Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
Noel 2011
Christopher
Hitchens, 1949-2011
Note: Bạn thân của Martin
Amis.
Người đòi
đưa Kissinger ra tòa vì tội ác chống lại nhân loại
4. Ngài
Henry thân mến,
(Dear
Henry,)
Henry ở đây,
là Henry Kissinger, ông vua đi đêm, ảo thuật gia trong ngành ngoại
giao. Nếu
Stalin có một hồ sơ nho nhỏ, về những năm tháng còn mang bí danh là
Koba, và đã
tìm đủ mọi cách để cho nó ngủ yên, cùng với những người không may biết
đến nó,
sau đây người viết xin được cống hiến, khuôn mặt giấu kín của ông vua
đi đêm,
qua bài viết "Dear Henry", trên tờ "Người Quan Sát Mới" (Le
Nouvel Observateur), số đề ngày 9 tháng Năm 2001. Theo tác giả bài báo,
cần phải
đưa Kissinger ra toà án quốc tế.
Bài báo là một
trích đoạn, từ cuốn "Những Tội Ác của Ngài Kissinger" ("Le
Crimes de Monsieur Kissinger", tác giả Christopher Hitchens, nhà xuất
bản
Saint-Simons, 206 trang, 99 F).
Trong mười năm, từ 1969 tới
1977, Henry
Kissinger là kiến trúc sư về đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ. Trùm Cố
Vấn Quốc
Gia về An ninh, và, từ năm 1972, Bộ trưởng Ngoại Giao, ông cho áp dụng
lý thuyết
về những liên hệ quốc tế, đã từng được ông điều nghiên và đem ra giảng
dậy khi
còn làm giáo sư môn khoa học chính trị tại đại học Harvard.
Xuất thân từ một gia đình
tiểu-trưởng giả
(petite-bourgeoisie) Do Thái, tị nạn Nazi tại Mỹ vào năm 1938, con
người - được
coi là bộ não chiến thuật của Richard Nixon, và sau đó của Gerald Ford
– đã từng
say mê Metternich và "trật tự Âu Châu" nửa đầu thế kỷ 19. Viễn ảnh thế
giới của Kissinger - ông ta đã cố gắng đem ra áp dụng, từ Việt Nam tới
Cận
Đông, từ Moscow tới Bắc Kinh – là một viễn ảnh dựa trên sự khinh miệt
đối với
những ý thức hệ, và một tiếp cận mang tính thực dụng, những tương quan
quyền lực.
Đi đêm với Bắc Kinh, kết quả, Hoa Kỳ công nhận Trung Quốc. Đi đêm với
Lê Đức Thọ,
kết quả, chấm dứt chiến tranh Việt Nam, người Mỹ ra đi trong danh dự;
kết quả,
đồng nhận giải Nobel Hòa Bình với họ Lê vào năm 1973. Luôn luôn đóng
vai trò
con người bình dị, khiêm tốn, trên chính trường quốc tế, nhưng đằng sau
"Ngài Henry thân mến", là khuôn mặt giấu kín, sặc mùi máu. Chính bộ mặt
này đã được ký giả Christopher Hitchens quan tâm. Dựa trên những hồ sơ
mật tại
Bạch Cung, tại Bộ Ngoại Giao, tại CIA, bây giờ đã được để cho công
chúng coi,
ông đã cố gắng chứng minh, thật khác xa con người được những kẻ ái mộ
coi là một
ảo thuật gia trong ngành ngoại giao, Kissinger đã chơi một trò chính
trị mù mờ
(confuse), không đem đến kết quả (inefficace), và mang tính tội ác
(criminelle), và phải đem ông ta ra tòa án quốc tế.
Bài báo trích dẫn, là về vai
trò của
Kissinger, trong vụ làm thịt tổng thống Salvador Allende của nước
Chile, và kết
quả là sự lên ngôi của nhà độc tài Pinochet.
Từ năm 1962, tại Chile - cũng
như tại Ý và một
số quốc gia khác - CIA đã tài trợ những đảng phái "ngoan ngoãn". Tuy
nhiên, trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng Chín 1970, ứng cử viên tả
phái,
Salvador Allende đã thắng thế. Chỉ nội tên Dr Salvador Allende không
thôi, đã
là một cái gai đối với những đảng phái cực hữu, những công ty đầy quyền
lực như
ITT, Pepsi-Cola, Ngân Hàng Chase Manhattan, và CIA.
Cái gai chẳng mấy chốc làm
"nhức nhối"
tổng thống Nixon, gì thì gì cũng còn chút ân tình với Donald Kendall,
chủ tịch
hãng Pepsi-Cola, thời gian Nixon không thành công trong chính trị,
"đành" gia nhập một văn phòng luật nơi Phố Tường. Mười một ngày sau
khi Allende chiến thắng bầu cử, một chuỗi hội họp đã diễn ra tại
Washington, số
mệnh của ngài tân tổng thống tả phái, và tương lai chính trị xứ Chile
đã được
quyết định. Sau khi bàn bạc với Kendall, với David Rockefeller (Ngân
Hàng Chase
Manhattan), và với Richard Helms, trùm CIA, Kissinger cùng Helms tới
Văn Phòng
Bầu Dục tại Bạch Cung. Qua những ghi chú của Helms, Nixon chẳng úp mở
gì, cho
biết ngay "ao ước" của ông: Allende không được rớ tới cái ghế tổng
thống
(Allende ne devait pas occuper ses fonctions électives). "Bất kể những
rủi
ro có thể xẩy ra. Không được để dính dáng tới tòa đại sứ. Trước hết là
100 ngàn
đô la tiền mặt, sau cần nhiêu chi nhiêu. Làm việc ngày đêm. Chọn toàn
dân xịn,
thứ cừ nhất mà chúng ta có. Chương trình hành động: 48 giờ đồng hồ."
Những tài liệu bây giờ cho
thấy, Kissinger, Cố
Vấn An Ninh Quốc Gia, khi đó chẳng biết gì về Chile, một xứ sở mà ông
ta mô tả,
"mũi dao nhọn nhắm thẳng vào trái tim Nam Cực". Nhưng gì thì gì, Sếp
muốn là Trời muốn. Một nhóm người được triệu tập tại đại bản doanh CIA
ở
Langley, và một kế hoạch "đòn kép" được đề ra: một đòn
"dương", nghĩa là công khai, về mặt ngoại giao, và một đòn
"âm": đòn đánh lén. Bộ Ngoại Giao và Đại Sứ Hoa Kỳ tại Chile coi như
không biết tới đòn này. Mục tiêu: tạo bất ổn định, bắt cóc, ám sát….
nhằm đưa tới
một cú đảo chánh bằng quân sự.
Kế hoạch gặp một số trở ngại,
ngắn và dài hạn,
nhất là trước khi Allende làm lễ tuyên thệ nhậm chức tổng thống. Trở
ngại dài hạn,
là do truyền thống của đất nước Chile, quân đội vốn giữ vị trí trung
lập, đối với
quyền lực chính trị. Trở ngại ngắn hạn nhắm vào Tướng René Schneider.
Với chức
năng Tổng Tư Lệnh Quân Lực, ông công khai bầy tỏ sự chống đối, bất cứ
một âm
mưu dùng quân đội đảo ngược kết quả bầu cử. Chính vì vậy, sau một cuộc
họp vào
ngày 17 tháng Chín 1970, một quyết định được đề ra: phải cho ông Tướng
đi chỗ
khác chơi.
Kế hoạch "đốt nhà" được giao
cho những
sĩ quan cực đoan, rồi đổ tội cho những phần tử tả phái, ủng hộ Allende,
là
"đích danh thủ phạm". Phải làm sao tạo được một sự hỗn loạn khiến quốc
hội không chấp nhận Allende làm tổng thống. Tiền thưởng 50 ngàn đô sẽ
chi cho một,
hoặc một nhóm sĩ quan chịu chơi. Helms và viên phụ tá đặc trách chiến
dịch đòn
ngầm, Tomas Karamessines, giải thích cho Kissinger họ không được lạc
quan về
chiến dịch. Thành phần sĩ quan tỏ ra ngần ngại, hoặc chia rẽ, hoặc
trung thành
với Tướng Schneider và hiến pháp Chile. Như ghi chú của Helms cho thấy:
"Chúng tôi cố gắng làm cho Kissinger hiểu chuyện thành công là rất mỏng
manh". Kissinger ra lệnh thật là minh bạch cho Heilms và Karamessines,
tiếp
tục chơi, với bất cứ giá nào.
Ngày 15 tháng Chín 1970,
Kissinger được thông
báo, đã kiếm ra viên sĩ quan chịu chơi, tướng (général) Roberto Viaux;
tay này
có những liên lạc mật thiết với nhóm cực hữu Patria y Libertad, bản
thân ông ta
cũng là một tay cực hữu. Ông chấp nhận lấy 50 ngàn đô để trừ khử tướng
Schneider. Danh từ được sử dụng để chỉ viên sĩ quan chịu chơi là "kẻ
bắt
cóc", tuy nhiên lại có lệnh hãy cung cấp súng máy, và lựu đạn cay cho
những
cộng sự viên của Viaux, họ cũng chẳng hề hỏi lại đàn anh, sau khi bắt
cóc tướng
Schneider, thì phải cư xử ra sao với ông ta.
Sau đây là trích đoạn, một
"thông điệp mật"
của CIA, đề ngày 16 tháng Mười, sau cuộc họp mật cấp cao của viên chức
Hoa Kỳ,
vào ngày 15 tháng Mười, nhằm kiểm tra đánh giá những hoạt động của bọn
chủ mưu.
Thông điệp này được coi là "hướng dẫn chiến dịch", gửi cho những nhân
viên CIA ở Santiago:
… Allende phải bị lật đổ bằng
một cú đảo
chánh… Tốt nhất là trước ngày 24 tháng Mười (ngày tổng thống chính thức
nắm quyền).
Nhưng những cố gắng nhằm đạt được mục đích vẫn tiếp tục sau thời hạn
trên.
Chúng ta phải tạo áp lực tới mức tối đa, sử dụng mọi phương tiện thích
ứng.. Bắt
buộc phải hành động trong bóng tối, phải làm sao cho chính quyền Hoa Kỳ
không bị
mang tiếng…
[Viaux và đám đệ tử, theo như
đánh giá sau đó,
là không thể kiểm soát được, có thể gây phiền nhiễu cho CIA và Cố Vấn
An Ninh
Quốc Gia, cho nên bị loại bỏ, và kế hoạch Schneider được giao cho một
bộ phận
quân đội được kính trọng hơn, cầm đầu bởi tướng Camilo Valenzuela, sĩ
quan trưởng
đạo quân ở Santiago.]
Chiều ngày 19 tháng Mười 1970,
nhóm
Valenzuela, được tăng cường bởi vài người thuộc nhóm Viaux, với lựu đạn
cay do
CIA cung cấp, đã toan bắt cóc tướng Schneider khi ông rời một bữa ăn
tối. Thất
bại, do Schneider không dùng công xa như thường lệ, mà lại dùng xe
riêng. Sau
cú bắt cóc hụt này, CIA Washington ra lệnh phải khẩn cấp hành động, bởi
vì phải
trả lời cấp trên vào sáng ngày 20 tháng Mười, và hai phong bì, mỗi cái
50 ngàn
đô, được trao cho Valenzuela, và phụ tá chính của ông, với điều kiện
phải thực
hiện bằng được mục tiêu. Cú thứ nhì diễn ra vào chiều ngày 20 tháng
Mười, nhưng
cũng thất bại. Ngày 22 tháng Mười, những khẩu súng máy "đã được sát
rrùng" (có nghĩa là không thể nào tìm ra xuất xứ), được trao cho nhóm
Valenzuela nhằm thực hiện cho được âm mưu kể trên, nhưng trong cùng
ngày, tướng
René Schneider đã bị nhóm Roberto Viaux ám sát.
Cuộc đảo chánh đẫm máu lật đổ
tổng thống
Salvador Allende xẩy ra vào ngày 11 tháng 9 năm 1973, trong lúc Ngài
Henry thân
mến đang điều trần trước Thượng Viện, trước khi được phong chức Bộ
Trưởng Ngoại
Giao. Ông ta đã nói dối, khi quả quyết chính quyền Hoa Kỳ không có mắc
mớ gì tới
chuyện làm thịt tổng thống Allende. Những hồ sơ bây giờ được cho công
chúng
coi, cho thấy ngược lại. Trong số đó, có một, của tùy viên quân sự
(thuỷ quân lục
chiến) Hoa Kỳ, Patrick J. Ryan. Viên sĩ quan này đã ghi lại từng chi
tiết, những
liên hệ chặt chẽ giữa ông ta với những viên sĩ quan phản loạn dính líu
vào âm
mưu lật đổ tổng thống Allende. Viên sĩ quan này đã coi ngày 11 tháng 9
năm 1973
là "Ngày J", tương tự như ngày đổ bộ Normandie của quân đội Đồng Minh
chống lại Quốc Xã, và nhận xét một cách hoàn toàn thỏa mãn, là "cú đảo
chánh tại Chile gần như hoàn hảo" ["le coup d’Etat (sic) au Chili
était presque parfait).
Jennifer
Tran
When Martin
Amis, his closest friend on earth, published a book in which he took
Christopher to task for what he viewed as inappropriate laughter at the
expense
of Stalin’s victims, Christopher responded with a seven-thousand-word
rebuttal
in The Atlantic that will probably have Martin thinking twice before
attempting
another work of historical nonfiction. But Christopher’s takedown of
his chum
must be viewed alongside thousands of warm and affectionate words he
wrote
about Martin, particularly in his memoir, “Hitch-22,” which appeared
ironically—or perhaps with exquisite timing—simultaneously with the
presentation of his mortal illness
“[Mother
Teresa] was not a friend of the poor. She was a friend of poverty. She
said
that suffering was a gift from God. She spent her life opposing the
only known
cure for poverty, which is the empowerment of women and the
emancipation of
them from a livestock version of compulsory reproduction.”
Christopher
Hitchens
(1949-2011): A Career in Quotes
Thơ
Mỗi Ngày
Master of
Disguises
Surely, he
walks among us unrecognized:
Some barber,
store clerk, delivery man,
Pharmacist, hairdresser, bodybuilder,
Exotic dancer,
gem cutter, dog walker,
The blind
beggar singing, O Lord, remember me,
Some window
decorator starting a fake fire
In a fake
fireplace while mother and father watch
From the couch with their frozen smiles
As the
street empties and the time comes
For the
undertaker and the last waiter to head home.
O homeless
old man, standing in a doorway
With your face half hidden,
I wouldn't
even rule out the black cat crossing the street
The bare light bulb swinging on
a wire
In a subway
tunnel as the train comes to a stop.
Tổ sư Hoá
trang
Hẳn rồi, hắn
đi giữa chúng ta mà không ai nhận ra
Một anh thợ
hớt tóc, một viên thư ký, một người giao hàng
Nhà bào chế
thuốc Tây, thợ làm tóc, lực sĩ thẩm mỹ
Người khiêu
vũ điệu Ba Tư, Ả rập
Thợ kim hoàn,
người dẫn chó đi dạo,
Người ăn xin
mù ư ử, Ôi Chúa, hãy nhớ đến tôi
Một cửa sổ
trang hoàng Noel “bục” 1 phát, khởi sự đám cháy dởm
Ở một đám lửa
dởm, trong lúc bà via và ông via nhìn,
Từ giường nằm,
với nụ cười đóng băng
Con phố trống
dần, đã tới lúc người chủ nhà hòm và tên bồi cuối cùng về nhà
Ôi tên già
không nhà, đứng ở lối đi vô nhà
Với bộ mặt
giấu mất một nửa,
Ta sẽ không
ra lệnh cho con mèo đen vượt qua đường
Ngọn đèn nơi
đường hầm lắc lư khi xe điện ngầm tới trạm
Summer Light
It likes
empty churches
At the blue hour of dawn
The shadows
parting
Like
curtains in a sideshow,
The eyes of
the crucified
Staring down from the cross
As if seeing
his bloody feet
For the very first time.
Charles
Simic
Ánh Sáng Mùa
Hè
Nó thích nhà thờ trống rỗng
Vào cái giờ xanh của buổi sáng tinh mơ
Những cái bóng bỏ đi
Như những bức màn trong 1 buổi diễn phụ
Con mắt của Người bị đóng đinh
Nhìn xuống từ cây thập tự
Như thể Người nhìn thấy máu của Người
Ở chân
Lần đầu
Private
Miseries
More than
this crippled veteran playing the banjo,
I have no
right to grumble,
More than
this old woman cracking open her purse
To give him
a quarter,
Lest they
both take offense and beat me
On the head
with one of his crutches.
My own
anguish must remain unspoken,
Hidden
behind a firm stride and a smile.
One day I
knelt down and cursed God
For all the
suffering and injustice he consents to.
Since then,
I have felt even more alone.
Like a
lifelong widower forever unconsoled
I pass the
homeless huddled in doorways
Upon a
winter morning and dare not
Grouse about
my own sleepless night,
And my cold
feet that make me hurry past them.
Những nỗi khốn
khổ mình ên
Hơn cả cái
anh cựu binh VNCH,
già què, đang
từng tưng với cây đàn băng dzô
Tớ đếch có
quyền càu nhàu
Hơn cả cái bà
già đang cố mở bóp
lấy mấy nghìn Cụ Hồ
cho ông lính Ngụy già què
Cứ để cho họ
cảm thấy bị tổn thương và đập vào đầu tớ
Với
một trong những cây nạng
Cái nỗi thống
khổ của riêng tớ phải được nín khe,
Và được giấu
ở bên dưới bước đi mạnh mẽ, và nụ cười.
Một bữa tớ
quỳ xuống và nguyền rủa Thượng Đế
Về bao đau
khổ và bất công mà ông ta cứ nhè tớ mà trút xuống
Kể từ đó, tớ
cảm thấy cô đơn còn hơn bao giờ hết
Như một bà
goá cả đời không hề được an ủi.
Tớ đi qua một
đám người vô gia cư láo nháo ở hành lang
Một buổi sáng mùa đông và không dám
Càu nhàu về
một đêm mất ngủ của riêng tớ
Và đôi chân
lạnh giá của tớ càng khiến tớ vội vã đi qua họ
And Who Are
You, Sir?
I'm just
a
shuffling old man,
Ventriloquizing
For a god
Who hasn't
spoken to me once.
The one with
the eyes of a goat
Grazing
alone
On some high
mountain meadow
In the long
summer dusk.
Nhưng Ngài là
Ai, hử Ngài?
Tớ chỉ là một
tên già lê lết
Nói chuyện bằng
bụng
Về một ông
trời
Chưa từng nói
với tớ một lần
Kẻ có
đôi mắt
dê
Thả dê một mình
Trên cánh đồng
cỏ trên núi cao
Vào một hoàng
hôn dài mùa hè
Charles
Simic
Bọ Lập
La Peau
[Làn
Da]: Một cuốn tiểu thuyết-Trùm: Un Archi-Roman
Ghi
chú
trong ngày
Joseph Roth: Going Over
the Edge
Michael
Hofmann
The
following essay will appear, in somewhat different form, as the
introduction to
Joseph Roth: A Life in Letters translated and edited by Michael
Hofmann, to be
published by Norton in January. The accompanying letters between Roth
and
Stefan Zweig are from the book, which is the first translation of the
correspondence of Roth (1894-1939), author of The Radetzky March, among
many
other works.
LETTERS
BETWEEN STEFAN ZWEIG AND JOSEPH ROTH
Stefan Zweig
to Joseph Roth, March 31, 1936 (from London)
... You must
get it out of your head, the idea that we're somehow being rough with
you, or
hard on you. Don't forget we're living in a period of general doom, and
we can
count ourselves lucky if we get through it at all. Don't go accusing
publishers, don't blame your friends, don't even beat your own breast,
but
finally have the courage to admit that however great you are as a
writer, in
material terms you're a poor little Jew, almost as poor as seven
million
others, and are going to have to live like nine tenths of the human
beings in
the world, on a small footing and with a tightened belt. For me that
would be
the only proof of your cleverness: don't always "fight back," stop
going on about the injustice of it all, don't compare your earnings to
those of
other writers who don't have a tenth of your talent. Now is your chance
to show
what you call modesty ....
Roth to
Zweig,
April 2,
1936 (from Amsterdam)
... You know
you've no need to tell me of all people what it is to be a poor little
Jew. I've
been that since 1894, and with pride. A believing Eastern Jew from
Radziwilllow. I would drop it if I were you. I've been small and poor
for 30
years. Heck, 1 am poor.
But nowhere
is it written that a poor Jew may not try to earn a living. That's the
only
advice I turned to you for. If you don't know, then say so. I thought
you might
be able to put me the way of some film people, or something ....
Roth to
Zweig,
July 10,1937
(from Brussels)
... You
blame God for your aging, instead of thanking Him for it. You don't
understand
that people have gotten worse, because you were never willing to see
them as
good and bad and as human until Judgment Day, which you are so slow to
believe
in. How can I talk to you? Because you notice it getting darker, you
stand
there bewildered by the approach of night; and you think, furthermore,
that
it's something personal to do with you. Even currency devaluations you
take as
a personal affront, because you had thought you could save yourself by
living
in the isles of the blest. Now, for the sake of money, you want to
return to
the Continent, and to its darkest part. (Mind you don't stay there too
long!)
You are independent of publishers and advances. You can afford to write
nothing
at all for two years. You truly are a "freelance." Who else can say
that of himself?
[Romain]
Rolland has disappointed you. My Lord! He always was a false prophet
and in
thrall to noble errors and idealistic self-deceptions. Just before the
World
War he idolized the Germans and put to sleep whatever alertness the
continent
had. After the war he proclaimed the absolute goodness of humankind,
and today
he's a lackey of the Russian executioners. In the truest sense of the
word, he
has never known where God dwells, and he never will till his dying day.
You already
have a clear notion-being of the tribe of Asra, who have God, even if
they
never get him-of the inadequacy of all human idealisms that you bathed
in from the
time of your youth, and in which you have steeped yourself. You're
bound to be disappointed.
The nonviolence of Mahatma Gandhi is just as unhelpful to me, as
Hitler's
violence is detestable. Of course you shouldn't sign up for any party
or group.
I don't see why that should even occur to you. You are an unregistered
member
of a motley group as it is, with tumblers, men of the world, rascals
and
dilettantes and liars, all coexisting with a small handful of decent
individuals. You think you have already withdrawn from it. Oh no, you
haven't!
Why for instance did you send a statement to be read out at the PEN
Club? An organization
where Communists and Fascists shoulder the yoke of politics and the
state, and
you come along and intone your: Down with politics! You're not serious.
Don't
you understand? That might be the way to speak in front of a republic
of
ghosts, but not to a lurid organization where arseholes have seats and
votes
alongside brains. Do you think you'll tug at [Lion] Feuchtwanger's
conscience?*
Will you hell! Why do you do these things! You can't get over the loss
of
Germany! It's only if Germany exists that you can be a cosmopolitan.
Show
equanimity to the world and give what you have in the way of goodness
to three
or four indiividuals, not to "humankind,"
your old
Joseph Roth
*Lion
Feuchtwanger (1884-1958) was a German-Jewish novelist and playwright
prominent
during the Weimar period. He was critical of the Nazis well before they
came to
power, left Germany in 1933, and eventually sought asylum in the United
States.
The New York
Review Dec 22, 2011
Thư từ trao
đổi giữa Roth và Zweig
Niên Xô [Hà
Lội]: Nhà Nước Ma-Phia
Mấy dòng trên,
là được gợi hứng từ cái tít bài viết của David Remnick:
Bởi vì thật
khó mà tìm ra cái tên, hay bản chất của chế độ: Độc tài? Chính quyền
chuyển tiếp?
Chẳng phải.
Khó, là trước đó chưa có, và hiện nay chỉ có nó, theo tờ Books.
Ngoài cái
tên của Remnick, còn 1 cái tên do tờ báo
đề nghị: Nền độc tài của lũ ba vạ, la dictature des médiocres.
Nhưng, ở
Nga, khác ở xứ Mít, nhà văn đã bắt đầu ngó vào chế độ.
TV sẽ giới thiệu bài viết của số báo trên:
Ce que disent les
écrivains. Điều nhà văn nói.
Thời gian đầu
mới qua Xứ Lạnh, gặp lại cô bạn cũ, nghe lời đề xuất của vợ chồng cô,
học thi lấy
cái lai
xần bán bảo hiểm nhân thọ, cùng lúc, thấy Hội Người Việt cần thiện
nguyện viên trông
coi tờ báo của Hội, [đếch có lương nhe, chỉ được 100 đô tiền xe/một
tháng, thêm
vô tiền trợ cấp xã hội], GCC bèn xung phong, chỉ để thử sức, liệu
một mình
mi lo nổi cả 1 tờ báo, đếch cần thằng chó nào khác, hà, hà].
Chính là
trong những ngày đó, GCC được cái bà lo việc xã hội, cho phép đi cùng
vô
nhà tù Canada, thăm tù Việt, ra ý chúng tôi không quên mấy người đâu.
Không phải
tù người lớn, mà thường là đám thanh thiếu niên, và đa số Bắc Kít!
Cái chuyện đa
số Bắc Kít là cũng có nguyên do của nó. Phái đoàn Canada thuộc Cao Uỷ
Tị Nạn thường
nhận người Bắc, vì Mẽo không chịu nhận. Trong thời gian chiến tranh,
đám phản
chiến, Miền Nam, đi du học, mê Bác Hồ, chọn nơi này làm quê hương tạm,
thì cũng
giống như nhà văn ST, quê hương mỗi người chỉ có một, ở đây là ở tạm…
Nabokov
có 1
từ để gọi thứ văn chương tạp ghi của Mít, là “poshlost”, theo nghĩa “ăn
cắp của
ăn cắp”, imitations of imitations. Tuy nhiên nghĩa của từ này rộng hơn
nhiều,
như ông giải thích, khi trả lời tờ The
Paris Review. TV post lại ở đây, rồi nhẩn
nha bàn tiếp.
Nabokov vốn, vừa bạo
miệng, vừa phách lối. Với ông, những tác giả
được chấp nhận [accepted authors] chẳng có nghĩa gì: Tên của họ được
khắc trên
những cái mả rỗng, sách của họ toàn đồ bá láp… Brecht, Faulkner, Camus
và nhiều
người khác tuyệt đối chẳng là gì đối với tôi.
Tuy nhiên, câu
trả lời sau đây, thì thành thật. Khi được hỏi, ngoài chuyện viết ra,
ông làm
gì, hay thích làm gì, ông phán:
-Ô, săn bướm,
lẽ dĩ nhiên, và nghiên cứu bướm. Những lạc thú và phần thưởng nhờ cảm
xúc văn
chương, chẳng là gì hết so với khám phá ra 1 loài bướm lạ, và ngắm nó
dưới ống
kính… Giả như không xẩy ra cách mạng ở Nga, thì tôi đã dâng hết đời
mình cho “lepidopteroloy”
[ngành nghiên cứu bướm và bướm đêm,
moth] và chẳng thèm viết một cuốn tiểu thuyết nào hết.
(1)
Đọc Phén, Tạp
Ghi, Dựa Hơi, Thơ Tán Gái, Thơ Ngồi Bên Tách Trà thì quả là "chẳng
có gì xẩy ra" thật.
Nhưng quá một
chút, thì lại vớ phải ông Nabokov, khi Ngài chửi cái vẻ trịnh trọng,
làm dáng:
“Chúng
ta đều chia sẻ cái tội Lò Thiêu"!
[We all share in German’s guilt].
Khó thật.
(1)
Văn nhân và
Nghệ sĩ nhất
Đẹp như thơ
Thanh Tâm
Tuyền.
Thank you,
GNV.
Đa tạ. NQT
“Death is
very likely the single best invention of life.”
–Steve Jobs
Steve Jobs
nói cái chết là phát minh riêng của đời sống
TMT
Cái chết thì
rất ư là phát minh đơn, lẻ, [“single”, đâu có phải là “own”], đẹp nhất
của cuộc
đời.
Sự thực, phải coi ông này nói câu này trong trường hợp nào. Chứ GCC
thấy khó hiểu
quá!
Chết ít khi
đẹp lắm, nhất là đi tù VC mà chết ở trong rừng vợ con chẳng biết, ngoài
mấy ông
bạn tù, thì đơn lẻ, đúng, nhưng đẹp nhất, lại không đúng!
Mà cũng chẳng phải phát minh cái con mẹ gì.
Đói quá thì đi thôi.
Lần trước, đọc được 1 câu,
ông Steve Jobs này chôm của James Dean, nhưng bị thiến mất 1 khúc:
Khi 17 tuổi, tôi [Steve Jobs]
đọc ở đâu đó rằng: "Nếu sống mỗi ngày như thể đó là ngày cuối cùng, một
ngày nào đó bạn sẽ đúng".
Câu trên, của James Dean.
Tay này cũng đúng là 1 trường hợp "Hãy Ðói, Hãy Ðiên", và chết vì Ðiên,
vì "La Fureur De Vivre".
Chàng phán thật bảnh:
“Dream as if you'll live forever. Live as if you'll die today.”
Hãy mơ mộng như bạn sống hoài hoài. Hãy sống như bạn sẽ chết ngày hôm
nay.
Source
Biển
Buổi
chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ
Georgian
Cứ nghĩ thềm
bên kia là quê nhà.
Sóng đẩy biển
lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng
đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả
Cát ở đây được
con người chở từ đâu tới
Còn ta bị
quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này
Số phận còn
thua hạt cát.
Hàng cây
trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi
nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời
Chỉ
còn ta
cô đơn lẫn vào đêm
Như
con
hải
âu già
Giấu
chút
tình sầu
Vào
lời
thì
thầm của biển...
22/01/2010
Tôi được đọc
bài thơ "Biển" của ông trong Tin Văn, nó làm cho tôi thấy buồn quá.
Xin gởi tặng
ông hình của "tôi" bên bờ biển, như một lời chào.
Trong email
trước tôi đã vô lễ gọi ông là "Gấu Nhà Văn", vì đọc Tin Văn liên tiếp
suốt mấy ngày liền, khiến tôi nhập tâm.
Thực tình,
tôi thích cái bút danh đó.
Khi tôi chụp
hình con hải âu, tôi cứ nghĩ nó là hình ảnh của chính mình. Ai ngờ, tôi
lại gặp
một con hải âu khác khi đọc bài thơ Biển
của ông. Khi nhớ quê hương, kẻ thì
"thương nhớ đồng quê", người nhớ Sài Gòn, còn tôi, tôi nhớ biển...
Merry
Christmas.
Please take
care and forgive.
NQT
Paul Ricoeur
& Heidegger
Lire:
A Auschwitz,
Dieu n'a-t-il pas abanndonné les hommes ?
P.R. Je me
rappelle cette reflexion entendue de la bouche d'un éminent professeur,
juif
polonais. Il avait connu la déportation et les humiliations: « Mon père
avant
cela disait : "L'homme est bon." J'ai subi
toutes ces souffrances. Eh bien, au soir de ma vie, je dis la même
chose que
mon père." Croire en la possibilité de libérer le fond de bonté en
l'homme,
c'est pour moi un acte de foi fondamental.
Le pardon
est-il possible tout de même ?
P.R.
Je suis très réticent à
l'égard de toutes les facilités
avec lesquelles on manipule le pardon. Le pardon, c'est ce qu'on
demande et
nullement ce qu'on donne. Et si on le demande, on doit être prêt a
recevoir une
réponse négative. Je
rejoins ici Jankélévitch. II faut pouvoir affronter l'impardonnable.
Pourquoi ? Parce que si le pardon est
difficile, il doit s'articuler sur un travail
double: un travail de mémoire et un travail de deuil. II ne s'agit pas
d'en
faire un acquittement superficiel. Non, il faut admettre l'indicible de
l’aveu,
le caractère inextricable des situations, l'idée de l'irrépaarable. Et
le deuil
ne se limite pas au deuil de ceux que l'on a perdus, il faut penser
aussi au
deuil d'une explication.
Heidegger a marqué votre
oeuvre, inutile
d'insister. Mais comment un philosophe peut-il se dévoyer politiquement
comme
il l'a fait en apportant sa caution à Hitler? Quel aveu
d'impuissance de la part de la philosophie !
P.R. La culture, que je
sache, n 'a jamais prémuni
contre la barbarie. Pays de très haute civilisation, l'Allemagne, qui a
sombré
au plus bas de l'infame, en a offert un exemple cuisant. Cela étant, je n'ai jamais
accusé
Heidegger en tant que philosophe. Seulement sa philosophie,
ne
produisant ni morale ni politique, s'est créée en lui à une époque de
doute
intellectuel qui s'est manifesté par son incapacité à poursuivre Être et temps, une sorte de vide spéculatif
qu'il a cru pouvoir remplir avec la figure de celui qu'il prenait pour
un grand
homme de l'histoire. C'est dans cet entre-deux, dans cette période de
grande
fragilité qu'il s'est trouve happé par le national-socialisme. Mais
soyons
clair, Être et temps n'est en rien un
livre nazi, il s'agit, et toute la différence est là, d'un ouvrage qui
ne protège
pas contre le nazisme. Alors
que Karl Jaspers, lui, ne pouvait pas succomber comme Heidegger car sa
philosophie produisait une éthique et une politique.
Paul Ricoeur
trả lời tờ Lire, số đặc biệt
về Duras, Tháng Sáu, 1998.
Note:
Tình cờ vớ số
báo cũ, đọc mấy câu trả lời trên, thú quá, bèn chôm luôn, đi 1 đường
Phén chơi!
Ở Auschwitz,
Chúa đã bỏ loài người?
Tôi nhớ tới
câu của một giáo sư nổi tiếng Ba Lan gốc Do Thái. Ông ta biết về cái
chuyện tống
xuất, đưa người vô Lò Thiêu, và những nhục nhã: Ông già tôi trước đó,
nói: Con
người thì tốt. Tôi chịu đựng tất cả hậu quả [của câu nói của bố tôi].
Thế nhưng,
về già, tôi phán y chang bố tôi: Con người thì tốt. Tin vào khả năng
giải phóng
cái sâu thẳm của thiện tâm ở nơi con người, theo tôi, đây là hành động
của niềm
tin cơ bản.
Sự tha thứ,
nếu như thế, thì cũng có thể?
Tôi rất tởm
cái trò giật dây, nào là khúc ruột ngàn dặm, nào là đừng bao giờ có 1
ngày 30
Tháng Tư thứ hai, thứ ba… Tha thứ, đó là cái người ta đòi, mà chẳng cho
cái chó
gì cả. Và nếu như thế, nếu người ta đòi, thì người ta phải sẵn sàng đón
nhận 1
câu trả lời "cà chớn" [négative: phủ định, từ chối]. Phải dự trù đối
đầu với điều:
Tao đếch có tha thứ cho mày. Tại sao? Bởi vì nếu tha thứ khó, hơi bị
khó, rất ư
là khó, thì nó phải ăn khớp với một công việc kép: một về hồi ức và một
về tang tóc. Đừng giả
đò tha thứ. Thôi nhé, huề nhé! Không, phải thừa nhận cái sự không thể
nói ra được
niềm ăn năn, thống khổ, lời thú nhận, cái tính chất cực khó khăn của
hoàn cảnh,
cái ý nghĩ về sự không thể sửa chữa lại được [Cái Ác Bắc Kít, vô phương
sửa chữa,
thí dụ, Cái Ngày 30 Tháng Tư, sẽ còn dài dài, thí dụ]. Và nỗi tang tóc
thì không
phải chỉ hạn chế ở những cái tang về người đã mất, mà còn cái tang về 1
lời
giải thích.
Heidegger đã
đánh dấu [thổi] tác phẩm của ông, khỏi phải lèm bèm thêm. Nhưng ra thế
nào, nàm
sao mà 1 triết gia bảnh tỏng như ông ta mà lầm lạc như thế, và đem thân
phò
Hitler?
Đúng là 1 lời thú nhận sự bất lực về mặt triết học!
Văn hoá như
tôi biết được, chưa hề ngăn ngừa, phòng chống sự man rợ. Một xứ sở với
1 nền
văn minh đỉnh cao chói lọi như Đức, vậy mà ngập chìm trong tủi nhục, và
đó là 1
thí dụ nhức nhối, đau thương. Nhưng tôi chưa bao giờ buộc tội
Heidegger, như là
1 triết gia. Chỉ điều này, triết học của ông không sản sinh ra cả đạo
đức lẫn
chính trị, và gây ra ở trong ông ta, vào một thời kỳ, sự hồ nghi trí
thức, và điều này được
biểu lộ
ra bằng sự bất lực của ông khi không thể tiếp tục Hữu
thể và Thời gian, một thứ khoảng trống tư biện, mà ông ta nghĩ
rằng, có thể
làm đầy bằng hình tượng một con người coi mình như là vĩ nhân của lịch
sử, cha
già của dân tộc. Chính vào lúc đó, ông bị trúng bả Quốc Xã. Nhưng hãy
minh bạch
1 điều, Hữu thể và Thời gian không phải
là 1 cuốn sách Nazi, nó là, và đây là sự khác biệt rất ư khác biệt, một
tác phẩm
không phòng vệ chống chủ nghĩa Nazi. Trong khi đó, Karl
Jaspers, ông
ta không ngã gục như Heidegger, là bởi
vì triết học của ông sản sinh ra một nền đạo hạnh và chính trị học.
Note: Bài phỏng
vấn thần sầu, được thực hiện khi Paul Ricoeur cho ra lò cuốn Suy nghĩ
Thánh Kinh, Penser La Bible.
TV sẽ đi hết cả bài, sau, nhân dịp Noel năm nay
Hà,
hà!
The Gift
Ban đồng ca thần kỳ tan
rã. Ngay cả Rein và Naiman sau cùng cũng gấu
ó lẫn nhau. Trong 1, trong rất nhiều hồi ký, Naiman buộc tội Rein, một
lần tham
dự 1 bữa tiệc cùng bạn bè, mang theo lon trái cây [trái mơ], và chơi
một mình,
cả lon.
Cuối tháng Giêng 1996, Brodsky lên chuyến tầu suốt, vì bịnh
tim, sau 1
đời đếch thèm để ý đến chuyện gìn giữ sức khoẻ của mình. “Sáng ngủ dậy,
uống cà
phê, mà thiếu điếu thuốc, là kể như mất toi một ngày, ấy là chưa nói
đến chuyện,
làm sao dậy nổi”, ông có lần nói. David Remnick, ký giả Mẽo của tờ The
New Yorker viết về ông và
về cái lần tới phỏng vấn:
Có
nhiều nhà
thơ có tài, có thể ở vào chỗ anh
ta khi đó, Efim Etkind viết. Nhưng số phận đã chọn đúng anh ta, và ngay
lập tức
anh hiểu trách nhiệm về địa vị của anh - không còn là một con người
riêng tư,
nhưng trở thành một biểu tượng, như Akhmatova đã trở thành một biểu
tượng quốc
gia của người thi sĩ Nga, khi bà bị số phận lọc ra giữa hàng trăm nhà
thơ, năm
1946. Thật quá nặng cho Brodsky. Ông có một bộ não tệ, một trái tim tệ.
Nhưng
ông đã đóng vai ông tại tòa án một cách tuyệt vời.
Brodsky không được may mắn với sức khỏe của
ông. Tim ông bị mổ hai lần. Ông hút thuốc còn nhiều hơn Bogart, uống cà
phê hơn
cả Balzac. Khi tôi (David Remnick) tới gặp ông thực hiện cuộc phỏng vấn
cho tờ
Washington Post, một nhiếp ảnh viên tới. "Ông có thuốc lá không?",
Brodsky hỏi thay cho câu chào. "Tôi đang chết vì thèm thuốc."
Ông từ chối vai trò kẻ tuẫn nạn nổi tiếng và chỉ
làm công việc của ông: làm thơ, nhưng khi bị đòi hỏi, ông tiến lên, ở
tòa án, ở
lưu đầy xứ người, ông làm việc này một cách tuyệt hảo. Y. Rein, là bạn
của
Brodsky và cũng là một nhà thơ lớn, đã từng tuyên bố tại Moscow: Nước
Mỹ hãy nhớ
lấy lời này. Brodsky là một tiếng nói Nga lớn lao nhất của thời đại anh
ta. Anh
ta đến từ một thời đại tiếp theo những trại tù, những cấm ngăn, một
thời đại tự
nuôi nó bằng văn chương trong khi chẳng còn chi, nếu có chăng, chỉ là
trống rỗng.
Và anh luôn luôn là số một của chúng tôi.
Bobyshev sau
cùng qua Mẽo, định cư ở Illinois, ở đó, ông dậy văn chương. Sau khi
Brodsky mất,
ông có viết về những năm tháng đầu tiên của đời ông, và về cuộc tình
tay ba.
Trong có 1 xen thật bảnh, là cái lần ông tới thăm bà cô ở Moscow. Lúc
đó,
Akhmatova cũng đang ghé thành phố, và bà gọi cho ông, nhằm lúc ông
không có nhà.
Khi ông về, bà cô ngỡ ngàng đến nghẹt thở:
-“Akhmatova ư, gọi điện thooại cho
mi ư? Ối giời ơi là giời, sướng đến thế cơ hả? Bảnh đến thế ư, thiệt
sao?”
-“Thì thiệt
chứ sao, thưa cô”.
-“Bà nói gì
vậy?”
Cuốn
sách chấm
dứt với xen Bobyshev, ở Mẽo, gọi cho Brodsky ở New York. Cả hai cả
chục năm
đếch thèm nói chuyện với nhau, nhưng Bobyshev có chuyện quan trọng cần
nói, và
chuyện này liên quan tới Akhmatova, cả hai đành để lòng ghen
tuông thù
hận qua 1 bên.
Câu
chuyện
quan trọng xong, Brodsky bèn hỏi bạn/kẻ thù:
-“Sao,
thấy
Mẽo thế nào?”
-“Cũng
hơi bị
căng, những đúng là 1 nơi chốn thú vị”
-“Thú
vị là..
sao?”
-“Thì
thú vị
chứ, rất thú vị, mầu sắc, mặt mũi, không gian, con người, tất cả những
thứ đó”.
-“Hừm,”
Bodsky trả lời bạn, và cúp máy.
Cali
8, 2011
Nhà văn Nguyễn
Quốc Trụ
qua bà Nguyễn
Thị Kim Hồng
Sóng Văn
(SV): Trong cơ duyên nào bà đã đến với người bạn đời của mình ? Và
trong chiều
dài thăng trầm của cuộc sống, bà có thể giới thiệu một kỷ niệm buồn,
vui ?
Nguyễn Thị
Kim Hồng (NTKH): Chúng tôi quen nhau qua sự sắp đặt của số mệnh. Kỷ
niệm đáng
nhớ nhất là đám cưới phải dùng thuyền, vì năm đó nước lụt. Trên thuyền
có đủ hạnh
phúc và khổ đau của hai đứa chúng tôi.
SV: Nhiều
người thường quan niệm rằng: các ông bà tác giả, dù sinh hoạt ở bộ môn
nghệ thuật
nào, cũng thường có tính lơ là đối với những công việc gia đình. Theo
bà, nhận
xét này đúng được bao nhiêu phần trăm ? Và riêng ông
nhà thì sao ?
NTKH: Nhà
tôi thường giúp đỡ tôi trong việc làm bếp, dọn dẹp nhà cửa. Đó là những
lúc anh
cảm thấy đầu óc thảnh thơi nhất.
SV: Ngoài những
môn sở trường, xin cho biết ông nhà còn thích hoạt động giải trí thêm
với những
bộ môn nào khác ?
TKH: Nhà tôi
có nhiều đam mê. Không biết tôi là một trong số đó hay là tổng số những
đam mê
của anh.
SV: Xin cho
biết một ít thói quen của ông nhà trong lúc sáng tác?
NTKH: Nhà
tôi thích làm việc một mình, về đêm.
SV: Bà đã từng
có những đóng góp vào công việc sáng tác của ông nhà ?
NTKH: Truyện
ngắn nhà tôi viết đều thấp thoáng hình bóng những người đàn bà khác.
Một cách lạc
quan, tôi vẫn nghĩ, tôi là tổng số những người đó. Tất cả chỉ là tưởng
tượng hoặc
là những bản nháp của một tác phẩm chưa được viết ra.
SV: Bà có những
nhận xét tổng quát nào về toàn bộ tác phẩm của ông
nhà đã được giới thiệu rộng rãi trong quần
chúng ?
NTKH: Tôi
không xen vào việc viết lách của nhà tôi.
SV: Xuyên
qua việc phát hành, phổ biến các tác phẩm nghệ thuật của ông nhà, bà có
những
nhận định gì về tình hình sinh hoạt văn học nghệ thuật Việt Nam hiện
nay tại hải
ngoại ?
NTKH: Vấn đề
này ngoài tầm hiểu biết của tôi.
SV: Cá nhân
bà đã và đang sinh hoạt trong lãnh vực nào ? Những sinh hoạt đó có gây
trở ngại
hoặc hỗ tương trong việc sáng tác của ông nhà
?
NTKH: Tôi
làm ở một lãnh vực khác, nhưng đôi khi cũng viết lách để giải trí.
SV: Nếu có
thể được, xin bà vắn tắt cho đôi dòng tiểu
sử của ông, những tác phẩm của ông ấy, và đôi dòng về cá nhân bà, đại
khái quê
quán, hoài bão...
NTKH: Tôi
quê ở Cai Lậy, Mỹ Tho. Nhà tôi người Bắc di cư. Chúng tôi được bốn
cháu, đã truởng
thành, nhưng chỉ có cháu út hiện đang sống với chúng tôi. Mấy cháu lớn
còn ở Vạn
Tượng (Lào). Hoài bão tôi không có, nhưng mơ ước một ngày nào được xum
họp với
tất cả bốn cháu. Trân trọng cảm ơn Sóng Văn và độc giả. Chúc báo Sóng
Văn sống
mãi để phục vụ cộng đồng người Việt hải ngoại.
Ghi chú của
tòa soạn:
Nhà văn Nguyễn
Quốc Trụ sinh năm 1938. Ngoài tên thật, những sáng tác của ông còn được
ký dưới
hai bút hiệu: Sơ Dạ Hương và Tuấn Anh trên các tạp chí: Văn, Nghệ
Thuật, Vấn Đề...
Tác phẩm đã
xuất bản: Những Ngày Ở Sài Gòn (1970).
Tập truyện mới
nhất của ông chuẩn bị ấn hành.
Nguyễn Thị
Kim Hồng
(trích Sóng
Văn, số 6 – tháng 1 & 2 năm 1997)
Nguồn Trang Luân Hoán
Tks. NQT
Đọc lại, thấy
khác, không giống như GCC nhớ, hay tưởng tượng mình nhớ.
Mãi thì mới
hiểu ra là có một vài chỗ, được sửa, vào phút chót.
Thí dụ: Trên
xuồng có đủ khổ đau cho…3 người.
Vì còn cô phù
dâu cùng ngồi trên xuồng!
Hãy Ðói. Hãy
Ðiên
|
|