TTT 2012
We two being one, are it
HAZEL
WILKINSON
James P.
Bednarz
SHAKESPEARE
AND
THE TRUTH OF
LOVE
The mystery
of "The Phoenix and Turtle"
264pp.
Palgrave Macmillan. £50 (US $80).
978 0 230
31940 0
" The
Phoenix and Turtle" is one of the most notoriously enigmatic poems of
the
English Renaissance. It was published in 1601, in a compilation of
"Poetical Essays" by "The best and chiefest of our moderne
writers", which was appended to Love's Martyr, a volume of poems by
Robert
Chester. The two lyrics attributed to William Shakespeare
(one untitled, one a "Threnos", or lament) that together form what we
now call "The Phoenix and Turtle", describe the funeral of the
mythical phoenix and its lover, the turtle dove. Shakespeare's
co-contributors
to the "Poetical Essays" were George Chapman, John Marston, Ben
Jonson and an anonymous poet, styled "Ignoto". "The Phoenix and
Turtle" has long been read as a riddle, and allegorical solutions to it
sought. All manner of Elizabethan courtiers have been suggested as
analogues
for the poem's avian cast, and almost half of James P. Bednarz's new
study,
Shakespeare and the Truth of Love, is devoted to examining the "keys"
to the poem proposed by former commentators. Plausible
and outlandish theories alike are recounted extensively and
entertainingly, and
a whole chapter is devoted to refuting the widely circulated claim that
the
turtle represents the rebellious (and, at the publication of Love's
Martyr,
recently executed) Earl of Essex. Bednarz's style is characterized by
the conviction
that "surmise easily warps into wild conjecture". Even the relatively
credible idea that the phoenix represents Elizabeth I, and the turtle
John
Salusbury (the newly knighted dedicatee of the "Poetical Essays") is
treated with skepticism, not only because - as any theorist will admit
-
absolute contextual proof is lacking, but because of Bednarz's
idiosyncratic
conviction that such readings render the poem "shallow and awkward
political
propaganda".
In turning
to the poem itself, however, Bednarz is much more willing to allow
multiple interpretative
possibilities to co-exist. The study ranges from a delicate and nuanced
investigation
of the poem's philosophy, to a history of the phoenix legend in
medieval bestiaries.
Renaissance logic, alchemy and astronomy are all employed to explain
what Bednarz
terms the "incorporate selves" of the phoenix and turtle - that is,
their paradoxical existence as both one and two entities, or in
Shakespeare's
esoteric words, "Single Natures double name, / Neither two nor one was
called". Bednarz's thorough investigation of this concept illuminates
cases of psychological doubling elsewhere in Shakespeare, such as the
famous
phrase from Troilus and Cressida, "this is, and is not, Cressid".
Fruitful comparisons with the plays arise frequently, particularly in
relation
to bird imagery (birds being by far the animals mentioned most often in
Shakespeare).
Bednarz
ventures into contentious territory in exploring the Catholic
influences on
Shakespeare's poem, and he is rightly careful to distinguish between
what he
calls "poetic theology" and "actual religion". Shakespeare,
it seems, responded to the liturgy of the Catholic requiem indirectly,
in part
through John Skelton's mock-elegiac poem "Phyllyp Sparowe",
a "playfully blasphemous appropriation of religious ritual to honor a
dead
pet" (the poem laments the death of a beloved sparrow). The comparison
with the early sixteenth-century Skelton is productive, since it shows
up the
literary self-consciousness of "The Phoenix and Turtle": although
Shakespeare
"did not entirely adopt Skelton's flippant tone", he used it to
"provide a touch of witty self-deprecation".
In his final
chapter, Bednarz assesses the poem's
relation to the metaphysical school of poetry. He
takes his cue not only from previous scholarship, but from the
"Poetical Essays"
themselves. Marston, in his contribution to the volume, refers to the
union of
the phoenix and turtle in Shakespeare's poem as "this same
Metaphysicall". Bednarz declares Marston's application of the word
"metaphysical" to Shakespeare "one of the most unappreciated
events in English literary history". It was
Marston, he continues, "who first used this word to define a bold new
kind
of speculative poetry that probed the connection between the human and
divine". This new poetry was further developed by John Donne, who
receives
extensive treatment here. Bednarz navigates a biographical maze – which
takes
in the poet's scandalous marriage to his employer's niece - to conclude
that
Donne's great poem "The Canonization" was written under James I, not
Elizabeth, and hence after "The Phoenix and Turtle". Therefore, when
Donne
writes "The phoenix riddle hath more wit / By us; we two being one, are
it", he is probably confronting Shakespeare's poem directly. This point
has been made before, but Bednarz is uniquely emphatic about its
implications:
he argues that Shakespeare's lyric essentially inaugurated the
metaphysical
tradition, and thereby "helped change the nature of seventeenth-century
English verse".
Subtitled
"The Mystery of 'The Phoenix and Turtle"', Bednarz's book seeks not
to explain the poem so much as to define mystery as one of its integral
aesthetic qualities. This it does
successfully: by making no claims to be definitive, Shakespeare and the
Truth
of Love renders a great poem more intriguing and provocative than ever.
TLS
SEPTEMBER 14 2012
Phượng Hoàng
& Bồ Câu: Hai ta, tuy hai mà là một.
Bài thơ khó hiểu nhất của Shakespeare, và
Đó cũng là ẩn nghĩa, thai đố, của Một Chủ Nhật Khác của TTT (1)?
Bếp Lửa trong văn chương
Bếp Lửa
trong Văn chương
[xuất
hiện lần đầu trên TSVC]
Nghệ Thuật Làm Dáng
Malraux
propose un univers désespérément masculin
La femme est
absente de ses romans.
M đề nghị 1
vũ trụ đực một cách thê thảm, tuyệt vọng.
Gide cũng đã từng
chê: Tiểu thuyết của Malraux thiếu đàn bà, con nít, và nụ cười.
Nhưng vấn đề là: Malraux
thì vậy, còn TTT,
thì sao?
Kỳ tới thằng
em của ông sẽ trả lời!
Nhưng
nếu coi cuộc chiến khốn kiếp là Ngày Hội Nhân Gian thì Một Chủ Nhật
Khác
lại bảnh nhất trong những cuốn bảnh nhất, so với Anh Môn Vĩ Đại
và
Gatsby Vĩ Đại!
Nguồn
GCC
thực sự không tin, cõi văn Mít lại có 1 cuốn
như Một Chủ Nhật Khác.
Khủng
nhất, là đoạn Kiệt tiễn Hiền đi, rồi lại
trở về, với vợ con, với cuộc chiến, để chết.
Như
vậy là Kiệt đã đi tới cõi bên kia,
lo xong cho Hiền, rồi lại trở lại cõi bên này.
Trong vương quốc của những
người đã chết
Tôi vẫn thường tha thẩn đi về
Thơ của Gấu
Gấu
ngờ rằng nơi mà Kiệt đưa Hiền tới, rồi trở về, để chết, cùng với cuộc
chiến, là Lost Domain, Miền Đã Mất, ở trong Le Grand
Meaulnes.
Bài Giáng cũng có một cõi Lost Domain của ông,
là thời gian 15 năm
chăn dê, vui đùa với chuồn chuồn, châu chấu, trước khi trở về đời, làm
Ông
Khùng giữa cõi Bọ.
Hậu thế sau này, có thể sẽ coi Một Chủ Nhật Khác, là tác phẩm
số 1 của
thời đại hoàng kim Miền Nam VNCH, hẳn thế!
Hơn
thế, chứ sao lại hẳn thế!
Note: Khi ông anh nhà thơ
của Gấu chưa đi xa, nhân vớ được 1 bài tên NYRB, phạng Malraux tơi bời,
của tay Simon Leys, Gấu bèn chơi luôn, đi một đường trên tờ Văn Học của
NMG.
Ông chủ báo thú quá,
[người đã từng khệ nệ mang bộ SCML, [hay MBD] đến tặng TTT, nhân lần
ông ghé thăm 1 ông bạn của ông, tại Tiểu Sài Gòn, nhưng TTT, khi ra về,
vờ luôn bộ sách, chắc là nặng quá, ông ngại cầm về!], bèn cho đăng
liền. Người thú, vì chưa có ai dám dùng từ nặng nề như thế để chỉ ông
anh của Gấu, “trí thức làm dáng”, mà lại là chính thằng em của ông!
Một mũi tên bắn tới hai con chim: “Trí thức làm dáng” là từ TTT dùng để
phạng Mặc Ðỗ, khi đọc Siu Cô Nương.
Sau Mặc Ðỗ lại dùng đúng những từ này, để đập TTT, qua hình ảnh 1 số
nhân vật trong Ung Thư.
Gấu nhớ ông chủ chi địa
nhận xét, trong cả hai trường hợp [TTT & MD] thì đều đúng cả.
Ghi
chú
trong ngày
Phan Việt
ghi
chép không có tính văn chương
về những ngày sống trên nước Mỹ
Không
có tính văn chương?
Không hiểu khi “có
tính văn chương”,
thì tởm tới mức nào!
Không có lấy 1 tí khiêm nhường làm thuốc chữa... Cái Ác Bắc Kít.
Chỉ cần 1
tên Bắc Kít, thí dụ tên Nobel Toán, ngu đi một chút, thay vì nhận 1 cái
nhà,
thì nhận cả nước Mít, thì số phận xứ khốn nạn đó đã thay đổi...
Chỉ 1 Phu Nhân,
The Lady, Aung San Suu Kyi, Nobel Hoà Bình, mà xứ Miến thay đổi
Chỉ 1 ông
nhà văn Solzhenitsyn mà đánh sập cả 1 Đế Quốc Đỏ.
Vargas
Llosa, trong Touchstones, Đá Thử Vàng, trong bài viết “Chủ
nghĩa quốc
gia và Không Tưởng”, điểm cuốn The “Crooked Timber of Humanity:
Chapters in the
History of Ideas”, của Sir Isaiah Berlin, rất thú vị, và càng rất thú
vị, nếu áp
dụng 1 cách thông minh và thiên tài vào xứ Mít [một vị độc giả rất thân
với
trang TV, chê GCC, và cũng là khen thật khen: Chuyện nọ xọ chuyện kia,
liên tưởng
quái đản, nhìn đâu cũng thấy… VC].
Bài cũng ngắn, nhân tiện,
GCC sẽ post để giải thích thêm về số phận xứ Mít, kể
từ, sau ngày 30 Tháng Tư 1975.
Isaiah
Berlin là 1 trong những vị thầy của Vargas Llosa, mà ông vinh danh
trong cuốn Wellsprings, Suối Nguồn, 1 trong những
tác phẩm mới xb, 2008, với bài Isaiah
Berlin, a hero of our time. Touchstones [Đá thử
vàng] là tên 1 mục mà Vargas Llosa viết thường
trực cho nhật báo El
País, và là tập tiểu luận tiếp theo Making
Waves [Tạo Sóng]. TV sẽ giới thiệu mấy bài viết của ông về văn học,
trong
“Đá Thử Vàng”, như bài viết về Lolita,
Kẻ Xa Lạ, Ngư Ông và Biển Cả, là những
tác phẩm đã được độc giả Mít biết tới.
Nhưng có lẽ,
tốt nhất, giới thiệu bài Vargas Llosa trả lại danh dự cho… Malraux, 1
cách nào đó,
là... sư phụ của ông anh nhà thơ của Gấu, TTT, qua bài viết về Phận Nguời
La Condition humaine
The Hero,
the Buffoon and History
Phận Người
Người Hùng, Tên Hề và Lịch Sử
Tên hề.
Thay vì tên
hề, thì TTT dùng từ “kẻ làm dáng”, để chỉ những nhân vật của Mặc Đỗ,
trong Bốn Mươi, Siu Cô Nương.
Mặc Đỗ hỏi lại, nhân vật của TTT, trong Ung
Thư, có…. làm dáng không?
Tháng 11,
1996, khi tro cốt của André Malraux được đưa vô Điện Chư Thần,
Pantheon, ngược hẳn với những lễ lạc vinh danh ông, thì là 1 làn sóng
phê bình nặng nề đả kích
cả con người lẫn tác phẩm của ông, ở cả hai bên bờ đại dương, ở Mẽo
cũng như ở Âu
Châu. Phê bình văn học đẩy tới mức làm thịt tác phẩm & con người,
trong có
những tay cự phách như Simon Leys, mà GCC đã từng chôm bài viết của
ông, trên tờ
NYRB.
Nếu chúng ta tin ở những bài điểm sách, phê bình này, thì Malraux chỉ
là
1 thứ nhà văn được thổi lên như bong bóng, những cuốn tiểu thuyết, tồi,
một nhà
viết tiểu luận chuyên bốc phét, với một văn phong thùng rỗng kêu to, và
những
tuyên bố khùng điên ba trợn về lịch sử hay triết học, ở trong đó, thì
chẳng khác
gì những chùm pháo bông, những trò loè bịp của 1 tay chuyên bịa đặt ra
những
huyền thoại về mình.
Tôi không đồng
ý với cái nhìn không đúng, và có thiên kiến về tác phẩm của Malraux.
Đúng, ông
quả có tài phù thuỷ trên mớ chữ nghĩa, nhưng cái này thì thuộc về
truyền thống
của Tẩy rồi, đâu phải của riêng ông! Như rất nhiều đồng nghiệp của
ông,
trong những tiểu luận, ông chơi trò hiệu ứng tu từ, bảnh quá
đến nỗi,
sau cùng bài viết rơi vào miền tăm tối!
Và, đúng như thế, Malraux quả là
1 trong
những vị phù thuỷ về trò chơi chữ nghĩa, đến biến nó thành 1 đức hạnh
[Đời thì đếch
ra cái đéo gì, nhưng đéo có gì như đời, La vie ne vaut rien mais
rien ne
vaut la vie, thí dụ].
Vargas Llosa
Làm
Dáng
Nghệ Thuật
Làm Dáng
Source
Ghi
chú
trong ngày
Phan Việt
ghi
chép không có tính văn chương
về những ngày sống trên nước Mỹ
Không
có tính văn chương?
Không hiểu khi “có
tính văn chương”,
thì tởm tới mức nào!
Không có lấy 1 tí khiêm nhường làm thuốc chữa... Cái Ác Bắc Kít.
Chỉ cần 1
tên Bắc Kít, thí dụ tên Nobel Toán, ngu đi một chút, thay vì nhận 1 cái
nhà,
thì nhận cả nước Mít, thì số phận xứ khốn nạn đó đã thay đổi...
Chỉ 1 Phu Nhân,
The Lady, Aung San Suu Kyi, Nobel Hoà Bình, mà xứ Miến thay đổi
Chỉ 1 ông
nhà văn Solzhenitsyn mà đánh sập cả 1 Đế Quốc Đỏ.
Vargas
Llosa, trong Touchstones, Đá Thử Vàng, trong bài viết “Chủ
nghĩa quốc
gia và Không Tưởng”, điểm cuốn The “Crooked Timber of Humanity:
Chapters in the
History of Ideas”, của Sir Isaiah Berlin, rất thú vị, và càng rất thú
vị, nếu áp
dụng 1 cách thông minh và thiên tài vào xứ Mít [một vị độc giả rất thân
với
trang TV, chê GCC, và cũng là khen thật khen: Chuyện nọ xọ chuyện kia,
liên tưởng
quái đản, nhìn đâu cũng thấy… VC].
Bài cũng ngắn, nhân tiện,
GCC sẽ post để giải thích thêm về số phận xứ Mít, kể
từ, sau ngày 30 Tháng Tư 1975.
Isaiah
Berlin là 1 trong những vị thầy của Vargas Llosa, mà ông vinh danh
trong cuốn Wellsprings, Suối Nguồn, 1 trong những
tác phẩm mới xb, 2008, với bài Isaiah
Berlin, a hero of our time. Touchstones [Đá thử
vàng] là tên 1 mục mà Vargas Llosa viết thường
trực cho nhật báo El
País, và là tập tiểu luận tiếp theo Making
Waves [Tạo Sóng]. TV sẽ giới thiệu mấy bài viết của ông về văn học,
trong
“Đá Thử Vàng”, như bài viết về Lolita,
Kẻ Xa Lạ, Ngư Ông và Biển Cả, là những
tác phẩm đã được độc giả Mít biết tới.
Nhưng có lẽ,
tốt nhất, giới thiệu bài Vargas Llosa trả lại danh dự cho… Malraux, 1
cách nào đó,
là... sư phụ của ông anh nhà thơ của Gấu, TTT, qua bài viết về Phận Nguời
La Condition humaine
The Hero,
the Buffoon and History
Phận Người
Người Hùng, Tên Hề và Lịch Sử
Tên hề.
Thay vì tên
hề, thì TTT dùng từ “kẻ làm dáng”, để chỉ những nhân vật của Mặc Đỗ,
trong Bốn Mươi, Siu Cô Nương.
Mặc Đỗ hỏi lại, nhân vật của TTT, trong Ung
Thư, có…. làm dáng không?
Tháng 11,
1996, khi tro cốt của André Malraux được đưa vô Điện Chư Thần,
Pantheon, ngược hẳn với những lễ lạc vinh danh ông, thì là 1 làn sóng
phê bình nặng nề đả kích
cả con người lẫn tác phẩm của ông, ở cả hai bên bờ đại dương, ở Mẽo
cũng như ở Âu
Châu. Phê bình văn học đẩy tới mức làm thịt tác phẩm & con người,
trong có
những tay cự phách như Simon Leys, mà GCC đã từng chôm bài viết của
ông, trên tờ
NYRB.
Nếu chúng ta tin ở những bài điểm sách, phê bình này, thì Malraux chỉ
là
1 thứ nhà văn được thổi lên như bong bóng, những cuốn tiểu thuyết, tồi,
một nhà
viết tiểu luận chuyên bốc phét, với một văn phong thùng rỗng kêu to, và
những
tuyên bố khùng điên ba trợn về lịch sử hay triết học, ở trong đó, thì
chẳng khác
gì những chùm pháo bông, những trò loè bịp của 1 tay chuyên bịa đặt ra
những
huyền thoại về mình.
Tôi không đồng
ý với cái nhìn không đúng, và có thiên kiến về tác phẩm của Malraux.
Đúng, ông
quả có tài phù thuỷ trên mớ chữ nghĩa, nhưng cái này thì thuộc về
truyền thống
của Tẩy rồi, đâu phải của riêng ông! Như rất nhiều đồng nghiệp của
ông,
trong những tiểu luận, ông chơi trò hiệu ứng tu từ, bảnh quá
đến nỗi,
sau cùng bài viết rơi vào miền tăm tối!
Và, đúng như thế, Malraux quả là
1 trong
những vị phù thuỷ về trò chơi chữ nghĩa, đến biến nó thành 1 đức hạnh
[Đời thì đếch
ra cái đéo gì, nhưng đéo có gì như đời, La vie ne vaut rien mais
rien ne
vaut la vie, thí dụ].
Vargas Llosa
Làm
Dáng
Nghệ Thuật
Làm Dáng
Source
Antoine
SPIRE : Un jour, vous avez mis en scène ce vieux talmudiste qui dit :
" Nous
prions pour la venue du Messie, mais pas tous ! Il y a des Juifs qui,
dans le
secret, chuchotent à Dieu de ne pas venir. "
George
STEINER : C'est reprendre une boutade merveilleuse du grand philosophe
allemand, Hegel. Pas du tout un ami des Juifs. Hegel disait : "Le
Tout-Puissant vient et dit à un Juif : Voilà. Tu as le choix : soit le
salut
éternel, soit le journal du matin, et le Juif choisit le journal du
matin."
Cette
boutade est très profonde. Nous sommes un peuple fasciné par
l'Histoire,
fasciné par la tourmente même de notre destin, et parfois je me dis (en
souriant j'espère - mais je n'en suis pas tout à fait sûr) : que ce
serait
ennuyeux que la venue du Messie.
Quel énorme
ennui s'il n'y avait plus l'Histoire !
Giai thoại
trên, có gì dây mơ rễ má với ngày 30 Tháng Tư, 1975.
Giá mà Thiên
Sứ, tức cái đám VC, đừng có tới, nhỉ!
Tới một cái,
nhìn thấy của cải, thực phẩm trần gian, là 1 cõi thiên đàng hạ giới
Miền Nam, lập
tức, chúng biến thành Quỉ, thành những tên ăn cướp, những tên nhận
hàng! [Miền
Nam nhận họ, Miền Bắc nhận hàng, mà!]
(1) Dịch…
thoáng:
Antoine
SPIRE : Ông có đưa ra một tay già, thông tuệ kinh tan-mút, nói:
Chúng ta cầu
nguyện Chúa Cứu Thế tới, nhưng đâu hẳn như thế, bởi là vì có những đấng
Do
Thái, trong bóng tối, thì thầm với Thượng Đế: Này, đừng có nhập thế đấy
nhé!
George
STEINER: Tôi mô phỏng Hegel. Tay này
không ưa dân Do Thái. Một bữa ông ta kể chuyện tiếu lâm, Thượng Đế vi
hành, gặp
một tên Do Thái, và đề nghị: Mày chọn gì, giữa 2 món này, hoặc là cứu
chuộc, hoặc
tờ nhật báo buổi sáng, hắn ta bèn chọn tờ báo.
Căng lắm đấy,
cái câu chuyện tiếu lâm này. Chúng tôi là 1 dân tộc bị hớp hồn bởi lịch
sử, bởi
những đỉnh cao thời đại, bước ngoặt vĩ đại… là cái số mệnh của chúng
tôi, và thỉnh
thoảng, tôi tự nhủ thầm, có khi còn mỉm cười và nhủ thầm: Giá mà “Chúa
Cứu Thế”,
tức anh VC Giải Phóng Bắc Kít, đừng có tới, thì thật đỡ khổ biết là
chừng nào!
TTT, hẳn là
bị ám ảnh bởi 1 câu chuyện tiếu lâm như trên, thành thử khi đọc Trầm Tư của 1
tên tử tù của Hồ Hữu Tường, trong đó, ông mơ tưởng Đức Phật sẽ
có ngày trở lại
với dân Mít, nhà thơ hoảng quá, viết:
Giấc mơ Đức
Phật trở lại thì cũng nát tan như mảnh đồng Bắc Kít chằng chịt những
bờ, và bờ
thì nhiều hơn là ruộng.
Ui chao, một
khi cánh đồng liền thành một mảnh, qua Cải Cách Ruộng Đất, qua tập thể
hoá…
là Quỉ Đỏ
xuất hiện, thay vì Đức Phật!
Tội nghiệp
dân Mít!
Hà, hà!
21. Sinh nhật
húy nhật
Les morts de
Lofoten sont moins morts que moi (a)
Oswald L. de
Milosz
Giữa trưa mệt
té xỉu trên đồi
Quanh mình vẳng
tiếng cuốc liên hồi
Đào huyệt
chôn ư? Ơi chúng bạn
Cứ để yên
xác tù nằm phơi
Nhìn
xem
gương mặt hắn thanh thản
Lộng nắng bừng
say chợp ngủ vùi
Người mang cầm
hãm đặng bêu riếu
Hắn “cũng
đành xấp ngửa theo đời
Cho hết cuộc
ham mê rồ dại” [1]
Hắn tự chôn
huyệt gió đáy trời.
(a)
Tous les morts sont ivres
de pluie vieille et froide
Au cimetière étrange de Lofoten
L'horloge du dégel tictaque lointaine
Au coeur des cercueils pauvres de Lofoten
Et grâce aux trous creusés par le noir printemps
Les corbeaux sont gras de froide chair humaine
Et grâce au maigre vent à la voix d'enfant
Le sommeil est doux au morts de Lofoten
Je ne verrai très
probablement jamais
Ni la mer ni les tombes de Lofoten
Et pourtant c'est en moi comme si j'aimais
Ce lointain coin de terre et toute sa peine
Vous disparus, vous suicidés, vous lointaines
Au cimetière étranger de Lofotene
- Le nom sonne à mon oreille étrange et doux.
Vraiment, dites-moi, dormez vous, dormez-vous ?
- Tu pourrais me conter des choses plus drôles
Beau claret dont ma coupe d'argent est pleine.
Des histoires plus charmantes et moins folles ;
Laisse-moi tranquille avec ton Lofoten.
Il fait bon. Dans le foyer doucement traine
La voix du plus mélancolique des mois.
- Ah! les morts, y compris ceux de Lofoten -
Les morts, les morts sont au fond moins morts que moi.
Oscar Vladislas de Lubicz Milosz
Éditions André Silvaire
Có thể, TTT đọc
bài thơ này, cùng lúc với thơ Nguyễn Bắc Sơn, cùng lúc, viết thư cho
đảo xa
& về lại Sài Gòn từ Đà Lạt…. và, nhận ra cái ý tưởng bàng bạc
giữa thơ
của Oscar Milosz, và của NBS:
Tous les morts sont ivres
&
Nếu ta lỡ
chết vì say rượu
Linh hồn chắc sẽ biến
thành mây bay.
Đúng ý
Alain, như
Steiner trích dẫn làm đề tử trong cuốn mới ra lò của ông, Thơ của Tư
tưởng:
Toute pensée
commence par
un poème.
(Every thought begins with a poem.)
Mọi tư tưởng bắt đầu bằng
1 bài thơ
-Alain: "Commentaire sur 'La Jeune Parque," 1953
Tất cả những
người chết thì đều say
Tất cả những
người đã chết thì đều say mưa,
[một thứ mưa]
xưa, và lạnh
Ở nghĩa
trang là lạ là Mạc Đĩnh Chi ở Sài Gòn
Đồng hồ băng tan tích tắc ở xa xa
Ở trái tim của
những chiếc hòm nghèo nàn của Sài Gòn
Và nhờ những
lỗ thủng được khoét bởi mùa xuân đen
[VC gọi là Đại
Thắng Mùa Xuân, Đỉnh Cáo -
hay Cao thì cũng được - Chói Lọi]
Những con quạ
mập phì vì thịt người lạnh
Và nhờ ngọn
gió gầy có tiếng nói của con nít
Giấc ngủ mới
mềm dịu biết bao với những người chết ở Sài Gòn
[Cái gì gì
giống như “Ngã ở trên núi khi vác củi”:
Hồn dưng dưng
chẳng chút oán sầu?]
Có lẽ Gấu sẽ chẳng
bao giờ nhìn thấy [lại]
Biển Vũng Tầu,
Không,
Những nấm
mồ ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi
Cũng không.
Nhưng, rõ ràng
là, ở trong thằng cu Gấu
[Thằng cu Nghệ, TTT, đúng hơn],
Mới yêu thương làm sao,
Cái nơi chốn
xa xăm và tất cả nỗi khổ đau của nó.
Lũ Chúng Ta
[chữ của VHC]
Mất tích, tự tử, lạc loài
Ở nơi nghĩa địa
là lạ là Mạc Đĩnh Chi
-Ui chao, chỉ
nội cái tên thôi mà đã dội ở nơi tai Gấu
Một cái gì là lạ và dịu dàng.
Thực sao, hãy
nói cho Gấu biết, bạn ngủ ư, bạn ngủ ư?
Toa có thể kể cho moa
nghe những chuyện tức cười hơn
Rượu vang thì
đẹp và cái ly sành của moa
thì đầy
Những chuyện
thú vị, và ít khùng điên ba trợn
Hãy mặc moa với Sài Gòn của toa
[Toa ở đây là ông bạn miệt vườn, bạn
quí
của thằng Bắc Kít di cư là GCC]
Trời thì đẹp.
Trong bếp lửa,
Nhè nhẹ kéo dài,
Tiếng thở dài dài,
Buồn xiết bao,
Của những ngày ở Sài Gòn.
-Ui chao! những
người chết, kể cả những người đã chết ở Sài Gòn,
Những người
chết, những người chết, nói cho cùng,
Thì không chết
bằng Gấu chết.
13.7.2010
Dear GNV,
Tôi phải đặt
từ "blackguard" vào ngoặc kép, dùng lại, trích dẫn nó. It's not my word.
HÂ.
K. mở ra
‘cái gọi là’ Mặt trận bảo vệ văn hóa tự do, với anh Hai chi địa, là
Xịa. ST có
là nhờ nó. ??? (1)
Trong bài phỏng
vấn của Thụy Khuê, Mai Thảo đã cho biết khi báo của ông nổi lên rồi thì
người của
quân đội đến đặt báo một số lượng lớn, đâu có nói họ đưa cho ông một số
tiền để
lập nên tờ báo?
Hay GNV có một
tin bật mí nào khác?
Khi nghe đồn
là Sáng Tạo làm việc cho Xịa ông không viết chống Cộng nữa, thà làm
người hùng
của phòng trà. Và "Thi sĩ của chúng ta" thì không giống K., loay hoay
mãi để làm sao "viết mà như không có gì xảy ra".
Vậy, khi nói
"ST có là nhờ nó" , tức Xịa, trên TV đang được rất nhiều người đọc, Gấu
"giết" hai người ấy thêm một lần nữa rồi.
Xịa cũng đã
không tạo ra cái công thức K [Koestler]
K= 1/3
genius + 1/3 “blackguard” + 1/3 lunatic
Càng chẳng
thể dựng nên được G:
G= 1/3
"confiance” + 1/3 "respect” + 1/3 "je ne sais quoi" (2)
H.A
Phúc đáp:
Như trong bài
phỏng vấn cho biết, thì đúng là MT lấy tiền của Mẽo, dù chỉ là 1 hợp
đồng bán
báo.
Tờ HL lấy tiền
của VC, cũng theo kiểu này, qua 1 danh sách độc giả dài hạn, của đám
Miền Nam bỏ
chạy bợ đít VC.
Lấy tiền cả
của Mẽo nữa. GCC biết qua 1 bạn văn, nhưng mới đây, (8.2011), gặp 1 tay
trong
ban chủ trương HL [LB], cho biết, không có chuyện đó.
TTT đâu có
biết là MT lấy tiền của Mẽo. Khi biết, ông rãn ra, thành thử báo chết
cũng do đó
1 phần.
TTT muốn thật
sạch.
Khác hẳn
Milosz.
Ông Nobel này
chủ trương phải có tí bẩn mới được! (3)
TK:
Sáng Tạo thành lập bằng
tiền của ai?
MT: Bằng cái hợp đồng tôi
ký với một thằng Mỹ ở Virginia, không biết bây giờ sống chết thế nào.
Đó là cái
hợp đồng bán báo, không có điều gì cần giấu diếm hết, đại khái nếu mình
in 5000
tờ, thì nó mua đứt cho mình 2000, vừa đủ tiền in, tiền giấy, không có
cái nghiã
gì khác hết, và cũng không có điều kiện gì khác hết.
Tks & Regards,
NQT
(2)
(Thứ tình
yêu đầy những passion mà anh có đó, em không có, hay thứ tình yêu gồm
một phần
ba là confiance, một phần ba là respect, một phần ba là "je ne sais
quoi" , có lẽ, hình như em đã yêu anh như vậy... Không, trăm lần không,
ngàn lần không, đừng bao giờ nói như vậy, đừng bao giờ nói anh không
xứng đáng,
cũng đừng bao giờ nói anh làm cho tuổi thơ của Hương bị xáo trộn, những
ngày đầu
tiên quen anh là những ngày sung sướng đối với Hương, anh là người đầu
tiên đã
trò chuyện với Hương, đã làm cho Hương nghĩ tới một điều gì từa tựa như
là
tương lai, hạnh phúc, một điều gì từa tựa như tình yêu...)
Ui chao, làm
sao mà cô Nga, nữ điện thoại viên trên Đài VTD thoại/Quốc Tế, đọc
đoạn
trên -
trong lá thư, độc nhất, của BHD, đi bộ từ Ngã Sáu Gia Long
& Võ Tánh,
tới Đài VTD, số 11 Phan Đình Phùng, gần Đài Phát Thanh Sài Gòn, tới,
bấm thang,
tính lên lầu, đưa tận tay cho GCC, thì gặp ông cảnh sách về hưu, chìm,
canh gác
cho Đài, và đưa cho ông, và nói, đưa giùm, và trở ra, đi về, hay đi
học… - và có
thể phán, "cái cô gái này không thương cậu đâu"?
The wiles of
art
Mưu ma chước
quỉ của nghệ thuật
Guilt
and greatness in the life of Czeslaw Milosz
Tội Lỗi và Sự Lớn Lao trong cuộc đời Czeslaw Milosz
Tôi là kẻ may mắn sống
sót,
nhưng đếch còn muốn làm nhà văn nhà thơ nữa.
Viết như thể chẳng có gì xẩy ra. Bao giờ thì tôi có thể?
Đây là vấn nạn của “Shoah”,
một phim của Lanzmann, theo David Denby,
trong 1 bài viết trên Người Nữu Ước,
Jan 10, 2011, khi phim này lại được đem ra
trình chiếu ở Mẽo.
Đẩy đến cực điểm, thì nó như thế này:
Nếu bạn [lại] viết lại, thì cái kinh nghiệm đi tù, và luôn cả trại tù
VC kể như
không có!
Đâu có phải tự nhiên mà Ông Số 1 được toàn dân Mít quí trọng, ngay cả
VC cũng
quí, có thể còn hơn cả cái đám bạn bè cá chớn của ông đâu?
Tao “đếch” có viết nữa, vì sợ lại phải chứng kiến 1 lần nữa Lò Thiêu,
Lò Cải
Tạo!
Tao không viết nữa, để cho cái chuyện đó đừng bao giờ xẩy ra nữa.
[But the notion that the Holocaust might happen again is exactly what
"Shoah" is not about.]
Hà, hà!
(1)
K.
mở ra ‘cái gọi là’ Mặt trận bảo vệ văn hóa tự do, với anh Hai chi địa,
là Xịa.
ST có là nhờ nó. Chương trình WJC chắc cũng từ đó.
[Từ đó trong tôi bừng nắng hạ!]
Bộ
sách vĩ đại Văn Học Miền Nam
của VP chắc cũng là từ đó! Lẽ dĩ nhiên, dưới những cái tên chi địa
khác!
Rockefeller Foundation, thí dụ. Nhưng đều là đô la Mẽo cả!
*
“My analysis of Koestler is: one third genius, one third blackguard,
and one
third lunatic”, [Tôi nhận xét K. 1/3 thiên tài, 1/3 đê tiện, và 1/3
khủng, mát]
tay cảnh sát chìm giả làm tù nhân bị nhốt cùng phòng với K, tại nhà tù
Pentonville, báo cáo với sếp.
Cái lũ cà chớn
Hậu Vệ và đệ tử của Thầy Cuốc chửi Gấu là mạ lỵ ông tiên chỉ. Làm gì có
chuyện đó:
ông tiên chỉ mạ lỵ ông tiên chỉ là đủ rồi. Thử hỏi, một khi ông VP lấy
tiền của
Mẽo để viết về văn học Miền Nam, liệu ông có dám
chửi thằng chủ chi địa không?
Trong VHTQ có dòng nào nói xấu anh Mẽo, người
bạn quí của dân Mít?
Đồng ý là Mẽo thực sự không hề có ý ăn cướp, dầy xéo nước
Mít, nhưng chúng đến chẳng có ý tốt, mà bỏ chạy lại càng không có ý
tốt!
[Gặp đã
khó, xa lại càng khó, cái này để gửi đảo xa, hà hà].
Nhưng khốn nạn
nhất là những dòng VP viết về đám Sáng Tạo, y chang những dòng MT nhớ
về người
bạn quí, mà ông đã từng lầm với 1 tên thợ sắp chữ, và tay này còn dám
ngửa tay
xin ông 1
điếu thuốc lá!
Cũng vẫn chất
Bắc Kít khốn kiếp mà ra!
Đọc những dòng MT viết về Trung Kít, trong phỏng vấn do TK thực hiện,
rồi đọc
TQVH của VP là nhìn ra ngay lòng hận thù giữa Kít với Kít.
Cái khốn nạn của dân
Mít là còn do chữ S mà ra.
Nếu có 1 chữ “K” cảm tính
của Kafka, (1) thì cũng có 1
chữ S hận thù của giống Mít.
Viết kể với em, lúc này
anh nhớ đến một
câu thơ của Milozs : Je suis plus mort que les morts de Lofoten. Nhảm.
Mai Thảo
nó bảo: ca, c'est de la littérature, sống không như vậy. Điều đó chính
anh vẫn
nói. Anh cũng chẳng hiểu tại sao lại mang kể cho em? Có lẽ cũng chỉ cốt
để nói
hình như anh cũng đang bám víu vào em. Một kẻ chết đuối bám vào một kẻ
chết đuối.
Nguy hiểm. Em hiểu tại sao nhiều lúc anh muốn thôi viết cho em - có thể
sau thư
này - anh bất định quá.
Thư gửi Đảo
Xa
Note:
Milosz, không phải Milozs.
Và cũng không phải Czeslaw mà là Oscar Milosz, cũng
họ hàng với nhau. Czeslaw Milosz tin rằng, phải có tí bẩn mới là thi sĩ
của thế kỷ 20
được, nhưng ông lại thèm được như Brodsky, như ông viết trong entry
“hatred”,
trong Milosz’s ABC’s: Đời
tôi thì là một trong trong những cuộc đời kinh ngạc
nhất mà tôi đã trải qua, one of the most astonishing I have ever
across. Đúng là
nó thiếu sự trong sáng của một câu chuyện đạo hạnh như là của Brodsky.
Ông ta đang
đào “kít” [“như toàn thể dân Nga”, chữ của Brodsky] ở một nông trường
cải tạo,
và vài năm sau “đợp” [collect] mọi vinh quang, kể cả Nobel văn
chương.
TTT, một cách
nào đó, thì cũng giống Brodsky, ông bị lịch sử lọc ra, và đành đóng vai
‘kẻ sĩ
Ngụy’, dù chẳng muốn, như trong thư gửi đảo xa cho thấy:
Thường anh
chẳng hề chú trọng coi xem người ta nghĩ gì về mình, phê bình gì về
mình, bởi mỗi
lần ngó thấy anh đều thấy như mình bị đóng đinh. Anh đã là như thế
nhưng anh
còn có thể khác chứ. Sao cứ bắt anh như vậy hoài. Cho nên anh chẳng bao
giờ xúc
động lâu về những điều đàm tiếu, thị phi hết.
Nhân nhắc tới
Oscar Milosz, "đi" lại một bài viết về ông, của Kundera, trong Gặp Gỡ
L'INTOUCHABLE
SOLITUDE D'UN ÉTRANGER (Oscar Milosz)
1
La première
fois que j'ai vu le nom d'Oscar Milosz, c'est au-dessus du titre de sa Symphonie de Novembre
traduite en tchèque et publiée quelques mois après la
guerre dans une revue d'avant-garde dont j'ai été, à dix-sept ans, un
lecteur
assidu. À quel point cette poésie m'avait envoûté, je l'ai constaté
quelque
trente ans plus tard, en France, où pour la première fois j'ai pu
ouvrir le
livre de poésie de Milosz dans l'original français. J'ai vite trouvé la
Symphonie de Novembre,
et en la lisant j'ai entendu dans ma mémoire toute la
traduction tchèque (superbe) de ce poème dont je n'ai pas perdu un seul
mot.
Dans cette version tchèque, le poème de Milosz avait laissé en moi une
trace
plus profonde, peut-être, que la poésie que j'avais dévorée à la même
époque,
celle d'Apollinaire ou de Rimbaud ou de Nezval ou de Desnos.
Indubitablement,
ces poètes m'avaient émerveillé non seulement par la beauté de leurs
vers mais
aussi par le mythe entourant leurs noms sacrés, qui me servaient de
mots de
passe pour me faire reconnaître par les miens, les modernes, les
initiés. Mais
il n'y avait aucun mythe autour de Milosz: son nom totalement inconnu
ne me
disait rien et ne disait rien à personne autour de moi. Dans son cas,
j'ai été
envoûté non pas par un mythe, mais par une beauté agissant d'elle-même,
seule,
nue, sans aucun soutien extérieur. Soyons sinncères : cela arrive
rarement.
2
Mais
pourquoi justement ce poème? L'essentiel, je pense, résidait dans la
découverte
de quelque chose que jamais nulle part ailleurs je n'ai rencontré: la
découverte de l'archétype d'une forme de la nostalgie qui s'exprime,
grammaticalement, non pas par le passé mais par le futur. Le futur
grammatical
de la nostalgie. La forme grammaticale qui projette un passé éploré
dans un
loinntain avenir; qui transforme l'évocation mélancolique de ce qui
n'est plus
en la tristesse déchirante d'une promesse irréalisable.
Tu seras
vêtu de violet pâle, beau chagrin!
Et les
fleurs de ton chapeau seront tristes et petites
3
Je me
rappelle une représentation de Racine à la Comédie-Française. Pour
rendre les
répliques naturelles, les acteurs les prononçaient comme si c'était de
la
prose; ils effaçaient systématiquement la pause à la fin des vers;
impossible
de reconnaître le rythme de l'alexandrin ni d'entendre les rimes.
Peut-être
pensaient-ils agir en harmonie avec l'esprit de la poésie moderne qui a
abandonné depuis longtemps et le mètre et la rime. Mais le vers libre,
au moment
de sa naissance, ne voulait pas prosaiser la poésie! Il voulait la
débarrasser
des cuirasses métriques pour découvrir une autre musicalité, plus
naturelle,
plus riche. Je garderai à jamais dans mes oreilles la voix chantante
des grands
poètes surréalistes (tchèques aussi bien que français) récitant leurs
vers! De
même qu'un alexandrin, un vers libre était lui aussi une unité musicale
ininterrompue, terminée par une pause. Cette pause, il faut la faire
entendre,
dans un alexandrin aussi bien que dans un vers libre, même si cela peut
contredire la logique grammaticale de la phrase. C'est précisément dans
cette
pause cassant la syntaxe que consiste le raffinement mélodique (la
provocation
mélodique) de l'enjambement. La douloureuse mélodie des Symphonies de
Milosz
est fondée sur l'enchaînement des enjambements. Un enjambement chez
Milosz,
c'est un bref silence étonné devant le mot qui arrivera au début de la
ligne
suivante:
Et le
sentier obscur sera là, tout humide
D'un écho de
cascades. Et je te parlerai
De la cité
sur l'eau et du Rabbi de Bacharach
Et des Nuits
de Florence. Il y aura aussi
4
En 1949,
André Gide a établi pour les éditions Gallimard une anthologie de la
poésie
française. Il écrit dans la préface: «X. me reproche de n'avoir rien
donné de
Milosz. [ ... ] Est-ce un oubli? Non pas. C'est que je n'ai trouvé rien
qui me
parût particulièrement valoir d'être cité. Je le répète: mon choix n'a
rien
d'historique et seule la qualité me détermine. » Il y avait, dans
l'arrogance
de Gide, une part de bon sens: Oscar Milosz n'avait rien à faire dans
cette
anthologie; sa poésie n'est pas française; gardant toutes ses racines
polono-lituaniennes, il s'était réfugié dans la langue des Français
comme dans
une chartreuse. Considérons donc le refus de Gide comme une noble façon
de
protéger l'intouchable solitude d'un étranger; d'un Étranger.
Không chạm tới được nỗi cô
đơn của người lạ
1
Lần đầu tiên tôi thấy tên Oscar Milosz là
trên cái tựa Bản Giao Hưởng tháng
Mười Một, được dịch ra tiếng Tiệp, được xuất bản vài tháng sau
chiến tranh trong một tạp chí thời thượng mà ở tuổi mười bảy, tôi là
một độc giả chuyên cần. Bài thơ này đưa tôi lên tận mây xanh, ba mươi
năm sau ở Pháp, tôi đã ghi nhận điều này khi lần đầu tiên tôi mở quyển
thơ của Milosz trong ấn bản nguyên thủy tiếng pháp. Tôi nhanh chóng tìm
thấy bài thờ Bản Giao Hưởng tháng
Mười Một, khi đọc lại tôi còn nhớ như in không sót một chữ bài
dịch tiếng Tiệp tuyệt vời ngày xưa. Trong bản tiếng Tiệp, bài thơ này
đã để dấu ấn sâu đậm trong lòng tôi, có thể, còn hơn cả các bài thơ tôi
đọc hồi đó của Apollinaire, Rimbaud, Nezval hay Desnos. Rõ ràng không
chối cãi, các bài thơ này huyễn hoặc tôi không những vì nó hay mà còn
do huyền thoại tạo ra chung quanh tên tuổi thiêng liêng của họ, làm từ
khóa để qua các văn sĩ của tôi, tôi biết ai là người hiện đại, ai là
người tiên phong. Nhưng chẳng có huyền thoại nào chung quanh cái tên
Milosz, một cái tên lạ hoắc, không làm cho tôi liên tưởng đến ai, và
cũng không nhắc tôi nhớ đến ai chung quanh tôi. Trong trường hợp của
ông, tôi ngẩn ngơ không phải vì một huyền thoại mà vì chính cái đẹp của
nó, một mình, trần trụi, không trụ chống bên ngoài. Chúng ta hãy trung
thực với mình chuyện này : chuyện này rất hiếm khi xảy ra.
2
Nhưng tại sao lại chỉ chính bài thơ này ? Tôi
nghĩ, chính yếu, là nó nằm trong cái mà tôi chưa bao giờ thấy ở đâu hết
: sự khám phá mẫu lý tưởng của một hình thức nhớ nhung mà nó diễn tả,
theo ngữ pháp, một loại nhớ nhung không phải qua quá khứ mà qua vị lai.
Thời vị lai ngữ pháp của nhớ nhung. Hình thức ngữ pháp phóng chiếu một
quá khứ đau buồn lên một tương lai xa xăm ; chuyển tải cái gợi nhớ buồn
bã không còn nữa lên nỗi buồn tan nát của một lời hứa không thể nào
thực hiện được.
Nỗi buồn
xinh xắn ơi, em sẽ khoác chiếc áo màu tìm nhạt,
Và các nụ hoa trên mũ của
em sẽ nho nhỏ và buồn buồn.
3
Tôi còn nhớ buổi trình diễn kịch của Racine ở nhà
Kịch Comédie-Française. Để làm cho lời đối đáp được tự nhiên, các diễn
viên đọc thơ như đọc văn vần; họ xóa một cách có hệ thống phần nghĩ
đàng sau mỗi câu thơ; không thể nào nhận ra nhịp điệu alexandrin, cũng
không nghe lối họa vần. Có thể họ nghĩ làm như vậy sẽ hài hòa với tinh
thần thơ văn hiện đại, loại bỏ từ lâu vừa vần vừa âm luật. Nhưng vần
thơ tự do, từ khi sinh ra đã không muốn làm thơ văn tầm thường ! nó
muốn loại cái vỏ ngoài kích thước để thấy tính âm nhạc, tự nhiên hơn,
phong phú hơn. Tôi lúc nào cũng giữ trong tai tôi giọng nói như hát của
các thi sĩ lớn siêu hiện thực đọc thơ (tiệp cũng như pháp) !
4
Năm 1949, André Gide làm một quyển hợp tuyển
thơ Pháp cho nhà xuất bản Gallimard. Ông viết trong lời mở đầu: «X.
trách tôi đã không dành một chỗ nào cho Milosz. [ ... ] Quên sao?
Không. Là vì tôi không thấy một cái gì đặc biệt để đáng đưa ra. Tôi lặp
lại: lựa chọn của tôi không có tính cách lịch sử gì hết, chỉ có phẩm
chất mới làm tôi quyết định.» Câu nói phách lối của Gide có lý một
phần: Oscar Milosz chẳng dính gì trong hợp tuyển này ; thơ của ông
không phải là thơ tiếng Pháp; vì ông giữ tất cả nguồn cội gốc rễ Ba
Lan-Li-tu-a-ni, ông núp trong ngôn ngữ Pháp như trốn trong tu viện.
Chúng ta hãy xem lời từ chối của Gide như một cách quý phái để gìn giữ
cái cô đơn không chạm tới được của một người lạ ; một Người Xa Lạ.
[LN dịch]