*

*

Nhà thơ nhà nước Mẽo, đã từng đợp Pulitzer, nhưng còn là 1 dịch giả thần sầu. Gấu thèm cuốn này lâu rồi, bữa nay đành tậu về. Ông còn một cuốn dịch thơ haiku của Buson, cũng mới ra lò, 2013, Gấu cũng thèm lắm!

*

W. S. MERWIN
1927-

The following poem inspires us to reflect on what seldom crosses our minds. After all (literally after all), such an anniversary awaits every one of us.
Bài thơ sau đây gợi hứng cho chúng ta, về cái điều hiếm chạy qua đầu chúng ta.
Nói cho cùng, "kỷ niệm cái chết của tôi" đâu bỏ quên, bất cứ ai?

Czeslaw Milosz

FOR THE ANNIVERSARY OF MY DEATH

Every year without knowing it I have passed the day
When the last fires will wave to me
And the silence will set out
Tireless traveler
Like the beam of a lightless star
Then I will no longer
Find myself in life as in a strange garment
Surprised at the earth
And the love of one woman
And the shamelessness of men
As today writing after three days of rain
Hearing the wren sing and the falling cease
And bowing not knowing to what

Note: Đọc, thì cứ như là đang đọc, bài ai điếu GCC trên túi áo ngực bạn quí!
Chán thế!

EIN FRAUEN-SCHICKSAL 

So wie der Konig auf der Jagd ein Glas
ergreift, daraus zu trinken, irgendeines, -
und wie hernach der welcher es besaf
es fortstellt und verwahrt als war es keines: 

so hob vielleicht das Schicksal, durstig auch,
bisweilen Eine an den Mund und trank,
die dann ein kleines Leben, viel zu bang
sie zu zerbrechen, abseits vom Gebrauch

hinstellte in die angsrliche Vitrine,
in welcher seine Kostbarkeiten sind
(oder die Dinge, die fur kostbar gel ten). 

Da stand sie fremd wie eine Fortgeliehne
und wurde einfach alt und wurde blind
und war nicht kostbar und war niemals selten.

Rilke

WOMAN'S FATE 

Just as the king out on a hunt picks up
A glass to drink from, anyone at all, -
and afterward its owner puts it away
and guards it like some fabled chalice:

So perhaps Fate, who also thirsts, at times
Raised a woman to its lips and drank,
whom then a small life, too much afraid
of breaking her, locked away from use

Inside the tremulous glass cabinet
in which its most precious things are kept
(at least the things considered precious).
There she stood strange like something loaned
and became merely old and became blind
and was not precious and was never special.

Số mệnh đờn bà

Thì cứ kể như là bữa đó, Trụ Vương đi săn bèn cầm 1 cái ly, từ bất cứ ai đó, lên uống
Thế là kẻ có cái ly bèn kính cẩn đem cái ly về, nâng niu, coi như chén thánh

Có lẽ Số Mệnh, cũng có 1 lần khát nước
Bèn nâng người đàn bà lên môi và uống
Một người đàn bà mới nhỏ nhoi làm sao
Và, như sợ làm bể, bèn cất nàng vô 1 nơi, không dám đụng tới nữa

Trong căn lầu vàng, nơi chứa toàn bảo vật vô giá
Có người đàn bà, đứng đó, giống như 1 món đồ vay, mượn,
Già mãi đi, và trở nên mù
Chẳng quí giá cái con khỉ gì nữa, và chẳng đặc biệt cái chi chi!

Note: Duyên Anh có kể câu chuyện, về một cháu ngoan Bác Hồ, một bữa được Bác mi lên má, bèn nhất định không rửa mặt, sợ mất mùi Bác.
Nghe nói, cả tháng sau, cô bé con quyệt tay lên má, ngửi, khoe với bạn, vưỡn còn mùi Bác Hồ!
Đi tù cải tạo mút mùa vì chuyện này!
Hà, hà!
  Thơ Mỗi Ngày

Solitude

There now, where the first crumb
Falls from the table
You think no one hears it
As it hits the floor,

But somewhere already
The ants are putting on
Their Quaker hats
And setting out to visit you.

Charles Simic:  Selected Early Poems

Cô đơn

Chủ nhật, sáng nay, ở một Starbucks, ở Tiểu Sài Gòn
Mẩu bánh sừng trăng đầu tiên rớt khỏi mặt bàn em đang ngồi
Em nghĩ, chắc là chẳng ai nghe tiếng rớt của nó, khi chạm sàn gỗ,

Nhưng đâu đó, ở một thành phố khác
Đàn kiến đội lên đầu chiếc nón Quaker
Và lên đường, thăm em giùm anh. 

Emily's Theme

My dear trees, I no longer recognize you
In that wintry light.
You brought me a reminder I can do without:
The world is old, it was always old,
There's nothing new in it this afternoon.
The garden could've been a padlocked window
Of a pawnshop I was studying
With every item in it dust-covered.

Each one of my thoughts was being ghostwritten
By anonymous authors. Each time they hit
A cobwebbed typewriter key, I shudder.
Luckily, dark came quickly today.
Soon the neighbors were burning leaves,
And perhaps a few other things too.
Later, I saw the children run around the fire,
Their faces demonic in its flames.

Charles Simic

Nhã Đề

Cây thân thương của ta ơi
Ta không còn nhận ra mi
Trong cái ánh sáng hiu hắt này
Mi đem đến cho ta lời nhắc nhở thật cần, nếu không có nó
Rằng thế giới thì già, như nó vưỡn luôn luôn già
Chẳng có gì mới trong nó, buổi xế trưa này
Khu vườn, vưỡn như cái cửa sổ móc khóa
Của một tiệm cầm đồ
Ta nghiên cứu mọi món đồ đầy bụi của nó.

Mỗi một tư tưởng của ta, thì đều được mướn viết
Bởi những tác giả vô danh
Mỗi lần họ đập một cú lên cái máy đánh chữ
Là ta rùng mình, tim đau nhói một phát.
May quá, đêm, bữa nay đến thật lẹ
Chẳng mấy chốc, láng giềng sẽ đốt lá
Và có thể, một vài cái gì nữa.
Sau đó, ta nhìn thấy những đứa trẻ chạy vòng quanh
Mặt mũi chúng phản chiếu trong ánh lửa ma mị

 Thơ Mỗi Ngày

Watermelons

Green Buddhas
On the fruit stand.
We eat the smile
And spit out the teeth.

Dưa Hấu

Phật xanh
Ngồi thành dẫy
Chúng ta đợp nụ cười
Phun ra những cái răng

Poem Without a Title

I say to the lead,
"Why did you let yourself
Be cast into a bullet?
Have you forgotten the alchemists?
Have you given up hope
Of turning into gold?"

Nobody answers.
Lead. Bullet.
With names like that
The sleep is deep and long .

Bài thơ vô đề

Tớ nói với chì
Tại làm sao mà mi lại để cho chúng đúc mi thành viên đạn?
Mi quên những nhà luyện kim rồi ư?
Chẳng lẽ mi vứt bỏ hy vọng
Biến mình thành vàng?

Đếch ai trả lời.
Chì. Đạn
Với những cái tên như thế
Giấc ngủ mới sâu và dài làm sao.

Fork

This strange thing must have crept
Right out of hell.
It resembles a bird's foot
Worn around the cannibal's neck.

As you hold it in your hand,
As you stab with it into a piece of meat,
It is possible to imagine the rest of the bird:
Its head which like your fist
Is large, bald, beakless, and blind.

Nĩa

Cái vật lạ này hẳn là bò thẳng ra từ địa ngục
Nó giống như chân chim
Đeo ở cổ 1 tên ăn thịt người

Bạn cầm trong tay
Cắm vô miếng thịt
Thật dễ tưởng tượng ra phần còn lại của con chim.
Cái đầu của nó thì có khác gì cú đấm của bạn,
Rộng, trọc, không có mỏ, và mù.

Spoon

An old spoon,
Chewed
And licked clean,
Fixing you
With its evil-eyed
Stare,

As you lean over
The soup bowl
On the table,
To make sure
Once more
There is nothing left. 

Muỗng

Một cái muỗng cũ
Nhai, liếm sạch
Với mắt quỉ
Chiếu tướng bạn

Trong khi bạn cúi xuống tô xúp trên bàn
Để chắc chắn thêm một lần nữa
Đếch bỏ lại 1 thứ gì.

Charles Simic


 Thơ Mỗi Ngày

The Betrothal

I found a key
In the street, someone's
House key
Lying there, glinting,

Long ago; the one
Who lost it
Is not going to remember it
Tonight, as I do.

It was a huge city
Of many dark windows,
Columns and domes.
I stood there thinking.

The street ahead of me
Shadowy, full of peril
Now that I held
The key. One or two

Late strollers
Unhurried and grave
In view. The sky above them
Of an unearthly clarity.

Eternity jealous
Of the present moment,
It occurred to me!
And then the moment was over.

Charles Simic 

Hứa hôn

Gấu vớ được một cái chìa khoá ở ngoài phố
Chìa khoá nhà của một ai đó
Nằm đó, lấp lánh

Lâu lắm rồi, cái kẻ làm mất nó
Đã quên mẹ mất nó
Không như Gấu, tối nay

Đó là một thành phố rộng
Với nhiều cửa sổ tối
Những cây cột, những cái vòm
Gấu đứng đó, nghĩ linh tinh

Con phố trước mặt Gấu
Âm u với những bóng tối của nó, đầy rủi ro, bất trắc
Vào lúc này, Gấu giữ cái chìa khóa

Một, hai khách bộ hành, muộn
Không hối hả, trầm trọng
Trong tầm nhìn của Gấu
Bầu trời bên trên họ
Sáng sủa cách gì đâu, một cách “không trần thế”

Vĩnh cửu ghen với Gấu Cà Chớn, tối nay.
Ghen với cái khoảnh khắc hiện tại thần sầu
Xẩy ra cho Gấu, chỉ cho Gấu!
Và rồi, khoảnh khắc thần tiên, đếch còn nữa!

 

Death, the Philosopher

He gives excellent advice by example.
"See!" he says. "See that?"
And he doesn't have to open his mouth
To tell you what.
You can trust his vast experience.
Still, there's no huff in him.
Once he had a most unfortunate passion.
It came to an end.
He loved the way the summer dusk fell.
He wanted to have it falling forever.
It was not possible.
That was the big secret.
It's dreadful when things get as bad as that-
But then they don't!
He got the point, and so, one day,
Miraculously lucid, you, too, came to ask
About the strangeness of it all.
Charles, you said,
How strange you should be here at all!

Charles Simic

 Thần Chết, Thầy Triết

Hắn đưa ra lời khuyên thần sầu, bằng thí dụ.
“Thấy không!” hắn nói. “Thấy cái đó không”?
Và hắn không phải há miệng ra, để nói, “what” là cái đéo gì với bạn.
Bạn có thể tin vào kinh nghiệm rộng của hắn.
Tuy nhiên, đếch có cái gọi là giận dữ ở hắn ta, Thần Chết, Thầy Triết.
Có thời, hắn có cái đam mê bất hạnh nhất
Nó cạn láng từ khuya.
Hắn yêu, cái cách mà hoàng hôn mùa hè té xuống
Hắn muốn nó cứ té như thế, thiên thu, hoài hoài.
Nhiệm vụ bất khả thi!
Đó là bí mật lớn
Thật đáng sợ khi sự vật tệ hại đến mức như thế -
Nếu như thế, thì, đừng!
Hắn phản biện OK, được 1 điểm - đúng không, và thế là, có một ngày
Cực kỳ sáng suốt, như 1 phép lạ
Bạn, chính bạn, cũng tới gặp, xin 1 lời cố vấn
Về cái sự lạ lùng của tất cả ba cái lẩm cẩm đó
Gấu Cà Chớn, bạn phán,
Lạ lùng làm sao, thứ như mi, mà cũng có mặt ở trên cõi đời này!

  Thơ Mỗi Ngày

J'AI EU LE COURAGE ...

J'ai eu le courage de regarder en arrière
Les cadavres de mes jours
Marquent ma route et je les pleure
Les uns pourrissent dans les églises italiennes
Ou bien dans de petits bois de citronniers
Qui fleurissent et fructifient
En même temps et en toute saison
D'autres jours ont pleuré avant de mourir dans des tavernes
Ou d'ardents bouquets rouaient
Aux yeux d'une mulâtresse qui inventait la poésie
Et les roses de l'électrécité s’ouvrent encore
Dans le jardin de ma mémoire

Guillaume Apollinaire

I HAD THE COURAGE... 

J' ai eu le courage. .

I had the courage to look backward
The ghosts of my days
Mark my way and I mourn them
Some lie moldering in Italian churches
Or in little woods of citron trees
Which flower and bear fruit
At the same time and in every season
Other days wept before dying in taverns
Where ardent odes became jaded
Before the eyes of a mulatto girl who inspired poetry
And the roses of electricity open once more
In the garden of my memory

DAISY ALDAN

French Poetry, edited by Angel Flore, introduction by Patti Smith, Anchor Books 

FROM "LES FIANCAILLES"
to Picasso

I have had the courage to look back
At the dead bodies of my days
They litter the roads I've taken and I miss them
That's me rotting in so many Italian churches
And in the nearby lemon groves
Which flower and produce little lemons
Also and in every season
Other days died weeping late at night in a bar
Where bouquets of dazzle spun around
In the eyes of a mulatto woman who invented poetry
The roses of electricity open even now
In the garden of my memory

- Translated from French by the Editors

[The Paris Review, Fall 2012]

In a Dark House

One night, as I was dropping off to sleep,
I saw a strip of light under a door
I had never noticed was there before,
And both feared and wanted
To go over and knock on it softly.

In a dark house, where a strip of light
Under a door I didn't know existed
Appeared and disappeared, as if they
Had turned off the light and lay awake
Like me waiting for what comes next.

Charles Simic: New Poems

Trong Căn Nhà Tối

Một đêm, tôi lơ mơ tính ngủ
Bỗng nhìn thấy một mảnh ánh sáng bên dưới cửa
Tôi chưa từng để ý đến, trước đó
Và vừa sợ, lại vừa muốn
Tôi bèn tới nhìn, và gõ nhè nhẹ lên nó 

Nơi căn nhà tối, bỗng dưng 1 mảnh sáng dưới cửa
Tôi không hề biết, nó có
Xuất hiện rồi biến mất
Như thể họ tắt mẹ đèn đóm
Và nằm thức, chờ
Như tôi
Coi cái gì sẽ xẩy ra,
Tiếp, tới.

Lingering Ghosts

Give me a long dark night and no sleep,
And I'll visit every place I have ever lived,
Starting with the house where I was born.
I'll sit in my parents' dimmed bedroom
Straining to hear the tick of their clock.

I'll roam the old neighborhood hunting for friends,
Enter junk-filled backyards where trees
Look like war cripples on crutches,
Stop by a tree stump where Grandma
Made roosters and hens walk around headless.

A black cat will slip out of the shadows
And rub herself against my leg
To let me know she'll be my guide tonight
On this street with its missing buildings,
Missing faces and few lingering ghosts.

Charles Simic: New Poems

Những hồn ma dai dẳng.

Cho tớ 1 đêm đen dài và đếch làm sao ngủ được
Và tớ sẽ về thăm mọi chỗ tớ đã từng sống
Bắt đầu bằng ngôi nhà tớ sinh ra
Tớ sẽ ngồi trong căn phòng lù mù của ông bà già
Cố nghe cho được tiếng tích tắc của cái đồng hồ ngày nào của họ

Tớ sẽ đảo qua đảo lại khu lối xóm
Săn tìm lũ bạn cũ
Đi vô những sân sau tạp nhạp
Cây, như những thương binh què quặt
Đi ngang một gốc cây
Nơi Bà tớ thường dẫn đàn gà,
Không đầu đi dạo

Một con mèo đen từ trong những bóng đêm vọt ra
Cọ cọ vào chân tớ
Như muốn nói, ta sẽ là kẻ dẫn đường cho mi
Về thăm lại quê hương cũ đêm nay

Trên con phố với những tòa nhà thèm nhớ,
Những khuôn mặt thèm nhớ
Và những hồn ma dai dẳng.
 

To Fate

You were always more real to me than God.
Setting up the props for a tragedy,
Hammering the nails in
With only a few close friends invited to watch.

Just to be neighborly, you made a pretty girl lame,
Ran over a child with a motorcycle.
I can think of many other examples
Ditto: How the two of us keep meeting

A fortunetelling gumball machine in Chinatown
May have the answer,
An old creaky door opening in a horror film,
A pack of cards I left on a beach.

I can feel you snuggle close to me at night,
With your hot breath, your cold hands-
And me already like an old piano
Dangling out of a window at the end of a rope.

Gửi Số Phần

Với tớ, mi thực hơn, so với Ông Giời
Trong cái trò tạo dựng ra sân khấu chơi 1 bi kịch
Nhất là cú đóng đinh
Với chỉ vài đấng bạn, cực thân, cực quí được mời coi.

Chỉ là tình lối xóm, mi làm cho một thiếu nữ xinh đẹp, què
Chạy xe máy và cán lên 1 đứa trẻ.
Tớ có thể nghĩ đến nhiều thí dụ khác nữa
Như trên: Làm thế nào hai đứa chúng ta tiếp tục gặp.

Cái máy gumball kể chuyện may rủi ở Chinatown
Có lẽ có câu trả lời
Cái cửa cũ ọp ẹp mở vô 1 một kinh dị
Cỗ bài tớ bỏ trên bãi biển.

Tớ có thể cảm thấy, mi mò lại gần tớ, vào ban đêm
Với hơi thở nóng bỏng, bàn tay lạnh ngắt –
Và tớ thì như cây dương cầm cũ
Lủng lẳng bên ngoài cửa sổ, cuối một sợi dây.

Charles Simic


Cuộc tàn sát những kẻ vô tội

Những nhà thơ Hậu Đường
Đâu có làm gì được, ngoài cái việc đi 1 đường Facebook, sau đây:
"Ở những ngọn đồi phía Tây, mặt trời lặn…
Những con ngựa bị gió thổi, dẫm lên những đám mây."

Tớ cũng đếch làm gì được ở đây.
Nhưng quái làm sao, tớ thấy vui
Ngay cả trên đầu tớ,
Một chú quạ bay vòng vòng.
Trong lúc tớ thả mình xuống lớp cỏ,
Một mình với cái im lặng của bầu trời

Chỉ có gió, là rì rào nhè nhẹ
Lật những trang của cuốn sách ở bên tớ
Lật tới lật lui, như kiếm cái con khỉ gì
Cho con quạ máu me đọc.

The Massacre of the Innocents

The poets of the Late Tang Dynasty
Could do nothing about it except to write:
"On the western hills the sun sets ...
Horses blown by the whirlwind tread the clouds."

I could not help myself either. I felt joy
Even at the sight of a crow circling over me
As I stretched out on the grass
Alone now with the silence of the sky.

Only the wind making a slight rustle
As it turned the pages of the book by my side,
Back and forth, searching for something
For that bloody crow to read.

Charles Simic: A Wedding in Hell

THE REVOLUTION HAS ENDED

REMEMBERING JULIAN KORNHAUSER'S
MOURNFUL REVOLUTIONARIES 

The revolution has ended. In the parks pedestrians
marched slowly, dogs traced perfect circles,
as if guided by an unseen hand.
The weather was lovely, rain like diamonds,
women in summer dresses, children as always
slightly peeved, peaches on tabletops.
An old man sat in a cafe and cried.
Sports car motors roared,
newspapers shrieked, and essentially,
it should be said,
life revealed ascendant tendencies
-to employ a neutral definition,
thus wounding neither victors nor the vanquished,
or those who still didn't know
which side they were on,
that is, in effect, all of us
who write or read these words. 

Adam Zagajewski 

Cách Mạng Chấm Dứt

Tưởng nhớ những nhà cách mạng sầu thảm
của JULIAN KORNHAUSER 

Cách mạng chấm dứt. Ở công viên, bộ hành,
bước chầm chậm, những con chó vẽ những vòng tròn tuyệt hảo
như được dẫn dắt bởi một bàn tay không nhìn thấy
Thời tiết thật đáng yêu
Mưa rơi như kim cương
Phụ nữ trong áo hè, con nít càu nhàu tí tí,
chúng luôn thế, những trái đào trên mặt bàn.
Một ông già ngồi trong quán cà phê, và la khóc.
Xe hơi thể thao, xe gắn máy gầm rú
Nhật báo la bai bải, chủ yếu muốn nói,
đời bi giờ là vinh quang, đỉnh cao
– dùng những từ chung chung, để khỏi làm đau lòng
kẻ thắng cũng như người bại,
hay họ ở bên nào Cách Mạng hay là Ngụy,
Họ, có nghĩa là, tất cả chúng ta
Những người viết, hay đọc những dòng này. 

SELF-PORTRAIT IN BED

For imaginary visitors, I had a chair
Made of cane I found in the trash.
There was a hole where its seat was
And its legs were wobbly
But it still gave a dignified appearance.

I myself never sat in it, though
With the help of a pillow one could do that
Carefully, with knees drawn together
The way she did once,
Leaning back to laugh at her discomfort.

The lamp on the night table
Did what it could to bestow
An air of mystery to the room.
There was a mirror, too, that made
Everything waver as in a fishbowl

If I happened to look that way,
Red-nosed, about to sneeze,
With a thick wool cap pulled over my ears,
Reading some Russian in bed,
Worrying about my soul, I'm sure.

Charles Simic

[From My Noiseless Entourage, 2005]

Chân Dung Tự Họa ở trên Giường

Với mấy đấng bạn quí, tưởng tượng
Gấu có 1 cái ghế
Làm bằng ba cái lon
Lấy từ thùng rác
Có 1 cái lỗ, đúng ngay chỗ để bàn tọa
Mấy cái chân ghế lung lay như răng bà lão
Tuy nhiên, nhìn cái ghế, vưỡn thấy có tí gì phẩm giá của riêng nó

Gấu, chính Gấu, chẳng hề dám ngồi lên
Nhưng, với 1 cái gối, thì chuyện ngồi có thể
Với 1 tí cẩn trọng, tất nhiên
Hai đầu gối phải níu lấy nhau
Đúng là cách mà H/A đã từng, một lần
Em ngả đầu ra phía sau, cười
Che giấu sự mất thoải mái của mình

Cây đèn bàn ngủ
Làm cái điều phải làm
Nghĩa là
Ban cho căn phòng vẻ bí ẩn.
Một cái gương nữa chứ
Nó làm cho cảnh vật lung linh
Như trong 1 chậu cá cảnh

Nếu nhìn theo viễn ảnh như thế đó
Mũi đỏ lòm, thèm xụt xịt vài cú
Với cái mũ len chùm kín cả tai
Gấu nằm trên giường
Đọc Dos,
Lơ tơ mơ về linh hồn của mình
Hẳn thế.

 

Past-Lives Therapy

They showed me a dashing officer on horseback
Riding past a burning farmhouse
And a barefoot woman in a torn nightgown
Throwing rocks at him and calling him Lucifer, 

Explained to me the cause of bloody bandages
I kept seeing in a recurring dream,
Cured the backache I acquired bowing to my old master,
Made me stop putting thumbtacks round my bed. 

When I was a straw-headed boy in patched overalls,
Chickens would freely roost in my hair.
Some laid eggs as I played my ukulele
And my mother and father crossed themselves. 

Next, I saw myself in an abandoned gas station
Trying to convert a coffin into a spaceship,
Hoarding dead watches in a house in San Francisco,
Spraying obscenities on a highway overpass.

Some days, however, they opened door after door,
Always to a different room, and could not find me.
There'd be a small squeak now and then in the dark,
As if a miner's canary just got caught in a mousetrap.

Chữa bịnh kiếp trước, kiếp trước nữa

Kiếp trước ta có nợ nần chi mi đâu
Mà sao kiếp này mi đòi kiếp khác?
Ta đã nói mi đừng gặp ta nhiều
Khi ta đi rồi
Mi sẽ khổ
NQT: Chiều ngu ngơ phố thị

Họ chỉ cho tớ 1 tên sĩ quan phóng ngựa như bay
Qua 1 căn nhà trại đang cháy
Một người đàn bà chân trần, mặc áo ngủ rách tả tơi
Ném đá vào tên sĩ quan, gọi hắn là Quỉ Sứ

Giải thích những tấm băng dính máu
Trong giấc mơ trở đi trở lại hoài
Chữa chứng đau lưng, do lạy vị thầy cũ hơi bị nhiều
Làm cho tớ hết còn bị chơi cái trò rải đinh bấm quanh giường.

Khi còn là 1 đứa bé đầu tóc như mớ rơm
Lũ gà cứ tìm đầu tớ để ngủ
Có con còn đẻ trứng khi tớ chơi đàn bốn dây
Trong khi ông bô bà bô xẹo qua xẹo lại

Kế đó, tớ thấy mình ở 1 cái trạm xăng bỏ hoang
Cố biến cái hòm thành cái phi thuyền
Tích trữ đồng hồ chết trong 1 căn nhà ở San Francisco
Xịt ba từ tục tĩu lên cầu xa lộ

Tuy nhiên, vài ngày đẹp trời, họ mở hết cửa này tới cửa kia
Luôn trổ ra 1 căn phòng khác, và đếch kiếm thấy tớ
Luôn có tiếng cọt kẹt lúc này hoặc lúc khác trong bóng tối
Như thể 1 con chim hoạ mi của 1 tay thợ mỏ bị mắc cái bẫy chuột

History

On a gray evening
Of a gray century,
I ate an apple
While no one was looking.

A small, sour apple
The color of wood fire
Which I first wiped
On my sleeve.

Then I stretched my legs
As far as they'd go,
Said to myself
Why not close my eyes now

Before the late
World News and Weather.

Charles Simic

Lịch sử

Vào một buổi chiều xám
Thế kỷ xám
Gấu xực 1 trái táo
Khi không ai nhìn

Một trái táo nhỏ
Chua ơi là chua
Màu lửa củi
Gấu lấy tay áo lau miệng
Rồi, ruỗi cẳng ra
Mặc sức chúng ruỗi
Rồi Gấu nói với Gấu
Tại sao mi không nhắm mắt lúc này

Trước bản tin trễ
Tin thế giới và thời tiết


Thu 2014

L'adieu

Apollinaire (1880-1918)

J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends

The Farewell

I picked this fragile sprig of heather
Autumn has died long since remember
Never again shall we see one another
Odor of time sprig of heather
Remember I await our time together
Translated from the French by Roger Shattuck

[Time of Grief]
Rilke

Robert Hass

SEPTEMBER 19

Rainer Maria Rilke: Herbsttag

Rainer Maria Rilke is one of the great poets of the twentieth century. He's also one of the most popular. He's been translated again and again, as if some ideal English version of his German poems haunted so many minds that writers have had to keep trying to find it. Here, for the time of year, are some translations of a poem about the fall. He wrote it in Paris on September 21, 1902.

Autumn Day

Rilke là 1 trong những nhà thơ lớn của thế kỷ 20. Ông cũng là 1 nhà thơ phổ thông. Ông được dịch đi dịch lại, như thể, những bài thơ tiếng Đức của ông ám ảnh rất nhiều cái đầu, và những nhà văn phải cố tìm cho thấy nó. Đây là bài thơ cho mùa thu năm nay, với cả 1 lố bản dịch.




*

*

Đọc Hè: Tiểu sử một thi sĩ

Thứ triết này khiến tôi tủi hổ
Trông mong của anh ta hơi bị cao
Hai lần anh tính chịu thua
Không! Hai lần, tính chết
Ba tháng đằng đẵng, ba tháng suy sụp của anh
Nỗi đau dài dài của tôi theo anh
Từ Beijing tới Chongqing

Ba tháng, anh chàng mồ côi lang thang
Âm ỉ, kín đáo muốn trở thành một nhà thơ lớn
Tuổi thơ của anh ta chấm dứt
Anh ta đã mười sáu tuổi
Anh ta luôn luôn nói
Hoặc là tôi làm thịt chính tôi
Hay sống cho những người khác
Thứ triết này khiến tôi tủi hổ, nhục nhã

Anh ta biện về anh nhanh, cực nhanh
Tôi không làm sao theo kịp
Những ngày hè ngắn ngủi mở tới trang tám-chín
Nhìn kià, vấng trán cô đơn của anh bốc lửa
Bốc lửa ý nghĩa, bốc lửa tham vọng
Và nó cứ thế tiếp tục
Thứ triết này làm tôi tởm

Nhìn nữa này, cơ thể của anh ta
Thật vãi lệ, thật xấu xa
Góc miệng của anh ta quá bèn bẹt
Chỉ cặp mắt ranh mãnh, láu cá chó
Chứng thực sức mạnh của anh ta
Nhưng sức mạnh thì có khác gì bất hạnh, cái rủi, vận xấu
Thứ triết này khiến tôi tủi hổ.

Tuy nhiên, vưỡn có vài chi tiết nội, khiến chán chường
Hai, ba chi tiết đếch ai cần
Hai, ba chi tiết khi mộng du
Hai, ba chi tiết với ngón cái trỏ lên
Chi tiết lần tự tử là từ 1 câu văn
Một chi tiết thời mười tám
Thứ triết này khiến tôi nhục nhã.

Mùa Đông 1989

Ui chao đọc bài thơ thì lại nhớ tới thứ văn chương tục tĩu của đám phản kháng, ly khai, ở trong nước. Cả ở hải ngoại cũng có thứ này, nhưng do lý do khác.
Cực tởm. Hơi 1 tí, là chúng văng của quí ra.


 

Nothing Else

Friends of the small hours of the night:
Stub of a pencil, small notebook,
Reading lamp on the table,
Making me welcome in your circle of light.

I care little the house is dark and cold
With you sharing my absorption
In this book in which now and then a sentence
Is worth repeating in a whisper.

Without you, there'd be only my pale face
Reflected in the black windowpane,
And the bare trees and deep snow
Wailing for me out there in the dark.

H/A thôi, đủ rồi

Bạn của những giờ nhỏ trong đêm:
Mẩu viết chì, cuốn sổ nhỏ
Đèn bàn
Chúng chào anh khi nhập vô vòng ánh sáng quanh em

Anh không để ý gì nhiều về căn nhà thì tối và lạnh
Với em cùng nhập vô cuốn sách
Lúc này, hay lúc nọ, một câu văn
Thì thật đáng lập lại trong lời thầm

Không có em, sẽ chỉ có bộ mặt lợt lạt của anh
Phản chiếu trong khung cửa tối
Và cây trần, tuyết sâu
Đợi anh ở bên ngoài, trong bóng đêm.


 Thơ Mỗi Ngày

*

Hàng mới về!



TRẦN HỮU HOÀNG

TÌM BÓNG

Một đời đi tìm bóng
Một đời đi tìm nhau
Đôi ta như ngọn sóng
Tìm nhau rồi mất nhau

Tôi tìm tôi mất dấu
Trong ngấn lệ của em
Đêm lung linh thạch thảo
Đàn thu lạnh bên thềm

Em trao tôi giọng hát
Tim rộn bước ngày về
Ôi ngày về cháy khát
Trong tiếng nhạc hồn quê

Một đời đi tìm bóng
Một đời đi tìm nhau
Sóng vỗ về trông ngóng
Bạc đầu mà nhớ nhau

6/2005 

Tán nhảm.

1. Bài thơ này làm Gấu nhớ tới một bài thơ của... Gấu. "Sóng vỗ về trông ngóng" làm nhớ khổ thơ:

Đêm mở ra giấc mộng cũ
Chỉ có tôi, tôi, và tôi
Cô bạn thân ơi, nẻo về tuyệt lối
Hồn tôi điên cuồng réo gọi.

Thơ NQT 

"Vỗ về trông ngóng" mềm hơn nhiều, so với "điên cuồng réo gọi!.

2.

Bạc đầu mà nhớ nhau

Chữ “mà” này thật lạ. Và cũng thật đắt.

Thử... gia giảm.

Bạc đầu còn nhớ nhau
Bạc đầu vì nhớ nhau...

Nhưng, nhảm nhất là tứ này:

Bạc đầu vì chán nhau!

Gấu

[To THH: Sorry. NQT]

THE IMMORTAL

You're shivering, O my memory.
You went out early and without a coat
To visit your old schoolmasters,
The cruel schoolmasters and their pet monkeys.
You took a wrong turn somewhere.
You met an army of gray days,
A ghost army of years on the march.
It was the bread they fed you,
The kind it takes a lifetime to chew.

You found yourself again on that street
Inside that small, rented room
With its single dusty window.
Outside it was snowing quietly,
Snowing and snowing for days on end.
You were ill and in bed.
Everyone else had gone to work.
The blind old woman next door,
Whose sighs and heavy steps you'd welcome now,
Had died mysteriously in the summer.

You had your own heartbeat to attend to.
You were perfectly alone and anonymous.
It would have taken months for anyone
To begin to miss you. The chill
Made you pull the covers up to your chin.

You remembered the lost arctic voyagers,
The evening snow erasing their footprints.
You had no money and no job.
Both of your lungs were hurting; still,
You had no intention of lifting a finger
To help yourself. You were immortal!

Outside, the same dark snowflake
Seemed to be falling over and over again.
You studied the cracked walls,
The maplike water stain on the ceiling,
Trying to fix in your mind its cities and rivers.

Time had stopped at dusk.
You were shivering at the thought
Of such great happiness.

Charles Simic

Kẻ bất tử

Mi rùng mình ư, ôi hồi ức khốn khổ của ta ơi
Mi đi ra ngoài khi trời còn tối thui và
Cũng chẳng thèm mặc thêm cái áo khoác
Thăm mấy ông thầy độc ác của mi,
Với những con khỉ cưng của họ
Mi quẹo lộn đường ở một khúc nào đó.
Mi gặp một đạo quân của những ngày xám xịt
Một đội quân ma của những năm, đang diễn hành.
Chúng ban cho mi khúc bánh mì
Thứ bánh mi bỏ cả đời để gặm.

Mi lại thấy mi ở con phố đó
Bên trong 1 căn phòng thuê, nhỏ.
Với trần cái cửa sổ, một cánh, bụi bặm
Bên ngoài tuyết rơi lặng lẽ
Rơi, rơi theo những ngày dài lê thê cho đến vãn tuồng.
Mi bịnh, nằm trên giường.
Mọi người phải đi làm.
Bà già mù phòng kế bên
Vào lúc này, mi mừng rơn,
Khi nghe bước chân nặng nề, và tiếng thở dài của bà,

Đã mất một cách bí ẩn mùa hè

Mi có tiếng đập tim của chính mi, để chăm sóc
Mi hoàn toàn minh ên, và vô danh tiểu tốt
Phải mất hàng tháng may ra mới có người cảm thấy nhớ mi.
Cơn lạnh làm mi kéo mền lên tới tận cằm

Mi có nhớ những nhà du ngoạn Bắc Cực
Tuyết buổi chiều xóa sạch những vết chân của họ
Mi chẳng có hồi ức, đếch có việc làm
Cả hai lá phổi của mi thì đều thủng, giờ này tất nhiên, vưỡn còn.
Mi chẳng hề có ý định nhắc ngón tay, để tự cứu
Mi thì bất tử!

Bên ngoài vẫn tuyết đó,
Những cánh tuyết xám
Lại rơi rơi
Mi nghiền ngẫm những bức tường nứt
Vệt nước trên trần nhà
Như cái bản đồ
Mi cố vẽ ra những sông, núi và những thành phố của nó
Ở trong cái đầu của mi.

Thời gian ngưng vào lúc xẩm tối
Mi rùng mình khi nghĩ đến,
Ôi chao, một thứ hạnh phúc như thế đó.

Robespierre

Who wouldn’t like to have the power to kill
Friends and enemies at will and fill
The jails with people you don’t know or know
Only slightly from meeting them a year ago,
Maybe at an AA meeting, where they don’t even use last names.
Hi, I’m Fred. Instead of being someone who constantly blames
And complains, why not annihilate?
Why not hate? Why not exterminate? Why not violate
Their rights and their bodies? Tell
The truth. Who wouldn’t like to? There’s a wishing well in hell
Where every wish is granted.
Decapitation gets decanted.
Suppose you have the chance
To guillotine the executioner after having guillotined everyone else in France?

Robespierre

Ai mà chẳng thèm - nhất là anh cu Gấu – làm thịt thỏa thích, vô tư
Bạn quí & kẻ thù [cũng 1 thứ, hà, hà!]
Và nhét chật nhà tù, những kẻ không quen biết, hay chỉ mới nhìn thoáng qua, cỡ 1 năm trước,
Có thể lần ở AA, nơi không ai dùng đến, ngay cả tên của mình
Hi, tớ là Khánh [đúng ra, phải là Lý Khanh, thí dụ]
Thay vì càu nhàu, lầu bầu, dọn mới chả dọn, thì huỷ diệt, biến bạn quí thành mây thành khói, cũng theo hư không mà đi!
Tại sao không thù hận? Tại sao không huỷ diệt, làm cỏ? Tại sao không vi phạm quyền hạn và thân thể của họ?
Hãy nói sự thực. Ai không muốn điều này? Có cái 1 cái giếng ước muốn, ở địa ngục
Thề, thay vì phanh thây, uống máu, thì là, chặt đầu!
Giả như bạn có cơ hội
Chặt đầu kẻ chặt đầu sau khi chặt đầu mọi người ở xứ Tẩy?


Nina Cassian, a Romanian-born poet exiled in New York, died on April 14th, aged 89

With rational syllables
I try to clear up the occult mind
and promiscuous violence.
My linguistic protest has no power
The enemy is illiterate. 

No poets leave their language or country of their own free will, she said. She missed her native tongue’s licentiousness: 

...the clitoris in my throat
vibrating, sensitive, pulsating,
exploding in the orgasm of Romanian. 

Like her great émigré counterparts, the Russian Joseph Brodsky and the Pole Czeslaw Milosz, she eventually began to write in English, adding poignant notes of exile to her themes of honesty, humour and eroticism. Initially she felt trapped by the strangeness of American life, especially the materialism. But in 1998 she married again, to her great happiness. She always found the American literary scene a bit odd (she wrote sardonic lines about the plonkish practice of summarising poems before reading them in public). But she pitched in gladly, adding her voice to a campaign for politeness on the subway. 

I stood during the entire journey:
nobody offered me a seat
although I was at least a hundred years older than anyone else on board,
although the signs of least three serious afflictions were visible on me:
Pride, Loneliness, and Art. 

She felt unwelcome in post-revolutionary Romania: censorship ended after 1989, but censoriousness was rife. People said her life under communism had been too privileged, and she had run away to the West, escaping the regime’s worst, final years. She was unbothered: everyone makes mistakes, she said. You just had to be honest about them.



Thơ Mỗi Ngày

Paradise Motel

Millions were dead; everybody was innocent.
I stayed in my room. The President
Spoke of war as of a magic love potion.
My eyes were opened in astonishment.
In a mirror my face appeared to me
Like a twice-canceled postage stamp. 

I lived well, but life was awful.
there were so many soldiers that day,
So many refugees crowding the roads.
Naturally, they all vanished
With a touch of the hand.
History licked the corners of its bloody mouth. 

On the pay channel, a man and a woman
Were trading hungry kisses and tearing off
Each other's clothes while I looked on
With the sound off and the room dark
Except for the screen where the color
Had too much red in it, too much pink. 

Charles Simic 

Phòng Ngủ Thiên Đàng

Ba triệu Mít chết
Mọi Mít đều ngây thơ,
Đếch tên nào có tội
Gấu ngồi trong phòng
Ba Dzũng, Tông Tông Mít,
Giao liên VC, y tá dạo ngày nào
Lèm bèm về Cuộc Chiến Mít
Như về Thần Dược Sex
Gấu trợn mắt, kinh ngạc
Trong gương, Gấu nhìn Gấu
Chẳng khác gì một con tem bị phế thải tới hai lần

Gấu sống được, nhưng đời thì thật là khốn nạn
Ngày đó đó, đâu đâu cũng thấy lính
Ui chao Mít di tản đầy đường
Lẽ tất nhiên tất cả biến mất,
Chỉ nhìn thấy bóng dáng 1 tên VC
Lịch sử Mít liếm góc mép đầy máu của nó

Trên băng phải trả tiền,
Một người đàn ông và một người đàn bà
Trao đổi những cái hôn thèm khát
Xé nát quần áo của nhau
Gấu trố mắt nhìn
Âm thanh tắt và căn phòng tối
Trừ màn hình,
Đỏ như máu
Hồng như Đông Phương Hồng

Chế Lan Viên thường nhắc câu này của Tế Hanh, không ghi xuất xứ :

Sang bờ tư tưởng ta lìa ta,
Một tiếng gà lên tiễn nguyệt tà.

Câu thơ diễn tả tâm trạng người nghệ sĩ thời Pháp thuộc bước sang đời Cách mạng sau 1945, phải “lột xác” để sáng tác, lìa bỏ con người trí thức tiểu tư sản, mong hòa mình với hiện thực và quần chúng. Câu thơ có hai mặt : tự nó, nó có giá trị thi pháp, tân kỳ, hàm súc và gợi cảm. Là câu thơ hay. Nhưng trong ý đồ của tác giả, và người trích dẫn, thì là một câu thơ hỏng, vì nó chứng minh ngược lại dụng tâm khởi thủy. Rõ ràng là câu thơ trí thức tiểu tư sản suy thoái. Gậy ông đập lưng ông. Đây là một vấn đề văn học lý thú.

Đặng Tiến tưởng nhớ Tế Hanh

Tuyệt!

Thơ Mỗi Ngày

Underground Poems

Poems on the Underground The Wider World
 

Two Poems Written at
Maple Bridge
Near Su-Chou

Maple Bridge Night Mooring

Moon set, a crow caws,     
        frost fills the sky
River, maple, fishing-fires
        cross my troubled sleep.
Beyond the walls of Su-chou
        from Cold Mountain temple
The midnight bell sounds
        reach my boat.

           written c. AD 765

Chang Chi

Translated by Gary Snyder

At MapLe Bridge

Men are mixing gravel and cement
At Maple bridge,
Down an alley by a tea-stall
From Cold Mountain temple;
Where Chang Chi heard the bell.
The stone step moorage
Empty, lapping water,
And the bell sound has travelled
Far across the sea.
            written AD 1984


Gary Snyder

Phong Kiều Dạ Bạc

 

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Đỗ Thuyền Đêm Ở Bến Phong Kiều

Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San

Tản Đà dịch

Poems on the Underground Seasons 

Wet Evening in April

The birds sang in the wet trees
And as I listened to them it was a hundred years from now
And I was dead and someone else was listening to them.
But I was glad I had recorded for him
The melancholy.

Patrick Kavanagh       

Chiều Ướt, Tháng Tư

Chim hót trên cành ướt
Và Gấu nghe chim hót, vào lúc, cách lúc này, một trăm năm.
Tất nhiên, Gấu thì ngỏm rồi, và một ai đó đang nghe chim hót
May cho người này là Gấu có ghi lại giùm cho anh ta hay chị ả
Nỗi buồn

 

Winter Travels

who's typing on the void
too many stories
they're twelve stones
hitting the clockface
twelve swans
flying out of winter

tongues in the night
describe gleams of light
blind bells
cry out for someone absent
entering the room
you see that jester's
entered winter
leaving behind flame

Bei Dao

Translated by David Hinton with Yanbing Chen

Du ngoạn Mùa đông

người gõ lên quãng không
rất nhiều chuyện
chúng là mười hai hòn đá
gõ lên mặt đồng hồ
mười hai con thiên nga
bay ra khỏi mùa đông

những giọng nói trong đêm
mô tả những tia sáng
chuông mù
khóc ai đó vắng mặt

đi vô phòng
bạn sẽ thấy, của anh hề
đi vô mùa đông
để lại đằng sau ngọn lửa

Bắc Đảo


Rilke

THE FIRST ELEGY

Who, if I cried out, would hear me among the Angels?
Orders? and even if one of them pressed me
suddenly to his heart: I'd be consumed
in his more potent being. For beauty is nothing
but the beginning of terror, which we can still barely endure,
and while we stand in wonder it coolly disdains
to destroy us. Every Angel is terrifying.

Ai, nếu tôi kêu lớn, sẽ nghe, giữa những Thiên Thần?
Những Thiên Sứ? và ngay cả nếu một vị trong họ ôm chặt tôi vào tận tim:
Tôi sẽ bị đốt cháy trong hiện hữu dữ dằn của Người.
Bởi là vì, cái đẹp chẳng là gì, mà chỉ là khởi đầu của ghê rợn,
chúng ta vẫn có thể chịu đựng, và trong khi chúng ta đứng ngẩn ngơ,
thì nó bèn khinh khi hủy diệt chúng ta.
Mọi Thiên Thần thì đều đáng sợ.

Rilke

For me, the happy owner of the elegant slim book bought long ago, the Elegies represented just the beginning of a long road leading to a better acquaintance with Rilke's entire oeuvre. The fiery invocation that starts “The First Elegy” - once again: "Who, if I cried out, would hear me among the Angels' / Orders? And even if one of them pressed me / suddenly to his heart: 1'd be consumed / in his more potent being. For beauty is nothing / but the beginning of terror, which we can still barely endure" -had become for me a living proof that poetry hadn't lost its bewitching powers. At this early stage I didn't know Czeslaw Milosz's poetry; it was successfully banned by the Communist state from the schools, libraries, and bookstores-and from me. One of the first contemporary poets I read and tried to understand was Tadeusz Rozewicz, who then lived in the same city in which I grew up (Gliwice) and, at least hypothetically, might have witnessed the rapturous moment that followed my purchase of the Duino Elegies translated by Jastrun, might have seen a strangely immobile boy standing in the middle of a side- walk, in the very center of the city, in its main street, at the hour of the local promenade when the sun was going down and the gray industrial city became crimson for fifteen minutes or so. Rozewicz's poems were born out of the ashes of the other war, World War II, and were themselves like a city of ashes. Rozewicz avoided metaphors in his poetry, considering any surplus of imagination an insult to the memory of the last war victims, a threat to the moral veracity of his poems; they were supposed to be quasi-reports from the great catastrophe. His early poems, written before Adorno uttered his famous dictum that after Auschwitz poetry's competence was limited-literally, he said, "It is barbaric to write poetry after Auschwitz"-were already imbued with the spirit of limitation and caution.

Adam Zagajewski: Introduction

Với tôi người sở hữu hạnh phúc, cuốn sách thanh nhã, mỏng manh, mua từ lâu, “Bi Khúc” tượng trưng cho một khởi đầu của con đường dài đưa tới một quen biết tốt đẹp hơn, với toàn bộ tác phẩm của Rilke. “Bi Khúc thứ nhất” - một lần nữa ở đây: “Ai, nếu tôi la lớn - trở thành một chứng cớ hiển nhiên, sống động, thơ ca chẳng hề mất quyền uy khủng khiếp của nó. Vào lúc đó, tôi chưa biết thơ của Czeslaw Milosz, bị “VC Ba Lan”, thành công trong việc tuyệt cấm, ở trường học, nhà sách, thư viện, - và tất nhiên, tuyệt cấm với tôi. Một trong những nhà thơ cùng thời đầu tiên mà tôi đọc và cố hiểu, là Tadeusz Rozewicz, cùng sống trong thành phố mà tôi sinh trưởng, (Gliwice), và, có thể chứng kiến, thì cứ giả dụ như vậy, cái giây phút thần tiên liền theo sau, khi tôi mua được Duino Elegies, bản dịch của Jastrun - chứng kiến hình ảnh một đứa bé đứng chết sững trên hè đường, nơi con phố trung tâm thành phố, vào giờ cư dân của nó thường đi dạo chơi, khi mặt trời xuống thấp, và cái thành phố kỹ nghệ xám trở thành 1 bông hồng rực đỏ trong chừng 15 phút, cỡ đó – ui chao cũng chẳng khác gì giây phút thần tiên Gấu đọc cọp cuốn “Bếp Lửa”, khi nó được nhà xb đem ra bán xon trên lề đường Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn – Thơ của Rozewicz như sinh ra từ tro than của một cuộc chiến khác, Đệ Nhị Chiến, và chính chúng, những bài thơ, thì như là một thành phố của tro than. Rozewicz tránh sử dụng ẩn dụ trong thơ của mình, coi bất cứ thặng dư của tưởng tượng là 1 sỉ nhục hồi ức những nạn nhân của cuộc chiến sau chót, một đe dọa tính xác thực về mặt đạo đức của thơ ông: Chúng được coi như là những bản báo cáo, kéo, dứt, giựt ra từ cơn kinh hoàng, tai họa lớn. Những bài thơ đầu của ông, viết trước khi Adorno phang ra đòn chí tử, “thật là ghê tởm, man rợ khi còn làm thơ sau Lò Thiêu”, thì đã hàm ngụ trong chúng, câu của Adorno rồi.

*
Note: Có 1 sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng thật ly kỳ thú vị, không chỉ về cái cảnh Gấu chết sững trong nắng Sài Gòn, khi đọc cọp – khám phá ra - Bếp Lửa, khi cuốn sách được nhà xb Nguyễn Đình Vượng cho đem bán xon trên hè đường Phạm Ngũ Lão, nhưng còn ở điều này: Cuốn sách Bếp Lửa đã sống lại, từ tro than, bụi đường Xề Gòn.
Gấu đã viết như thế, về Bếp Lửa, từ năm 1972
Giả như nó không được đem bán xon, liệu có tái sinh?
Quá tí nữa, giả như không có cuộc phần thư 1975, liệu văn học Miền Nam vưỡn còn, và được cả nước nâng niu, trân trọng như bây giờ?

Thơ Mỗi Ngày

Octavio Paz

*

Mới tậu: Quà SN của Cô Út. Câu chúc, “chỉ làm thơ, đừng thèm để ý đến thằng chó nào nữa, lõ hay không lõ… ”, của…  K, SN năm ngoái, là ứng vào năm nay!

Tks again. NQT

Real isn’t real

The Poems of Octavio Paz

edited and translated by Eliot Weinberger

Michael Wood

In 1950 André Breton published a prose poem by Octavio Paz in a surrealist anthology. He thought one line in the work was rather weak and asked Paz to remove it. Paz agreed about the line but was a little puzzled by the possibility of such a judgment on Breton’s part. He said: ‘What about automatic writing?’ Breton, unperturbed, replied that the weak line was ‘a journalistic intromission’. Your true surrealist knows good automatisms from bad, high from low. We may think, as no doubt Paz did, that Breton was making an ordinary, and sound, critical call rather than a surrealist selection, but it’s interesting that he could make the call and still, however grandly or ironically, sustain the lingo. The lingo too has its virtues, and the question of who or what writes a poem, which agency creates which pieces, even if none of the players is exactly automatic, takes us a long way into Paz’s work, handsomely represented in this new collection, from whose notes I have taken the above story.

Note: Michael Wood điểm thơ Octavio Paz, do Eliot Weinberger dịch, trên TLS. Bài này thú, thứ hơn nữa, thơ trích dẫn, một số, được GCC trích dẫn, trên TV


BATYUSHKOV

Like a flaneur with a magic cane,
tender Batyushkov lives at my place-
wanders down Zamostie lanes,
sniffs a rose, sings Zafna's praise.

Not for a moment believing that we
could be separated, I bowed to him:
I shake his brightly gloved cold hand
in an envious delirium.

He smiled at me. "Thank you," I said,
so shy I could not find the words:
no one commands such curves of sound,
never was there such speech of waves.

With oblique words he made us feel
the wealth and torments that we share-
the buzz of verse-making, brotherhood's bell
and the harmonies of pouring tears.

And the mourner of Tasso answered me:
"I am not yet used to eulogy;
I only cooled my tongue by chance
on the grape-flesh of poetry."

All right, raise your eyebrows in surprise,
city dweller and city dweller's friend-
like blood samples, from glass to glass
keep pouring your eternal dreams.

June 18, 1932

-Osip Mandelstam

(Translated from the Russian by Peter France)

Translator's note: Konstantin Batyushkov (1787-1855) was a key figure in the emergence of modern Russian poetry; the harmony of his verse was much admired by Pushkin. In 1821 he succumbed to incurable mental illness.

NYRB, May 8 2014 

Bác Nguyễn

Như gã tản bộ với cây ba toong thần kỳ
Bác Nguyễn dễ mến sống ở chỗ Gấu - nhà Cậu Toàn, Phố Cổ -
Lang thang xuống Bờ Hồ, theo những Hàng Lụa, Hàng Buồm, Hàng Bạc
Ngửi ngửi m
ột bông hồng, đi một đường thổi, “Hà Nội ta đánh Mẽo giỏi”

Không một khoảnh khắc nghi ngờ, Mẽo sẽ cút Ngụy sẽ nhào,
Cũng chẳng thể hồ nghi, một tên chăn trâu học lớp Một sẽ ngồi lên đầu dân Mít
Hà, hà!
Gấu cúi đầu chào sư phụ của mình
Gấu bắt tay, là cái bao tay lạnh như Hà Lội lạnh
Run run như thần tử diện long nhan

Bác Nguyễn mỉm cười, Gấu đó ư, trẻ quá nhỉ!
[Thuổng MT khi gặp Thầy Kuốc lần đầu]
Gấu bẽn lẽn không làm sao kiếm ra lời
Ngoài Bác Nguyễn ra,
Ai có thể điều khiển được những lọn âm
Những đợn sóng lời

Bằng những từ nghiêng nghiêng
Như những giọt mưa chứa cơn gió nhẹ trong nó
Bác Nguyễn làm cho chúng ta cảm thấy
Sự giầu có và những khắc khoải mà chúng ta chia sẻ -
Thì thầm như thơ, bạn quí như oang vàng, khánh bạc
Vãi lệ hài hòa

Và người than khóc Tasso trả lời Gấu:
“Ta không quen với cái trò thổi ống đu đủ; cái gì gì, đâu phải đời Mít nào cũng có được?
Ta chỉ uốn nhẹ cái lưỡi cho đầm cái ngọt ngào mới mẻ của thơ"

OK. Hãy dựng cặp lông mi lên trong kinh ngạc
Cư dân Hà Lội và bạn của cư dân Hà Lội –
Như mẫu máu, từ ly này tới ly khác,
Hãy cứ vô tư tiếp tục rót những giấc mộng đời đời của mi
Gấu ơi là Gấu!

Tháng Sáu 18, 1932
Osip Mandelstam

Ghi chú của người dịch: Konstantin Batyushkov là nhà thơ chủ chốt của nền thi ca hiện đại Nga.
Pushkin rất mê tính hài hòa trong thơ của ông. Mất năm 1821, vì 1 chứng nan y.

Poems on the Underground
Thơ dán trên Xe Điện Ngầm London

Exile and Loss
Lưu vong và Mất mát

My Voice

I come from a distant land
with a foreign knapsack on my back
with a silenced song on my lips

As I travelled down the river of my life
I saw my voice
(like Jonah)
swallowed by a whale

And my very life lived in my voice

Kabul, December 1989
Partaw Naderi
Translated by Sarah Maguire and Yama Yari

Tiếng nói của tôi

Tôi tới từ một miền đất xa
Cõng trên lưng cái bị cói
Và trên lưỡi, một bài hát câm

Trong lúc lần mò theo con sông đời mình
Tôi thấy tiếng nói của tôi
(như Jonah)
Bị một con cá voi nuốt

Và cái đời rất đời của tôi
Sống ở trong tiếng nói của tôi 

The Exiles 

The many ships that left our country
with white wings for Canada.
They are like handkerchiefs in our memories
and the brine like tears
and in their masts sailors singing
like birds on branches.
That sea of May running in such blue,
a moon at night, a sun at daytime,
and the moon like a yellow fruit,
like a plate on a wall
to which they raise their hands
like a silver magnet
with piercing rays
streaming into the heart.

Iain Crichton Smith

Translated from the author's own Gaelic 

Lưu vong

Rất nhiều tầu rời xứ Mít
Cánh trắng
Nhắm tới Canada
Chúng giống như những chiếc khăn tay
Trong hồi nhớ của chúng tôi
Và biển mặn, như nước mắt
Trên cột buồm thuỷ thủ hát
Như chim trên cành
Biển Tháng Năm năm đó trải dài trong màu xanh
Trăng đêm, ngày mặt trời
Và mặt trăng như trái cam màu vàng
Như cái dĩa trên tường
Họ giơ tay về chiếc dĩa bạc
Như có nam châm
Với những đuờng ray
Chảy tới tận trong tim.


Rilke

*

*

Love in a mist
Yêu trong sương mù

Trên TV, độc giả đã từng 'chứng kiến' 'anh cu Gấu' chạy theo BHD nơi cổng trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn.
Chưa ghê bằng Apollinaire, tác giả câu thơ mà GNV thuổng, "Ouvrez-moi cette porte où je frappe en pleurant", còn là tác giả Mùa Thu Chết, và còn là tác giả của cái cú chạy theo em nữ quản gia, suốt con kênh nối liền Pháp và Anh, để năn nỉ.
Thua, và bèn làm bài thơ trên, nguyên tác tiếng Tây, GNV sẽ lục tìm, và dịch sau… (1)

[Hình, TLS Oct 1, 2010]



*

NYRB May 8 2014

*

Poems on the Underground

Thơ dán trên Xe Điện Ngầm London

Exile and Loss 

My Voice

I come from a distant land
with a foreign knapsack on my back
with a silenced song on my lips

As I travelled down the river of my life
I saw my voice
(like Jonah)
swallowed by a whale

And my very life lived in my voice

Kabul, December 1989  

Partaw Naderi

Translated by Sarah Maguire and Yama Yari

The Exiles

The many ships that left our country
with white wings for Canada.
They are like handkerchiefs in our memories
and the brine like tears
and in their masts sailors singing
like birds on branches.
That sea of May running in such blue,
a moon at night, a sun at daytime,
and the moon like a yellow fruit,
like a plate on a wall
to which they raise their hands
like a silver magnet
with piercing rays
streaming into the heart. 

Poems on the Underground Exile and Loss

Iain Crichton Smith

Translated from the author's own Gaelic

Spring has come again. The earth
is like a child who knows poems by heart;
many, so many! ... For the work
of such long learning, she wins the prize.

Her teacher was demanding. We'd grown fond
of the white in the old man's beard.
N ow when we ask her what the green and the blue are:
she can tell us, she knows it, she knows!

Earth, lucky earth, on holiday, play
with the children now. We want to catch you,
happy earth. And the luckiest will.
What her teacher taught her! So many things,
and what's imprinted in the roots and on the long
difficult stems: she sings it, she sings!

Rilke


*

EXAMPLE

A gale
stripped all the leaves from the trees last night
except for one leaf
left
to sway solo on a naked branch.

With this example
Violence demonstrates
that yes of course-
it likes its little joke from time to time.

Wislawa Symborska: Here

Thí dụ

Một trận gió lạnh
Vặt trụ lá cây, tối hôm qua
Trừ 1 cái
Trơ cu lơ trên cành cây trần trụi 

Với thí dụ này
Lịch sử Mít những ngày 1945
Bèn chứng tỏ rằng thì là,
Thì tất nhiên, đúng như thế rồi
Lâu lâu, thi thoảng, ta cũng khoái chuyện tiếu lâm của ta! 

Ui chao, VC quả đã làm thịt ông bố, nhưng chừa ông con
Để sau này làm nhạc chào mừng ngày 30 Tháng Tư 1975:

Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng!

Bạn có thể áp dụng bài thơ trên, cho rất nhiều trường hợp,
Với những kẻ lịch sử tha chết để sau đó, làm 1 công việc, như trên! 

Nào họ Trịnh hầu đờn Hồ Tôn Hiến
Nào người tri kỷ của ông hầu đờn Bắc Bộ Phủ. 

Brodsky phán,

Virtue, after all, is far from being synonymous with survival;
duplicity is.

J. Brodsky: "Collector's Item"

(Sống sót, nói cho cùng, là do nhập nhằng, không phải bởi đạo hạnh).

Đành phải cám ơn VC 1 phát!


Happy Mother's Day

*

*


*

I Am Becoming
My Mother  

Yellow/brown woman
fingers smelling always of onions

My mother raises rare blooms
and waters them with tea
her birth waters sang like rivers
my mother is now me

My mother had a linen dress
the colour of the sky
and stored lace and damask
tablecloths
to pull shame out of her eye.

I am becoming my mother
brown/yellow woman
fingers smelling always of onions.

Lorna Goodison

Happy Mom’s Day, from Jenny

Tôi đang trở thành má tôi

Người đàn bà /vàng/nâu
Mấy ngón tay lúc nào cũng có mùi hành

Má tôi trồng bông lạ
Tưới chúng bằng nước trà
Ngày sinh của bà nuớc reo như sông
Má tôi bây giờ là tôi

Má tôi có chiếc áo dài bằng lanh
Màu trời
Bà trữ dây vải, lụa
tạp dề
Để lấy nỗi tủi hổ khỏi mắt

Tôi trở thành má tôi
người đàn bà/vàng/nâu
Ngón tay sặc mùi hành



&*

Bà cụ GCC @ Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp, lần đưa xác thằng em trai từ Sóc Trăng về mai táng; @ 29/8D NBK Sài Gòn 

Em tôi nằm xuống với một viên đạn ở trong đầu. Mấy người lính kể lại, chuẩn uý không kịp đau đớn. Lời trối trăng nghe như gió thoảng lại: "Chắc tao chết mất..." Trung đội vi hành tuần tra vòng đai phi trường Sóc Trăng. Khi nghe tiếng súng, theo phản xạ, em tôi chúi đầu về phía trước. Chiếc nón sắt quên không buộc rớt xuống và một viên đạn trong tràng AK từ bên sông bắn hú họa xuống mặt sông, dội lên, xớt qua vai rồi hết đà nằm luôn trong ót. Viên bác sĩ quân y nói với tôi, ông đã không lấy viên đạn ra vì sợ làm nát khuôn mặt. "Chuẩn ý Sĩ không kịp ghi địa chỉ cấp báo. Chúng tôi phải nhờ Bưu Điện liên lạc với Sài-gòn. Ngoài mấy bức hình chụp lúc tẩm niệm, chuẩn uý không để lại gì cả. Quần áo, đồ dùng cá nhân, poncho... đều đi theo với chuẩn uý."

Có, có , chuẩn uý Sĩ có để lại một bà mẹ đau khổ như bất cứ một bà mẹ nào có con trai tử trận, một người anh trai để mang xác em về nghĩa trang quân đội Gò Vấp mai táng, một đứa cháu còn nằm trong viện bảo sanh, người chú vô thăm lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, như để tìm dấu vết thân thương, ruột thịt, trước đi vĩnh viễn bỏ đi...

Em tôi còn để lại một thành phố Sài-gòn trong đó có tuổi trẻ của tôi, của em tôi, thấp thoáng đâu đó nơi đầu đường, cuối chợ Vườn Chuối, ngày nào ba mẹ con dắt díu nhau rời con tầu khổng lồ Marine Serpent, miệng còn dư vị hột vịt lộn, người dân Sài-gòn trên những ghe nhỏ bám quanh con tầu, chuyền lên boong, trong những chiếc giỏ lủng lẳng ở đầu những cây sào dài. Hai anh em mồ côi cha vừa mới mất Hà-nội, ngơ ngác nhìn thành phố qua những đống rác khổng lồ nơi đại lộ Hàm Nghi, qua ánh điện chói chang, sáng lòa trên mặt sông, trên những con tầu đậu nối đuôi nhau suốt hai bên bờ vùng Khánh Hội, và đổ dài trên những con lộ thẳng băng. Qua những lần đổi vai đòn gánh của bà mẹ, từ cháo gà, miến gà, tới cháo lòng, bún riêu, bánh cuốn... Qua ánh mắt thất vọng của Người. Bốn anh chị em, bây giờ chỉ còn hai đứa, vậy mà cũng không nuôi nổi. Cuối cùng cả ba mẹ con đành lạc lối giữa những con hẻm chi chít, chằng chịt vùng Bàn Cờ. Tôi đi làm bồi bàn cho tiệm chả cá Thăng Long, làm trợ giáo, cố gắng tiếp tục học. Em tôi điếu đóm, hầu hạ một ông cử già, bà con với anh Hoạt, chồng người chị họ. Anh Nguyễn Hoạt, tức Hiếu Chân, bị bắt chung với Doãn Quốc Sĩ, sau mất ở trong khám Chí Hòa, chính quyền CS bắt phải hủy xác thành tro, trước khi mang ra khỏi nhà tù.

Một Sài-gòn trong có quán cà phê Thái Chi ở đầu đường Nguyễn Phi Khanh, góc Đa Kao. Bà chủ quán khó tính, chỉ bằng lòng với một dúm khách quen ngồi dai dẳng như muốn dính vào tuờng, với dăm ba tờ báo Paris Match, với mớ bàn ghế lùn tịt. Trên tường treo một chiếc dĩa tráng men, in hình một cậu bé mếu máo, tay ôm cặp, với hàng chữ Pháp ở bên dưới: "Đi học hả? Hôm qua đi rồi mà!"

Đó là nơi em tôi thường ngồi lỳ, trong khi chờ đợi Tình Yêu và Cái Chết. Cuối cùng Thần Chết lẹ tay hơn, không để cho nạn nhân có đủ thì giờ đọc nốt mấy trang Lục Mạch Thần Kiếm, tiểu thuyết chưởng đăng hàng kỳ trên nhật báo Sài-gòn, để biết kết cục bi thảm của mối tình Kiều Phong-A Tỷ, như một an ủi mang theo, thay cho những mối tình tưởng tượng với một cô Mai, cô Kim nào đó, như một nhắn nhủ với bạn bè còn sống: "Đừng yêu sớm quá, nếu nuốn chết trẻ." Chỉ có bà chủ quán là không quên cậu khách quen. Ngày giỗ đầu của em tôi, bà cho người gửi tới, vàng hương, những lời chia buồn, và bộ bình trà "ngày xưa cậu Sĩ vẫn thường dùng."

I Am Becoming
My Mother  

Yellow/brown woman
fingers smelling always of onions

My mother raises rare blooms
and waters them with tea
her birth waters sang like rivers
my mother is now me

My mother had a linen dress
the colour of the sky
and stored lace and damask
tablecloths
to pull shame out of her eye.

I am becoming my mother
brown/yellow woman
fingers smelling always of onions.

Lorna Goodison

Tôi đang trở thành má tôi

Người đàn bà /vàng/nâu
Mấy ngón tay lúc nào cũng có mùi hành

Má tôi trồng bông lạ
Tưới chúng bằng nước trà
Ngày sinh của bà nuớc reo như sông
Má tôi bây giờ là tôi

Má tôi có chiếc áo dài bằng lanh
Màu trời
Bà trữ dây vải, lụa
tạp dề
Để lấy nỗi tủi hổ khỏi mắt

Tôi trở thành má tôi
người đàn bà/vàng/nâu
Ngón tay sặc mùi hành

Handbag

My mother's old leather handbag,
crowded with letters she carried
all through the war. The smell
of my mother's handbag: mints
and lipstick and Coty powder.
The look of those letters, softened
and worn at the edges, opened,
read, and refolded so often.
Letters from my father. Odour
of leather and powder, which ever
since then has meant womanliness,
and love, and anguish, and war.

Poems on the Underground Families

Ruth Fainlight

Túi xách tay

Cũ, bằng da, của má tôi
Chất chứa trong đó là
Những lá thư bà mang theo cùng với bà
Suốt cuộc chiến
Mùi bạc hà, mùi dầu cù là, mùi mồ hôi
Những lá thư, góc quăn, mở gấp nhiều lần,
Chữ bạc dần
Thư của ba tôi
Túi da, kể từ đó, nặng mùi nhất,
Là mùi đàn bà, tình yêu, thống khổ và sợ hãi.

Thơ Mỗi Ngày

CAFÉ DE L’IMPRIMERIE

I wait for you inside a glass beside
The long dim window of the Cafe de l'Imprimerie.
I see you, beautiful and wry 

And not yet here, and yet not here,
While this late-summer evening never ends
And never ends but is infinitesimally 

Dimming on the street beside Les Halles, where I
Can see you, beautiful and wry as you draw near,
And I am reassured you are not coming. Yes. 

All night I wait for you at the Cafe de l'Imprimerie.
Your absence makes you beautiful and wry
And this late-summer evening never ends, 

Nor does the beautiful intolerable
Music, where the truth is cut
With sentiment and surely fatal. 

Come now. Do not come. Come now. Do not,
And lead me to a room where you undress,
A bare white room at an untraceable address

Where we will stay forever. Come now. Do not. Yes. 

-Sean O'Brien

The New Yorker, May 12, 2014

 

Cà Phê Factory

Gấu đợi Em ở bên trong lớp kính
Bên cạnh ô cửa tối mờ mờ ở Cà Phê Factory
Gấu thấy Em, đẹp và nhăn  nhó

Nhưng chưa, chưa phải ở đây, chưa phải ở đây
Khi buổi chiều hè muộn chẳng hề chấm dứt
Chẳng hề chấm dứt, nhưng cứ li ti mãi ra

Đường phố  bên ngoài Little Sài Gòn mờ mờ tối
Nơi Gấu có thể nhìn thấy Em, đẹp ơi là đẹp, đẹp và nhăn nhó, đẹp tới đâu nhăn nhó tới đó -
chắc giống Tây Thi mỗi lần đau, nhăn mặt, là mỗi lần cực đẹp –
và Em tới gần
Và Gấu chắc chắn Em đếch có tới. Đúng như thế.

Suốt đêm Gấu đợi Em ở Cà Phê Factory, ở Little Sài Gòn
Cái sự vắng mặt của Em thì đẹp và nhăn nhó, tuyệt vời làm sao
Và buổi chiều hè muộn chẳng khi nào chấm dứt.

Cũng thế, là cái thứ âm nhạc thần sầu không làm sao chịu nổi
Khi sự thực bị chém 1 cú
Bằng tình cảm và bi thương, như số phần nghiệt ngã.

Em cứ hẹn, nhưng Em đừng tới nhé
Tới lúc này. Đừng. Đừng.
Và dẫn Gấu tới căn phòng, nơi Em xỏa quần áo,
Một căn phòng trần trụi, địa chỉ đếch làm sao truy ra được

Nơi chúng ta sẽ ở đó suốt đời. Mai mãi.
Em cứ hẹn, nhưng Em đừng tới nhé!


The Poetic Torture-House of Language

How poetry relates to ethnic cleansing

by Slavoj Žižek


The Poetic Torture-House of Language

Căn nhà tra tấn thơ của ngôn ngữ

**

Cái dạng thức sơ đẳng nhất của tra tấn ngôn ngữ được gọi là thơ ca.
GCC đọc, nội câu trên, cộng thêm tên tác giả, là bèn xỉa 5 đồng ra, để mua tờ báo! Trên đường về đọc sơ sơ bài viết, “The Poetic-Torture-House of Language” là đã điếng hồn rồi, y như nghe tiếng gà gáy trưa của 1 nhà thơ Mít.
Zizeck trích 1 câu của Jeninek, Nobel văn chương, đọc 1 phát, thấy như được chích 1 phát, như ngày nào còn ghiền:
Ngôn ngữ nên được đè ra tra tấn, để nói sự thực.
Language should be tortured to tell the truth.

Quá cần cho xứ Mít.

Xứ của Thơ!

Merde!

What if, however, humans exceed animals in their capacity for violence precisely because they speak

Liệu con người hung bạo hơn loài vật, là do chúng... nói?
Không chỉ nói, mà khốn kiếp hơn, làm thơ?

Tiếng tăm của Plato xem chừng bị tổn thương vì câu phán của ông - thi sĩ nên tống ra khỏi thành phố: Thay vì vậy, nếu nhìn từ kinh nghiệm hậu chiến Nam Tư, nơi những cuộc thành trừng chủng tộc được sửa soạn, từ những giấc mộng nguy hiểm của những tên thi sĩ.
Đúng như thế, Slobodan Milosevic “thao tác, giật giây” những đam mê, tình cảm, yêu nước là yêu chủ nghĩa Xạo Hết Chỗ Nói – nhưng chính những nhà thơ đã đem đến cho ông ta cái chất liệu, và cái chất liệu này tự nó thêm vô trò giật giây, nhào nặn, thao tác. Họ - những nhà thơ chân thực - không phải những nhà chính trị bị tha hoá, đồi bại – là nguồn cơn của tất cả, kể từ khi - nếu chúng ta trở lại với thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, họ bắt đầu gieo mầm thứ chủ nghĩa quốc gia hiếu chiến không chỉ ở Serbia, mà còn ở những xứ cộng hòa cựu Nam Tư.

Thay vì mặc cảm binh bị, kỹ nghệ, chúng ta, ở thời kỳ hậu Nam Tư, có mặc cảm binh bị thơ, the poetic-military complex, nhập thân, hóa thân vào cặp song sinh, Radovan Karadzic và Ratko Mladic. Karadzic không chỉ là 1 nhà lãnh đạo quân sự, chính trị mà còn là 1 nhà thơ. Thơ của ông ta, chớ nên coi thường, vứt sọt rác, coi như thơ của những thi sĩ Mít đầy rẫy trên net bi giờ - mà cần 1 sự đọc gần, bởi là vì nó cung cấp cho chúng ta cái chìa khóa để hiểu, làm cỏ chủng tộc vận hành ra làm sao.

        *

Nhìn lại chủ nghĩa toàn trị

"Tại sao bần cố nông trong thời đẫm thơ?"
[What are the destitute (proletarians) for in a poetic time?]

The Paris Review

From the Archive
1977
Marguerite Young

“At the age of eighteen all young poets are sure they will be dead at twenty-one.”

Vào cái tuổi 18, mọi nhà thơ đều chắc chắn một điều, họ sẽ đi xa vào năm 21


READING THE NOTEBOOK OF
ANNA KAMIENSKA

 

Reading her, I realized how rich she was and myself, how poor
Rich in love and suffering, in crying and dreams and prayer.
She lived among her own people who were not very happy but
supported each other,
And were bound by a pact between the dead and the living renewed
at the graves.
She was gladdened by herbs, wild roses, pines, potato fields
nd the scents of the soil, familiar since childhood.
She was not an eminent poet. But that was just:
A good person will not learn the wiles of art.
 

Đọc Sổ Ghi của Anna Kamienska (1)

Đọc bà, tôi nhận ra bà giầu biết bao, còn tôi, nghèo làm sao.
Giầu có trong tình yêu, và đau khổ, trong than khóc và mơ mộng, cầu nguyện .
Bà sống giữa những con người của riêng bà, không rất hạnh phúc, nhưng giúp đỡ lẫn nhau,
Và được gắn bó bằng 1 hợp đồng giữa người chết và người sống được làm mới ở những nấm mồ.
Bà thì thật vui với cỏ, hoa, thông, cánh đồng khoai tây
Và mùi của đất, quen thuộc từ khi còn là con nít.
Bà không phải là 1 nhà thơ uyên bác. Nhưng đúng là như thế này:
Một con người tốt sẽ không học những mưu ma chước quỉ của nghệ thuật.


THE DAY LOU REED DIED

It's not like his songs are going to simply
evaporate,

but since the news I can't stop
listening to him

on endless shuffle-familiar, yes, inside
me, yes, which means

I'm alive, or was, depending on when
you read this. Now

a song called "Sad
Song," the last one on Berlin,

sung now from the other side, just talk,
really, at the beginning, then

the promise
or threat, I’m gonna stop wasting

my time, but what else

are we made of, especially now? A chorus

sings Sad song sad song sad song sad

song. I

knew him better than I knew my own

father, which means
through these songs, which means

not at all. They died on the same day, O
what a perfect day, maybe

at the same moment, maybe
both their bodies are laid out now in

the freezer, maybe side by side, maybe
holding hands, waiting

for the fire or the earth or the man
or the salt-

if I could I'd let birds devour whatever's left
& carry them into the sky, but all I can do

it seems
is lie on the couch & shiver, pull a coat

over my body as if it were all I had, as if I
were the one sleeping outside, as ifit were my

body something was leaving, rising up
from inside me

& the coat could hold it inside
maybe a little longer.

-Nick Flynn

The New Yorker Nov 25, 2013


CAFÉ DE L’IMPRIMERIE

I wait for you inside a glass beside
The long dim window of the Cafe de l'Imprimerie.
I see you, beautiful and wry

And not yet here, and yet not here,
While this late-summer evening never ends
And never ends but is infinitesimally

Dimming on the street beside Les Halles, where I
Can see you, beautiful and wry as you draw near,
And I am reassured you are not coming. Yes.

All night I wait for you at the Cafe de l'Imprimerie.
Your absence makes you beautiful and wry
And this late-summer evening never ends,

Nor does the beautiful intolerable
Music, where the truth is cut
With sentiment and surely fatal.

Come now. Do not come. Come now. Do not,
And lead me to a room where you undress,
A bare white room at an untraceable address
Where we will stay forever. Come now. Do not. Yes.

-Sean O'Brien

The New Yorker, May 12, 2014

Note: Bài thơ thứ nhất, làm GCC tưởng tượng ra cái cảnh tiếng hát ma quái từ hải ngoại bò về, hầu đờn Bắc Bộ Phủ, vừa đờn vừa nhớ ngày anh Trịnh mất.
Bài thứ nhì, thì là Gấu đang ngồi Cà Phe Tẩy ở Paris, nhớ Cà Phê Factory ở Tiểu Sài Gòn, và nhớ H/A
Hà, hà!


*

GOSSIP IN THE VILLAGE

I told no one, but the snows came, anyway.
They weren't even serious about it, at first.
Then, they seemed to say, if nothing happened,
Snow could say that, & almost perfectly.

The village slept in the gunmetal of its evening.
And there, through a thin dress once, I touched
A body so alive & eager I thought it must be
Someone else's soul. And though I was mistaken,

And though we parted, & the roads kept thawing between snows
In the first spring sun, &itwas all, like spring,
Irrevocable, irony has made me thinner. Someday, weeks
From now, I will wake alone. My fate, I will think,
Will be to have no fate. I will feel suddenly hungry.
The morning will be bright, & wrong.

- Larry Levis

The New Yorker, April 5, 2014

Buôn chuyện làng

Tớ đếch nói với ai, nhưng, dù sao, tuyết tới.
Lúc thoạt đầu, họ chẳng thèm ngay cả tỏ ra nghiêm trọng, về chuyện đó.
Rồi có vẻ như là họ muốn nói, nếu chẳng có gì xẩy ra,
Tuyết có thể nói điều đó & hầu như tuyệt hảo

Ngôi làng ngủ, trong màu đồng đỏ, của những buổi chiều của nó.
Và ở đó, qua cái áo dài mỏng, một lần, tôi sờ vô
Một cơ thể sống ơi là sống & hăm hở, tôi nghĩ
Hẳn là linh hồn một người nào đó.
Và, tôi đã lầm.

Và chúng tôi lên đường & những con lộ băng tan giữa tuyết
Trong mặt trời đầu tiên của mùa xuân & tất cả, như mùa xuân
Vô phương huỷ bỏ, cái tếu táo, buồn cười làm tôi càng thêm ốm tong teo.
Vài ngày, vài tuần, kể từ bây giờ
Tôi sẽ thức giấc một mình.
Số phần của tôi, tôi nghĩ,
Là đếch có số phần.
Bất thình, tôi cảm thấy đói.
Buổi sáng thì sẽ sáng ngời & lầm lẫn.

AS YOU COME OVER THE HILL

You'll see cows grazing in a field
And perhaps a chicken or a turtle
Crossing the road in their sweet time,
And a small lake where a boy once
Threw a girl in who couldn't swim,

And many large maple and oak trees
Offering ample shade to lie in,
Their branches to hang yourself from,
Should you so desire,
Some lazy afternoon or evening

When something tells the birds to hush,
And the one streetlight in the village
To keep a few moths company
And the large old house put up for sale
With some of its windows broken.

-Charles Simic
 

Khi bạn đi lên đồi

Bạn sẽ thấy bò gặm cỏ trên đồng
Và có lẽ, một chú gà con, hay một con rùa
Băng qua đường trong cái khoảng thời gian
Ui chao thật là ngọt ngào của chúng
Và một hồ nhỏ, nơi có lần một đấng con trai
Ném cô gái của mình xuống đó
Cô gái, tất nhiên, đếch biết bơi!
Hà, hà!

Và rất nhiều cây phong to tổ bố, và sồi
Xoè cái váy của chúng ra,
Là cái bóng dâm rộng lùng thùng là những tầng lá
Để bạn nằm lên đó
Còn những cành cây, là để bạn treo tòng teng bạn lên
Thì cứ giả như bạn đang thèm
Một buổi xế trưa lười biếng hay,
Quá tí nữa, 1 buổi chiều.

Khi một điều gì đó nói, bầy chim, im đi
Và ngọn đèn đường độc nhất ở trong làng,
Giữ mấy con bướm đêm làm bạn đường
Và ngôi nhà thật rộng, cũ mèm, để biển bán
Với mấy cửa sổ bể, gãy, tan hoang.

Bài thơ có bề ngoài giống y chang 1 bài ca dao, thí dụ bài “Trèo lên cây bưởi hái hoa”, ở đây, là lên đồi ngắm cảnh. Những “tỉ” những “hứng” có đủ cả…
Nói theo Kim Dung, thì chúng là những đòn gió, chỉ để bất thình lình ra đòn sau cùng, đòn chí tử, là khổ thơ chót.

Đọc sao mà thê lương chi đâu:

When something tells the birds to hush,
And the one streetlight in the village
To keep a few moths company
And the large old house put up for sale
With some of its windows broken.

Quái làm sao, câu thơ đầu, “khi một điều gì đó nói lũ chim câm đi”, làm Gấu nhớ đến cái mail chót, của 1 nữ thi sĩ, “mi làm phiền ta quá”… “kiếp trưóc mi đúng là con đỉa”….

Hà hà!

Nhưng cái mail kế chót thì thật là tuyệt vời.
Em quả có tí thương [hại] Gấu!

Bài thơ trên, được đăng trên NYRB (1)

 A Poet on the Road                                               

Afoot and light-hearted I take to the open road,
Healthy, free, the world before me.
                                                 —Walt Whitman

Thơ Mỗi Ngày

GREEK STATUE

With the help of people and the other elements
time hasn't done a bad job on it.
It first removed the nose, then the genitalia,
next, one by one, the toes and fingers,
over the years the arms, one after the other,
the left thigh, the right,
the shoulders, hips, head, and buttocks,
and whatever dropped off has since fallen to pieces,
to rubble, to gravel, to sand.

When someone living dies that way
blood flows at every blow.

But marble statues die white
and not always completely.

From the one under discussion only the torso lingers
and it's like a breath held with great effort,
since now it must
draw
to itself
all the grace and gravity
of what was lost.

And it does,
for now it does,
it does and it dazzles,
it dazzles and endures-
Time likewise merits some applause here,
since it stopped work early,
and left some for later.

Wislawa Szymborska: Here

Tượng Hy Lạp

Với sự giúp đỡ của con người và những yếu tố khác
Thời gian đã làm được một việc không tệ ở đây.
Trước tiên, nó liếm cái mũi, rồi tới bộ đồ lòng
Tiếp, từng cái một, ngón chân, ngón tay
Theo năm tháng, những cánh tay, cái này tới cái kia
Bắp đùi trái, phải
Vai, hông, đầu, mông đít,
Và bất cứ cái gì rời ra,
là kể từ đó, trở thành miểng,
thành sỏi, đá, thành cát.

Khi một người nào đó đang còn sống, chết kiểu như trên
Máu tuôn ra từ mọi cú liếm.

Nhưng tượng đá chết trắng
Và không phải luôn luôn trọn vẹn

Từ cái chết đang được bàn tới ở đây,
Còn một nửa,
Còn bức tượng bán thân
Cứ như thể, mọi hơi thở, cố níu kéo
Bởi vì kể từ bây giờ
Nó phải níu vào chính nó
tất cả ân sủng và trọng lực (1)
cái phần đã bị liếm mất

Và nó làm được
Kể từ giờ này nó làm được
Và nó chói lòa,
Nó chói loà, và nó kéo dài, nó tồn tại –
Thời gian, như thế, thì cũng đáng để mà vỗ tay khen 1 phát ỏ đây,
Kể từ khi mà nó ngưng cái việc liếm, để mai tính, mốt tính, cái phần còn lại.

(1)

Chắc là thuổng hai từ này của Simone Weil.

Bà này, “bạn quí” của Milosz, mà Milosz thì là “đệ tử” của Weil!
Bài thơ quá tuyệt, nhưng bản dịch của GCC chưa tới, thực sự là vậy.
Không làm sao mà nói lên được cái ý ân sủng và trọng lực!

NQT


*

Empty Picture Frame

I meet you everywhere endeavoring to frame
A modest portion of His immensity,
Meaning, I suppose, a lot of sky
Of the cloudless and blue variety,
Over the old cemetery, for instance,
Or over the new town dump
With a field and three scarecrows beyond.

One of them could be that German monk, Eckhart,
Saying: "If a fellow is looking for nothing,
What right has he to complain if he finds nothing?"
True. There was not even a single blackbird
Keeping an eye on the young corn,
So we boosted the frame a bit higher
To where the silence tells all.

Charles Simic

Khung Hình Trống

Chỗ nào tôi cũng gặp bạn
Hăm hở đóng khung một phần khiêm tốn của Ông Trời vô cùng
Nghĩa là, theo tôi,
Một bầu trời rộng
Không mây, xanh lung linh
Bên trên một nghĩa địa cũ, thí dụ vậy
Hay bên trên một thành phố mới, rác
Với 1 cánh đồng và xa xa là ba thằng bù nhìn

Một trong ba, có thể thầy tu Đức, Eckhart,
Phán, “Giả như cư sĩ tìm kiếm hư vô,
Thì hằng cớ chi càu nhàu, nếu kiếm thấy, chẳng thấy gì?”
Đúng như thế. Chẳng có đến ngay cả độc một con chim hét
Để độc một con mắt của nó lên luống ngô non
Nếu như thế thì nâng cái khung hình cao lên 1 tị
Tới cái nơi mà im lặng sẽ phun ra tất cả.


THE GUTTURAL MUSE

Late summer, and at midnight
I smelt the heat of the day:
At my window over the hotel car park
I breathed the muddied night airs off the lake
And watched a young crowd leave the discotheque.

Their voices rose up thick and comforting
As oily bubbles the feeding tench sent up
That evening at dusk-the slimy tench
Once called the doctor fish because his slime
Was said to heal the wounds of fish that touched it.

A girl in a white dress
Was being courted out among the cars:
As her voice swarmed and puddled into laughs
I felt like some old pike all badged with sores
Wanting to swim in touch with soft-mouthed life.

-Seamus Heaney
(1939-2013)

The New Yorker, 9 Sept, 2013



VIA DEL TRITONE

Ở Rome, trên con phố cũng có tên đó
Tôi đi bộ một mình trong ánh mặt trời
Nóng ban trưa, và tôi nhìn thấy một căn nhà
Những tấm màn cửa thì đều đóng,
Nhìn một phát, là tôi cảm thấy quặn đau thốn dế
Mình có thể sinh ra tại căn nhà này,
Và bị bỏ mặc, không người an ủi.

Tường màu gạch son, cửa cũ, rệu rạo
Tôi tính đẩy cửa, nhưng không làm
Biết rõ cái lạnh lẽo sau cánh cửa, lối dẫn vào căn nhà,
Căn vườn với 1 cây sồi quá nó,
Và những cầu thang u tối ở phía trái.

Rèm cửa đóng dẫn tới những căn phòng lờ mờ
Trần hơi bị thật là cao
Và đâu đó, là một cái gương long lanh nước
Và khuôn mặt của tôi nhợt nhạt, méo mó
Ðón chào tôi, và làm tôi giật mình hoài

"Mi kiếm ra cái mà mi tính kiếm?"
Tôi uớc ao có ai đó thì thào
Nhưng làm đếch gì có một ai
Ðếch có ai, cả ở trên con phố hoang vắng
Vào cái giờ nóng khùng điên
Làm đẻ ra những hồi ức dởm
Và những con quái vật nửa người nửa cá

One poem is unlike any I've ever read-if it had appeared in the lineup, I might not have recognized it as Simic's. "Via Del Tritone" juxtaposes no surreal images. It begins simply: 

In Rome, on the street of that name,
I was walking alone in the sun
In the noonday heat, when I saw a house
With shutters closed, the sight of which
Pained me so much, I could have
Been born there and left inconsolably.

Simic goes on to describe the interior, as he imagines it, a garden with a palm tree, dark stairs leading to cool rooms with high ceilings. "'You found what you were looking for,' / I expected someone to whisper." Never, in his previous work, has Simic expressed the pain of his exile in such a straightforward way. His outsider's status was always an advantage, teaching him that life was unpredictable and that anything might happen, as the antic careening of his poetry suggests. In this poem his pain and loss blossom like the most fragile of tea roses. He hasn't found what he was looking for. How can you reclaim a childhood that never was? Simic, unlike Nabokov, has no Eden to recall. His are "false memories," phantasms of heat. And as the war rages on in the place where his childhood should have been, salvage becomes less possible. The poet's cries flutter up from the page: "Help me to find what I've lost, / If it was ever, however briefly, mine."

Lisa Sack: Charles the Great: Charles Simic’s A Wedding in Hell 

Bài thơ này thật khác với những bài thơ của Simic. Không có sự trộn lẫn những hình ảnh siêu thực.

Via Del Tritone mở ra, thật giản dị:

Ở Rome, trên con phố cũng có tên đó
Tôi đi bộ một mình trong ánh mặt trời
Nóng ban trưa, và tôi nhìn thấy một căn nhà
Những tấm màn cửa thì đều đóng,
Nhìn một phát, là tôi cảm thấy quặn đau thốn dế
Mình có thể sinh ra tại căn nhà này,
Và bị bỏ mặc, không người an ủi.

Sau đó, tác giả tiếp tục tả bên trong căn nhà, như ông tưởng tượng ra…Chưa bao giờ, trong những tác phẩm trước đó, Simic diễn tả nỗi đau lưu vong một cách thẳng thừng như ở đây. Cái vị thế kẻ ở ngoài lề luôn luôn là lợi thế, nó dạy ông rằng đời thì không thể tiên liệu trước được và chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Ở đây, nỗi đau, sự mất mát của ông nở rộ như những cánh trà hồng mảnh mai nhất. Ông làm sao kiếm thấy cái mà ông kiếm, một tuổi thơ chẳng hề có? Simic, không như Nabokov, chẳng hề có Thiên Ðàng để mà hồi nhớ. Chỉ là hồi nhớ dởm, do cái nóng khùng điên tạo ra. Và chiến tranh tàn khốc xẩy ra ở cái nơi đáng lý ra tuổi thơ xẩy ra, làm sao có cứu rỗi? Và tiếng la thét của nhà thơ vọng lên từ trang giấy:

Hãy giúp tôi tìm cái mà tôi đã mất/Cho dù nhỏ nhoi, cho dù chốc lát, cái tí ti đã từng là của tôi.

Bài này, đọc lại, tuyệt thật.
NQT [20.6.2013]

  Thơ Mỗi Ngày 

Empty Picture Frame

I meet you everywhere endeavoring to frame
A modest portion of His immensity,
Meaning, I suppose, a lot of sky
Of the cloudless and blue variety,
Over the old cemetery, for instance,
Or over the new town dump
With a field and three scarecrows beyond.

One of them could be that German monk, Eckhart,
Saying: "If a fellow is looking for nothing,
What right has he to complain if he finds nothing?"
True. There was not even a single blackbird
Keeping an eye on the young corn,
So we boosted the frame a bit higher
To where the silence tells all.

Charles Simic

Khung Hình Trống

Chỗ nào tôi cũng gặp bạn
Hăm hở đóng khung một phần khiêm tốn của Ông Trời vô cùng
Nghĩa là, theo tôi,
Một bầu trời rộng
Không mây, xanh lung linh
Bên trên một nghĩa địa cũ, thí dụ vậy
Hay bên trên một thành phố mới, rác
Với 1 cánh đồng và xa xa là ba thằng bù nhìn

Một trong ba, có thể thầy tu Đức, Eckhart,
Phán, “Giả như cư sĩ tìm kiếm hư vô,
Thì hằng cớ chi càu nhàu, nếu kiếm thấy, chẳng thấy gì?”
Đúng như thế. Chẳng có đến ngay cả độc một con chim hét
Để độc một con mắt của nó lên luống ngô non
Nếu như thế thì nâng cái khung hình cao lên 1 tị
Tới cái nơi mà im lặng sẽ phun ra tất cả.


Mùa đi bỏ lại gốc dừa cội măng
Tháng Giêng buốt xẻ đôi đằng
Nửa chì mưa đục nửa băng giá hồn
[Ghi theo trí nhớ]
[Lục bát] Cung Trầm Tưởng

Nghe cô giảng giải về một miền đất không hoàn toàn giản dị. Phải nhạy cảm lắm mới nhận ra chút dấu hiệu thật mơ hồ, mong manh của sự chuyển mùa: Mối tình lúc đầu giống như chớm thay đổi thời tiết.... Sau này nhớ lại, đã thực sự yêu thương, không phải lần vì quá cô đơn, lén viết lên trang tiểu thuyết Tô Hoài cô đang đọc, trong lúc cô lui vào trong, Je vous aime, nhưng khi tới báo tin đứa em trai tử trận, không gặp, đành nhờ một cô bạn ở chung nhà nói giùm, tin chắc cô sẽ hiểu.

Cõi Khác

Elegy for a Country’s Seasons

Bi khúc dành cho “Mùa Hè Miền Nam”

Zadie Smith

April 3, 2014 Issue

There is the scientific and ideological language for what is happening to the weather, but there are hardly any intimate words. Is that surprising? People in mourning tend to use euphemism; likewise the guilty and ashamed. The most melancholy of all the euphemisms: “The new normal.” “It’s the new normal,” I think, as a beloved pear tree, half-drowned, loses its grip on the earth and falls over. The train line to Cornwall washes away—the new normal. We can’t even say the word “abnormal” to each other out loud: it reminds us of what came before. Better to forget what once was normal, the way season followed season, with a temperate charm only the poets appreciated.

What “used to be” is painful to remember.

Ui chao, không lẽ khí hậu, con người Bắc Kít khắc nghiệt làm khí hậu Nam Kít cũng bị ảnh hưởng:
Chúng ta không chỉ mất quê hương, mà còn mất luôn cả khí hậu hiền hòa ngày nào của nó.
Cái “vốn xưa kia” mới đau nhức làm sao, khi nhớ lại.

THNM nặng quá rồi, hà, hà!

Oh, what have we done! It’s a biblical question, and we do not seem able to pull ourselves out of its familiar—essentially religious—cycle of shame, denial, and self-flagellation. This is why (I shall tell my granddaughter) the apocalyptic scenarios did not help—the terrible truth is that we had a profound, historical attraction to apocalypse. In the end, the only thing that could create the necessary traction in our minds was the intimate loss of the things we loved. Like when the seasons changed in our beloved little island, or when the lights went out on the fifteenth floor, or the day I went into an Italian garden in early July, with its owner, a woman in her eighties, and upon seeing the scorched yellow earth and withered roses, and hearing what only the really old people will confess—in all my years I’ve never seen anything like it—I found my mind finally beginning to turn from the elegiac what have we done to the practical what can we do?

Ui chao Nam Kít đã làm cái gì để xẩy ra như vầy? Và bây giờ, chúng ta có thể làm gì?
Thì đành “hồi hộp trở về”, chứ biết “nàm sao” bi giờ!
*

Bài viết của Zadie Smith, do đọc thoáng, đọc lé, đọc lệch, lại thêm THNM nhân dịp Tháng Tư, GCC làm hư cả bài viết, 1 cú ai điếu "Mùa Đi” tuyệt cú mèo.
Quái, là nó cùng air bài thơ dưới đây, của Đài Sử:
Chỉ mình Gấu hoang tàn,
Em đi, mùa đi....

Sing an elegy for the washed away, chẳng phải là…  tan.hoang ư?

Sing an elegy for the washed away! For the cycles of life, for the saltwater marshes, the houses, the humans—whole islands of humans.

tan. hoang 

tan. hoang vết bầm. ngày
thời gian. tím mang. mang
tan. hoang con lốc. xoáy
tan. hoang khi người. qua
 

đi qua từng kỷ niệm
em dỗi. ngày hôm. qua
mẩu. thời gian ngắn. lại
đượm bóng con phố còm

vỡ. trong nhau. từng lúc
rũ rượi lời kinh xa
dấu. hôn nào. lại
có. người vừa đi. qua 

tan. trong lần ở. lại
hoang. vắng. lần ra. đi
ngập ngưng. âm lời. vọng
chỉ. một tôi hoang. tàn 

tan. hoang em có. biết
 

bụi. chiều

những. ngôi nhà đứng. im
trả lại. thời gian. màu sơn. màu gạch. ngói
những. cánh cửa nhắm. mắt
bụi chiều xốn. xang
nụ hôn. đùa giỡn cuối. con phố
chiếc ghế xiêu. vẹo
hiên nhà mái. lở
tiếng cười nắng. khan
những. nụ hồng khô. tím bầm
đã nở. một lần. trắc trở những. điều còn lại
xa vắng tìm. về tìm. trong những
âm vang. quen thuộc hơi thở. ngày cũ
tan. trong buổi. chiều muộn

Đài Sử

PIGEONS AT DAWN

Extraordinary efforts are being made
To hide things from us, my friend.
Some stay up into the wee hours
To search their souls.
Others undress each other in darkened rooms.

The creaky old elevator
Took us down to the icy cellar first
To show us a mop and a bucket
Before it deigned to ascend again
With a sigh of exasperation.

Under the vast, early-dawn sky
The city lay silent before us.
Everything on hold:
Rooftops and water towers,
Clouds and wisps of white smoke.

We must be patient, we told ourselves,
See if the pigeons will coo now
For the one who comes to her window
To feed them angel cake,
All but invisible, but for her slender arm.

Charles Simic

Bồ Câu lúc Rạng Đông

Những cố gắng phi thường đã được sử dụng tới
Để giấu chúng ta điều này, vật nọ, bạn nghe GCC nói không.
Một vài kẻ thức cho đến sáng bạch
Để tìm kiếm linh hồn của họ
Những kẻ khác, lột đồ của nhau, trong những căn phòng tối

Cái thang máy quá đát, kọt kà kọt kẹt
Đưa chúng ta xuống tầng hầm, lạnh như băng, trước
Để chỉ cho chúng ta thấy cây giẻ lau nhà, và cái xô
Rồi sau đó, bèn hạ cố đi lên trở lại
Với một tiếng thở dài não lòng

Dưới bầu trời rộng, của buổi rạng đông vừa mới chớm
Thành phố nằm im lặng trước chúng ta
Mọi vật thì đều ở trong cái thế “hãy cứ như thế, chờ chút”:
Mái nhà và thác nước
Mây và những đụn khói trắng

Chúng ta phải kiên nhẫn, chúng ta tự bảo
Chờ lũ bồ câu ku ku
Nhằm đánh thức 1 em
Em này sẽ ra cửa sổ để cho chúng ăn
Một thứ bánh thiên thần

Đâu thấy dáng người
Chỉ cánh tay thon thả.



Thơ Mỗi Ngày

&

The New Yorker April 21, 2014

Quên mây


Buổi sáng yên tĩnh có vài đám bạn mây
Chúng chuồn thật lẹ, khi Gấu ngoái nhìn lại
Trong buổi sáng mùa hè này
Gấu mò tới sau đủ thứ chuyện
Gấu có thể nhớ và gọi là chuyện
Trước khi nó cũng chuồn mất tiêu
Chẳng nghe mà chẳng biết Gấu
Nó bỏ đi mà cũng chẳng thèm biết có Gấu ở đây
Chỉ còn mình Gấu đi đường của Gấu
Chẳng có mống nào khác có thể quên nó

Letter from Lampedusa

The Anchor

The Africans who risk all to reach Europe look to an exiled priest as their savior.

by Mattathias Schwartz

Note: Bài này thật tuyệt: Cũng là cuộc chiến Mít, nếu THNM + liên tưởng khùng:
Những cái chết của đám di dân khi cố tới Âu Châu, là “hậu quả của liên hệ bịnh giữa Bắc và Nam bán cầu” ["the fruit of a sick relationship between the north and south of the world"]

GCC không dám hứa ẩu, nhưng sẽ cố đi bài này!

*

Manly Tears

We recall the time at school when our treasured anthology of love poetry was seized by the class bully. We tried to snatch it back but failed. Dusting ourselves off, we shouted into the face of our aggressor: "There is a pleasure in poetic pains that only poets know". We then resolved to take up boxing. If only we'd been armed with a copy of Poems That Make Grown Men Cry by Anthony and Ben Holden - proof that verse isn't just for sissies. Here, 100 "real men" reveal they too can be reduced to tears by a tender rondel, a stirring sestina. The book aims to explode apparent myths about "gender stereotyping". According to Kate Allen, the British director of Amnesty International, with whom the publishers have collaborated, "we hope that this anthology will encourage boys, in particular, to know that crying - and poetry - isn't just for girls".
    Suitably emboldened, and armed with our best handkerchief, we perused the collection. Within its manly pages we found plenty of Hardy, Housman, Heaney and Larkin, several of the usual Romantic suspects and a predictable selection of First World War poetry. Two tearful contributors chose Bertolt Brecht, two Derek Walcott; others picked Craig Raine and Harold Pinter, Pablo Neruda and Tony Harrison ("the most important English poet of the latter half of the twentieth century", according to Daniel Radcliffe). We were intrigued to see the poker player James McManus select a passage from James Joyce's "prose poem" Finnegans Wake ("and weary I go back to you my cold father ... "). Gender stereotypers will be interested to learn that men outnumbered women by ten to one. In the end, the gong for sobbing went to W. H. Auden. Auden has made Simon Schama, Simon Callow, Salman Rushdie, William Boyd, Alexander McCall Smith and Rowan Williams cry. "Lullaby" was the chief culprit (Callow: "I still find it impossible to utter out loud or even to read to myself the opening two lines without breaking down"; Schama: "It is the honesty embedded amidst sheets and on the pillow that makes the eyes prick and the heart knock"). We were relieved that no one - not even Richard Curtis - chose "Funeral Blues". Curtis selected Heaney's "A Call"; Heaney picked Hardy's "The Voice". "We hope that readers may set each other off as they read these verses aloud to one another", writes Ben Holden in his introduction. His wish may come true on April 29, when several of the contributors will read from the collection at the National Theatre. We understand that women, too, are welcome. In the meantime, Poems That Make Grown Men Cry is available from Simon and Schuster for £16.99.

Some weep at its poignancy; others at its complexity. All can be grateful for a handsome new edition of Finnegans Wake illustrated by John Vernon Lord and now available from the Folio Society for £99. Previous projects by the artist include illustrated versions of The Nonsense Verse of Edward Lear and Lewis Carroll's "The Hunting of the Snark". It seems appropriate that the original TLS review of Finnegans Wake from May 6,1939 boggles at Joyce's "Jabberwockian form".
The scene pictured comes from the final section of the novel that caused James McManus such distress. The face of Anna Livia Plurabelle I (in this case represented by a photograph of Joyce's wife, Nora) merges with the River Liffey. The strip of light across her forehead alludes to the line "This baylight's growing".

TLS April 4, 2014

Thơ làm đàn ông nhỏ lệ. Poems That Make Grown Men Cry.

Nếu bạn ở Luân Đôn, có thể tham dự đêm thơ này, 29 Tháng Tư 2014, Nhà Hát Thành Phố.
Phụ nữ cũng có thể tham dự.

Có lạc thú trong nỗi đau thơ mà chỉ thi sĩ mới hiểu nổi, "There is a pleasure in poetic pains that only poets know".
Chúng tôi hy vọng tập thơ này sẽ khuyến khích mấy cậu thanh niên biết, khóc, và tất nhiên, thơ, không chỉ dành cho mấy em,
"we hope that this anthology will encourage boys, in particular, to know that crying - and poetry - isn't just for girls".


RESIGNATION

I like trees because they seem more resigned
to the way they have to live than other things do.
— Willa Cather

Here the oak and silver-breasted birches
Stand in their sweet familiarity
While underground, as in a black mirror,
They have concealed their tangled grievances,
Identical to the branching calm above
But there ensnared, each with the others' hold
On what gives-life to which is brutal enough.
Still, in the air, none tries to keep company
Or change its fortune. They seem to lean
On the light, unconcerned with what the world
Makes of their decencies, and will not show
A jealous purchase on their length of days.
To never having been loved as they wanted
Or deserved, to anyone's sudden infatuation
Gouged into their sides, to all they are forced
To shelter and to hide, they have resigned themselves.

—J. D. McClatchy

AN PHẬN

Tôi thích cây cối bởi vì chúng trông có vẻ an phận với đời hơn hết thảy những loài khác .
Willa Cather

Này là cây sồi và những cây bạch dương
Lúc nào trông cũng đứng an lành
Trong khi đó, như thể soi qua một tấm kính đen,
Dưới lòng đất thì chúng giấu đi những nỗi oán than đang quặn thắt
Giống hệt những cành vươn ra êm ả ở trên không
Nhưng dưới kia, bị cầm kẹp, chúng nương nhau mà bám lấy những gì được trao cho – đời như thế cũng đã đủ tàn bạo rồi
Vậy mà, trên không kia, chẳng cành nào chịu tìm cách thích cánh cùng nhau
Hoặc tìm cách thay đổi vận mệnh mình . Chúng dường như chỉ
ỷ vào ánh sáng, chẳng hề quan tâm xem thế giới
đang làm gì với những thứ lịch lãm của chúng, và cũng sẽ không tỏ ra tranh tìm gì cho đời sống của mình
Đối với việc chưa bao giờ được yêu mến  như chúng mong muốn,
hay xứng đáng, đối với những mê đắm bất ngờ của ai đó đang đục khoét sườn mình
Đối với tất cả những ai bắt chúng phải che chở hay giấu giếm ,
Chúng đều nhận tất .

J. D. McClatchy

K dịch

Tks. NQT

Map

By Wislawa Szymborska

Flat as the table
it’s placed on.
Nothing moves beneath it
and it seeks no outlet.
Above – my human breath
creates no stirring air
and leaves its total surface
undisturbed

Its plains, valleys are always green,
uplands, mountains are yellow and
     brown,
while seas, oceans remain a kindly blue
beside the tattered shores.

Everything here is small, near,
    accessible.
I can press volcanoes with fingertips,
stroke the poles without mittens,
I can with a single glance
encompass every desert
with the river lying just beside it.

A few trees stand for ancient forests,
you couldn’t lose your way among them.

In the east and west
above and below the equator –
quiet like pins dropping,
and in every black pinprick
people keep on living.
Mass graves and sudden ruins
are out of the picture.

Nations’ borders are barely visible
as if they wavered – to be or not.

I like maps, because they lie.
Because they give no access to the
      vicious truth.
Because great-heartedly, good-naturedly
they spread before me a world
not of this world.

(Translated from the Polish, by Clare Cavanagh.)
The New Yorker April 14, 2014

Bản đồ

Bèn bẹt như mặt bàn mà nó được trải ra
Chẳng có gì chuyển động ở bên dưới nó
Hay tìm lối ra
Ở bên trên – hơi thở của tôi
Chẳng làm không khí sao động
Chẳng có gì làm rộn toàn bề mặt của nó

Những cánh đồng, thung lũng, thì luôn luôn xanh rờn,
Cao nguyên, núi
Vàng, và nâu
Trong khi biển, đại dương thì là 1 thứ màu xanh
Bên cạnh những bãi biển tả tơi

Mọi thứ ở đây thì nhỏ, gần, có thể tiếp cận
Tôi có thể lấy ngón tay đè lên những núi lửa
Nện mỏm cực thình thình, không cần găng tay
Chỉ cần 1 cái nhìn là nuốt trọn mọi sa mạc
Với con sông nằm kế bên nó

Vài cái cây thay cho những khu rừng cổ xưa
Bạn không thể lạc giữa 1 dúm cây như thế 

Ở Đông hay ở Tây
Bên trên hay bên dưới đường xích đạo –
Lặng lẽ như đinh ghim rớt xuống
Và trong mọi cú ghim châm đen thui
Mọi người tiếp tục sống

Những ngôi mồ tập thể và những điêu tàn bất thần
Làm ơn đi chỗ khác chơi, đừng rách chuyện!

Biên giới những quốc gia thì thật khó mà nhìn ra
Như thể chúng rung rinh, chập chờn – có hoặc không

Tôi thích những bản đồ, vì chúng nói dối
Bởi vì chúng phán,
Đừng vô đây để mà kiếm sự thực cà chớn, xấu xa, đồi bại

Bởi vì, đại lượng, hiền hậu làm sao
Chúng trải ra trước tôi thế giới, đếch phải thế giới này.

*

Ui chao, bài thơ làm Gấu nhớ tới Đền Vàng của Yukio Mishima, câu chuyện 1 anh chàng quá mê Đền Vàng, nhưng lần đầu tiên tới thăm viếng, nhìn cái đền vàng nhỏ xíu để trong tủ kính, thì anh ta ngã ngửa ra mà rằng, đây mới đúng cái đền vàng mà ta mơ tưởng, không phải cái thực sự ở ngoài kia!

Và thế là anh ta bèn châm lửa đốt Đền Vàng!
Trong bài giới thiệu cuốn tiểu thuyết (ấn bản Vintage), Nancy Wilson Ross viết:

Two passages from The Temple of the Golden Pavilion linger strongly in my mind; both of them, in a sense, profoundly Eastern and Buddhist-though not particularly Zen in tone. One of these passages occurs early, on the occasion of Mizoguchi's first visit to the temple with his dying father. He sees a skillfully executed model of the Golden Temple resting in a glass case in one of the rooms. "This model pleased me. It was closer to the Golden Temple of my dreams. Observing this perfect little image of the Golden Temple within the great temple itself, I was reminded of the endless series of correspondences that arise when a small universe is placed in a large universe and a smaller one is in turn placed inside the small universe. For the first time I could dream: of the small, but perfect Golden Temple which was even smaller than this model; and of the Golden Temple which was infinitely greater than the real building-so great, indeed, that it almost enveloped the world."

*

Hàng zin, xịn, mới tậu!
Hà, hà!

Zagajewski on Rilke 

Maybe it’s more interesting to see Rilke’s work as not as virginal, not as ethereal, as it seems to many readers. After all, like the majority of literary modernists, he is an antimodern; one of the main impulses in his work consists of looking for antidotes to modernity. Heroes of his poems move in a spiritual space, not in the streets of New York or Paris, but they also, because of their intense existence, are meant to act against the supposed or real ugliness of the modern world. Even Rilke’s snobbery, hypothetical or not, can be seen as corresponding more to his ideas than to the weaknesses of his character: aristocrats represented for the poet the survivors of a better Europe, a chivalric continent, as opposed to the degredation caused by profit-oriented modernity, cherishing mass production and car races. He was not alone in representing this position—it will be enough to refer to the aesthetic movement and Walter Pater, who preceded him by one generation. Had Rilke met Marcel Proust, who was born only four years before our poet (they never met, but we know that Rilke admired the first volumes of “À la recherche du temps perdu”, published before his death), we can be sure there would have been between them no major disagreement concerning matters of philosophy, taste, and society. And certainly he would have readily agreed with his friend Paul Valéry when the French poet was was sadly sighing at the sight of a new Europe of efficiency, labor, and military drill, and when, regretting the loss of the unhurried pace of intellectual work and musing in the past he pronounced these beautiful words: “Adieu, travaux infiniment lents . . .” 

Some of the more sharp-eyed scholars have even found one or two sentences in Rilke’s letters in praise of Mussolini. This is not what I mean: I don’t intend to accuse the superb poet of any political misdemeanor. What I want is simply also to see in his poetry a dimension that has a lot to do with the diversity of intellectual polemics, some of which are still ongoing. We’re still pondering the value of modernity, as was Rilke, even if we do this using different notions and examples. We have a new sorrow today: after the terrible catastrophes of the twentieth century, after the disasters that entered both our memory and imagination, we tread gingerly at the point where poetry meets society; “Don’t walk beyond this line,” as the sign on every jetliner’s wing warns us. And yet the central issue for us is probably the question of whether the mystery at the heart of poetry (and of art in general) can be kept safe against the assaults of an omnipresent talkative and soulless journalism and an equally omnipresent popular science—or pseudo-science. It also has a lot to do with the weighing of the advantages and vices of mass culture, with the influence of mass media, and with a difficult search for genuine expression inside the commercial framework that has replaced older, less vulgar traditions and institutions in our societies. In this respect, it’s true, poets have less to fear than their friends the painters, especially the successful ones, who, because of the absurd prices their works can now command, will never see their canvases in the houses of their fellow artists, in the apartments of people like themselves, only in vaults belonging to oil or television moguls who don’t even have time to look at them. Still, the stakes of the debate and its seriousness are not very different and not less important than a hundred years ago. 

We know that the main domain of poetry is contemplation, through the riches of language, of human and nonhuman realities, in their separateness and in their numerous encounters, tragic or joyful. Rilke’s powerful Angel standing at the gates of the Elegies, timeless as he is, is there to guard something that the modern era—which gave us so much in other fields—took away from us or only concealed: ecstatic moments, for instance, moments of wonder, hours of mystical ignorance, days of leisure, sweet slowness of reading and meditating. Ecstatic moments—aren’t they one of the main reasons why poetry readers cannot live without Rilke’s work? I mean here readers of contemporary poetry who otherwise are mostly kept on a rather meager diet of irony. The Angel is timeless, and yet his timelessness is directed against the deficiencies of a certain epoch. So is Rilke: timeless and deeply immersed in his own historic time. Not innocent, though: only silence is innocent, and he still speaks to us.

Trên TV đã có 1 mẩu Adam Zagajiewski viết về Rilke. Bi giờ, là 1 bài dài thòng! Đọc loáng thoáng trên đường về, vớ được ý này, mà chẳng khoái sao, đại khái, những bài thơ đầu tay của Rilke, viết khi Adorno chưa phán, thơ làm chó gì sau Lò Thiêu, tuy nhiên, thơ của Rilke đếch cần câu phán đó, hay nói rõ hơn, bằng cái sự cẩn trọng, bằng cái sự cần kiệm, chi ly, nó tiên đoán câu của Adorno!

His early poems, written before Adorno uttered his famous dictum that after Auschwitz poetry's competence was limited-literally, he said, "It is barbaric to write poetry after Auschwitz"-were already imbued with the spirit of limitation and caution.

 

Sunday, December 4, 2011

Joyeux anniversaire, Monsieur Rilke

I would like to sing someone to sleep,
to sit beside someone and be there.
I would like to rock you and sing softly
and go with you to and from sleep.
I would like to be the one in the house
who knew: The night was cold.
And I would like to listen in and listen out
into you, into the world, into the woods.
The clocks shout to one another striking,
and one sees to the bottom of time.
And down below one last, strange man walks by
and rouses a strange dog.
And after that comes silence.
I have laid my eyes upon you wide;
and they hold you gently and let you go
when something stirs in the dark. 

~ Rainer Maria Rilke

from The Book of Images
translated by Edward Snow
passport picture 1919

[Nhân sinh nhật em “Valentine”] (1)

Note: Bài thơ trên, có trong tuyển tập thơ mới mua, có tí khác:

TO SAY BEFORE GOING TO SLEEP

I'd like to sing someone to sleep,
sit beside someone and be there.
I'd like to rock you and sing softly
and go with you to and from sleep.
I’d like to be the one in the house
who knew: the night was cold.
And I'd like to hear every little stirring
in you, in the world, in the woods.
The clocks call to one another striking,
and one sees to the bottom of time.
And down below a last strange man walks by
and rouses a strange dog.
And after that comes silence.
I have laid my eyes upon you wide;
and they hold you gently and they let you go
when a thing moves in the dark.


Kẻ biến mất

Lúc này trời ấm áp, ngồi ở cổng, vào lúc đêm
Một người nào đó chợt nhớ tới một người hàng xóm
Chuyện xẩy ra cũng đã hơn ba mươi năm rồi
Sau bữa ăn chiều, bà làm cú tản bộ
Và chẳng bao giờ trở về nhà nữa
Với ông chồng và mấy đứa nhỏ.

Chẳng ai lúc này còn nhớ nhiều về bà
Ngoại trừ, như thế nào, bà nở nụ cười, và nét mặt trở nên suy tư
Bất thình lình, và chẳng hiểu tại sao, khi được hỏi
Như thể bà đã ôm trong lòng một điều gì bí mật
Hoặc, cực đau lòng, khi chẳng thể nào có một.

Charles Simic
The New Yorker April 7, 2014

Chỉ là tình cờ, nhưng bài thơ, đúng vào dịp Tháng Tư làm Gấu càng thêm THNM.

Bèn hạ hoả bằng bài dưới đây:

THE ICE CUBES ARE ON FIRE

In a kitchen with blinds drawn,
The woman bent over a sink,
Rubbing ice cubes over her face,
Stops to peek through a slit.

A neighbor's dog is loose
Sniffing around the trash cans,
Happy to be free of his chain
On this day of sweltering heat,

Or so she thinks as she resumes
Cooling her throat and shoulders,
Shivering down to her painted toes,
Her eyes shut against the sun.

Charles Simic: That Little Something

Đá cục trên lửa

Trong nhà bếp, những bức mành đã được kéo xuống
Người đàn bà cúi xuống cái chậu rửa chén
Đắp những cục nước đá lên mặt
Ngưng, và đi 1 đường tiểu, chiếu đúng cái khe trên sàn gỗ

Con chó nhà hàng xóm được thả lỏng
Quờn quờn quanh mấy cái lon đựng đồ ăn
Mừng ơi là mừng vì thoát sợi xiềng
Vào 1 ngày nóng nực như thế này

Người đàn bà thu vén hàng họ
Tiếp tục đi 1 đường làm mát cổ và vai
Rùng mình 1 phát tới tận mấy ngón chân tô son
Mắt nhắm tít chống ông mặt trời sỗ.

Nếu chưa hạ, bồi thêm cú này:

MAKING LOVE IN THE KITCHEN

We do it with knives in hand,
blue tongues licking the bottoms of pots,
steam fogging the windows from hearts
of artichokes being strained.

Hearts are made to be carved
out, cooked soft, slathered with butter,
fork-stabbed and lifted to another's
open mouth. We say we are starved,

as though we were doing this alone,
lonely as an onion in its skin,
say we are starving when what we mean
is that we want to postpone

the inevitable, which is inedible,
however we dice
it, and so we make – as it consumes us -
this love we call a meal.

-Gary J. Whitehead

The New Yorker, March 10, 2014

Gió Nói

 

THƠ MỖI NGÀY


Thơ Mỗi Ngày

Note: Thơ AZ, Gấu có khá nhiều, nhưng cũng không có đủ. Tiểu luận chẳng cuốn nào.
Trên TV có mấy bài tiểu luận của ông, nhưng đều là do 1 dịp nào đó, vớ được.
Bèn order cuốn dưới đây. Trong khi chờ, post bài này:

BOOK REVIEW / NONFICTION : Every Poem Tells a Story of the Tough Realities of Life : TWO CITIES: On Exile, History and the Imagination by Adam Zagajewski ; Translated from Polish by Lillian Vallee; Farrar Straus & Giroux $22, 254 pages

March 16, 1995

As a boy, Adam Zagajewski would take walks with his grandfather through the streets of Gliwice, an industrial town in western Poland. The boy was alive to all the sights and sounds around him; the grandfather was lost in a dream of Lvov, the stately city that he and hundreds of thousands of Poles had to leave in 1945 when the Soviet Union annexed the eastern part of the country, pursuant to the Yalta accords. 

Of exiles, Horace wrote: "They change their skies but not their soul." Souls and skies are not so easily separated. The first part of this collection of pieces by a poet who left Poland for the West, casts about for an azimuth of meaning in the shifting firmaments of three generations.

He looks at a photograph of a great-uncle reading a newspaper at a cafe in Provence between the wars. Old photographs do not bring the past closer; they remove it further. The faded image holds the touching assurance of a present that seen now, many years later, conveys such fragile mortality.

"But of course," Zagajewski imagines it saying. "I belong to this moment, the light of the south is my light, the leaves of the plane trees are my favorite sunshade and I always learn about the world in this newspaper." 

The comfortable life of a Polish professional family ended in Lvov at the same time that other comfortable lives--German, these--were ending in the western Polish towns where they had lived for centuries. "Millions of people were forcing resistant suitcases shut with their knees; all this was happening at the behest of three old men who had met at Yalta." 

The boy's reality is his family's; it is also his own. Gliwice was always referred to by his elders as "the worse city." Nevertheless, he adds, "the worse city offered me various humble riches, starting with the roof over my head." In any life, particularly that of a young person, the present has its claims. 

He recalls, as a youth, lying in a Gliwice park in autumn and noting the fall and decay of the leaves. He comments, with irony: 

"Things were different with Lvov leaves. They were eternal, eternally green and eternally alive, indestructible and perfect; they moved as lightly and gracefully as dolphin fins. Their only flaw was their absence, and even their nonexistence."

* 

Something of the same theme--the difficult dialogue of present and past--pervades the book's second section, a series of imaginary monologues, each in a different persona. One is that of a former secret policeman, another is that of a poet who wrote for the old regime. Zagajewski is fiercely suspicious of all who claim political, moral or aesthetic virtue. Thus, now that the Communist regime has fallen, and the battle, it seems, has more veterans than it ever had fighters, he gives his old poet some good lines. 

Those who talk of the Stalinist days in Poland didn't know its vitality, the poet insists. They are like those who visit the scene of a fireworks display on the day after, and judge it as nothing but mud and burnt-out cardboard. Those who wrote poems about Stalin tried to write good ones. There was tremendous competition; only the best were published. "Not everyone could get in the columns of newspapers. Do you think that selling your soul was easy?" 

More to the point, he continues--in this simultaneous satire of his own apologia and of those who easily dismiss it--in those days there was only one stage for talented and energetic young people to perform on. 

"There was one world, one life. You awoke not in Stalinism, in scornful times; no, you awoke in bedclothes, in the body you knew to tears, full of needs and caprices. You awoke next to a woman you loved or next to a girl who was with you only because the other had dumped you. You were short of money. You were published and your family was proud of you. Your anti-Communist aunties were happy that their nephew wasn't just another face." 

The book's last section is a kind of notebook of literary themes, many of which don't really make the leap from note to book. But one, "The Cynicism of Poetry," is worth all the rest. Poetry, the author writes, pretends to make use of real subjects--war, suffering, injustice, fading roses--but only as a way of getting written. 

"Poetry fears that its secret will be discovered. One day reality may notice that the heart of poetry is cold. That poetry has no heart at all, just big eyes and an excellent ear. Reality will suddenly understand that it was only a bottomless source of metaphors for poetry, and it will vanish. Poetry will remain alone in the world, mute, empty, sad, and incommunicable."


*

The New Yorker April 7, 2014

Kẻ biến mất

Lúc này trời ấm áp, ngồi ở cổng, vào lúc đêm
Một người nào đó chợt nhớ tới một người hàng xóm
Chuyện xẩy ra cũng đã hơn ba mươi năm rồi
Sau bữa ăn chiều, bà làm cú tản bộ
Và chẳng bao giờ trở về nhà nữa
Với ông chồng và mấy đứa nhỏ.

Chẳng ai lúc này còn nhớ nhiều về bà
Ngoại trừ, như thế nào, bà nở nụ cười, và nét mặt trở nên suy tư
Bất thình lình, và chẳng hiểu tại sao, khi được hỏi
Như thể bà đã ôm trong lòng một điều gì bí mật
Hoặc, cực đau lòng, khi chẳng thể nào có một.

Gió Nói

Gấu đã từng đọc, và dịch thơ Bai Hua, vậy mà đếch nhớ, tếu thế.
Bài thơ còn được một vì thân hữu ban cho nó 1 vị trí thật xứng đáng trên trang của bà:

 

THƠ MỖI NGÀY

Recoleta Cemetery

Convinced of decrepitude
by so many noble certainties of dust,
we linger and lower our voices
among the long rows of mausoleums,
whose rhetoric of shadow and marble
promises or prefigures the desirable
dignity of having died.
The tombs are beautiful,
the naked Latin and the engraved fatal dates,
the coming together of marble and flowers
and the little plazas cool as courtyards
and the many yesterdays of history
today stilled and unique.
We mistake that peace for death
and we believe we long for our end
when what we long for is sleep and indifference.
Vibrant in swords and in passion
and asleep in the ivy,
only life exists.
Its forms are space and time,
they are magic instruments of the soul,
and when it is extinguished,
space, time, and death will be extinguished with it,
as the mirrors' images wither
when evening covers them over
and the light dims.
Benign shade of the trees,
wind full of birds and undulating limbs,
souls dispersed into other souls,
it might be a miracle that they once stopped being,
an incomprehensible miracle,
although its imaginary repetition
slanders our days with horror.
I thought these things in the Recoleta,
in the place of my ashes.
-S.K.
 

Nghĩa địa Recoleta

Được thuyết phục bởi sự hư nát của biết bao sự thực phong nhã: bụi
Chúng tôi bèn nấn ná, và xuống giọng
Giữa những dẫy lăng tẩm dài thòng
Bóng của chúng, cẩm thạch làm nên chúng
Tạo một dòng tu từ hứa hẹn, hay, hình dung trước
Điều phong nhã  mà chúng ta thèm muốn: ngỏm củ tỏi.
Những ngôi mộ mới đẹp làm sao
Latin trần truồng và ngày tháng định mệnh được khắc
Cùng với đá cẩm thạch và bông hoa
Và một plazas nho nhỏ mát mẻ như những sân chơi
Và rất nhiều Thứ Bảy của lịch sử
Bữa nay, yên tĩnh và độc nhất
Chúng ta lầm sự bình an với cái chết
Và chúng ta tin tưởng, chúng ta cầu mong chung cuộc của mình
Trong khi cái chúng ta cầu mong đó, là giấc ngủ, và sự dửng dưng.
Rung động trong gươm đao, trong đam mê
Và mơ ngủ trong trường xuân
Chỉ đời sống hiện hữu
Vóc dáng của nó là không gian và thời gian
Chúng là những dụng cụ thần sầu của linh hồn
Và khi nó tắt,
Không gian, thời gian và cái chết cũng tắt theo với nó
Như những hình ảnh ở trong gương, heo hắt đi
Khi buổi chiều mò tới và phủ lên tất cả
Và ánh sáng hắt hiu dần
Bóng cây nhân từ
Gió đầy chim, cánh nhấp nhô
Linh hồn tan loãng vào những linh hồn khác
Sẽ là 1 phép nếu có lần chúng ngưng tan loãng
Một phép lạ đếch làm sao hiểu được
Mặc dù sự lập đi lập lại tưởng tượng của nó
Phỉ báng những ngày của chúng ta với ghê rợn
Tôi nghĩ tới những điều này ở Recoleta
Ở nơi chốn tro cốt của tôi.

The South

To have watched from one of your patios
the ancient stars,
from the bench of shadow to have watched
those scattered lights
that my ignorance has learned no names for
nor their places in constellations,
to have heard the note of water
in the cistern,
known the scent of jasmine and honeysuckle,
the silence of the sleeping bird,
the arch of the entrance, the damp
-these things perhaps are the poem.
-W.S.M.

Nam Kít

Từ sân nhà em
Ngắm những vì sao xưa
Từ bóng chiếc ghế dài
Ngắm những ánh sao tản lạc
Bằng cái sự ngu dốt đếch biết tên
Cũng như vị trí của chúng trong chòm sao
Nghe nước róc rách từ cái xì tẹc
Ngửi ra mùi nhài, mùi kim ngân
Ngộ ra lúc này chim ngủ
Ngộ ra cái khung cổng nhà em
Ngộ ra không gian đậm nước –
Ngộ ra bài thơ dành cho em, từ tất cả những cái ngộ tầm phào như thế đó.

J.L. Borges

DAY 49

GUILLAME APOLLINAIRE (1880-1918)

The Farewell

I picked this fragile sprig of heather
Autumn has died long since remember
Never again shall we see one another
Odor of time sprig of heather
Remember I await our time together

Translated from the French by Roger Shattuck

Time of Grief

BHD
[1947-28.8.2005]

L'adieu

J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends

Lời vĩnh biệt

(1)

Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó ...

(2)

Ðã hái nhành kia một buổi nào
Ngậm ngùi thạch thảo chết từ bao
Thu còn sống sót đâu chăng nữa
Người sẽ xa nhau suốt điệu chào
Anh nhớ em quên và em cũng
Quên rồi khoảnh khắc rộng xuân xanh
Thời gian đất nhạt mờ năm tháng
Tuế nguyệt hoa đà nhị hoán tam

(3)

Mùa thu chiết liễu nhớ chăng em ?
Ðã chết xuân xanh suốt bóng thềm
Ðất lạnh qui hồi thôi hết dịp
Chờ nhau trong Vĩnh Viễn Nguôi Quên
Thấp thoáng thiều quang mỏng mảnh dường
Nhành hoang thạch thảo ngậm mùi vương
Chờ nhau chín kiếp tam sinh tại
Thạch thượng khuê đầu nguyệt diểu mang
Xa nhau trùng điệp quan san
Một lần ly biệt nhuộm vàng cỏ cây
Mùi hương tuế nguyệt bên ngày
Phù du như mộng liễu dài như mơ
Nét mi sầu tỏa hai bờ
Ai về cố quận ai ngờ ai đi
Tôi hồi tưởng lại thanh kỳ
Tuổi thơ giọt nước lương thì ngủ yên

Bùi Giáng (1925-1998) dịch
(Ði vào cõi thơ, tr 80-82, Ca Dao xuất bản, Sài Gòn, Việt Nam)
Nguồn

RAYMOND CARVER
1938-1988

The most classical poem of nonattachment is that of a sudden realization, in a flash, of the shortness of the time one has left to live.
Czeslaw Milosz

Bài thơ cổ điển nhất, về sự tách rời, đếch dính vào cái gì nữa, là về cái phút bất thình lình ngộ ra, về tí mẩu thời gian còn lại, và sau đó là ngỏm, của 1 con người.

[Note: Đây mới đúng là “Mỹ học của cái vụt tắt”!] 

THE COBWEB

A few minutes ago, I stepped onto the deck
of the house. From there I could see and hear the water,
and everything that's happened to me all these years.
It was hot and still. The tide was out.
No birds sang. As I leaned against the railing
a cobweb touched my forehead.
It caught in my hair. No one can blame me that I turned
and went inside. There was no wind. The sea was
dead calm. I hung the cobweb from the lampshade.
Where I watch it shudder now and then when my breath
touches it. A fine thread. Intricate.
Before long, before anyone realizes,
I'll be gone from here. 

Sợi tơ nhện

 

Vài phút trước đó, tôi đứng trước hiên nhà
Từ đó, tôi nhìn trời nước
và tất cả những gì đã xẩy đến với tôi trong tất cả những năm tháng đó.
Trời nóng, tĩnh mịch
Con nước xuống
Không tiếng chim
Khi tôi tựa vào bao lơn
Trán tôi dụng vô 1 sợi tơ nhện
Và nó vướng vào tóc tôi
Chẳng ai có thể trách tôi nếu tôi quay vô bên trong  nhà.
Không một chút gió.
Biển chết lặng.
Tôi treo sợi tơ nhện vào cái chao đèn
Và tôi ngắm nó run rẩy, rùng mình, mỗi khi hơi thở của tôi đụng nó.
Sợi tơ nhện mới nhỏ, mịn làm sao. Rối vào nhau.
Lâu, thật lâu, trước khi 1 người nào đó nhận ra.
Tôi đi mẹ từ đời nào,
Ra khỏi cuộc đời này.

The Toad

It'll be a while before my friends
See me in the city,
A while before we roam the streets
Late at night
Shouting each other's names
To point out some sight too wonderful
Or too terrifying
To give it a name in a hurry.

I'm staying put in the country,
Rising early,
Listening to the birds
Greet the light,
And when they fall quiet,
To the wind in the leaves
Which are as numerous here
As the crowds in your city.

God never made a day as beautiful as today,
A neighbor was saying.
I sat in the shade after she left
Mulling that one over,
When a toad hopped out of the grass
And, finding me harmless,
Hopped over my foot on his way to the pond.

Charles Simic

Con Cóc

Sẽ là một chốc lát trước khi đám bạn bè
Nhìn thấy tôi trong thành phố
Một chốc lát trước khi chúng tôi làm náo động những con phố
Vào lúc đêm thật khuya
La, rống tên nhau
Chỉ cho thấy một cảnh tượng tuyệt vời
Hay, sợ ơi là sợ
Để ban cho nó 1 cái tên, trong vội vã

Tôi, trong một xứ sở
Thức sớm
Nghe chim hót
Đón nhận ánh sáng
Và khi lũ chim nín khe
Nghe gió trong lá
Ui chao hằng hà lá
Như những đám đông trong thành phố của bạn

Chúa chưa từng làm ra một ngày đẹp tuyệt vời như thế này, ngày hôm nay
Một người hàng xóm nói
Tôi ngồi trong cái bóng sau khi bà rời khỏi
Ngẫm nghĩ hoài câu bà nói
Một con cóc nhẩy ra khỏi đám cỏ
Và, thấy tôi vô hại
Bèn tiện đường nhẩy lên chân tôi
Lóc cóc ra ao

Summer Light
 

It likes empty churches
At the blue hour of dawn

The shadows parting
Like curtains in a sideshow, 

The eyes of the crucified
Staring down from the cross

As if seeing his bloody feet
For the very first time.

Charles Simic 

Ánh Sáng Mùa Hè

Nó thích nhà thờ trống rỗng
Vào cái giờ xanh của buổi sáng tinh mơ

Những cái bóng bỏ đi
Như những bức màn trong 1 buổi diễn phụ

Con mắt của Người bị đóng đinh
Nhìn xuống từ cây thập tự

Như thể Người nhìn thấy máu của Người
Ở chân
Lần đầu

Hai Cu

*

Gói quà thì mình ên
“Đại lượng” đếch đụng được vô nó
“Biết ơn” cái con mẹ gì lại càng không
Cái gọi là linh hồn không làm nhiễm nó.

So

The haiku's task is to achieve exemption from meaning within a perfectly readerly discourse (a contradiction denied to Western art, which can contest meaning only by rendering its discourse incomprehensible), so that to our eyes the haiku is neither eccentric nor familiar: it resembles nothing at all: readerly, it seems to us simple, close, known, delectable, delicate, "poetic"-in a word, offered to a whole range of reassuring predicates; insignificant nonetheless, it resists us, finally loses the adjectives which a moment before we had bestowed upon it, and enters into that suspension of meaning which to us is the strangest thing of all, since it makes impossible the most ordinary exercise of our language, which is commentary. What are we to say of this:

Spring breeze:
The boatman chews his grass stem.

or this:

Full moon
And on the matting
The shadow of a pine tree.

or of this:

In the fisherman's house
The smell of dried fish
And heat.

or again (but not finally, for the examples are countless) of this:

The winter wind blows.
The cats' eyes
Blink.

Such traces (the word suits the haiku, a kind of faint gash inscribed upon time) establish what we have been able to call "the vision without commentary." This vision (the word is still too Western) is in fact entirely privative; what is abolished is not meaning but any notion of finality: the haiku serves none of the purposes (though they themselves are quite gratuitous) conceded to literature: insignificant (by a technique of meaning-arrest), how could it instruct, express, divert? In the same way, whereas certain Zen schools conceive of seated meditation as a practice intended for the obtaining of Buddha-hood, others reject even this (apparently essential) finality: one must remain seated "just to remain seated." Is not the haiku (like the countless graphic gestures which mark modern and social Japanese life) also written "just to write"?
    What disappears in the haiku are the two basic functions of our (age-old) classical writing: on the one hand, description (the boatman's grass stem, the pine tree's shadow, the smell of fish, the winter wind are not described, i.e., embellished with significations, with moralities, committed as indices to the revelation of a truth or of a sentiment: meaning is denied to reality; furthermore, reality no longer commands even the meaning of reality); and on the other, definition; not only is definition transferred to gesture, if only a graphic gesture, but it is also shunted toward a kind of inessential-eccentric-efflorescence of the object, as one Zen anecdote puts it nicely, in which the master awards the prize for definition (what is a fan?) not even to the silent, purely gestural illustration of function (to wave the fan), but to the invention of a chain of aberrant actions (to close the fan and scratch one's neck with it, to reopen it, put a cookie on it and offer it to the master). Neither describing nor defining, the haiku (as I shall finally name any discontinuous feature, any event of Japanese life as it offers itself to my reading), the haiku diminishes to the point of pure and sole designation. It's that, it's thus, says the haiku, it's so. Or better still:   so! it says, with a touch so instantaneous and so brief (without vibration or recurrence) that even the copula would seem excessive, a kind of remorse for a forbidden, permanently alienated definition. Here meaning is only a flash, a slash of light: When the light of sense goes out, but with a flash that has revealed the invisible world, Shakespeare wrote; but the haiku's flash illumines, reveals nothing; it is the flash of a photograph one takes very carefully (in the Japanese manner) but having neglected to load the camera with film. Or again: haiku reproduces the designating gesture of the child pointing at whatever it is (the haiku shows no partiality for the subject), merely saying: that! with a movement so immediate (so stripped of any mediation: that of knowledge, of nomination, or even of possession) that what is designated is the very inanity of any classification of the object: nothing special, says the haiku, in accordance with the spirit of Zen: the event is not namable according to any species, its specialty short circuits: like a decorative loop, the haiku coils back on itself, the wake of the sign which seems to have been traced is erased: nothing has been acquired, the word's stone has been cast for nothing: neither waves nor flow of meaning.

Roland Barthes: Empire of Signs
[Translated by Richard Howard]

Bài tuy ngắn, nhưng thật khó dịch, và thật là tuyệt vời về Hai Cu. GCC đọc, cũng lâu rồi, hăm he dịch hoài, nhưng thấy căng quá. Khó, 1 phần phải biết 1 tí về ký hiệu, theo kiểu của Barthes, và môn "ký hiệu học" mà ông có thể được coi là một trong những người sáng lập.
Mở ra 1 phát, là Barthes đã phán, Đông là Đông, Tây là Tây rồi. Một bên, thì cố lấy hết mẹ cái nghĩa ra khỏi bản văn, một bên thì cố làm cho nó rối tung lên, đếch làm sao đọc được nữa, the haiku's task is to achieve exemption from meaning within a perfectly readerly discourse (a contradiction denied to Western art, which can contest meaning only by rendering its discourse incomprehensible),



Đêm Thơ Cung Trầm Tưởng

Cung Trầm Tưởng - Mặc Lâm

Notes:

Chương trình Chiều thơ nhạc Cung Trầm Tưởng vẫn tiến hành như dự trù vào cuối tháng 6, 2014. Nhạc sĩ Anh Bằng, nhạc sĩ Trường Sa, nhạc sĩ Phạm Mạnh Đạt, nhạc sĩ Khổng Ngọc Loan và nhạc sĩ Hạnh Cư đang trong diễn trình nhận lời mời một bài nhạc cho chương trình đặc biệt này.

Nhạc sĩ Nguyễn Tuấn (Penn State) chọn một bài thơ giai đoạn thi sĩ ở tù CS làm khúc tù ca, đã hoàn thành. Sẽ làm youtube sớm.  

Nhạc sĩ Võ Tá Hân cùng đã hoàn tất một bài tinh ca Cung Trầm Tưởng, bài "Lời Thề Nguyền Yêu Thương". Thơ chính là bài "Núi và Suối Một Huyền Sử" ông tặng hiền nội, trang 444 của thi tập Một Hành Trình Thơ (1948-2008), Cung Trầm Tưởng, nhưng được kết hợp thêm vào 2 trích đoạn thơ của 2 thi sĩ xứ ngoài, bài Rondel De  L’Adieu (Ca Khúc Biệt Ly) của thi sĩ Pháp Edmond Haraucourt (1856 - 1941, chủ đề L'Amour - Romance) và bài The Mystery of Pain (Bí mật của khổ đau) của thi sĩ Mỹ Emily Dickinson (1830 – 1886, chủ đề Melancholy - Death), trích đoạn ghép ý thơ "buffered" thêm cho thơ chính của Cung Trầm Tưởng, tôi làm sự tổng hợp thơ của 3 thi sĩ và bài chung được hình thành, nhạc sĩ phổ nhạc sau đó. Nhạc của Võ Tá Hân sẽ cho ra youtube.  

Thơ là lối văn chương súc tích cô đọng nỗi lòng hay tâm cảm của nhà thơ, nếu có sự kết hợp giữa văn chương thi ca chỉ vì nỗi niềm được dàn trải cảm nghĩ chung về tâm tư và đời sống theo ý tưởng thầm kín mà tôi đã suy nghĩ.

Xin cám ơn tất cả. J’aime tout le monde.

Trần Việt Hải.

Thơ Mỗi Ngày

When You are Old

When you are old and grey and full of sleep,
And nodding by the fire, take down this book,
And slowly read, and dream of the soft look
Your eyes had once, and of their shadows deep;

How many loved your moments of glad grace,
And loved your beauty with love false or true,
But one man loved the pilgrim soul in you,
And loved the sorrows of your changing face;

And bending down beside the glowing bars,
Murmur, a little sadly, how Love fled       
And paced upon the mountains overhead
And hid his face amid a crowd of stars.

W.B. Yeats: The Collected Poems, ed by Richard J. Finneran

Khi Em của Gấu già

Khi Em của Gấu già, tóc xám, lúc nào cũng thèm ngủ
Ngồi gật gù bên bếp lửa, và bèn lôi cuốn Istanbul ra
Đọc từ từ, mơ ánh mắt dịu dàng và những bóng huyền sâu thẳm của chúng
Ánh mắt thời Em của Gấu còn đương thời

Ôi chao, bao nhiêu tên đã yêu những khoảnh khắc ân sủng đó
Và yêu vẻ đẹp của Em, với tình yêu, giả hay thực
Nhưng chỉ có một thằng cha Gấu
Là cực mê những nét buồn trên khuôn mặt thay đổi của Em thôi!

Và cúi đầu bên thành giường sáng ngời
Thì thầm, hơi có tí buồn,
Như thế nào, Gấu bỏ chạy
Lên những ngọn đỉnh trời,
Giấu mặt giữa những chùm sao

Chưa kể lần xém chết,
Giữa những pho tượng Phước Lộc Thọ.

NOWHERE
FAST

1.

Hãy cho anh bí mật của em
Anh có thể giữ nó.
Anh trở thành nó.

2.

Cách mấy tay đua ski
Xếp hàng
Trở thành cuộc đua:

3.

Hãy nhìn cái
Bỏ vô nồi
Và cái ra!

4.

Cách, mỗi chọn lựa
Chọn chính nó
Làm chúng ta, không làm chúng ta;

5.

Giấu chúng ta, bội phản chúng ta.
Ôi cái la bàn của anh
Sự hoang dại của em

6.

Đợi trả lời:
Nói em và anh
Sẽ tìm ra lối của chúng ta-

7.

Cuối cùng –
Như nhìn và đã nhìn
Hay biển và bầu trời.

1.

Give me your secret.
I can keep it.
I'll become it.

2.

The way ski racers
Lining up
Become the race:

3.

Look what was put
Into the pot
And what came out!

4.

The way each choice
That made itself
Make us unmade us;

5.

Hid us, betrayed us.
Omycompass
Your wilderness

6.

Awaits reply:
Say you and I
Will find our way

7.

Eventually-
Like see and saw,
Or sea and sky.

-Dan Chiasson
NYRB, March 20, 2014

THROUGH LOVE'S
GREAT POWER

Through love's great power to be made whole
In mind and body, heart and soul-
Through freedom to find joy, or be
By dint of joy itself set free
In love and in companionhood:
This is the true and natural good.

To undo justice, and to seek
To quash the rights that guard the weak-
To sneer at love, and. wrench apart
The bonds of body, mind and heart
With specious reason and no rhyme:
This is the true unnatural crime.

- Vikram Seth

Note: Hai bài thơ, trên số NYRB, 20 March, 2014. Số này có bài về “Ngàn Lẻ Một Đêm”, với cái tít “Những Nữ Hoàng Của Đêm”, “Queens of the Night” thật tuyệt, nhưng không cho đọc free.
Từ từ TV sẽ scan, post lên cho quí vị đọc chơi, hà hà!

Cái dạng thức sơ đẳng nhất của tra tấn ngôn ngữ được gọi là thơ ca.
GCC đọc, nội câu trên, cộng thêm tên tác giả, là bèn xỉa 5 đồng ra, để mua tờ báo! Trên đường về đọc sơ sơ bài viết, “The Poetic-Torture-House of Language” là đã điếng hồn rồi, y như nghe tiếng gà gáy trưa của 1 nhà thơ Mít.
Zizeck trích 1 câu của Jeninek, Nobel văn chương, đọc 1 phát, thấy như được chích 1 phát, như ngày nào còn ghiền:
Ngôn ngữ nên được đè ra tra tấn, để nói sự thực.
Language should be tortured to tell the truth.

Quá cần cho xứ Mít.
Xứ của Thơ!

Merde!

Thơ Dã Viên

Time and the river
Will bring my love to me.
If I must, I'll wait forever
By the river that took her to the sea.
Here by the river
We loved, we laughed, we cried.
But with time, my love, my darling,
Left my arms and was gone with the tide.
*
How long I've been lonely;
Star of love, shine bright.
I need her; oh, lead her
To my arms tonight.
Time and the river,
How swiftly they go by.
But my heart will beat for no other
Till time stands still and the river runs dry.

How long I've been lonely;
Star of love, shine bright.
I need her; oh, lead her
To my arms tonight.
Time and the river,
How swiftly they go by.
But my heart will beat for no other
Till time stands still and the river runs dry.

Songwriters
A. SCHROEDER, W. GOLD
Published by

Lyrics © A. SCHROEDER INTERNATIONAL LLC

Bên một dòng thơ cổ xưa

sông khơi dòng trên tấm toan thời xa
cây xanh lục hai bên bờ, thuyền buồm giữa dòng,
cánh tay quăng lưới vào khoảng không
đêm xóm cồn, trăng soi, cá quẫy nước
những con người thời xưa, khăn
áo lạ lẫm
 
chợ họp bến sông, ồn ã rạng đông
sương còn lạnh áo người khua tay chèo
trưa, theo gió nam, một tiếng ru thời gần, nghe quen
nhắn người đi xa trở về, con ve kêu mùa hạ
(rằng, biết mấy thu nguôi lòng)
 
tìm lại người chuyện trò, cây già, quán cũ
cúi đầu dòng chữ hoen, trang sách ố
có rủ nhau về, nhấp ch
én rượu bên bãi dâu, trong gió mùa
vài lá thuyền gieo neo về một bến vắng chưa xa..

                                           Huế, 11.2011
Dã Vi
ên

Tks. NQT

Câu thơ đầu của bạn làm Gấu nhớ đến Borges, và đoạn vừa đọc, trong Ngón Thơ, This Craft of Verse, và cũng đã chôm 1 câu đưa lên Tin Văn.
Borges nhắc đến câu thơ của Tennyson, trong 1 bài thơ làm khi mới 13, 14 tuổi, dục bỏ, destroy, nhưng may sao còn 1 câu: Thời gian trôi nửa đêm, Time flowing in the middle of the night. Và Borges khen cậu bé Tennyson chọn chữ cực khôn. Nửa đêm, im ắng, người ngủ, tuy nhiên sông vưỡn trôi không 1 ti
ếng động...

Bữa nay, lạ làm sao đọc lại, thì nó lại bật ra dòng thơ của Apollinaire:

Đêm tới, giờ đổ,
Ngày đi ta ở!

Vienne la nuit sonne l'heure
Les jours s'en vont je demeure 

Cũng trong đoạn trên, trong bài viết về "Ẩn dụ", Borges nhắc tới 1 cuốn tiểu thuyết, giản dị có cái tên, Of Time and the River [còn cái bài hát cùng tên, thật tuyệt Gấu thật mê, khi mới lớn, Nat King Cole ca (1) ].
Thời gian, dòng sông, cả hai cùng trôi…
Và tất nhiên, Borges bèn lôi câu nổi tiếng của nhà thơ Hy Lạp: Chẳng ai có thể tắm hai lần trong cùng dòng sông, No man steps twice into the same river.

Nhưng đến đây, thì Borges đổi giọng:

Ở đây, chúng ta có cái khởi đầu của sự ghê rợn. Here we have the beginning of terror.
Bởi là vì lúc thoạt đầu, at first, chúng ta nghĩ đến dòng sông trôi, những giọt nước khác nhau…
Và rồi chúng ta được làm ra để mà nghĩ rằng, chúng ta là con sông, và chúng ta cũng “phiêu” như là con sông!

Tuyệt!

And we are made to feel that we are the river, that we are as fugitive as the river.

Hai dòng thơ của Apollinaire, ngược hẳn lại:

Đêm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở

Và rồi:

L'amour s'en va comme cette eau courante
L'amour s'en va
Comme la vie est lente
Et comme l'Espérance est violente

Tình bỏ đi như nước sông chảy
Tình bỏ đi
Đời sao chậm như rùa
Và hy vọng mới hung bạo làm sao!
*

Về bài thơ của bạn, Gấu mê mấy dòng cuối:

tìm lại người chuyện trò, cây già, quán cũ
cúi đầu dòng chữ hoen, trang sách ố
có rủ nhau về, nhấp chén rượu bên bãi dâu, trong gió mùa
vài lá thuyền gieo neo về một bến vắng chưa xa.

Tuyệt. Nhất là dòng cuối, "gieo neo về", "bến vắng chưa xa".
Thơ bạn rất lạ, tuy cùng trong không khí thơ Tàu.

Tks

NQT

The Poetic Torture-House of Language
Căn nhà tra tấn thơ của ngôn ngữ

What if, however, humans exceed animals in their capacity for violence precisely because they speak

Liệu con người hung bạo hơn loài vật, là do chúng... nói?
Không chỉ nói, mà khốn kiếp hơn, làm thơ?

Đường ra trận mùa này đẹp lắm

Almost a century ago, referring to the rise of Nazism in Germany, Karl Kraus quipped that Germany, a country of Dichter und Denker (poets and thinkers), had become a country of Richter und Henker (judges and executioners) - perhaps such a reversal should not surprise us too much.

Cách đây hầu như cả 1 thế kỷ, nhân cái vụ vùng lên của Nazi tại Đức, Karl Kraus bèn đi 1 cú thọc lét, rằng thì là Đức vốn là 1 nước của những thi sĩ và những nhà tư tưởng, nay trở thành xứ xở của ông tòa và đao phủ.
Cái sự đảo đi đảo lại 1 tí đó, chắc cũng chẳng làm ai ngạc nhiên

Ui chao sao giống Xứ Mít quá vậy.
Thi sĩ & Toán Sĩ & Nobel Sĩ, nay biến thành Ông Tòa [Viện Tàn Sát Nhân Dân] và Đao Phủ Thủ [Cớm VC]
&

Plato's reputation suffers because of his claim that poets should be thrown out of the city-rather sensible advice, judging from this post-Yugoslav experience, where ethnic cleansing was prepared by poets' dangerous dreams. True, Slobodan Milosevic "manipulated" nationalist passions - but it was the poets who delivered him the stuff that lent itself to manipulation. They - the sincere poets, not the corrupted politicians - were at the origin of it all, when, back in the seventies and early eighties, they started to sow the seeds of aggressive nationalism not only in Serbia, but also in other ex-Yugoslav republics. Instead of the industrial-military complex, we in post -Yugoslavia had the poetic-military complex, personified in the twin figures of Radovan Karadzic and Ratko Mladic. Karadzic was not only a ruthless political and military leader, but also a poet. His poetry should not be dismissed as ridiculous - it deserves a close reading, since it provides a key to how ethnic cleansing functions.
Slavoj Zizek

Nhân vật Karadzic, một thủ lĩnh quân sự chính trị đáng sợ, còn là thi sĩ, thơ của ông thuộc thứ cực bảnh, chớ coi thường, và cần đọc thật gần, vì nó cung cấp chìa khóa cho câu hỏi cái cú diệt chủng nó làm ăn là làm sao…
Tin Văn đã giới thiệu đòi phen rồi.

Còn Mladic, thì được Simic đi 1 đường vấn an

Mladic’s Arrest: What Did Serbia Know?

Charles Simic

May 26, 2011

The surprise arrest in northern Serbia of Ratko Mladic, the Bosnian Serb general believed to be behind the 1995 Srebrenica massacre, is very good news. As one mother, whose son was killed in Srebrenica, said on Serbian TV, “Justice is slow, but it does come.” The big question is why the Serbian government waited so long to arrest him, because it is difficult to believe that security services had completely lost his trail after he ceased to be protected by the army some years back. As I noted almost a year ago, it was well known from a series of undated home videos that Mladic, despite being one of the world’s most wanted men, had been “moving about freely, playing ping pong, popping champagne corks, toasting friends, bouncing a grandchild on his knee, admiring the beauties of nature, even crying at a funeral.” Now that we have learned that he was living under another name in a house of a cousin whose last name is Mladic, the Serbian government’s story about not able to find him anywhere sounds even more unbelievable. 

Clearly, the political pressure from Europe that has threatened to scuttle Serbian candidacy for the European Union played a role in the government’s judgment that politically this was the right moment to hand him over. It’s probably no coincidence that the arrest was announced on the day the EU’s policy chief, Catherine Ashton, was scheduled to visit Serbia.

Of course, there are plenty of Serbs in Serbia and in the Serbian part of Bosnia who will regard the decision by Boris Tadic and his government to finally arrest Mladic as treason. These are people who will not admit, even if presented with ample and clear evidence, that he or any other Serb committed any crimes in that war, or, for that matter, in any other war they ever fought. In that respect, they are like all their Balkan neighbors. They’ll see another conspiracy, another national betrayal, and may even go into the streets, but I don’t believe that will make much difference. Serbian governments, one must remember, have plenty of practice turning over war criminals to the court in The Hague, and in this case, I suspect, even many of the nationalist politicians who will publicly object have come to realize that it’s not worth thumbing their noses at Europe because of one man.
 
From what we are told, Mladic has aged a great deal and is in poor health, but unlike Karadzic at the time of his capture, he was wearing no disguises, and has been very cooperative. He can appeal the decision to extradite him, but the whole process ought not to take longer than a few days. Now, what everyone will want to know in Serbia is who knew about his hiding place, who provided him with false documents, and more importantly, what he himself is willing to tell about the history of the war and what happened in Srebenica, and the various unsavory deals that took place with representatives of other ethnic groups and emissaries from foreign countries in their attempt to placate the Serbs and end the hostilities—matters that I’m certain all of those involved would prefer to keep secret.

'Nhà thơ' Karadzic

Nhà báo Anh Ed Vulliamy kể lại về chuyến thăm Bosnia 1992 cùng đoàn làm phim ITV rằng Karadzic, một bác sĩ tâm thần học, thạo tiếng Anh (từng học ở đại học Columbia, Hoa Kỳ), có "cặp mắt nhợt nhạt", "cái bắt tay hờ hững".
Ai dám nghĩ một trí thức nhỏ nhẹ có vầng tóc cao không khác gì một nghệ sĩ ở Paris lại cho quân lính bắn giết, hãm hiếp điên cuồng.
Đoàn làm phim bay qua các làng mạc bị đốt cháy, những bãi xác người tới Pale, để gặp Karadzic, kẻ tự hào nói về chính sách "thanh lọc sắc tộc".
Cùng lúc, tại "nước cộng hòa" tự xưng của vài trăm nghìn người Serb ở Bosnia, những nhóm dân chúng cuồng nộ vì tinh thần bài Hồi giáo còn tổ chức hội thơ của Karadzic, vừa là tổng thống, vừa là nhà thơ dân tộc.
"Nhà thơ lớn" còn sang London, Paris để dự các cuộc hội đàm "hòa bình", một vết nhơ của lịch sử ngoại giao châu Âu.
BBC

Như vậy, chỉ vì ông Trùm còn là nhà thơ, cho nên ông BBC Mít này mới để kế bên nhà văn Solz?
Bác Hồ chẳng phải vừa là Cha Già, vừa là Nhà Thơ Dân Tộc sao?
Viết về ông Trùm, bèn nhớ tới Bác?
*
Và đây là mấy dòng thơ của ông Trùm:

« Je suis né pour vivre sans tombeau, / ce corps humain ne mourra jamais, /
 il n'est pas né seulement pour sentir les fleurs / mais aussi pour incendier, tuer et tout réduire en poussière ... »

[Tôi sinh ra để sống không một nấm mồ
Xác thân này không hề chết
Nó sinh ra không phải chỉ để ngửi mùi hoa
Mà còn để đốt nhà, giết người và biến tất cả thành tro bụi]

PEN condemns publication of Karadzic poems

Slovakian literary magazine under fire after printing poetry by Bosnian Serb war criminal
PEN kết án báo văn học Slovak đăng thơ đao phủ thủ & thi sĩ
Báo phản pháo: Thơ bảnh như thế, tại sao không đăng?

Karadzic có tài chữa bệnh bằng nhân điện, giống thi sĩ PTT ở Việt Nam. Ông đóng vai y sĩ, trong nhiều năm, và chỉ bị lộ, khi bị đàn em phản thùng.

IN THE STREET

Beauty, dark goddess,

We met and parted
As though we parted not.

Like two stopped watches
In a dusty store window,

One golden morning of time.

Ở con phố Gia Long, Xề Gòn


BHD, Nữ Thần Đen, Nhan Sắc Đen

Đôi ta gặp, và đi
Như thể chưa từng

Như hai đồng hồ chết
Ô kính bụi bặm

Một buổi sáng
Thời gian
Vàng.

EMPTY BARBERSHOP

In pursuit of happiness, you may yet
Draw close to it momentarily
In one of these two leather-bound chairs
With the help of scissors and a comb,

Draped to the chin with a long white sheet,
While your head slips through
The invisible barber's greasy fingers
Making your hair stand up straight,

While he presses the razor to your throat,
Causing your eyes to spring open
As you discern in the mirror before you
The full length of the empty barbershop

With two vacant chairs and past them
The street, commensurately empty,
Except for the pressed and blurred face
Of someone straining to look inside.

Charles Simic: The Voice at 3 AM

Tiệm Hớt Tóc Trống Rỗng

Trong khi truy tìm hạnh phúc
Có thể bạn xém tóm được nó
Khi ngồi, một, trong hai ghế da
Với sự trợ giúp của lược và kéo.

Chùm cái khăn trắng lên tận cằm
Trong khi cái đầu chui vô mấy ngón tay
Trơn, nhờn
Của một anh thợ cạo vô hình;
Ui chao, chỉ nội nghĩ không thôi
Là tóc bạn đã dựng đứng lên rồi

Trong lúc hắn ta dí con dao cạo sắc như nước
Vô cổ bạn
Mắt bạn trố lên như hai con ốc nhồi
Khi nhìn qua chiếc gương trước mặt
Cả 1 tiệm hớt tóc trống rỗng, dài thòng, ở đằng sau lưng mình.

Qua hai cái ghế trống, và quá chúng
Con phố, vắng tanh, thật cân xứng với cái tiệm hớt tóc chết tiệt

Vắng tanh, như Chùa Bà Đanh
Ngoại trừ một bộ mặt

Vội vã - khẩn trương, chôm từ VC - mờ nhạt
Của 1 kẻ nào đó
Cố nhìn vô.

Note: Nhớ mang máng, dịch rồi. Kiếm hoài không thấy, bèn dịch lại!


Chùm thơ Simic

IN THE STREET

Beauty, dark goddess,

We met and parted
As though we parted not.

Like two stopped watches
In a dusty store window,

One golden morning of time.

Ở con phố Gia Long, Xề Gòn


BHD, Nữ Thần Đen, Nhan Sắc Đen

Đôi ta gặp, và đi
Như thể chưa từng

Như hai đồng hồ chết
Ô kính bụi bặm

Một buổi sáng
Thời gian
Vàng.


EXPLAINING A FEW THINGS

Every worm is a martyr,
Every sparrow subject to injustice,
I said to my cat,
Since there was no one else around.

It's raining. In spite of their huge armies
What can the ants do?
And the roach on the wall
Like a waiter in an empty restaurant?

I'm going down to the cellar
To stroke the rat caught in a trap.
You watch the sky.
If it clears, scratch on the door. 

Phân giải đôi điều

Mọi con trùn thì là kẻ tuẫn nạn
Mọi chú sẻ, hứng chịu bất công
Tớ nói với con mèo của mình
Kể từ khi chẳng còn người nào ở chung quanh

Trời mưa. Mặc dù những binh đoàn kiến khổng lồ
Chúng có thể làm gì?
Và con cá “roach” ở trên tường
Thì giống như một anh bồi trong 1 nhà hàng trống rỗng

Tao đi xuống hầm rượu nhe
Để nựng nựng con chuột bị sập bẫy
Mi ngó chừng bầu trời
Nếu tạnh mưa thì cào cào vô cánh cửa.

 

 

ROMANTIC LANDSCAPE

To grieve, always to suffer
At the thought of time passing.
The outside world shadowy
As your deepest self.
Melancholy meadows, trees so still,
They seem afraid of themselves.

The sunset sky for one brief moment
Radiant with some supreme insight,
And then it's over. Tragic theater:
Blood and mourning at which
Even the birds fall silent.

Spirit, you who are everywhere and nowhere,
Watch over the lost lamb
Now that the mouth of the Infinite
Opens over us
And its dumb tongue begins to move darkly.

Phong cảnh lãng mạn

Đau buồn, luôn luôn đau buồn, đau thương
Khi nghĩ thời gian cứ thế mà cắp đít ra đi
Thế giới ngoài kia mới u ám làm sao
Y chang nơi sâu thẳm của mỗi tên Gấu Cà Chớn
Đồng cỏ rầu rĩ, cây trầm tư
Như sợ, chính chúng.

Bầu trời hoàng hôn, trong một thoáng
Bỗng long lanh với 1 cú đốn ngộ cực cao,
Và rồi, hết. Kịch bi đát:
Máu me, tang tóc
Ngay cả lũ chim cũng đành chết sững.

Tinh thần, mi, ở mọi nơi và ở không đâu,
Trông chừng con cừu thất lạc
Bây giờ, khi tháng Vô Cùng
Mở ra trước chúng ta
Và cái lưỡi đần độn của nó bắt đầu lù tà mù chuyển động

EMPTY BARBERSHOP

In pursuit of happiness, you may yet
Draw close to it momentarily
In one of these two leather-bound chairs
With the help of scissors and a comb,

Draped to the chin with a long white sheet,
While your head slips through
The invisible barber's greasy fingers
Making your hair stand up straight,

While he presses the razor to your throat,
Causing your eyes to spring open
As you discern in the mirror before you
The full length of the empty barbershop

With two vacant chairs and past them
The street, commensurately empty,
Except for the pressed and blurred face
Of someone straining to look inside.

Charles Simic: The Voice at 3 AM