|
W. S. MERWIN
1927-
The
following poem inspires us to reflect on what seldom crosses our minds.
After all
(literally after all), such an anniversary awaits every one of us.
Bài thơ sau
đây gợi hứng cho chúng ta, về cái điều hiếm chạy qua đầu chúng ta.
Nói cho cùng, "kỷ niệm cái
chết của tôi" đâu bỏ quên, bất cứ ai?
Czeslaw
Milosz
FOR THE
ANNIVERSARY OF MY DEATH
Every year
without knowing it I have passed the day
When the
last fires will wave to me
And the
silence will set out
Tireless
traveler
Like the
beam of a lightless star
Then I will
no longer
Find myself
in life as in a strange garment
Surprised at
the earth
And the love
of one woman
And the
shamelessness of men
As today
writing after three days of rain
Hearing the
wren sing and the falling cease
And bowing
not knowing to what
Note: Đọc,
thì cứ như là đang đọc, bài ai điếu GCC trên túi áo ngực bạn quí!
Chán thế!
Pont Mirabeau
Milosz
Chữ đuổi
Thần Chết chạy có cờ
It
seems that the voice we humans own
Will never sound, never celebrate,
Only a wind from the age of stone
Keeps on knocking at the black gate.
And it seems to me that under the sun
I alone remain-this honor's mine,
Simply because I was the first
Who wanted to drink the deadly wine.
1917
Akhmatova
Có vẻ như cái thứ tiếng người mà chúng ta có đó
Nó sẽ chẳng bao giờ kêu lên
Chẳng bao giờ ăn mừng
Chỉ là tiếng gió từ thời kỳ đồ đá
Liên tục gõ lên chiếc cổng đen
Và hình như chỉ còn tôi, đơn độc dưới ánh mặt trời
Và đây là niềm vinh quang của tôi
Giản dị, ấy là vì tôi là người đầu tiên
Muốn uống ly rượu độc
THE LAST TOAST
I drink
to the house, already destroyed,
And my whole life, too awful to tell,
To the loneliness we together enjoyed,
I drink to you as well,
To the eyes with deadly cold imbued,
To the lips that betrayed me with a lie,
To the world for being cruel and rude,
To God who didn't save us, or try.
1934
Akhmatova
Bữa nhậu chót
Ta uống
mừng căn nhà đã hoàn toàn bị tiêu huỷ
Mừng trọn đời ta, thật dễ sợ nếu phải kể ra
Mừng nỗi cô đơn mà ta và mi cùng chia sẻ
Mừng mi nữa chứ, làm sao không?
Mừng đôi mắt lạnh lùng chết người
Mừng cặp môi thốt lời dối trá
Mừng thế giới quá tàn nhẫn, thô bạo
Mừng Ông Trời đếch thèm cứu vớt,
và cũng chẳng thèm thử cứu vớt,
chúng ta.
Như một đề tài, cái chết là một thứ thuốc thử
mầu tốt để xét nghiệm đạo hạnh của một nhà thơ. Thể loại ‘ai điếu’ thì
thường được sử dụng để rèn luyện trò thương thân, hay dành cho những
chuyến đi siêu hình nhằm thể hiện tính cao ngạo ngầm của kẻ sống sót
đối với nạn nhân, của đa số (những kẻ còn sống) đối với thiểu số (những
người đã chết). Anna Akhmatova không mắc mớ gì đến chuyện này. Bà chăm
chút đến cái tư riêng của những người đã nằm xuống, thay vì biến họ trở
thành những trường hợp chung, kể từ khi bà chỉ viết về 1 thiểu số, và
như vậy, thật dễ dàng cho bà, khi phải nhận dạng trong bất cứ trường
hợp. Bà giản dị viết về họ, coi họ như là những cá nhân mà bà đã từng
quen biết, và là người mà bà cảm thấy sẽ không bị sử dụng như là điểm
khởi đầu cho bất cứ một hướng đi nào, cho dù đặc biệt ra sao.
Lẽ đương nhiên, những bài
thơ như thế không thể được in ra, ngay cả chuyện viết ra mặt giấy, hay
là chép lại, thì cũng không. Chúng chỉ có thể được ghi vào trí nhớ, bởi
nhà thơ, hay cùng lắm, bởi dăm ba bạn thân, kể từ khi mà bà không thể
nào tin tưởng được cái trí nhớ của riêng bà. Đôi khi, gặp 1 người bạn
thân như vậy, tại 1 nơi chốn riêng tư, bà sẽ nói, này, này, đọc lại một
cách lặng lẽ bài này, hay bài kia, hay cái sự chọn lọc đó, như là 1
cách thức để sắp xếp cái ngăn kéo của hồi nhớ, dành riêng cho thơ. Đừng
bao giờ nghĩ, đây là 1 thứ trò chơi quá trớn, hay cường điệu, hay thái
quá: con người ở đây có thể bị biến mất, biệt tăm biệt tích, mãi mãi,
chỉ vì những điều còn nhỏ nhặt hơn là 1 mảnh giấy với vài hàng chữ trên
đó. Ngoài ra, bà không sợ, quá nhiều, cho riêng bà, hay cho cậu con
trai đang ở tù, mà bà quá tuyệt vọng dõng dã 17 năm trời, chờ mong ngày
nhận được giấy phép ra trại. Một mẩu giấy với vài hàng chữ trên đó gây
mất mát, tổn hại rất nhiều, đối với người chủ của nó, hơn là đối với
bà, một người chỉ còn có thể mất hy vọng, hay là mất luôn cái đầu,
nghĩa là, trở thành điên loạn.
Hỡi ơi, những ngày của cả
hai, - mất hy vọng và điên cái đầu - sẽ đếm được, khi nhà cầm quyền
kiếm thấy “Kinh Cầu”, một vòng những bài thơ diễn tả tình cảnh, sự thử
thách, của 1 người đàn bà, con trai bị bắt, và đứng đợi dưới chân những
bức tường nhà tù với gói đồ thăm nuôi, hay chạy hối hả từ những nha sở
này, tới nha sở khác để có được tin tức về số phận của con. Bây giờ,
thời gian chung quanh bà, thì mang tính tự thuật, đúng như thế, tuy
nhiên, sức mạnh, quyền uy, của “Kinh Cầu” thì hệ tại ở điều, là, 1 tự
sự, 1 tự thuật, một nói về mình, như của Akhmatova, là của chung, ai ai
thì cũng xêm xêm như vậy, [chồng con cải tạo, mẹ hay vợ đi thăm nuôi…,
cả Miền Nam là như thế, và đó là tự thuật]. “Kinh Cầu” cầu nguyện cho
những người cầu nguyện, khóc than cho những người khóc than: mẹ mất
con, vợ biến thành góa phụ, đôi khi thành cả hai, như trường hợp của
tác giả. Đó là bi kịch khi bản đồng ca cứ thế tàn tạ, cứ thế lịm đi
trước nhân vật.
Joseph Brodsky
Thơ
Mỗi Ngày
Pont Mirabeau
Le
voyageur
A Fernand
Fleuret.
Ouvrez-moi
cette porte où je frappe en pleurant
La vie est
variable aussi bien que l'Euripe
Tu regardais
un banc de nuages descendre
Avec le
paquebot orphelin vers les fièvres futures
Et de tous
ces regrets de tous ces repentirs
Te
souviens-tu
Vagues
poissons arqués fleurs surmarines
Une nuit c'était
la mer
Et les
fleuves s'y répandaient
Je m'en
souviens je m'en souviens encore
Un soir je
descendis dans une auberge triste
Auprès de
Luxembourg
Dans le fond
de la salle il s'envolait un Christ
Quelqu'un
avait un furet
Un autre un
hérisson
L'on jouait
aux cartes
Et toi tu
m'avais oublié
VOYAGER
to Fernand
Fleuret
Open up
can't you hear me crying at your door
Life rises
and runs away like the tides of Euripe
You watched
the clouds roll in
Aboard the
orphan steamer with fevers off the bow
With all of
your regrets and your if onlys
Do you
remember
Waves flying
fish anemones
A night that
was the sea
Receiver of
every river
I remember I
always remember
An evening I
went down to a cheap hotel
Near
Luxembourg
At the back
of the parlor Christ was rising
Someone had
a ferret
Somebody had
a hedgehog
A card game
was going on
And you'd
forgotten me
[The Paris
Review]
Love in
a mist
Yêu trong sương mù (1)
La Chanson
du Mal-Aimé
A Paul Léautaud.
Et je
chantais cette romance
En 1903 sans
savoir
Que mon
amour à la semblance
Du beau
Phénix s'il meurt un soir
Le matin
voit sa renaissance.
[Tôi hát bản
tình ca này
Vào năm 1903, không biết rằng, tình tôi
Giống như Phượng Hoàng
Chết buổi chiều trước
Tái sinh sáng sau]
Un soir de
demi-brume à Londres
Un voyou qui
ressemblait à
Mon amour
vint à ma rencontre
Et le regard
qu'il me jeta
Me fit
baisser les yeux de honte
One foggy
night in London town
A hoodlum who resembled so
My love came marching up
to me -
The look he threw me
caused my eyes
To drop and made me blush
with shame.
[TLS]
Bài ca
của
tên thất tình
Buổi chiều Luân Đôn lù mù
sương mù
Một tên du côn giống người yêu của tôi
Tới gặp tôi
Cái nhìn của hắn làm tôi cúi đầu vì hổ thẹn.
Milosz
JULIA
HARTWIG 1921-
Expectation of an imminent calamity. Many
people have lived through such a moment, but they haven't left poems
about it. Yet those moments are an integral part of history, of many
cities and countries.
Ngửi thấy mùi thảm họa. Nhiều
người Mít đã trải qua một khoảnh khắc như thế, nhưng họ quên không để
lại 1 bài thơ.
Tuy nhiên, những khoảnh khắc này là 1 phần toàn thể của lịch sử, của
nhiều thành phố và xứ sở.
Boys kicking a ball on a vast square beneath
an obelisk
and the apocalyptic sky at sunset to the rear
Why the sudden menace in this view
as if someone wished to turn it all to red dust
The sun already knows
And the sky knows it too
And the water in the river knows
Music bursts from the loudspeakers like wild laughter
Only a star high above us
stands lost in thought with a finger to its lips
Translated from the
Polish by Stanislaw Baranczak and Clare Cavanagh
Czeslaw
Milosz giới thiệu, trong A Book of
Luminous Things
Ở bên trên chúng ta
Trẻ con chơi đá banh ở một công
viên rộng lớn
bên dưới Đài
Kỷ Niệm Điện Biên
và bầu trời
tận thế thì đỏ mọng,
‘không gian
bỗng đỏ rực, rồi đêm xuống trùm lên tất cả’
Tại sao cái sự
hăm dọa bất thần như thế
Như thể có 1
người nào đó ao ước biến tất cả thành bụi đỏ
[Có phải đốt
sạch Trường Sơn, thì cũng đốt]
Mặt trời biết
điều đó
Bầu trời cũng
biết điều đó
Nước sông Sài
Gòn cũng biết luôn
Nhạc “Như có
Bác H trong ngày vui như thế này”,
bỗng ré lên
như 1 tiếng cười man rợ
từ chiếc loa
của Ban Thông Tin Phường Bến Nghé
Chỉ có 1 ngôi
sao ở thật cao trên đầu chúng ta,
thì vẫn như
lạc lõng trong suy tư,
với ngón tay
đặt lên đôi môi (1)
Zbigniew Herbert
THE HILL
FACING THE PALACE
The hill
facing Minos's palace is like a Greek theater
tragedy
leaning its back against the impetuous slope
rows of
fragrant shrubs curious olive trees
applaud the
ruins
Between
nature and human fate
there is no
essential connection
the saying
that grass mocks catastrophe
is a whim of
the inconsolable and fickle
An odd case:
two straight parallel lines
will never
intersect not even in infinity
That's all
you can honestly say about it
Ngọn đồi đối
diện cung điện
Ngọn đồi đối
diện cung điện Minos
thì giống như một rạp hát Hy Lạp
bi kịch dựa
lưng trên những luống ô liu thơm ngát-
những con dốc
mãnh liệt, hung hãn
Điêu tàn vỗ
tay điêu tàn
Giữa thiên
nhiên và số phận của con người
chẳng hề có liên
hệ thiết yếu
Câu nói, cỏ
cây chọc quê tai ương,
Là 1 cú cà
giựt thoáng qua, của điều không thể an ủi, không kiên định
Một trường hợp
lẻ: hai đường thẳng song song
không bao giờ gặp nhau, ngay cả ở vô cực
Đó là tất cả
những gì bạn có thể thành thực nói về điều này.
Qua
sông qua nước
Tưởng
niệm 7 năm TTT mất
Thơ dịch
THANH TÂM TUYỀN
MALLARMÉ
Le vierge, le vivace et le bel
aujourd’hui
Va-t-il nous déchirer avec un coup d’aile ivre
Ce lac dur oublié que haute sous le givre
Le transparent glacier des vols qui n’ont pas fui
Un cygne d’autrefois se souvient que c’est lui
Magnifique mais qui sans espoir se délivre
Pour n’avoir pas chanté la region òu vivre
Quand du stérile hiver a resplendit l’ennui
Tout son col secouera cette blanche agonie
Par l’espace infligée à l’oiseau qui le nie
Mais non l’horreur du sol òu le plumage est pris
Fantôme qu’à ce lieu son pur éclat assigne
Il s’immolise au songe froid de mépris
Que vêt parmi l’exil inutile le Cygne .
Ngày trinh nguyên, phơi phới thắm tươi
Chừng đập cánh say sảng lộng rách
Hồ đặc quên dưới giá ẩn hiện
Gương băng cánh chim xưa không bay
Con thiên nga thuở cũ nhớ mình
Kỳ vĩ nhưng tự do vô vọng
Bởi chốn dung thân không hót tụng
Khi mùa đông trơ ánh chán chường
Vùng thoát giấc trắng xóa tiêu hồn
Không gian chim rẽ rúng hãm cầm
Nào rớt bùn nhơ thân vấy tởm
Ma quỷ tinh anh tự đọa trầm
Ngây sững chiêm bao lạnh khinh mạn
Lốt Thiên Nga ngày hão phiêu vong .
Aux arbres
YVES BONNEFOY
Vous qui vous êtes effacés sur son
passage,
Vous qui avez refermé sur elle vos chemins,
Impassibles garants que Douve même morte
Sera lumière encore n’étant rien.
Vous fileuse matière et densité,
Arbres, proches de moi quand elle s’est jetée
Dans la barque des morts et la bouche serrée
Sur l’obole de faim, de froid et de silence.
J’entends à travers vous quell dialogue elle tente
Avec les chiens, avec l’informe nautonier,
Et je vous appartiens par son cheminement
A travers tant de nuit et malgré tout ce fleuve.
Le tonnerre profound qui roule sur vos branches,
Les fêtes qu’il enflamme au sommet de l’été
Signifient qu’elle lie sa fortune à la mienne
Dans la mediation de votre austérité.
Với
cây rừng.
Rừng cây nhòa xóa trên lối ruổi
Rừng túa khép nẻo kín bóng nàng
Lầm lì chứng quyết nàng dù khuất
Vẫn là ánh sáng hiển nhiên không
Rừng tơ chất niềm mật trọng
Cây thân cận ta lúc nàng gieo mình
Xuống con thuyền đón vong linh miệng cắn
Miệng bát chan đói, rét, lặng thinh
Ta nghe qua rừng giọng nàng gắng đối đáp
Với lũ chó ngao, với quỷ sứ đưa đò
Và ta lụy hồn rừng theo bước đường lận đận
Ngất trải bao dặm khuya dù sông nước mịt mù
Sấm âm u dội rền đầu ngọn cành
Những hội đám sét thắp rực đỉnh hạ
Điềm báo mệnh nàng với mệnh ta gắn bó
Môi giới nhờ khổ hạnh kiếp rừng.
Thơ dịch
SMALL
OBJECTS
My contemporaries like
small objects,
dried starfish that have forgotten the sea,
melancholy stopped clocks, postcards
sent from vanished cities,
and blackened with illegible script,
in which they discern words
like "yearning;' "illness;' or "the end."
They marvel at dormant volcanoes.
They don't desire light.
Vật nhỏ
Người cùng
thời với GNV thích ba vật nhỏ,
sao biển khô, quên mẹ mất biển cả từ đời nảo đời nào,
những chiếc đồng hồ buồn ngưng chạy, những tấm bưu thiếp,
gửi từ những thành phố đã biến mất,
đen thui với những chữ không làm sao đọc được,
như ‘khát khao’, ‘bịnh’ hay, ‘sau cùng’.
Họ ngỡ ngàng trước những ngọn núi lửa đã nguội, và đang ngủ.
Họ đếch thích ánh sáng.
LIFE
IS NOT A DREAM
In the beginning,
freezing nights and hatred.
Red Army soldiers fired automatic pistols
at the sky, trying to strike the Highest Being.
Mother cried, perhaps remembering
the sentimental stories of her childhood.
Coldwater Street ran beside the river
as if trying to outrace it-
or to reach its distant sources,
still pure beyond a doubt, recalling the dawn's joy.
If life is a dream,
then the phoenix may actually exist.
But in Krakow life revived
under the sign of common pigeons:
in the Planty Gardens, alongside veterans
clad in the tattered uniforms
of at least three armies,
young beauties made appearances,
and music-loving plane trees donned
their finest new foliage outside Symphony Hall.
Should one honor local
gods?
A beggar at the marketplace in Lucca
moved from stand to stand
garnering tributes-proud as Diana.
It's more difficult to find nymphs
where we live, though,
and great Pan didn't leave his calling card.
Important memories-stern monuments
to monotheism - were inscribed
only in the trees and on church walls.
We tried courage, since
there was no exit.
We tried cunning, but it failed.
We tried patience and fell asleep.
We wrote poems like leaflets and leaflets
like pages from burgeoning epics.
Dreams grew like hibiscus flowers.
Dark wells opened in the night.
We tried cynicism; some of us succeeded.
There was great joy, don't forget.
We tried time; it was tasteless, like water.
Finally, much later, for
unknown
reasons, the clocks began
to revolve ever faster above us,
as in archival, silent films.
And life went on, inevitable life,
so skeptical, so practiced,
coming back to us so insistently
that one day we felt the taste of ordinary failure,
of common tragedy upon our lips,
which was a kind of triumph.
Đời thì không phải là 1
giấc mơ
Vào lúc thoạt đầu, thì
là những đêm lạnh giá, và hận thù
Hồng Quân bắn súng lục như điên
Lên bầu trời, tính hăm dọa Thượng Đế.
Mẹ khóc, có lẽ nhớ những câu chuyện làm mủi lòng khi còn là 1 cô bé
Con phố Coldwater Street chạy kế bên con sông,
Như muốn vượt lên nó –
hay là tới được những nguồn xa xôi,
vẫn trinh nguyên, vượt quá hồ nghi, gợi nhớ niềm vui rạng đông
Nếu đời là 1 giấc mơ,
thì chim phượng hoàng hẳn là có thực.
Nhưng cuộc sống ở Krakow đã sống lại
dưới dấu hiệu của những con chim bồ câu chung:
tại công viên, dọc theo những cựu chiến binh,
trong những bộ quân phục rách bươm, của ít nhất là ba thứ quân đội,
những em xinh như mộng khoe nhan sắc,
và những cây tiêu huyền mê âm nhạc
xúng xính trong những tàng lá đầu tiên tuyệt vời của chúng,
ở phía bên ngoài Viện Âm Nhạc Hòa Tấu.
Liệu ai đó có nên vinh
danh những vị thổ thần?
Một đấng ăn mày ở Chợ Bến Thành nhích nhích,
từ 1 chỗ lạy ông đi qua, tới 1 chỗ lạy bà đi lại,
thu gom những đồng bạc Cụ Hồ,
ấy chết xin lỗi, những lời vinh danh, tưởng niệm – hãnh diện như Diana.
Tuy nhiên, thật quá khó, để mà tìm những nàng ‘nymphs’,
và vị thần Pan vĩ đại thì lại quên không để lại tấm thẻ gọi điện thoại.
Những kỷ niệm quan trọng – những đài tưởng niệm lạnh lùng thờ độc thần –
thì chỉ được khắc ở trên cây hay trên tường nhà thờ.
Chúng ta thử can đảm, kể
từ khi không còn lối ra.
Chúng ta thử bịp, nhưng thất bại.
Chúng ta thử kiên nhẫn, và ngủ gục.
Chúng ta làm thơ như những tờ rơi, tờ rớt
như những trang sách từ những sử thi, hùng ca đang nở rộ.
Những giấc mơ mọc lên như những bông dâm bụt.
Những cái giếng âm u mở vào ban đêm
Chúng ta thử trò đểu giả; có vài tên thành công
Có niềm vui lớn, đừng quên
Chúng ta thử thời gian; nó nhạt thếch như nước lã.
Sau cùng, mãi thật lâu
sau đó,
Không hiểu vì những lý do gì, những cái đồng hồ tích tắc trở lại,
nhưng chạy ngược chiều, nhanh như chưa từng như thế, ở trên đầu chúng
ta,
Như trong những cuốn phim câm, chứa trong kho.
Và cuộc đời lại tiếp tục, cuộc đời không thể nào tránh được,
Thật nản, thật thực dụng.
Nó trở lại với chúng ta thật nhẫn nại, thật nài nỉ, dai như điả đói
đến một ngày nào đó, chúng ta cảm thấy mùi của sự thất bại bình thường,
của bi kịch chung,
ở trên môi của chúng ta,
giống như là 1 thứ chiến thắng.
Adam
Zagajewski: Eternal
Enemies
Thơ
Mỗi Ngày
READING THE
NOTEBOOK OF
ANNA
KAMIENSKA
Reading her,
I realized how rich she was and myself, how poor
Rich in love
and suffering, in crying and dreams and prayer.
She lived
among her own people who were not very happy but
supported
each other,
And were
bound by a pact between the dead and the living renewed
at the
graves.
She was
gladdened by herbs, wild roses, pines, potato fields
nd the
scents of the soil, familiar since childhood.
She was not
an eminent poet. But that was just:
A good
person will not learn the wiles of art.
Đọc Sổ Ghi của
Anna Kamienska (1)
Đọc bà, tôi
nhận ra bà giầu biết bao, còn tôi, nghèo làm sao.
Giầu có
trong tình yêu, và đau khổ, trong than khóc và mơ mộng, cầu nguyện .
Bà sống giữa
những con người của riêng bà, không rất hạnh phúc, nhưng giúp đỡ lẫn
nhau,
Và được gắn
bó bằng 1 hợp đồng giữa người chết và người sống được làm mới ở những
nấm mồ.
Bà thì thật vui với cỏ, hoa, thông, cánh đồng khoai tây
Và mùi của đất,
quen thuộc từ khi còn là con nít.
Bà không phải
là 1 nhà thơ uyên bác. Nhưng đúng là như thế này:
Một con người
tốt sẽ không học những mưu ma chước quỉ của nghệ thuật.
GIFT
A day so
happy.
Fog lilted
early, I worked in the garden.
Hummingbirds
were stopping over honeysuckle flowers.
There was nothing
on earth I wanted to possess.
I knew no one
worth my envying him.
Whatever evil
I had suffered, I forgot.
To think that
once I was the same man did not embarrass me.
In my body I
felt no pain.
When straightening
up, I saw the blue sea and sails.
Berkeley, 1971
“Where your
pain is, there your heart lies also.” (2)
― Anna
Kamieńska
TREATISE ON
THEOLOGY
1. A YOUNG
MAN
A young man
couldn't write a treatise like this,
Though I
don't think it is dictated by fear of death.
It is,
simply, after many attempts, a thanksgiving.
Also,
perhaps, a farewell to the decadence
Into which
the language of poetry in my age has fallen.
Why
theology? Because the first must be first.
And first is
a notion of truth. It is poetry, precisely,
With its
behavior of a bird thrashing against the transparency
Of a
windowpane that testifies to the fact
That we
don't know how to live in a phantasmagoria.
Let reality
return to our speech.
That is,
meaning. Impossible without an absolute point of reference.
2. A POET
WHO WAS BAPTIZED
A poet who
was baptized
in the
country church of a Catholic parish
encountered
difficulties
with his
fellow believers.
He tried to
guess what was going on in their heads.
He suspected
an inveterate lesion of humiliation
which had
issued in this compensatory tribal rite.
And yet each
one of them carried his or her own fate.
The
opposition, I versus they, seemed immoral.
It meant I
considered myself better than they were.
It was easier to repeat the prayers in English
at the
Church of St. Mary Magdalene in Berkeley.
Once,
driving on the freeway and coming to a fork
where one
lane leads to San Francisco, one to Sacramento,
He thought
that one day he would need to write a theological
treatise
to redeem
himself from the sin of pride.
Czeslaw
Milosz: Second Space
Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz
The wiles
of art
Mưu ma chước quỉ của nghệ thuật
Guilt and greatness in the life of
Czeslaw Milosz
Tội Lỗi và Sự Lớn Lao trong cuộc đời Czeslaw Milosz
CLARE CAVANAGH
Những giấc
mơ của Italo Calvino
NYRB điểm Letters,
1941–1985 by Italo
Calvino,
selected and with an introduction by Michael Wood and
translated from the Italian by Martin McLaughlin
Princeton University Press, 619 pp.,
$39.50
Nhân nhắc tới "mưu ma chước quỉ" của nghệ
thuật
[Note:
bài
viết này, nhờ đầu tháng, thấy xuất hiện trên server]
Prologue
There
was no one who smiled in those days
Except the dead, who found peace at last
Akhmatova: Requiem
Những ngày đó chẳng có ai
cười
Trừ người chết, sau cùng tìm thấy sự bình an
Nơi người chết mỉm
cười
Trong một thành phố, nơi người chết mỉm
cười, sung sướng vì sau cùng đã được bình an, nơi người sống "hơi thở
thua người chết, hình hài thân xác thua đám sương mù trên thành phố...."
Cái tít cuốn
sách của Gấu, "Nơi Người Chết Mỉm Cười", được 1 vị bạn văn khen nắc
nỏm, hay quá, kiếm ở đâu ra thế, GCC bèn vội vàng thanh minh, của
Akhmatova, trong bài viết có nhắc tới.
Còn 1 vị
nữa, cũng ra đi từ Miền Bắc, nói thẳng, anh viết về Hà Nội!
"Nơi người
chết mỉm cười" là Hà Nội.
Cái nhà tù trong Requiem, là
Hoả Lò, là khách sạn
Hilton!
Thơ
Mỗi Ngày
11
I often
think of Venice, which returns like a musical motif,
From the
time of my first visit there before the war,
When I saw
on the beach at Lido
The goddess
Diana in the form of a German girl,
To the last
when, after burying Joseph Brodsky,
We feasted
at the Palazzo Mocenigo, the very one
In which
Lord Byron had lived.
And there
were the chairs of the cafés in the Piazza San Marco.
That's where
Oscar Milosz, solitary wanderer,
Came under
sentence in 1909:
He beheld
the love of his life, Emmy von Heine-Geldern,
Whom he
called till the day of his death "my beloved wife,"
And who
married Baron Leo Salvotti von Eichencraft
und
Bindenburg
And died in
Vienna in the second half of the century.
Czeslaw
Milosz
Tôi thường
nghĩ tới Venice, nó trở đi trở lại với tôi như một mô típ nhạc.
Từ cái lần tôi
thăm đầu tiên trước cuộc chiến,
Khi tôi nhìn
thấy ở bãi biển Lido
Vị nữ thần
Diana trong dáng dấp một cô gái Đức
Tới lần cuối,
khi chôn cất Joseph Brodsky,
Chúng tôi tiệc
tùng tại Palazzo Mocenigo, đúng “nơi rất nơi“ mà Lord Byron đã sống.
Và rồi thì có
những cái ghế ở những quán cà phê ở Piazza San Marco.
Đó là nơi mà
Oscar Miloz, kẻ lang thang một mình
Tới, dưới án
tù, vào năm 1909:
Ông nhìn ngắm
tình yêu của đời mình, Emmy von Heine-Geldern,
Người mà ông,
cho đến khi chết, gọi là “người vợ yêu quí của tôi”,
Bà này kết hôn
với Baron Leo Salvotti von Eichencraft
und
Bindenburg
Và mất ở
Vienna vào hậu bán thế kỷ
When I saw on the beach at
Lido: A
beautiful German girl appears in
my "Six Lectures in
Verse" from 1987.
[Cô gái Đức
xinh đẹp xuất hiện trong "Sáu Bài Đọc bằng Thơ" của tôi, 1987]
After burying Joseph
Brodsky:
The body of Joseph Brodsky, who
died in New York City in 1996, was, in accordance with his wishes,
transported
to Venice and buried in the cemetery of San Michele on the twenty-first
of
June, 1997. Paradoxically,
his tomb and the tomb of Ezra Pound are contiguous.
[Sau khi chôn
Joseph Brodsky: Xác thân của Joseph Brodsky, mất tại New York
City năm
1996, được
đưa về Venice như ý nguyện của ông, và chôn ở nghĩa địa San Michele vào
ngày 21
Tháng Sáu 1997. Thú vị là hai cái mồ, của ông và của Erza Pound kế bên
nhau.]
We feasted at the Palazzo
Mocenigo:
Byron stayed there for some time in
1818 and it was there, in the early months of 1819, that he began his
Don Juan.
Emmy von Heine-Geldern: She was born in 1890 in
Vienna, a
younger daughter of Baron Gustav von Heine-Geldern and his wife,
Regine, a
relation of the poet H inri h Heine. She died in Vienna in the 1960s.
O.M.
called Emmy his celestial wife. The marriage between them never
occurred because
of the intrigues of his mother, though we do not know the reasons for
her
opposition. When Emmy married another man in 1910, O. M. was
thirty-three. It
is difficult, therefore, to suspect him of bowing to his mother's will.
Ghi chú của GCC: Oscar
Milosz là thi sĩ mà TTT đã từng nhắc tới, qua bài thơ dưới đây. Kundera
cũng có
đi 1 bài về ông trong Gặp Gỡ.
21. Sinh nhật húy
nhật
Les morts de Lofoten sont moins
morts que moi (a)
Oswald L. de Milosz
Giữa trưa mệt té xỉu trên đồi
Quanh mình vẳng tiếng cuốc liên hồi
Đào huyệt chôn ư? Ơi chúng bạn
Cứ để yên xác tù nằm phơi
Nhìn
xem gương mặt hắn
thanh thản
Lộng nắng bừng say chợp ngủ vùi
Người mang cầm hãm đặng bêu riếu
Hắn “cũng đành xấp ngửa theo đời
Cho hết cuộc ham mê rồ dại” [1]
Hắn tự chôn huyệt gió đáy trời. (1)
Biển
Buổi chiều đứng
trên bãi Wasaga
Nhìn hồ
Georgian
Cứ nghĩ thềm
bên kia là quê nhà.
Sóng đẩy biển
lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng
đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả
Cát ở đây được
con người chở từ đâu tới
Còn ta bị
quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này
Số phận còn
thua hạt cát.
Hàng cây
trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi
nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời
Chỉ còn ta
cô đơn lẫn vào đêm
Như con hải
âu già
Giấu chút
tình sầu
Vào lời thì
thầm của biển...
NQT
Ultramarine
... sick
With exile,
they yearn homeward now, their eyes
Tuned to the
ultramarine, first-star-pierced dark
Reflected on
the dark, incoming waves. . .
- DEREK
MAHON
from
"Mt Gabriel" in Antarctica (1985)
Siêu Biển
.... bịnh
Lưu
vong,
Gấu
bèn nhớ
nhà, và bèn nhìn về quê nhà may mắn bỏ chạy, thoát.
Ngôi
sao đầu
tiên, chọc thủng màn đêm nơi hồ Georgian,
Phản
chiếu
trên những làn sóng đen thui đang đổ xô tới liếm chân Gấu
Hà, hà!
An Afternoon
As he
writes, without looking at the sea,
he feels the
tip of his pen begin to tremble.
The tide is
going out across the shingle.
But it isn't
that. No...
it's because
at that moment she chooses
to walk into
the room without any clothes on.
Drowsy, not
even sure where she is
for a
moment. She waves the hair from her forehead.
Sits on the
toilet with her eyes closed,
head down.
Legs sprawled. He sees her
through the
doorway. Maybe
she's
remembering what happened that morning.
For after a
time, she opens one eye and looks at him.
And sweetly
smiles.
Một buổi xế trưa
Khi viết, đếch
thèm nhìn biển
Chàng cảm thấy
đầu cây viết bắt đầu run rẩy
Sóng trào ra
trên lớp đá cuội
Nhưng không
phải. Nhảm…
Bởi là vì đúng
lúc đó nàng
Bước vô phòng
Đếch mặc cái
gì ở trên người
Lơ tơ mơ, như
không nhận ra mình
Hoặc đang ở
chỗ nào
Nàng giơ tay
vén mớ tóc xòa trên trán,
Ngồi lên bàn
cầu, mắt vẫn nhắm
Đầu cúi xuống.
Hai chân ườn ra
Chàng nhìn nàng
qua cửa nhà cầu
Có thể nàng đang
nhớ chuyện sáng nay
Một lát sau,
nàng mở 1 con mắt ra nhìn chàng
Và mỉm cười
thật là ngọt ngào.
Thơ
Mỗi Ngày
Raymond Carver
Where Water
Comes Together
with Other Water
Where Water
Comes Together with Other Water:
Nơi Nước Quần
Tụ, và Quần Tụ với Nước Khác
Hay là
chơi
luôn cái tít của Thảo Trần, Nơi Dòng
Sông Chảy Về Phía Nam!
I love creeks
and the music they make.
And rills,
in glades and meadows, before
they have a
chance to become creeks.
I may even
love them best of all
for their
secrecy. I almost forgot
to say
something about the source!
Can anything
be more wonderful than a spring?
But the big
streams have my heart too.
And the
places streams flow into rivers.
The open
mouths of rivers where they join the sea.
The places
where water comes together
with other
water. Those places stand out
in my mind
like holy places.
But these
coastal rivers!
I love them
the way some men love horses
or glamorous
women. I have a thing
for this
cold swift water.
Just looking
at it makes my blood run
and my skin
tingle. I could sit
and watch
these rivers for hours.
Not one of
them like any other.
I'm 45 years
old today.
Would anyone
believe it if I said
I was once
35?
My heart
empty and sere at 35!
Five more
years had to pass
before it
began to flow again.
I'll take
all the time I please this afternoon
before
leaving my place alongside this river.
It pleases
me, loving rivers.
Loving them
all the way back
to their
source.
Loving
everything that increases me.
Raymond
Carver
Nơi Nước Quần
Tụ, và Quần Tụ với Nước Khác
Tôi mê những
nhánh sông và âm nhạc nó tạo nên
Và những con
lạch, những dòng suối, ở trảng, đồng,
Trước khi chúng
có cơ may trở thành sông con, hay nhánh sông
Tôi còn mê hơn
thế nữa, mê cực mê, cái sự kín đáo của chúng.
Tôi hầu như
quên chẳng nói điều gì về nguồn!
Liệu có gì
tuyệt vời hơn một con suối?
Nhưng những suối
lớn cũng có trái tim của tôi
Và những
nơi, suối chảy vô sông
Những miệng sông mở ra, nơi chúng nối với biển.
Nơi nước quần
tụ và quần tụ với nước khác.
Những thánh địa
sừng sững ở trong tôi
Ui chao, những
con sông với những bãi biển của chúng.
Tôi mê chúng,
cái kiểu mà một số đực rựa mê ngựa
Hay đàn bà say
đắm, quyến rũ.
Tôi có 1 điều
dành cho con nước lạnh và nhanh này
Chỉ nội nhìn
nó là máu tôi chạy
Da lâm dâm rứa.
Tôi có thể
ngồi nhìn những con sông này hàng giờ đồng hồ.
Không con sông
nào giống con nào
Bữa nay tôi
45 tuổi
Liệu có tin rằng,
Tôi đã có lần
35 tuổi?
Trái tim của
tôi thì trống rỗng, và héo khô ở cái tuổi 35!
Phải mất 5 năm,
Nó mới chảy trở lại.
Tôi sẽ trải qua buổi chiều này 1 cách thoải mái
Trước khi rời chỗ mình đang ngồi bên dòng sông
Nó hài lòng tôi,
những con sông đáng yêu này
Yêu chúng suốt
cả đường trở về nguồn của chúng
Yêu mọi điều
nhấn lên tôi
Thơ
Mỗi Ngày
IX.
For a long
time I tried to find out the task prepared for me.
Provided it
was not too difficult for my modest strengths.
I observed
the tone and style of my time
In order to
act against it in the poetry of my native language,
Which meant
not allowing it to lose a sense of hierarchy
And by
hierarchy meant what a child means:
One
obeisance, rather than a series of idols which appear
and
disappear.
The sublime
doesn't have fame or money on its side.
But it
persists, it renews itself in every generation.
Because in
thought some greatness of soul keeps being born.
So it is
important to know how to repeat after Goethe:
Respect!
Respect! Respect!
Czeslaw
Milosz: Second Space. New Poems
Một thời
gian dài, Gấu cố tìm cho ra cái thiên chức của.... Gấu Cà Chớn.
Mong rằng nó
cũng không khó khăn quá so với sức lực khiêm tốn của mình.
Gấu quan sát
giọng và văn của thời Gấu.
Để chống lại
nó, trong thơ Mít
Như thế
có nghĩa:
Đếch cho phép
nó mất đi cái cảm quan tôn ti trật tự.
Như, với 1 đứa
con nít:
Đứa biết
vâng lời, chứ không phải những tên bạ ai cũng xoa đầu, "moa toa" với
cả ông Tiên Chỉ, ngu ngốc [tiền phong thì tưởng là 1 tên cầu thủ
đá banh],
1 lũ Thầy, Cử Nhơn, Tiến Sỡi… chúng xuất hiện để biến mất.
Cái cao cả,
siêu phàm thì đâu cần vinh quang, hay tiền bạc, kế bên nó?
Nhưng nó "dai
như đỉa, mi làm phiền ta quá", nó làm mới chính nó mỗi thế hệ.
Bởi là vì
trong tư tưởng, một sự lớn lao nào đó của linh hồn, tiếp tục sinh ra.
Và như thế
thật là quan trọng cái điều này:
Biết, làm thế nào lập lại, lập lại hoài, theo Goethe:
Đa tạ! Kính!
Kính trọng! Kính trọng!
Thưa ông Gấu
Cà Chớn!
Hà, hà!
Romania
Herodotus once said that
Our ancestors, the Tracs
Might have become all-powerful
If each did not against the other fight.
But for them, there was never
a desire for unity.
Gods in vain have told them to relent.
They have fought, and fight again.
We, descendants of their blood,
Have walked their roads for centuries.
But never, and nowhere
Have we found the healing flowers.
To argue is our way
as their cursed schemes remain.
We are wedded to the conflicts
That Herodotus knew well.
ALEXANDRU CETATEANU
Xứ Mít
Sử gia Ngô Sĩ Liên có lần phán
Giống Mít đúng ra là
Đả Biến Thiên Hạ Vô Địch Thủ
Nếu chúng đừng đâm chém lẫn nhau
Nhưng với lũ Mít
Chẳng hề có chuyện kết hợp thành 1 khối
Thần Thánh năn nỉ chúng hoài
Hãy tha thứ cho nhau, hãy thư thả,
Đừng giết nhau dữ quá,
Ít ít thì còn được!
Chúng đâu có chịu nghe.
Chúng ta, lũ hậu duệ của Con
Rồng Cháu Tiên,
Không thể ở với nhau đời đời được
Có cái máu làm thịt lẫn nhau từ thời dựng nước
Và cứ tiếp tục con đường máu của tổ tiên để lại hoài
Tìm hoài, tìm hoài,
Chẳng bao giờ, và chẳng nơi đâu,
Những bông hoa chữa lành
Vết thương hình chữ S
Cái Xứ mình nó thế
Sử gia họ Ngô biết rất rành điều này
Hà, hà!
(1)
Raymond Carver
Where Water
Comes Together
with Other Water
Where Water
Comes Together with Other Water:
Nơi Nước Quần
Tụ, và Quần Tụ với Nước Khác
Hay là
chơi
luôn cái tít của Thảo Trần, Nơi Dòng
Sông Chảy Về Phía Nam!
I love creeks
and the music they make.
And rills,
in glades and meadows, before
they have a
chance to become creeks.
I may even
love them best of all
for their
secrecy. I almost forgot
to say
something about the source!
Can anything
be more wonderful than a spring?
But the big
streams have my heart too.
And the
places streams flow into rivers.
The open
mouths of rivers where they join the sea.
The places
where water comes together
with other
water. Those places stand out
in my mind
like holy places.
But these
coastal rivers!
I love them
the way some men love horses
or glamorous
women. I have a thing
for this
cold swift water.
Just looking
at it makes my blood run
and my skin
tingle. I could sit
and watch
these rivers for hours.
Not one of
them like any other.
I'm 45 years
old today.
Would anyone
believe it if I said
I was once
35?
My heart
empty and sere at 35!
Five more
years had to pass
before it
began to flow again.
I'll take
all the time I please this afternoon
before
leaving my place alongside this river.
It pleases
me, loving rivers.
Loving them
all the way back
to their
source.
Loving
everything that increases me.
Raymond
Carver
Czeslaw
Milosz, trong tuyển tập thơ quốc tế của ông, A Book of Liminous
Things,
chọn hai bài của RC, đều thần sầu, và đều nói đến giây phút đốn ngộ.
Một đốn ngộ chết, và một, sống.
RAYMOND
CARVER
1938-1988
Just before
daybreak, when it is still dark, an electrical blackout causes the
speaker to
look outside at the landscape, which appears extraordinarily calm. The
speaker
feels pure inside at that moment. Later the same morning, electricity
is
restored and "things stood as they had before."
Czeslaw
Milosz
Trước bình
minh chỉ 1 tị, khi trời đất còn tối hù, một cú mất điện xẩy ra, khiến
cái tay
phát ngôn viên trong bài thơ dưới đây, nhìn ra bên ngoài, và phong cảnh
làm
chàng sững sờ: nó thinh lặng một cách lạ thường. Và chàng cảm thấy bên
trong
chàng mới thanh tẩy làm sao. Sau đó, cũng buổi sáng đó, có điện lại, và
thế
gian lại “vũ như cẩn”.
THE WINDOW
A storm blew
in last night and, knocked out
the
electricity. When I looked
through the
window, the trees were translucent.
Bent and
covered with rime. A vast calm
layover the
countryside.
I knew
better. But at that moment
I felt I'd
never in my life made any
false
promises, nor committed
so much as
one indecent act. My thoughts
were
virtuous. Later on that morning,
of course,
electricity was restored.
The sun
moved from behind the clouds,
melting the
hoarfrost.
And things
stood as they had before.
Cửa sổ
Một trận bão
hoành hành đêm qua và làm mất điện.
Khi tôi nhìn
ra cửa sổ, cây cối thật u minh.
Ngã gục, ngổn
ngang, phủ đầy sương muối
Một cơn
thinh lặng trùm lên tất cả
Tôi biết hơn
thế, bảnh hơn thế.
Nhưng vào
lúc đó,
Tôi cảm thấy
mình trong đời chưa từng giả đò, hứa nhảm,
Chưa từng
làm một hành động bửn.
Tư tưởng của
tôi thì thật là thánh thiện
Sau đó một
lát, lẽ dĩ nhiên, điện có lại
Mặt trời
chui ra khỏi những đám mây
Làm tan lớp
sương muối
Và mọi chuyện
lại như cũ
RC
Poems 2
Six Poems
Three Poems
Charles Simic
Migrating Birds
If only I had a dog, these
crows congregating
In my yard would not hear the end of it.
If only the mailman would stop by my mailbox,
I'd stand in the road reading a letter
So all you who went by could envy me.
If only I had a car that
ran well,
I'd drive out to the beach one winter day
And sit watching the waves
Trying to hurt the big rocks
Then scatter like mice after each try.
If only I had a woman to
cook for me
Some hot soup on cold nights
And maybe bake a chocolate cake
A slice of which we'd take to our bed
And share after we've done loving.
If only these eyes of mine
would see better,
I could read about birds migrating,
The vast oceans and deserts they cross
And their need to return to this shithole
After visiting many warm and exotic countries.
Bầy Chim Bỏ Xứ
Chỉ cần một chú chó
là đám quạ ở sân nhà tớ
sẽ hiểu liền tù tì,
tận thế là đây có nghĩa là gì!
Chỉ một ông đưa thư ngưng lại ở cái hộp thư của tớ
Là tớ sẽ đứng ngay giữa đường đọc thư
Và các bồ đi ngang thì sẽ khóc thét lên
vì ghen tức và thèm được như là Gấu.
Giả như là tớ có một cái
xế thật bảnh, chạy thật ngon lành, nhỉ.
Tớ sẽ
chạy ra bờ biển vào một ngày đông
Ngồi nhìn
sóng
Cố đụng
mấy cục đá lớn
Và sau
đó, chạy tứ lung tung như lũ chuột, sau mỗi cú thử.
Giả
như tớ có một bà đầu bếp,
Nấu cho
tớ tô cháo nóng vào những đêm lạnh lẽo
Hay nướng
bánh xô cô la
Và một
miếng bánh như thế, bà mang vô giường
Chia với
Gấu, sau khi iêu Gấu.
Giả
như cặp mắt già của Gấu sáng ra lại một chút
Gấu sẽ
đọc về những con chim di cư
Những
biển rộng những sa mạc mà chúng vượt qua
Và cái sự
chúng cần trở về cái hố kít này
Sau khi
viếng thăm cả đống những xứ sở ấm áp, ướt át.
Eternities
A child lifted in his
mother's arms to see a parade
And that old man throwing breadcrumbs
To the pigeons crowding around him in the park,
Could they be the same person?
The blind woman who may
know the answer recalls
Seeing a
ship as big as a city block
All lit
up in the night sail past their kitchen window
On its
way to the dark and stormy Atlantic.
Vĩnh cửu
Ðứa trẻ được mẹ nhấc bổng
để nhìn cuộc diễn hành
Và ông già ném những mẩu bánh cho đàn bồ câu bâu quanh ông
Liệu có phải là cùng một người?
Người đàn bà mù có thể
biết câu trả lời, nhớ lại
đã từng nhìn thấy một con tầu to bằng cả một dẫy phố
Cả con tầu, đèn đuốc sáng chưng, giương buồm vượt qua khung cửa sổ nhà
bếp,
Trên đường đi tới Ðại Tây Dương tối đen, bão bùng.
All Gone into the Dark
Where's the blind old
street preacher led by a little boy
Who said the world will end next Thursday at noon?
Where's the woman who walked down Madison Avenue
In the summer crowd, stark naked and proud of herself?
Where's the poet Delmore
Schwartz I once saw sitting
In Washington Square Park gesturing theatrically to himself?
Where's the young man in a wheelchair pushed by his mother
Who kept shouting about wanting to kill more Vietnamese?
Mr Undertaker, sitting in
a window of a coffee shop
Chewing
on a buttered roll, you probably have a hunch-
Or are
you, like the rest of us, equally in the dark
As you
busy yourself around the newly arrived dead?
Rồi tất cả cũng đi vào đêm tối
Ông linh mục mù già đường
phố được một đứa bé dẫn dắt,
người rao giảng tận thế sẽ tới vào bữa trưa Thứ Năm,
ông ta đâu rồi nhỉ?
Ðâu rồi, người đàn bà đi xuống phố Madison Avenue
Giữa đám đông mùa hè, hoàn toàn khoả thân, và rất tự hào về mình?
Ðâu rồi, thi sĩ Delmore
Schwartz, có lần tôi nhìn thấy ngồi ở
Washington Square Park, múa may quay cuồng về mình?
Ðâu rồi, anh thanh niên ngồi xe lăn, được mẹ đẩy
Miệng la bai bải hãy giết VC, giết nữa, giết nữa!
Tay nhà hòm, ngồi ở cửa sổ
1 tiệm cà phê
Nhai chả giò, bạn có thể có linh cảm –
Hay cũng như tất cả lũ chúng tôi, cùng trong bóng tối,
Bạn đang tự mình làm rộn mình, về những người chết mới tới? (1)
LONDON
REVIEW OF BOOKS 9 SEPTEMBER 2010
*
VOA:
Thưa anh, từ năm 1975 đến nay ở hải ngoại thì sinh hoạt văn thơ khó có
thể so với thời trước năm 1975 ở quê nhà. Vậy anh nghĩ gì về những dòng
thơ hải ngoại hiện nay, và nó có còn là môi trường để cho các nhạc sỹ
phổ nhạc nhiều như xưa nữa hay không?
Du Tử
Lê: Câu hỏi rất hay. Thưa chị, bằng cái cảm nhận của tôi, nghĩa là hoàn
toàn chủ quan, tôi cho rằng lúc đầu tất cả những người viết văn, làm
thơ của chúng ta ở quê người thì họ còn bị chấn động bởi cái tan tác,
bởi cái đứt đoạn với tổ quốc, với quê hương. Tôi muốn nói đến những
người tỵ nạn, những người vượt biên, những người di tản. Trong giai
đoạn khoảng từ 5 đến 10 năm đầu, ảnh hưởng của nó còn lớn. Khi tôi nói
ảnh hưởng lớn thì tôi muốn nói cái xúc động hay rung động nó có thật,
nhưng từ khoảng năm 85 trở đi, đời sống người Việt của chúng ta ở quê
người bắt đầu ổn định, đi vào nền nếp. Và chị cũng hiểu là đời sống ở
Hoa Kỳ là một đời sống rất là khắc nghiệt và lạnh lùng, cho nên người
ta chỉ có đủ thời gian, đủ lo nghĩ cho ngôi nhà chúng ta ở, cho những
cái bills (hóa đơn) mà chúng ta phải trả. Và những rung động tình cảm,
những rung động thành thật thì tôi nghĩ là nó không có. Cho nên mặc dù
người ta vẫn làm thơ, vẫn viết văn nhưng những cái rung động thật thì
nó gần như đã phai nhạt, nếu không muốn nói là nó giả tạo. Đó là lý do
mà rất nhiều người làm thơ, viết văn ở thế hệ của chúng tôi đã không
còn viết nữa. Cái thế hệ trẻ thì họ đông hơn, nhưng như tôi đã nói, với
một bối cảnh như vậy thì nó không còn thích hợp cho văn chương nói
chung, và cho thi ca nói riêng.
VOA
Thú
thực, cái câu trả lời của ‘bạn ta’ cực nhảm. Chứng cớ hiển nhiên, là
nhà thơ Charles Simic. Ông này
cũng dân bỏ chạy quê
hương, qua Mẽo cũng mấy chục năm, và bây giờ vẫn làm thơ, thơ vẫn hay.
Họ cũng có đủ những vấn nạn, về 1 nước Mẽo lạnh lùng khắc nghiệt, chẳc
hẳn thế.
Thế thì
tại sao?
Theo
GNV, vấn đề này, là do nhà thơ Mít nghèo nàn cảm xúc, thiếu sự biết ơn,
dốt nát, lười biếng, không làm sao nhập vào được những vấn đề đang đẻ
ra thơ ở bất cứ 1 xứ sở nào, không chỉ ở Mẽo.
Cái lý
do rất nhiều người ở thế hệ DTL không làm thơ viết văn được nữa, còn
nằm ngay ở trong thời gian khi còn viết được, nghĩa là, còn trẻ [nhà
văn nhà thơ Mít toàn thứ chết non, chết trẻ, TTT đã từng nhận xét], và
đẻ ra toàn 1 thứ thơ ca, văn chương cần đến xúc động, thứ văn chương ăn
mày nước mắt, ăn xin tình cảm của độc giả nữa!
Chỉ một
khi cảm xúc của bạn vượt lên được những xúc động vị kỷ, vượt ra khỏi
cái vòng tay, của chỉ hai người, thì mới có thơ văn thứ ra hồn , có
hoài hoài được!
Sợ hấp hối, vẫn có 1 bài thơ còn đang làm dở ở trong túi!
Note: Ý này mượn TMT. Cô Tú vẫn còn làm thơ đấy, bạn DTL ơi! Và đâu chỉ
1 cô Tú?
Trong
thơ TMT, không chỉ có hai người, mà còn có nhân loại, có nỗi đau của
người khác, và, đôi lúc, giọng thơ quá chân thật, khiến có kẻ phán, bà
này làm thơ theo kiểu luân lý giáo khoa thư, là thế. Nhưng, ở vào những
giây phút bất thình lình, thơ, thứ tuyệt hảo, thứ chỉ "trao cho thi
sĩ", bật ra!
*
Charles
Simic, sinh năm 1938, chắc cũng tuổi DTL, là 1 trong những nhà thơ được
kính trọng và yêu mến nhất trong những nhà thơ Mẽo đương thời. Ông đã
từng đoạt giải thưởng Pulitzer, 1990, cho cuốn thơ "The World Doesn't
End: Prose Poems", [Thế giới đếch chịu ngưng, thơ cũng thế], học bổng
Mac Arthur, giải thưởng Wallace
Stevens Award trong số những giải
thưởng khác.
Từ 2007, là nhà thơ nhà của nước Mẽo, the Poet Laureate, thứ 15.
Ông đã cho xb hơn 60 tác phẩm
Trên TV
cũng có tí thơ của ông, và đang chuyển ngữ bài phỏng vấn được đăng trên
báo Serbian, “Views”, thực hiện vào Tháng Tám 1991, ngay sau khi cuộc
chiến tại cựu Yugoslavia bùng nổ.
Nay nhân cú phỏng vấn bạn ta của VOA, dịch tiếp, cũng là 1 cách giải
thích, tại làm sao mà “người ta” thì làm thơ viết văn được, mà Mít thì
tịt ngòi!
Ông tới Mẽo khi còn là 1 đứa con nít. Ông bật
mí cho biết cái mánh hội nhập nó ra làm sao.
Phiến
diện mà nói, tôi hội nhập cũng khá nhanh. Tiếng Anh cháo húp quanh, nhờ
vậy mà đọc sách, có thêm bạn, lậm sâu thêm vô xã hội mới, văn hóa phổ
thông... Cũng mất đâu chừng hai, ba năm. Cái còn lại thấm từ từ khi
sống cùng 1 cái đời như người đương thời. Tôi vô quân đội, rồi thì Cuộc
Chiến Mít [như ông Gấu nói], rồi thì thập niên 1960 etc… 40 năm dòng dã
tại xứ sở này, và tôi cảm thấy hoàn toàn ở nhà.
Ông nhận được bố cu giải thưởng, kể cả
Pulitzer. Nhiều như thế có ảnh hưởng gì tới ông?
Ảnh
hưởng khỉ gì. Thơ của tôi bán bảnh hơn nhiều. Chúng xâm nhập nhiều
trường trung học qua những tuyển tập. Mọi người nghĩ, thằng cha thi sĩ
này rất láu cá. Thằng chả khôn lắm! Không, tôi không phải như vậy. Nói
1 cách rốt ráo, thì đúng như… châm ngôn: “Mọi phép lạ chỉ kéo dài được
3 bữa” (1)
Trên TV đã từng
đăng thơ Carver. Từ Fires, từ báo, tạp
chí. Bữa nay chơi luôn cả tập.
Hà, hà!
Ông này cũng thê lương chẳng kém Fitzgerald
THE OTHER LIFE
Now for the other life.
The one
without mistakes.
-LOU LIPSITZ
My wife is in the other
half of this mobile home
making a case against me.
I can hear her pen scratch scratch.
Now and then she stops to weep,
then-scratch scratch.
The frost is going out of
the ground.
The man who owns this unit tells me,
Don't leave your car here.
My wife goes on writing and weeping,
weeping and writing in our new kitchen.
L'AUTRE VIE
Et maintenant l'autre vie.
Celle où on ne fera pas d'erreurs.
Lou LIPSITZ.
Ma femme est dans l'autre
moitié de ce mobile home
dressant un acte d'accusation contre moi.
J'entends son stylo crisser.
De temps à autre elle s'arrête pour pleurer,
ensuite le crissement reprend.
Le sol est en train de
dégeler.
Le proprietaire du camping me dit :
Ne laissez pas votre voiture ici.
Ma femme continue d'écrire en pleurant,
de pleurer en écrivant dans notre nouvelle cuisine.
Cõi Khác
Nào, bây giờ là cõi khác
Cõi đếch có lầm lẫn
Vợ tớ ở một nửa căn mobile home
Đang gây gổ với tớ
Tớ nghe ngòi viết cào cào, cào cào
Thỉnh thoảng nàng ngưng, để khóc
Rồi lại, cào cào, cào cào
Mặt đất đang tan băng
Người chủ khu nhà biểu tớ:
Đừng để xe ở đây.
Vợ tớ tiếp tục viết và khóc
Khóc và viết trong căn bếp mới của chúng tớ
Carver by Rushdie
Bài sau đây, thì Gấu chọn,
trong 1 bài viết trên tờ NYRB, bây giờ không làm sao kiếm ra nguyên tác
tiếng Anh, chán thế!
Chiều
tối
Tôi câu cá 1 mình
vào buổi chiều tối mùa thu tiều tụy đó,
Màn đêm cứ thế mò ra.
Cảm thấy,
mất mát ơi là mất mát
và rồi,
vui ơi là vui,
khi tóm được một chú cá hồi bạc,
mời chú lên thuyền
nhúng 1 cái lưới bên dưới chú.
Trái tim bí mật!
Khi tôi nhìn xuống làn nước xao động,
nhìn lên đường viền đen đen của rặng núi
phiá sau thành phố,
chẳng thấy gợi lên một điều gì,
và rồi
tôi mới đau đớn làm sao,
giả như sự chờ mong dài này,
lại trở lại một lần nữa,
trước khi tôi chết.
Xa cách mọi chuyện
Xa cả chính tôi
|
|