondered this mystery for well over a century. Michael Slater’s biography
begins with two key events in Dickens’s childhood: the imprisonment of his
father for debt and the boy’s own humiliating experience working in a boot-polish
factory. More than 600 pages later the ageing Dickens, by now rich, famous
and almost universally revered, is to be found hobnobbing with the queen,
making genteel small talk about servants and “the cost of butchers’ meat and
bread”.
In between came an enormous amount of hard work. From the time he published
his first story in 1833 till his death in 1870, Dickens was frantically busy,
not only with his writing but also with a crammed social diary and taxing
commitments to charities, causes and campaigns. He was ruthlessly disciplined,
versatile and prolific, and thrived on pressure. The attention Mr Slater gives
to Dickens’s less familiar writings—the short stories, journalism and essays—is
one of the things that distinguish his excellent biography.
Hai cái cú
bất hạnh làm nên nhà văn Dickens, đều ở thời thơ ấu của ông: ông bố bị tù
vì nợ nần, và kinh nghiệm đau thương của chính ông, khi còn là một đứa trẻ,
phải đi làm trong một xưởng đánh bóng giầy.
THE BURDEN OF CHILDHOOD
THERE are
certain writers, as different as Dickens from Kipling, who never shake off
the burden of their childhood. The abandonment to the blacking factory in
Dickens's case and in Kipling's to the cruel Aunt Rosa living in the sandy
suburban road were never forgotten. All later experience seems to have been
related to those months or years of unhappiness. Life which turns its cruel
side to most of us at an age when we have begun to learn the arts of self-protection
took these two writers by surprise during the defenselessness of early childhood.
How differently they reacted. Dickens learns sympathy Kipling cruelty - Dickens
developed a style so easy and natural that it seems capable of including the
whole human race in its understanding: Kipling designed a machine, the cogwheels
perfectly fashioned, for exclusion. The characters sometimes seem to rattle
down a conveyor-belt like matchboxes.
There are
great similarities in the early life of Kipling and Saki, and Saki's reaction
to misery was nearer Kipling's than Dickens's. Kipling was born in India. H.
H. Munro (I would like to drop that rather meaningless mask of the pen name)
in Burma.
Family life for such children is always broken - the miseries recorded by
Kipling and Munro must be experienced by many mute inglorious children born
to the civil servant or the colonial officer in the East: the arrival of the
cab at the strange relative's house, the unpacking of the boxes, the unfamiliar
improvised nursery, the terrible departure of the parents, a four years'
absence from affection that in child-time can be as long as a generation (at
four one is a small child, at eight a boy). Kipling described the horror of
that time in Baa, Baa Black Sheep - a story in spite of its sentimentality
almost unbearable to read: Aunt Rosa's prayers, the beatings, the card with
the word LIAR pinned upon the back, the growing and neglected blindness, until
at last came the moment of rebellion
'If you make
me do that,' said Black Sheep very quietly, 'I shall burn this house down
and perhaps I will kill you. I don't know whether I can kill you - you are
so bony, but I will try.'
No punishment
followed this blasphemy, though Black Sheep held himself ready to work his
way to Auntie Rosa's withered throat and grip there till he was beaten off.
In the last
sentence we can hear something very much like the tones of Munro's voice as
we hear them in one of his finest stories Sredni Vashtar. Neither his Aunt
Augusta nor his Aunt Charlotte with whom he was left near Barnstaple after
his mother's death, while his father served in Burma, had the fiendish cruelty
of Aunt Rosa, but Augusta (' a woman', Munro's sister wrote, 'of ungovernable
temper, of fierce likes, and dislikes, imperious, a moral coward, possessing
no brains worth speaking of, and a primitive disposition') was quite capable
of making a child's life miserable. Munro was not himself beaten,
Augusta
preferred his younger brother for that exercise, but we can measure the
hatred he felt for her in his story of the small boy Conradin who prayed
so successfully for vengeance to his tame ferret. "'Whoever will break it
to the poor child? I couldn't for the life of me I" exclaimed a shrill voice,
and while they debated the matter among themselves Conradin made himself
another piece of toast.' Unhappiness wonderfully aids the memory, and the
best stories of Munro are all of childhood, its humor and its anarchy as
well as its cruelty and unhappiness.
For Munro
reacted to those years rather differently from Kipling. He, too, developed
a style like a machine in self-protection, but what sparks this machine gave
off. He did not protect himself like Kipling with manliness, knowingness,
imaginary adventures of soldiers and Empire Builders (though a certain nostalgia
for such a life can be read into The Unbearable Bassington): he protected
himself with epigrams as closely set as currants in an old-fashioned Dundee cake. As a young man trying to make a career
with his father's help in the Burma Police, he wrote to his sister in 1893
complaining that she had made no effort to see A Woman of No Importance. Reginald
and Clovis
are children of Wilde: the epigrams, the absurdities fly unremittingly back
and forth, they dazzle and delight, but we are aware of a harsher, less kindly
mind behind them than Wilde's. Clovis
and Reginald are not creatures of fairy tale, they belong nearer to the visible
world than Ernest Maltravers. While Ernest floats airily like a Rubens cupid
among the over-blue clouds, Clovis and Reginald
belong to the Park, the tea-parties of Kensington, and evenings at Covent Garden - they even sometimes date, like the
suffragettes. They cannot quite disguise, in spite of the glint and the sparkle,
the loneliness of the Barnstaple years -
they are quick to hurt first, before they can be hurt, and the witty and devastating
asides cut like Aunt Augusta's cane. How often these stories are stories
of practical jokes. The victims with their weird names are sufficiently foolish
to awaken no sympathy - they are the middle-aged, the people with power;
it is right that they should suffer temporary humiliation because the world
is always on their side in the long run. Munro, like a chivalrous highwayman,
only robs the rich: behind all these stories is an exacting sense of justice.
In this they are to be distinguished from Kipling's stories in the same genre
- The Village That Voted The Earth Was Flat and others where the joke is
carried too far. With Kipling revenge rather than justice seems to be the
motive (Aunt Rosa had established herself in the mind of her victim and corrupted
it).
Perhaps I have gone a little too far in emphasizing the cruelty of Munro's
work, for here are times when it seems to remind us only of the sunniness
of the Edwardian scene, young men in boaters, the box at the Opera, long lazy
afternoons in the Park, tea out of the thinnest porcelain with cucumber sandwiches,
the easy irresponsible prattle.
Never be a pioneer. It's the Early Christian that gets the fattest lion.
There's Marion Mulciber, who would think she could ride down a hill on
a bicycle; on that occasion she went to a hospital, now she's gone into a
Sisterhood - lost all she had you know, and gave the rest to Heaven.
Her frocks are built in Paris,
but she wears them with a strong English accent.
It requires a great deal of moral courage to leave in a marked manner in
the middle of the second Act when your carriage is not ordered till twelve.
Sad to think that this sunniness and this prattle could not go on for ever,
but the worst and cruelest practical joke was left to the end. Munro's witty,
cynical hero, Comus Bassington, died incongruously of fever in a West African
village, and in the early morning of 13 November 1916, from a shallow crater
near Beaumont Hamel, Munro was heard to shout 'Put out that bloody cigarette.'
They were the unpredictable last words of Clovis and Reginald.
THE LOST CHILDHOOD
PERHAPS it is only in childhood that books have
any deep infuence on our lives. In later life we admire, we are entertained,
we may modify some views we already hold, but we are more likely to find in
books merely a confirmation of what is in our minds already: as in a love
affair it is our own features that we see reflected flatteringly back.
But in childhood all books are books of divination, telling us about
the future, and like the fortune teller who sees a long journey in the cards
or death by water they influence the future. I suppose that is why books excited us so much.
What do we ever get nowadays from reading to equal the excitement and the
revelation in those first fourteen years? Of course 1 should be interested
to hear that a new novel by Mr. E. M. Forster was going to appear this spring,
but I could never compare that mild expectation of civilized pleasure with
the missed heartbeat, the appalled glee I felt when 1 found on a library shelf
a novel by Rider Haggard, Percy Westerman, Captain Brereton, or Stanley Weyman
which I had not read before. No, it is in those early years that I would
look for the crisis, the moment when life took a new slant in its journey
towards death.
I remember distinctly the suddenness with which a key turned in a lock
and I found I could read - not just the sentences in a reading book with the
syllables coupled like railway carriages, but a real book. It was paper-covered
with the picture of a boy, bound and gagged, dangling at the end of a rope
inside a well with the water rising above his waist - an adventure of Dixon
Brett, detective. All a long summer holiday I kept my secret, as I believed:
I did not want anybody to know that I could read. I suppose I half consciously
realized even then that this was the dangerous moment. I was safe so long
as I could read - the wheels had not begun to turn, but now the future stood
around on bookshelves everywhere waiting for the child to choose - the life
of a chartered accountant perhaps, a colonial civil servant, a planter in
China, a steady job in a bank, happiness and misery, eventually one particular
form of death, for surely we choose our death much as we choose our job. It
grows out of our acts and our evasions, out of our fears and out of our moments
of courage. I suppose my mother must have discovered my secret, for on the
journey home I was presented for the train with another real book, a copy
of Ballantyne's Coral Island with only a single picture to look at, a colored
frontispiece. But 1 would admit nothing. All the long journey I stared at
the one picture and never opened the book.
But there on the shelves at home (so many shelves for we were a large
family) the books waited - one book in particular, but before I reach that
one down let me take a few others at random from the shelf. Each was a crystal
in which the child dreamed that he saw life moving. Here in a coyer stamped
dramatically in several colors was Captain Gilson's The Pirate Aeroplane.
I must have read that book six times at least - the story of a lost civilization
in the Sahara and of a villainous Yankee pirate with an aeroplane like a box
kite and bombs the size of tennis balls who held the golden city to ransom.
It was saved by the hero, a young subaltern who crept up to the pirate camp
to put the aero-plane out of action. He was captured and watched his enemies
dig his grave. He was to be shot at dawn, and to pass the time and keep his
mind from uncomfortable thoughts the amiable Yankee pirate played cards with
him - the mild nursery game of Kuhn
Kan. The memory of
that nocturnal game on the edge of life haunted me for years, until I set
it to rest at last in one of my own novels with a game of poker played in
remotely similar circumstances.
And here is Sophy of Kravonia by Anthony Hope - the story of
a kitchen-maid who became a queen. One of the first films I ever saw, about
1911, was made from that book, and I can hear still the rumble of the Queen's
guns crossing the high Kravonian pass beaten hollowly out on a single piano.
Then there was Stanley Weyman's The Story of Francis Cludde, and above
all other books at that time of my life King Solomon's Mines.
This book did not perhaps provide the crisis, but it certainly influenced
the future. If it had not been for that romantic tale of Allan Quatermain,
Sir Henry Curtis, Captain Good, and, above all, the ancient witch Gagool,
would I at nineteen have studied the appointments list of the Colonial- Office
and very nearly picked on the Nigerian Navy for a career? And later, when
surely I ought to have known better, the odd African fixation remained. In
1935 I found myself sick with fever on a camp bed in a Liberian native's hut
with a candle going out in an empty whisky bottle and a rat moving in the
shadows. Wasn't it the incurable fascination of Gagool with her bare yellow
skull, the wrinkled scalp that moved and contracted like the hood of a cobra,
that led me to work all through 1942 in a little stuffy office in Freetown,
Sierra Leone? There is not much in common between the land of the Kukuanas,
behind the desert and the mountain range of Sheba's Breast, and a tin-roofed
house on a bit of swamp where the vultures moved like domestic turkeys and
the pi-dogs kept me awake on moonlight nights with their wailing, and the
white women yellowed by atebrin drove by to the club; but the two belonged
at any rate to the same continent, and, however distantly, to the same region
of the imagination the region of uncertainty, of not knowing the way about.
Once I came a little nearer to Gagool and her witch-hunters, one night in
Zigita on the Liberian side of the French Guinea border, when my servants
sat in their shuttered hut with their hands over their eyes and someone beat
a drum and a whole town stayed behind closed doors while the big bush devil
- whom it would mean blindness to see - moved between the huts.
But King Salomon' s Mines could not finally satisfy. It was not
the right answer. The key did not quite fit. Gagool I could recognize - didn't
she wait for me in dreams every night in the passage by the linen cupboard,
near the nursery door? and she continues to wait, when the mind is Sick or
tired, though now she is dressed in the theological garments of Despair and
speaks in Spenser's accents:
The longer life,
I wote the greater sin,
The greater sin, the greater
punishment.
Yes, Gagool has remained a permanent part of the
imagination, but Quatermain and Curtis - weren't they, even when I was only
ten years old, a little too good to be true? They were men of such unyielding
integrity (the y would only admit to a fault in order to show how it might
be overcome) that the wavering personality of a child could not rest for long
against those monumental shoulders. A child, after all, knows most of the
game - it is only an attitude to it that he lacks. He is quite well aware
of cowardice, shame, deception, disappointment. Sir Henry Curtis perched
upon a rock bleeding from a dozen wounds but fighting on with the remnant
of the Greys against the hordes of Twala was too heroic. These men were like
Platonic ideas: they were not life as one had already begun to know it.
But when - perhaps I was fourteen by that time - I took Miss Marjorie
Bowen's The Viper of Milan from the library shelf, the future for better or
worse really struck. From that moment I began to write. All the other possible
futures slid away: the potential civil servant, the don, the clerk had to
look for other incarnations. Imitation after imitation of Miss Bowen's magnificent
novel went into exercise books - stories of sixteenth-century
Italy or twelfth-century
England
marked with enormous brutality and a despairing romanticism. It was as if
I had been supplied once and for all with a subject.
Why? On the surface The Viper of Milan is only the story of a
war between Gian Galeazzo Visconti, Duke of Milan, and Mastino della Scala,
Duke of Verona, told with zest and cunning and an amazing pictorial sense.
Why did it creep in and color and explain the terrible living world of the
stone stairs and the never quiet dormitory? It was no good in that real world
to dream that one would ever be a Sir Henry Curtis, but della Scala who at
last turned from an honesty that never paid and betrayed his friends and died
dishonored and a failure even at treachery - it was easier for a child to
escape behind his mask. As for Visconti, with his beauty, his patience, and
his genius for evil, I had watched him pass by many a time in his black Sunday
suit smelling of mothballs. His name was Carter. He exercised terror from
a distance life a snow cloud over the young fields. Goodness has only once
found a perfect incarnation in a human body and never will again, but evil
can always find a home there. Human nature is not black and white but black
and grey. I read all that in The Viper of Milan and I looked round and 1
saw that it was so.
There was another theme I found there. At the end of The Viper of Milan
- you will remember if you have once read it- comes the great scene of complete
success - della Scala is dead, Ferrara, Verona, Novara, Mantua have all fallen,
the messengers pour in with news of fresh victories, the whole world outside
is cracking up, and Visconti sits and jokes in the wine light. I was not on
the classical side or I would have discovered, I suppose, in Greek literature
instead of in Miss Bowen's novel the sense of doom that lies over success
- the feeling that the pendulum is about to swing. That too made sense; one
looked around and saw the doomed everywhere - the champion runner who one
day would sag over the tape; the head of the school who would atone, poor
devil, during fort y dreary undistinguished years; the scholar ... and when
success began to touch oneself too, however mildly, one could only pray that
failure would not be held off for too long.
One had lived for fourteen years in a wild jungle country without a
map, but now the paths had been traced and naturally one had to follow them.
But I think it was Miss Bowen's apparent zest that made me want to write.
One could not read her without believing that to write was to live and to
enjoy, and before one had discovered one's mistake it was too late - the
first book one does enjoy. Anyway she had given me my pattern - religion
might later explain it to me in other terms, but the pattern was already
there - perfect evil walking the world where perfect good can never walk
again, and only the pendulum ensures that after all in the end justice is
done. Man is never satisfied, and often I have wished that my hand had not
moved further than King Solomon's Mines, and that the future I had taken
down from the nursery shelf had been a district office in Sierra Leone and
twelve tours of malarial duty and a finishing dose of black-water fever when
the danger of retirement approached. What is the good of wishing? The books
are always there, the moment of crisis waits, and now our children in their
turn are taking down the future and opening the pages. In his poem 'Germinal'
A.E. wrote :
In ancient shadows
and twilights
Where childhood had strayed,
The world's great sorrows
were born
And its heroes were made.
In the lost boyhood of Judas
Christ was betrayed.
Gánh Nặng Tuổi Thơ
Dickens by Slater
Tuổi thơ bất
hạnh của Dickens khủng khiếp đến độ ông không dám xì ra, ngay với cả với
vợ con. Vào năm 1824, vừa ăn mừng sinh nhật lần thứ 12 được hai ngày, chú
được ông bố bà mẹ, trường kỳ bất lực không làm sao nuôi nổi con cái, gửi
tới một nhà máy chuyên làm công chuyện đánh bóng giầy bốt, một dẫy nhà đầy
chuột bọ nhìn xuống sông Thames, mỗi ngày cầy 10 tiếng. Cùng thời gian, ông
bố bị chủ nợ tống vô tù. Người ta thường vẫn nghĩ, thời gian chú trải qua
tại nhà máy chỉ chừng vài tuần, nhưng Slater người viết cuốn tiểu sử mới
nhất của Dickens cho biết, chú ở đó từ 13 tới 14 tháng, một vĩnh cửu, a eternity,
đối với một đứa bé. Trước đó, một đứa bé thông minh, sáng sủa, lanh lợi,
“cháu ngoan Bác Hồ”, thầy cô ai cũng mến. Từ đó, [tim tôi bừng nắng hạ],
chú bị bỏ quên bởi tất cả mọi người với số phận của chú, là kéo dài chuỗi
ngày của mình, như là một “thằng cu thợ”.
Cơn ác mộng nhà máy đánh giầy chỉ ra không phải thứ giả tưởng nào ông sẽ
viết, mà lý do ông viết. Ông muốn được yêu mến bởi những độc giả của mình, muốn
làm cho họ cười, khóc, và đi vô trái tim của họ, ấy là vì, ông cảm thấy, những
người nào yêu ông như là một đứa trẻ, thì họ sẽ làm bật nó ra, sẽ khu trục
nó. Nỗi đau không được yêu càng buốt nhói ở thuở mới lớn, bởi một em nhà
giầu, bố làm chủ nhà băng, lương anh cu thợ với sao tới. Cô gái vờ vĩnh với
cậu trai, rồi đá cho một cú, nhưng cậu trai không một chút tủi hờn, bởi vì
‘mọi điều gì gọi là yêu đương, đam mê, mong ước, quyết tâm… tất cả đều thuộc
về anh”, chàng sau đó nói với nàng, “Anh sẽ chẳng bao giờ bị tách rời, hoặc
[tự mình] tách rời ra khỏi người đàn bà nho nhỏ có trái tim cứng rắn, là
em”. Ông lấy vợ, “thế là xong” [Nếu biết rằng em đã có chồng anh
đành lấy vợ, thế là xong], và những lá thư của ông cho thấy, ông không hề
thực sự yêu vợ.
*
Câu vinh danh
Dickens, tuyệt vời nhất, theo Gấu, là câu này, của phê bình gia tổ sư Mác
Xít:
Nhà phê bình Mác-xít G. Lukacs cho rằng, trong những phát kiến (inventions)
của Kafka, có những dấu vết đặc thù, của phê bình xã hội. Viễn ảnh của ông
về một hy vọng triệt để, thật u tối: đằng sau bước quân hành của cuộc cách
mạng vô sản, ông nhìn thấy lợi lộc của nó là thuộc về bạo chúa, hay kẻ mị
dân. Cuốn tiểu thuyết "Vụ Án" là một huyền thoại quỉ ma, về tệ nạn hành chánh
mà "Căn Nhà U Tối" của Dickens đã tiên đoán. Kafka là người thừa kế nhà văn
người Anh Dickens, không chỉ tài bóp méo các biểu tượng định chế (bộ máy kỹ
nghệ như là sức mạnh của cái ác, mang tính huỷ diệt), ông còn thừa hưởng luôn
cơn giận dữ của Dickens, trước cảnh tượng người bóc lột người.
Tuyệt!
Chính Kafka cũng thừa nhận, ông là
đệ tử của Dickens, theo như Kundera viết:
America, m¶t cuÓn ti‹u
thuy‰t kÿ kÿ (curious): Tåi sao Kafka, khi Çó m§i 29 tu°i, låi "Ç¥t Ç‹" cuÓn
ti‹u thuy‰t ÇÀu tiên cûa ông tåi m¶t Çåi løc ông chÜa tØng Ç¥t chân t§i? M¶t ch†n l¿a có chû Çích rõ rŒt: Không làm hiŒn th¿c chû
nghïa. Ông cÛng ch£ng thèm tra cÙu, tìm tòi, Ç‹ che giÃu s¿ "ngu dÓt". Ông
bÎa Ç¥t š nghï cûa ông, vŠ America, tØ nh»ng thÙ phÄm, ba ÇÒ ph° thông. Hình
änh America ª trong truyŒn là tØ nh»ng clichés. HÙng khªi
chính cho nhân vÆt và tình ti‰t câu chuyŒn: mÜ®n Ç« Dickens, nhÃt là tØ David Copperfield (ông thØa nhÆn ÇiŠu này, trong nhÆt kš), V§i
ông, theo Kundera, nghŒ thuÆt hiŒn Çåi: M¶t s¿ phän kháng, chÓng
låi s¿ b¡t chܧc th¿c tåi. ñây có lë là lš do tåi sao Ƕc giä "chÎu không
n°i" nh»ng tác phÄm cÓ vë låi nh»ng nhà giam, nh»ng ngày tù ÇÀy, cäi tåo.
Kundera coi Çây là s¿ khác biŒt gi»a "thi ca Kafka", trong Vø
Án, v§i 1984, cûa Orwell, cÛng nói vŠ b¡t b§, tù ÇÀy,
và vÓn ÇÜ®c coi nhÜ m¶t tác phÄm chÓng c¶ng cûa m¶t bÆc thÀy.
1984 là tÜ tܪng chính trÎ nguœ trang dܧi hình thÙc ti‹u
thuy‰t, trong Çó thi‰u nh»ng cºa s° mª sang khu vÜ©n Thuš, thi‰u
windows.
"Không
ai có th‹ Çi xa hÖn Kafka, trong Vø Án. Ông tåo m¶t hình änh "c¿c kÿ thÖ",
vŠ m¶t "th‰ gi§i c¿c kÿ không thÖ". B¢ng th‰ gi§i c¿c kÿ không thÖ, tôi muÓn
nói, m¶t th‰ gi§i trong Çó không có ch‡ cho t¿ do cá nhân, không có s¿ Ƕc
nhÃt vô nhÎ: là m¶t cá nhân. NÖi con ngÜ©i chÌ là døng cø cûa nh»ng sÙc månh
phi nhân: ThÜ låi, KÏ thuÆt, LÎch sº. B¢ng hình änh c¿c kÿ thÖ, tôi muÓn nói,
không thay Ç°i y‰u tính, cÛng nhÜ bŠ ngoài không thÖ, Kafka Çã "n¡n låi"
th‰ gi§i Çó, b¢ng sÙc tܪng tÜ®ng bao la, ÇÀy thi tính cûa ông."(Kundera,
sÇd).
Mùa Thu, những di dân
Gánh Nặng
Tuổi Thơ
Viết về Dickens mà quên Bà này, đâu có được!
A
Dickensian tale of provincial China
Yiyun Li's novel gives chilling
insights into the mechanisms of totalitarianism
The counter-revolutionary's tale
Christopher Tayler applauds
a first novel by a skilled storyteller
Yiyun Li's 2005 story collection A Thousand
Years of Good Prayers - which won four prizes, including the Guardian
First Book award - was admired for taking a calm, Chekhovian look at a changing
China
and the lives of Chinese emigrants.
Chúng tôi hô khẩu hiệu khi đạn vô sọ anh ta.
Yiyun Li: A thousand
years of good prayers
Nhân nhắc tới Yiyun Li, Gấu lại nhớ tới cái cú chuyển dịch [ra tiếng] Vịt
của eVăn.
Chuyển
Dịch Vịt
*
Có vẻ như những nhà văn Mít ở trong
nước của chúng ta, ngoài khỏi nói, không tìm ra thứ tiếng nói của họ, bởi
vì không phải cứ viết trong luồng, hay ngoài luồng, mà trở thành nhà văn.
Sự khủng khoảng văn chương sau 1975, ở cả hai miền, theo Gấu, là do không
kiếm ra ngôn ngữ của nó.
“Cái thứ tiếng Việt bố mẹ đang nói không phải tiếng Việt.”
“... all struggling to find a home in their own country....”, tất cả chiến
đấu để kiếm ra một cái nhà trong xứ sở của chính họ: Đây cũng là vấn nạn
của văn chương Mít?
*
Về văn chương, Nga có một truyền thống hiện thực chủ nghĩa, lớn, có lẽ
lớn nhất, và có vẻ như nó đang dậm chân tại chỗ. Có lẽ thực tại, chính nó,
vào lúc này thì hơi bát nháo, và sự thực về nó, hết còn bị dồn nén, cho nên
những nhà văn mới của Nga thường khoái biếm văn và những trò kỳ quái mang
tính ám dụ. Những thể loại văn học mà một khi mất nội dung xã hội, họ
bắt buộc phải sử dụng chúng nhằm tránh né khó khăn, và thất bại, khi muốn
vươn tới những xã hội khác, những ngôn ngữ khác.
Đây cũng là cõi văn Mít, sau 1975, sau cú đụng độ giữa hai nền văn minh,
một của Ngụy, và một của Yankee mũi tẹt!
*
Tờ Granta, số 64, Mùa Đông,
1998, đặc biệt về Miền Đông Hoang dã của Nga xô, Russia, The Wild East,
Tin Văn đã từng chôm một vài đoạn ở trong đó. Trong bài Intro, được scan dưới
đây, và nếu có thể sẽ được dịch, có đoạn:
Về văn chương, Nga có một truyền thống hiện thực chủ nghĩa, lớn, có lẽ
lớn nhất, và có vẻ như nó đang dậm chân tại chỗ. Có lẽ thực tại, chính nó,
vào lúc này thì hơi bát nháo, và sự thực về nó, thì cũng hết còn bị dồn nén,
cho nên những nhà văn mới của Nga thường khoái biếm văn và những trò kỳ quái
mang tính ám dụ. Những thể loại văn học mà một khi mất nội dung xã hội, họ
bắt buộc phải sử dụng chúng nhằm tránh né khó khăn, và thất bại, khi muốn
vươn tới những xã hội khác, những ngôn ngữ khác.
Nhận xét trên thật quá đúng đối với văn chương Mít ở trong nước. Nào là
rung chuông tận thế, nào là ẩn dụ "cởi truồng", chời hoài chờ huỷ không
thấy kinh, và chỉ thấy kinh, [có tháng] vào ngày lễ ra trường ngợp cờ đỏ,
hay bị bóng đè, bị hồn ma tiền nhân, hay ma net hiếp...
[Note: Những dữ kiện nêu ra ở đây, chỉ có tính minh họa, không nhằm khen
chê bất cứ tác giả nào].
Theo Gấu có một sự băng hoại khủng khiếp ở trong văn chương trong nước.
Nhà văn hàng ngày phải chứng kiến những tội ác chưa từng có trong lịch sử
nước Mít, thí dụ, đại gia
xả xui bằng cách lấy trinh hàng loạt trẻ em, ông hàng xóm hiếp
đứa con nít 5 tuổi nhà kế bên bằng mồi nhử là ba cục kẹo... Khủng khiếp hơn
nữa, những con quái vật này không bị trừng phạt, hoặc trừng phạt thật nhẹ.
Khủng khiếp hơn nữa nữa, chính nạn nhân năn nỉ khoan hồng cho chúng, bởi
vì đành phải chấp nhận một tí tiền bồi thường bên ngoài tòa án, nếu không,
chẳng được gì. Và do sợ hãi, do bổng lộc, do hèn hạ... nhà văn đành câm miệng
trước tội ác, và để quên nhục nhã, viết biếm văn, viết ẩn dụ cởi truồng.
Cứ giả dụ, nhà văn ý thức được những cái ác nhan nhản trước mắt, nhưng
do không kiếm ra nổi một thứ ngôn ngữ trung tính, một cách viết trắng, như
cách viết của Camus, thí dụ, và sử dụng thứ ngôn ngữ ô nhiễm, [nào đại gia,
nào máu, nào đạn...], hoặc ngôn ngữ dối trá nâng bi quá khứ, tác phẩm cũng
không thể nào đọc được.
Cái sự băng hoại của ngôn ngữ, cái sự dối trá mới đáng sợ làm sao!
Làm thế
nào để làm điêu tàn một xứ sở?
Trang Yiyun Li
Trong chợ sách, ở bên Tây, DCT ca ngợi hai tác
giả cùng có mặt, Bảo Ninh, và Thuận.
Bảo Ninh, thì ‘xưa rồi Diễm ơi’, nhưng Thuận, với Chinatown, theo tôi, không phải là cõi
văn Mít.
Phải coi nó là một tác phẩm ngoại, ngay cái tên của nó, đã cho thấy.
Nếu coi đây là hai tác phẩm tiêu biểu, thì sẽ có một lời giải thích liên
quan tới cả hai:
Chính cái sự bế tắc của Bảo Ninh, và cùng với nó, văn học Mít sau 1975,
đẻ ra thứ văn chương ngoại lai, tả pí lù Chinatown.
Những đứa trẻ bị
những đại gia phá trinh, những người dân Mít bị chà đạp, mất nhân phẩm, những
Lê Công Định, thí dụ, không hề có mặt ở trong Chinatown.
Thứ ngôn ngữ ở trong đó, không chấp nhận họ.
Những thể loại văn học mà
một khi mất nội dung xã hội, họ bắt buộc phải sử dụng chúng nhằm tránh né
khó khăn, và thất bại, khi muốn vươn tới những xã hội khác, những ngôn ngữ
khác.
Câu trên, có thể
áp dụng cho Chinatown, và rất nhiều
tác phẩm khác, kể cả thứ viết cho nhi đồng, như Vừa nhắm mắt vừa mở cửa, thí dụ, của một
tay giả đò làm con nít, trong khi giả đò nhắm mắt coi phim sex diễn ra nhan
nhản trong xã hội.
|
|