Nguyễn
Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu
Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada
Đã
xuất bản
Những
ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần
cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi
Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi
dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân
Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]
Trang
Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và
chuyển
về những
bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang
có đánh
số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.
Email
Nhìn lại những trang
Tin
Văn cũ
1
2
3
4 5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ
để
sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái
[free]
|
EVERYONE
WANTS A PIECE OF SLOANE
CROSLEY
Ai
cũng thèm
1 sợi lông của em này!
The dangers of the internet
Invisible sieve
Hidden, specially for you
Jun 30th 2011 | from the print
edition
"Un homme est passé"
« Bad Day at Black
Rock »
Tình cờ đọc
bài viết của Ngự Thuyết, và bèn nhớ ra đây
là 1 phim thần sầu!
Có thể nói,
phim nào của Spencer Tracy cũng thần sầu. Ngư
ông và Biển cả, Xử án tại Nuremberg, Tuyết để tang, La neige en deuil…
Ui chao,
sao lại có 1 tay diễn viên “nhân hậu” đến như thế cơ chứ.
Ðọc bài viết
1 cái là nhớ ngay ra số phận đám tù
VNCH, có nhiều tên Bắc Kít, sau 30 Tháng Tư 1975, được nhà nước cho về
thăm quê
hương cũ!
Nhớ
cái cảnh nhà thơ, chiều cuối năm đi qua 1 làng quê, và tiếp đón ông và
bạn tù, là 1
lũ con nít…
Chán thật!
Cái đầu quả
là hư mất rồi!
Gấu Cái cũng
nhận ra điều này, mi khùng rồi.
Note:
Có vẻ như bài viết của NT không liên can tới nội dung phim?
NQT
Trong những
bài viết về Ngư Ông, bài của
tác giả Ðời của Pi, Yann
Martel, thật tuyệt. Ông
nhìn ra cái gốc Thánh Kinh của nó.
Liu Xiaobo, Nobel Hòa Bình, phán, tớ đếch có kẻ
thù, là theo nghĩa "Ngư Ông". Theo nghĩa, nhiều kẻ thù tao, cả 1 nhà
nước
thù
tao, nhưng tao chưa kiếm ra kẻ thù, như con cá của Ngư ông.
Ui chao, đôi
khi, Gấu này "cuồng vọng", nghĩ rằng, mình có nhiều kẻ thù, nhưng chưa
gặp con cá, mà gặp con K.
[như của Buzzati]
THE OLD MAN AND THE SEA
BY ERNEST HEMINGWAY
February 16, 2009
To Stephen Harper,
Prime Minister of Canada,
From a Canadian writer,
With best wishes,
Yann Martel
Dear Mr. Harper,
The famous Ernest Hemingway. The
Old Man and the Sea is one
of those works of literature that most everyone has heard of, even
those who
haven't read it. Despite its brevity 127 pages in the well-spaced
edition I am
sending you it's had a lasting effect on English literature, as has
Hemingway's
work in general. I'd say that his short stories, gathered in the
collections
In Our Time, Men without Women and Winner Take Nothing,
among
others, are his greatest achievement and above all, the story "Big
Two-Hearted River" but his novels The Sun Also Rises, A Farewell to
Arms and For Whom the Bell Tolls are more widely read.
The greatness of Hemingway lies not so much in what
he said
as how he said it. He took the English language and wrote it in a way
that no
one had written it before. If you compare Hemingway, who was born in
1899, and
Henry James, who died in 1916, that overlap of seventeen years seems
astonishing, so contrasting are their styles. With James, truth,
verisimilitude, realism, whatever you want to call it, is achieved by a
baroque
abundance of language. Hemingway's style is the exact opposite. He
stripped the
language of ornamentation, prescribing adjectives and adverbs to his
prose the
way a careful doctor would prescribe pills to a hypochondriac. The
result was
prose of revolutionary terseness, with a cadence, vigor and elemental
simplicity that bring to mind a much older text: the Bible.
That combination is not fortuitous. Hemingway was
well
versed in biblical language and imagery and The Old Man and the Sea
can
be read as a Christian allegory, though I wouldn't call it a religious
work,
certainly not in the way the book I sent you two weeks ago, Gilead,
is.
Rather, Hemingway uses Christ's passage on Earth in a secular way to
explore
the meaning of human suffering. "Grace under pressure" was the
formulation Hemingway offered when he was asked what he meant by
"guts" in describing the grit shown by many of his characters.
Another way of putting that would be the achieving of victory through
defeat,
which matches more deeply, I think, the Christ-like odyssey of
Santiago, the
old man of the title. For concerning Christ, that was the Apostle
Paul's
momentous insight (some would call it God's gift): the possibility of
triumph,
of salvation, in the very midst of ruination. It's a message, a belief
that
transforms the human experience entirely. Career failures, family
disasters,
accidents, disease, old age-these human experiences that might
otherwise be
tragically final instead become threshold events.
As I was thinking about Santiago and his epic
encounter with
the great marlin, I wondered whether there was any political dimension
to his
story. I came to the conclusion that there isn't. In politics, victory
comes
through victory and defeat only brings defeat. The message of
Hemingway's poor
Cuban fisherman is purely personal, addressing the individual in each
one of us
and not the roles we might take on. Despite its vast exterior setting,
The Old
Man and the Sea is an intimate work of the soul. And so I wish upon you
what I
wish upon all of us: that our return from the high seas be as dignified
as
Santiago's.
Yours truly, Yann Martel
ERNEST
HEMINGWAY
(I899-1961) was an American journalist, novelist and short story
writer. He is
internationally acclaimed for his works The Sun Also Rises, A
Farewell to Arms,
For Whom the Bell Toll and his Pulitzer Prize-winning novella,
The Old
Man and the Sea.
Hemingway's writing style is characteristically straightforward and
understated, featuring tightly constructed prose. He drove an ambulance
in
World War I, and was a key figure in the circle of expatriate-artists
and
writers in Paris in the 1920s
Thơ mỗi ngày
Hình các thi
sĩ sẽ bị Hoàng Ngọc-Tuấn, Hoàng Đình Bình, Khánh Vy, Ian Bùi... "hành
hạ"
trong đêm 10 tháng 7.2011
Blog
NXT
Trong những
thi sĩ bị hành hạ, có những đấng như Rilke, Osip Mandelstam…
Thiển nghĩ,
nếu có “hành hạ”, thì xin tha cho họ. NQT
Vì, có thể mấy
đấng trên nhìn ra cái nhạt, cái yếu, cái làm dáng của thơ… NXT, nhất là hồi sau này, khi ra hải ngoại,
nhưng
không lẽ đủ nội lực để “hành hạ”… Rilke?
Vừa thôi, U
Tha cho Me!
NQT
Six
Poems
Three Poems
Charles
Simic
Migrating
Birds
If only I
had a dog, these crows congregating
In my yard
would not hear the end of it.
If only the
mailman would stop by my mailbox,
I'd stand in
the road reading a letter
So all you
who went by could envy me.
If only I
had a car that ran well,
I'd drive
out to the beach one winter day
And sit
watching the waves
Trying to
hurt the big rocks
Then scatter
like mice after each try.
If only I
had a woman to cook for me
Some hot
soup on cold nights
And maybe
bake a chocolate cake
A slice of
which we'd take to our bed
And share
after we've done loving.
If only
these eyes of mine would see better,
I could read
about birds migrating,
The vast
oceans and deserts they cross
And their
need to return to this shithole
After
visiting many warm and exotic countries.
Bầy Chim Bỏ Xứ
Chỉ cần một
chú chó
là đám quạ ở
sân nhà tớ
sẽ hiểu liền
tù tì,
tận thế là đây
có nghĩa là gì!
Chỉ một ông đưa
thư ngưng lại ở cái hộp thư của tớ
Là tớ sẽ đứng
ngay giữa đường đọc thư
Và các bồ đi
ngang thì sẽ khóc thét lên
vì ghen tức và thèm được như là Gấu.
Giả như là tớ
có một cái xế thật bảnh, chạy thật ngon lành, nhỉ.
Tớ sẽ
chạy ra bờ biển vào một ngày đông
Ngồi nhìn
sóng
Cố đụng
mấy
cục đá lớn
Và sau
đó,
chạy tứ lung tung như lũ chuột, sau mỗi cú thử.
Giả
như tớ có
một bà đầu bếp,
Nấu cho
tớ tô
cháo nóng vào những đêm lạnh lẽo
Hay nướng
bánh
xô cô la
Và một
miếng
bánh như thế, bà mang vô giường
Chia với
Gấu,
sau khi iêu Gấu.
Giả
như cặp
mắt già của Gấu sáng ra lại một chút
Gấu sẽ
đọc về
những con chim di cư
Những
biển rộng
những sa mạc mà chúng vượt qua
Và cái sự
chúng
cần trở về cái hố kít này
Sau khi
viếng
thăm cả đống những xứ sở ấm áp, ướt át.
Eternities
A child
lifted in his mother's arms to see a parade
And that old
man throwing breadcrumbs
To the
pigeons crowding around him in the park,
Could they
be the same person?
The blind
woman who may know the answer recalls
Seeing a
ship as big as a city block
All lit
up
in the night sail past their kitchen window
On its
way
to the dark and stormy Atlantic.
Vĩnh cửu
Ðứa trẻ được
mẹ nhấc bổng để nhìn cuộc diễn hành
Và ông già
ném những mẩu bánh cho đàn bồ câu bâu quanh ông
Liệu có phải
là cùng một người?
Người đàn bà
mù có thể biết câu trả lời, nhớ lại
đã từng nhìn thấy một con tầu to bằng cả một
dẫy phố
Cả con tầu,
đèn đuốc sáng chưng, giương buồm vượt qua khung cửa sổ nhà bếp,
Trên đường
đi tới Ðại Tây Dương tối đen, bão bùng.
All Gone
into the Dark
Where's the blind
old street preacher led by a little boy
Who said the
world will end next Thursday at noon?
Where's the
woman who walked down Madison Avenue
In the
summer crowd, stark naked and proud of herself?
Where's the
poet Delmore Schwartz I once saw sitting
In
Washington Square Park gesturing theatrically to himself?
Where's the
young man in a wheelchair pushed by his mother
Who kept
shouting about wanting to kill more Vietnamese?
Mr
Undertaker, sitting in a window of a coffee shop
Chewing
on a
buttered roll, you probably have a hunch-
Or are
you,
like the rest of us, equally in the dark
As you
busy
yourself around the newly arrived dead?
Rồi tất cả
cũng đi vào đêm tối
Ông linh mục
mù già đường phố được một đứa bé dẫn dắt,
người rao giảng
tận thế sẽ tới vào bữa trưa Thứ Năm,
ông ta đâu rồi
nhỉ?
Ðâu rồi, người
đàn bà đi xuống phố Madison Avenue
Giữa đám
đông mùa hè, hoàn toàn khoả thân, và rất tự hào về mình?
Ðâu rồi, thi
sĩ Delmore Schwartz, có lần tôi nhìn thấy ngồi ở
Washington Square Park, múa
may quay cuồng về mình?
Ðâu rồi, anh
thanh niên ngồi xe lăn, được mẹ đẩy
Miệng la bai
bải hãy giết VC, giết nữa, giết nữa!
Tay nhà hòm,
ngồi ở cửa sổ 1 tiệm cà phê
Nhai chả
giò, bạn có thể có linh cảm –
Hay cũng như
tất cả lũ chúng tôi, cùng trong bóng tối,
Bạn đang tự
mình làm rộn mình, về những người chết mới tới?
LONDON
REVIEW OF BOOKS 9 SEPTEMBER 2010
A
Thank-You
Note
I owe a
lot
to those I
do not love.
Relief in
accepting
others care
for them more.
Joy that I
am not
wolf to
their sheep.
Peace be
with them
for with
them I am free –
love neither
gives
nor knows
how to take these things.
I don't wait
for them
from window
to door.
Almost as
patient
as a sun
dial,
I understand
what love
never could.
I forgive
what love
never would.
Between
rendezvous and letter
no eternity
passes,
only a few
days or weeks.
Our trips
always turn out well:
concerts are
enjoyed,
cathedrals
toured,
landscapes
in focus.
And when
seven rivers and mountains
come between
us,
they are the
rivers and mountains
found on any
map.
The credit's
theirs
if I live in
three dimensions,
in a
non-lyrical and non-rhetorical space,
with a real,
ever-shifting horizon.
They don't
even know
how much
they carry in their empty hands.
"I owe
them nothing,"
love would
have said on
this open topic.
Wislawa
Szymborka
Một cái note
“Cám ơn bạn”
Tôi nợ nhiều
ở những người
tôi không yêu
Thở phào khi
nghĩ
Nhờ mình không
yêu họ
Cho nên những
người khác lại lo nhiều cho họ hơn!
Vui, vì mình
đâu có phải là
sói đối với đàn cừu của họ
Bình an cho
họ
Bởi vì đối với
họ thì tôi hoàn toàn vô tư, tự do, tự tại
-tình yêu chẳng
cho,
mà cũng chẳng
biết làm sao mà nhận những chuyện đó
Tôi không đợi
chờ họ
từ cửa sổ
cho tới cửa lớn
thật kiên nhẫn
như mặt trời
từ từ, chậm chạp nhích nhích
tôi ngộ ra, tình yêu
chẳng bao giờ có thể.
Tôi tha thứ
cho tình yêu
chẳng bao giờ sẽ.
Giữa cuộc hẹn
và tờ thư
chẳng vĩnh cửu
nào đi qua
chỉ vài ngày,
hay tuần lễ.
Chuyến đi của
chúng ta hóa ra là thật là tuyệt hảo
Hoà nhạc thưởng
thức
Nhà thờ tham
quan
Phong cảnh
chú mục
Và khi 7 con
sông lớn và núi bự
trờ tới, giữa
chúng ta,
chúng thì cũng
là sông là núi,
có ghê gớm
chi đâu
thứ núi thứ
sông mà chúng ta thấy đến nhàm cả mắt
ở trên bản đồ.
Chúng thế nào
thì chúng thế
một khi mà chúng
ta sống trong thế giới ba chiều
trong không
gian không-vãi linh hồn, không thùng rỗng kêu to
với một chân trời
thiên niên vũ như cẩn
Chúng làm
sao hiểu được
Chúng ôm
trong những bàn tay trống trơn của chúng,
là bao
nhiêu?
Tôi chẳng nợ
gì chúng
Tình yêu chắc
là sẽ nói như thế
Trong đề tài
mở này.
Mỹ Dung:
Thưa ông tôi
chỉ một câu hỏi trong lá thư ngắn này. Đó là điều tôi thấy hình như các
nhà
văn, nhà thơ Việt Nam mình, khi lớn tuổi rồi thì không còn làm thơ được
nữa? Hoặc
giả họ vẫn còn làm thơ nhưng họ thấy không ưng ý nên không cho phổ
biến? Nếu
đúng vậy thì theo ông nguyên nhân sâu xa của nó nằm ở đâu? Trong khi
tôi thấy
các nhà văn nhà thơ tây phương, lớn tuổi họ vẫn sáng tác được mà có khi
còn hay
hơn cả thời gian còn trẻ nữa.
Nhà thơ Trần
Dạ Từ trả lời:
Nhiều người
khi lớn tuổi không làm thơ nữa... Đây là điều thường thấy ở bất cứ đâu.
Ví dụ,
thi sĩ Pháp Athur Rimbaud chỉ làm thơ trước tuổi 20 rồi ngưng. Riêng
tại Việt
Nam, thời nào nơi nào cũng có những thi sĩ vẫn tiếp tục làm thơ dù lớn
tuổi,
làm thơ ngay cả trước khi chết, và đây thường là những bài thơ bậc
nhất, đặc biệt
nhất của chính họ. Xin mời coi lại và sẽ thấy yên tâm:
- Ca trù/
hát nói của Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê: “Ngã lãng du thời quân thượng
thiếu”
và “Hồng Hồng Tuyết Tuyết.”
- Thơ Nguyễn
Khuyến khóc Dương Khuê, “Tuổi già hạt lệ như sương.”
- Tại miền
Nam VN, Vũ Hoàng Chương có “Thơ xuân Năm Thìn.” Đây là bài thơ có chữ
nghĩa xúc
tích, tối tân và hào hùng nhất của thi sĩ, trước khi ông bị cộng sản
bắt đi tù
và bị giết vào tuổi sáu mươi.
- Tại miền Bắc
VN, hai nhà thơ Chế Lan Viên và Nguyễn Đình Thi trước khi từ trần đã
làm thơ để
lại như những di cảo lên án chủ nghĩa bánh vẽ và chế độ chuyên chế của
cộng sản.
Đây là những bài thơ xúc động mới lạ nhất của họ.
- Tại hải
ngoại, rất dễ thấy ‘thơ hay hơn bao giờ’ của các nhà thơ tuổi sáu bó,
bẩy bó:
Nguyên Sa, Mai Thảo, Du Tử Lê, Phạm Công Thiện, Đỗ Quí Toàn... Đặc biệt
trong
phạm vi người Mỹ gốc Việt, ta thường thấy số người lớn tuổi làm thơ
đông hơn là
lớp người trẻ tuổi.
DTL.com
Theo GNV, người
hỏi câu này, rất thật lòng, nhưng nhà thơ TDT, khi trả lời, đã không
thật lòng,
và có vẻ hơi tếu tếu, hoặc cố tình làm cho sự việc trở thành tếu tếu.
Bởi vì, quả
thật là những nhà thơ Mít, chỉ làm thơ khi “mới lớn, bắt đầu yêu”,
"thuở
làm thơ
yêu em", như tên tập thơ của TDT, xong là thôi, là... chấm
hết!
Nhà thơ TTT
cũng đã từng phán, nhà văn nhà thơ Mít chết non, cứ viết xong thời
thanh xuân là
ngỏm.
Trong câu hỏi
của vị độc giả, có một ý thật là hay. Nó làm Gấu nhớ đến Brodsky, và
sau
đây là
câu trả lời của ông, (1) cho câu hỏi của vị này.
Chúng ta có
thể suy ra, từ câu trả lời của Brodsky, tình trạng nhà thơ Mít, tại sao
họ làm
thơ hết thời thanh xuân là… xong.
(1)
Volkov: In
his essay on Stravinsky, Auden says that it is evolution that
distinguishes the
great artist from the minor one. Looking at two poems by a minor poet,
you
can't say which one of them was written first. That is, having achieved
a
certain level of maturity, the minor artist ceases to develop. He has
no more
history. Whereas a great artist, not content with what he achieved,
attempts to
capture even higher ground. Moreover (Auden adds) only in the light of
the
final works of a great artist can we evaluate
his earlier opuses we should.
Brodsky.
Lord! But of course! It's absolutely true! You know how the Japanese
used to do
this? They really have a healthier attitude toward matters of creative
evolution. When a Japanese artist achieves celebrity in one style, he
simply
changes his style, and along with it his name. Hokusai, I believe, had
nearly
thirty different periods.
Solomon Volkov: Conversations with Joseph Brodsky
He has no
more history: Hắn ta không còn lịch sử, sau khi làm thơ tán em,
xong.
Volkov: Trong tiểu
luận về Stravinsky, Auden nói, chính sự tiến hóa phân biệt nghệ sĩ lớn
với gã
cà mèng. Nhìn hai bài thơ của 1 tay cà mèng, bạn không thể nào biết bài
nào được
viết trước bài nào. Ðiều này có nghĩa, sau khi đạt được tí ti từng
trải, tí ti
lớn nhớn, nhà thơ cà mèng bèn ì ra, đếch chịu nhớn thêm. Anh ta đếch
còn có
lịch sử gì nữa. Trong khi nghệ sĩ lớn, không bằng lòng với gì đã hoàn
tất, thành
tựu, lại nhắm với cao hơn. Hơn thế nữa (Auden nói thêm), chỉ dưới ánh
sáng của
những tác phẩm sau cùng của một nghệ sĩ lớn, chúng ta mới có thể đánh
giá những
tác phẩm trước đó của vị này.
Nhận xét
trên có thể áp dụng vào “cas” TTT, đúng như Gấu đã từng phán: Thơ Ở Ðâu Xa mới là đỉnh cao của ông!
Tuyệt thật!
Dominique
Strauss-Kahn case 'on verge of collapse' amid doubts over maid
Cú bắt Trùm
IMF coi bộ nhảm!
Hoàng
Hạc Lâu
An
interview with Joseph Brodsky
Thủ Thiêm
Vợ Hổ
UNDER EASTERN EYES
Dưới con mắt Đông phương
Có một cái gì đó mang tính quốc
hồn quốc tuý, đặc Nga ở trong đó,
và nhất quyết không chịu bỏ nước ra đi.
Khi dịch câu trên, Gấu nghĩ đến Nguyễn Huy Thiệp, Văn Cao.
Nhất là NHT, và câu chuyện do anh kể, “tớ” đã từng đi vượt biên, nửa
đường bỏ
về, bị tay dẫn đường “xém” làm thịt!
Nhớ luôn cả cái tay phỏng vấn Gấu, và câu mở đầu cuộc phỏng vấn,
“off-record”,
lần Gầu trở lại đất Bắc sau hơn nửa thế kỷ xa cách:
Tôi cũng đi vượt biên, mấy lần, mà không thoát.
Nhưng, nhớ, nhất, là, Quê Người của Tô Hoài.
Bài viết này thật là thần sầu.
Một cách nào đó, Gấu bị lừa, vì một “thiên sứ” dởm, bởi vậy, khi Chợ Cá
vừa
xuất hiện là Anh Cu Gấu bèn cắp rổ theo hầu SCN liền tù tì.
Gấu đọc NHT là cũng theo dòng “chuyện tình không suy tư” như vậy: “chấp
nhận”
Tướng Về Hưu, "thông cảm" với ông ta, sau khi góp phần xây dựng xong
xuôi Ðịa Ngục Ðỏ của xứ Mít, bèn về hưu, sống nhờ đàn heo, đuợc vỗ béo
bằng
những thai nhi, của cô con dâu Bắc Kít...
Lịch sử Nga
là một lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm sao hiểu được,
hay, chấp
nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ -
nuôi dưỡng
những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì độc nhất
vô nhị,
hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào một
thành
ngữ của “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga là một
xứ sở
thiêng liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1
xứ nào
khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô, khi Người
trở lại với
trần gian. Hay, nó cũng có thể được hoá thân vào trong chủ nghĩa thế
tục thiên
sứ [chúng ông đều là Phù Ðổng Thiên Vương cả đấy nhé, như anh VC Trần
Bạch Ðằng
đã từng thổi mấy đấng Bộ Ðội Cụ Hồ], với niềm tin, đòi hỏi sắt đá của
CS về một
xã hội tuyệt hảo, về một rạng đông thiên niên kỷ của một công lý tuyệt
đối cho
con người, và tất nhiên, tất cả đều bình đẳng, hết còn giai cấp. Một
cảm quan
chọn lựa thông qua khổ đau, vì khổ đau, là nét chung của cảm tính Nga,
với
thiên hình vạn trạng dạng thức của nó. Và điều đó còn có nghĩa, có một
liên hệ
tam giác [không phải ‘ba ngôi’ nhe], giữa nhà văn Nga, độc giả của
người đó, và
sự hiện diện đâu đâu cũng có của nhà nước, cả ba quyện vào nhau, trong
một sự đồng
lõa quyết định. Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra mùi đồng lõa bộ ba này,
lần viếng thăm Liên Xô,
đâu đó sau khi Stalin chết. Những người mà tôi, hay một ai đó gặp, nói
về cái sự
sống sót của họ, với một sự ngỡ ngàng chết lặng, không một khách tham
quan nào
thực sự có thể chia sẻ, [trường hợp sống sót nào cũng thuộc loại độc
nhất vô nhị,
đại khái thế], nhưng cũng cùng lúc đó, cùng trong giọng ngỡ ngàng câm
nín đó, lại
ló ra một hoài niệm, tiếc nuối rất ư là kỳ quái, rất ư là tế vi. Dùng
cái từ “hoài niệm” này thì quả là quá lầm lẫn! Nhưng quả là như thế,
tếu thế!
Họ
không quên những điều ghê rợn mà họ đã từng trải qua, nhưng họ lại hàm
ý rằng,
ui chao, may quá, những điều ghê rợn đó, chúng tôi được Ðại Ác Nhân ban
cho, được
một Hùm Xám thứ thiệt ban cho, chứ không phải đồ gà chết!
Chúng tôi đã
được Bác H., một Ðại Ma Ðầu, trị vì, chứ không phải thằng Thiệu, đồ
Việt gian, đồ
Ngụy, đồ bán nước!
The Paris
Review:
Ông nghĩ sao về những thứ
sách điện tử và Kindle?
Bradbury:
Chúng
đâu phải là sách. Bạn không thể cầm trong tay một cái PC như bạn cầm
một cuốn sách.
Một cái PC đâu có mùi. Có hai mùi sách. Nếu là một cuốn mới, ngửi
“sướng” lắm,
it smells great! Nếu là 1 cuốn cũ, lại
càng sướng hơn nữa! Như mùi Ai Cập cổ. Cuốn sách có đó, là để ngửi. Bạn
phải cầm
nó ở trong tay và cầu nguyện cho nó, với nó. Bạn đút nó vào túi, và bạn
đi bộ với
nó. Nó sẽ ở với bạn mãi mãi. Một cái PC đâu có làm như thế đối với bạn.
I’m
sorry
Ông sống với
bà vợ Tấm Cám của ông 56 năm, cho tới khi bà đi xa, vào năm 2003. Ðâu
là bí quyết?
Nếu bạn không có tí tiếu lâm, thì đừng có lấy vợ. Trong phim Chuyện
Tình, Love Story, có 1 câu, “Yêu nghĩa là không
bao giờ phải nói bạn lấy làm tiếc”. Tôi chưa từng nghe một câu ngu đần
nào hơn
câu này! Yêu nghĩa là bạn nói, bạn rất tiếc mọi ngày, mỗi ngày, vì một
việc nho
nhỏ nào đó, việc này, việc nọ. Bạn làm 1 việc lỗi, thí dụ, quên không
tắt đèn,
khi đi ngủ, và bạn nói “anh xin lỗi, anh… quơn”. Bạn chấp nhận trách
nhiệm, tất
nhiên, nhưng trên tất cả, bạn phải có tí ti tếu, và như thế, chuyện gì
xẩy ra
thì cũng được cứu vãn, nhờ cái phần tếu tếu, tửng tửng đó!
Về cái vụ “xin
lỗi, anh… quơn” này, có một câu chuyện tiếu lâm thú lắm. Một ông già,
đâu ba, bốn
giờ sáng, thức dậy, không biết làm gì bèn năn nỉ bà vợ già… chiều. Xong ngủ tiếp, chừng 7 giờ sáng, thức,
lại
năn nỉ bà vợ, bả nói, mới lúc nãy rồi mà, ông chồng bẽn lẽn, “xin lỗi,
tui quơn,
đúng là già rồi…”!
|
|