Mặc
Lâm
Cung Trầm
Tưởng là một nhà thơ rất quen thuộc từ đầu thập niên 60. Tên tuổi Ông
nhanh chóng tràn vào giới thanh niên trí thức thời bấy giờ khi ông từ
Pháp trở về Việt Nam cùng không khí lãng mạn của phong trào thơ mới,
lúc đó vẫn còn ảnh hưởng nhiều đến thanh niên trí thức Việt Nam.
Ngay cái
tên của ông cũng đã ấn tượng đối với nhiều người vì chất văn học rất
đậm trong mỗi chữ: Cung Trầm Tưởng.
Nhà thơ
Cung Trầm Tưởng
“Tôi là Cung Trầm
Tưởng vào khoảng 50-51 tôi du học tại Pháp..sau đó tôi thi đỗ vào
trường không quân của Pháp học chung với ông Nguyễn Xuân Vinh, ông
Nguyễn Ngọc Loan…Đến năm 1957 tôi trở lại Sài Gòn và phục vụ trong binh
chủng không quân cho đến ngày 30/4/1975 tức là được 23 năm.
Trong thời kỳ ở Pháp
tôi làm thơ rất nhiều tập trung vào thơ lãng mạn, tình yêu đôi lứa như
Mùa Thu Paris, Chưa Bao Giờ Buồn Thế được tôi sáng tác trong khoảng
thời gian này. Có những bài thơ tôi chưa từng đăng bất cứ báo nào thì
bây giờ nó sẽ được tập trung lại trong toàn tập thơ của tôi trong 60
năm mang tên Cung Trầm Tưởng và Hành Trình Thơ, sẽ được xuất bản trong
năm tới.”
Cung Trầm Tưởng và Du Tử Lê
Cung Trầm
Tưởng vừa sơ lược cho chúng ta biết về đời sống sáng tác của ông mà
trongđó phần quan trọng nhất làm nên một Cung Trầm Tưởng từ một bài thơ
sống rất lâu trong trí nhớ nhiều người đó là tác phẩm Mùa Thu Paris.
Tác phẩm này được đem tới người nghe qua tài năng của Nhạc sĩ Phạm Duy
khi ông phổnó thành thơ và giới thiệu trên đài phát thanh Sài Gòn.
Ngôn ngữ
trong bài thơ thật ra không phải mới lạ hay phá cách để nổi tiếng, bài
thơ được giới trẻ đón nhận một cách thích thú vì một chi tiết trước đó
chưa bao giờxảy ra, đó là:
Từ trái: Cung Trầm Tưởng, Phạm Duy và
Ngy Cao Uyên
Một chàng thanh niên
Việt Nam du học có người yêu bên Pháp với tóc vàng mắt xanh… hai người
yêu nhau và chính những cuộc chia tay trên ga vắngđã thi vị hóa câu
chuyện để nó trở thành một mode mới trong đời sống thanh niên thời bấy
giờ. Bài thơ như một trang sách mới cùng những con đường lạ lẫm bên
trời Tây mở ra cho giới trẻ và đâu đó người đọc cảm thấy phần nào hả hê
bù đắp lòng tự ái dân tộc đã bị mất mát khá nhiều dưới gót giày được
gọi là khai hóa văn minh của thực dân Pháp.
Mùa thu
Paris
Mùa thu
Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đỏ tràn ly
Mùa thu
đêm mưa
Phố cũ hè xưa
Công trường lá đổ
Ngóng em kiên khổ phút, giờ
Mùa thu âm thầm
Bên vườn Lục-Xâm
Ngồi quen ghế đá
Không em buốt gía từ tâm
Mùa thu
nơi đâu ?
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Mong em chín đỏ trái sầu
Mùa thu
Paris
Tràn dâng đôi mi
Người em gác trọ
Sang anh, gót nhỏ thầm thì
Mùa thu
không lời
Son nhạt đôi môi
Em buồn trở lại
Hờn quên, hối cải cuộc đời
Mùa thu!
mùa thu
Mây trời âm u
Yêu người độ lượng
Trông em tâm tưởng, giam tù
Mùa thu !…
Trời ơi ! Tình thu !
Nhà thơ Cung Trầm
Tưởng chia sẻ với chúng ta kỷ niệm về bài thơ này:
“Tôi làm những bài thơ về Paris đó là có thật. Lẽ dĩ nhiên khi làm thơ
thì mình cũng lý tưởng hóa nó một chút, tất cả về tóc vàng mắt xanh là
có thật. Thời đó tôi học ở trường Pháp cứ bị mang tiếng là Tây con, đã
sẵn có ngôn ngữ Pháp và văn hóa Pháp thấm nhuần trong người thành ra
sang bên đó mình không bị lạ lẫm. Tôi gặp một số mối tình dù rằng không
vĩnh viễn nhưng nó đánh giá những kỷ niệm đầu đời của mình.”
Kỷniệm đầu
đời cùng các mối tình tóc vàng mắt xanh ấy đã là nguồn cảm hứng cho
nhiều bài thơ của Cung Trầm Tưởng vào thời mới lớn. Những chiếc ga nhỏ
nằm trơtrọi giữa mùa đông nước Pháp đã từng chứng kiến biết bao cuộc
chia tay trướcđó, lại một lần nữa nhìn ngắm mối tình dị chủng giữa một
chàng trai một đất nước bị trị và một cô gái tóc vàng, đại diện cho văn
hóa và nếp sống phương Tây.
Từ đây
trong hơi thở rẽ chia ấy, bắt đầu một thấm đượm khác nối liền hai bờ
đại dương. Và cũng bắt đầu một vói ra ngoài, một trằn trọc mới đối với
hàng triệu thanh niên Sài Gòn thời bấy giờ.
Chưa
bao giờ buồn thế
Lên xe
tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia ly
Tiễn em về
xứ mẹ
Anh nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa cách
Ga Lyon đèn vàng
Tuyết rơi buồn mênh mang
Cầm tay em muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng
Hôn nhau phút này rồi
Chia tay nhau tức khắc
Khóc đi em. khóc đi em
Hỡi người yêu xóm học
Để sương thấm bờ đêm
Đường anh đi tràn ngập lệ buồn em…
Ôi đêm nay
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia ly
Tàu em đi
tuyết phủ
Toa anh lạnh gió đầy
Làm sao anh không rét
Cho ấm mộng đêm nay
Và mơ ngon trên khắp nẻo đường rầy !
Trời em mơ có sao
Mình anh đêm ở lại
Trời mùa đông Paris
Không bao giờ có sao
Trời mùa
đông Paris
Chưa bao giờ buồn thế !
Cung Trầm Tưởng không phảỉ
chỉ làm thơ tình với những khuông mẫu yêu đương trai gái. Dù lãng mạn
hay cổ điển thì thơ tình không thể chia sẻ được hết mọi khổ đau của một
người bị đày đoạ trong vòng tù ngục. Cung Trầm Tưởng như hàng trăm ngàn
người khác sau khi Sài Gòn sụp đổ, đã cùng với đồng đội vào những nhà
tù tập trung cải tạo để trả lời cho bài học lịch sử về ý nghĩa cuộc
chiến tranh mà ông và đồng đội là những người thua cuộc.
Thơ của
Cung Trầm Tưởng từ đây trở thành lạnh lẽo và chai cứng hơn. Chữ nghĩa
ông sử dụng trong các bài thơ tù trở nên sắc sảo đến kỳ lạ. Sắc sảo và
đớn đau như kim châm vào tim giữa mùa đông miền Bắc:
Áo tù thẫm
máu đôi vai
Bàn chân nứa chém, vành tai gió lùa
Ngó tay bỗng thấy già nua
Cứa em thân xác thấy mùa thu qua
Môi cằn má
hóp thịt da
Ngô vơi miệng chén canh pha nước bùn
Đêm nằm ruột rỗng vai run
Đầu kề tiếng súng chân đùn bóng đêm…
Bài thơ
được làm tại Hoàng Liên Sơn vào mùa thu năm 1977 cách bài Mùa Thu Paris
hơn 25 năm. Khoảng cách thời gian không làm bài thơ lạnh hơn mà chính
khoảng cách con người làm bài thơ gần như hóa đá.
Ngôn ngữ
thơ trong bài này bàn bạc những ẩn ức rất đời thường của người tù và
người đọc cảm nhận ngay tính chất cay nghiệt của nó.
Thế nhưng
Cung Trầm Tưởng lại có những bài thơ tù thấm đậm chất triết học. Nhà
thơ tĩnh tại nhìn ngắm biến thiên của đời sống và thiền định tâm tưởng
mình với những câu tuyệt đẹp:
Mưa về
gióng lê thê
Nai kêu nguồn đâu đó
Xưa nay tù ngục đỏ
Mấy ai đã trở về
Vỗ, vỗ rơi tàn thuốc
Thả khói vào mông lung
Hư vô đẹp não nùng
Nụ hôn đời khốc liệt
“Nụ hôn
khốc liệt” dành cho đời phải chăng là một cách phản ứng thụ động trong
thế giới bừng bừng thống nhục mà nhà thơ đang trải nghiệm?
Cõi sầu ta tinh khiết
Thép quắc vầng trán cao
Phong sương dệt chiến bào
Với máu se làm chỉ
Đã đi trăm hùng vĩ
Xông pha lắm đoạn trường
về làm đá hoa cương
Gởi đời sau tạc tượng
Huệ trắng trinh
nguyên sau một đêm
Huệ trong thư các huệ ngoài thềm
Sớm nay Chủ Nhật thơm thương quá
Chỉ có Sài Gòn trong dáng em
Chủ Nhật niềm tin
màu huệ trắng
Hiền từ xoạt áo như lời kinh
Em đi lễ nhất trời trên ngõ
Dẫy tóc đen mềm ánh sao xanh…
Sài Gòn dưới mắt nhà
thơ đã dần dần lấy lại được hình ảnh tinh khôi của nó vào những sớm mai
trong trẻo. Người con gái trong thơ ông từ từ sống lại, khác với cô tóc
vàng khi xưa, cô gái Sài Gòn bây giờ trắng như huệ và trong như ban mai
trinh nguyên của một Sài Gòn ấm áp.
Tuy thế, người yêu
thơ Cung Trầm Tưởng không dễ gì quên cô gái tóc vàng bên trời Tây cách
đây hơn 50 năm để chia sẻ những cảm nhận của nhà thơ những hình ảnh của
các cô gái Sài Gòn ngày nay.
Tiếng còi tàu vẫn
chứng tỏ ma lực của nó quyến rũ người đọc thơ đến mức sau bằng ấy năm,
hình như mỗi lần nghe lại bản nhạc Tiễn Em do nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ
bài thơ “Chưa Bao Giờ Buồn Thế” của ông, người nghe vẫn cảm thấy hình
như đang dấy lên nỗi buồn man mác.
Nỗi buồn không tên
nhưng có thật. Và nó vẫn ở đấy trong bất cứ người nào nếu từng thừa
nhận rằng sự chia tay nào cũng đều rơi nước mắt…
Nguồn sống hồi sinh
Cung Trầm Tưởng trở
về với cuộc sống sau khi đã nếm trải đầy đủ mọi thứ mùi vị của tù nhân
như hàng trăm ngàn người khác.
Trong không khí gia
đình, ông có những dòng thơ gợi mở tinh khiết hơn sau nhiều năm tháng
thiếu vắng. Tiếng chuông nhà thờ và những nhành huệ trắng đã giúp ông
gội rửa tâm tình để tâm hồn ngày một tươi tắn hơn, Ông tìm ra được
nguồn suối trong ngay tại nhà mình hay nói đúng hơn, ngay tại lòng
mình, một cõi lòng đang chuyển mình cùng với thiên nhiên để tạm quên
cõi tục.