|
TTT 2012
Trong bài viết
The wiles
of art
Mưu ma chước quỉ của nghệ thuật
Guilt
and greatness in the life of Czeslaw Milosz
Tội Lỗi và Sự Lớn Lao trong cuộc đời Czeslaw Milosz
CLARE
CAVANAGH
Clare Cavanagh cho biết,
Milosz cực ghét cái
trò tự bộc
lộ về mình của đám nhà thơ Mẽo hậu chiến. Ông phán: Nhà thơ thứ thiệt
phải giữ
riêng những con quỉ của mình, cho chính mình.
“Ông số 1” không phải là
1 nhà thơ
ưa lèm bèm về mình, nhưng độc giả tinh ý, thì lâu lâu, “thi thoảng”,
ông cũng để
lộ ra cái ấu thời Bắc Kít của ông, thí dụ, qua Kiệt, khi ngồi với cô
học trò,
hay thố lộ với vợ, khi đi tù, qua bài thơ nhớ vợ.
Trong
khi
ăn, Kiệt bỗng nhớ đến những ngọn gió bấc cắt da, những hạt mưa nhọn như
kim
châm, dúm ớt bột khô tê môi, chảy nước mắt, bát nước chè tươi bỏng rát
lưỡi. Từ
bát bún riêu, chàng nói về mùa màng thời tiết, về bầu trời sông nước,
về đồng
ruộng trái quả, về phố phường thắng cảnh và vô tình chàng tiết lộ những
mảnh vụn
của một thời thơ ấu và niên thiếu chẳng hề nói với ai. Oanh mở mắt to
chăm chú.
Kiệt lại thấy những giọt nước mắt rơi.
Một chủ nhật khác
Từ bao giờ
anh đứng trân trối cô đơn
Hôn ám trời
sơ khai nhìn qua song tù ngục
Hoang vu lời
thơ ai reo hát cùng cỏ lá heo hút
Dẫn đưa anh
về tận nẻo nguồn
chốn bình
minh lẩn lút
(Bình minh
bình minh anh kêu khẽ cảm động muốn khóc
Mai Mai xa
Mai như hoa Mai về
tình thơ hôm
nay)
Em, em có
hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về
ngang cố quận
Xao xuyến
ngây ngô hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm
Đêm vây hãm
lụn dần
Thủ thỉ mưa
ru ngày khốn đốn
Em, soi bóng
em hồn nhiên trên lối thời gian
Lặng lẽ anh
gầy nhóm lửa tinh mơ đầm ấm.
Tuy
nhiên, chắc không thể nào ngờ, “giặc ngồi ngay sau lưng vua đó” [đố bạn
đọc TV
biết câu này của ai? Hà, hà!], ông bị chính người tình của ông tung hê
lên net,
những lá thư mà ông nghĩ, chỉ có người tình đọc, những khi quá…
nhớ ông!
Làm
đếch gì có chuyện vì văn chương, mà tui phải khui ra! Văn chương là cái
chó gì
mà phải làm 1 chuyện như thế?
Toàn ngụy biện!
Kẹt
nhất ở đây, là những đứa nhỏ. Chúng sẽ nghĩ về bố chúng như thế nào?
Vậy mà có người là “bạn của ông”, cũng xúm vô đánh hôi! NQT
Tôi là kẻ
may mắn sống sót, nhưng đếch còn muốn làm nhà văn nhà thơ nữa.
Viết như thể
chẳng có gì xẩy ra. Bao giờ thì tôi có thể?
Đây là vấn nạn
của “Shoah”,
một phim của Lanzmann, theo David Denby, trong 1 bài viết trên Người
Nữu Ước, Jan 10, 2011, khi phim này lại được đem ra trình chiếu
ở Mẽo.
Đẩy đến cực điểm,
thì nó như thế này:
Nếu bạn
[lại] viết lại, thì cái kinh nghiệm đi tù, và luôn cả trại tù VC kể như
không
có!
Đâu có phải
tự nhiên mà Ông Số 1 được toàn dân Mít quí trọng, ngay cả VC cũng quí,
có thể
còn hơn cả cái đám bạn bè cá chớn của ông đâu?
Tao “đếch” có
viết nữa, vì sợ lại phải chứng kiến 1 lần nữa Lò Thiêu, Lò Cải Tạo!
Tao không
viết nữa, để cho cái chuyện đó đừng bao giờ xẩy ra nữa.
[But the
notion that the Holocaust might happen again is exactly what "Shoah"
is not about.]
Hà, hà!
Có thể nói,
tất cả văn chương Mít, sau 30 Tháng Tư 1975, VC hay không VC, tù VC hay
không
tù VC, thì đều được viết ra, như thể Lò Cải Tạo đếch có xẩy ra.
Ông không viết
nữa hả? Thì tui bèn mang thư ông viết cho tui, cho thiên hạ cùng đọc,
chơi!
Hà, hà!
Đau thật. Kẻ
thù ngồi ngay sau lưng Ông Số 1!
Đây là cái
huyền thoại dựng nước Mít, được lập lại [Huyền thoại Mỵ Châu - Trọng
Thuỷ]
Hà, hà!
Hà, hà!
Năm di cư thứ
hai mươi [1974], khi viết bài Tử Địa, nghĩ đến những đứa con tư sinh
của đất Bắc
ở cả hai miền lúc ấy....
TTT: Trong
đất trời
Tưởng
niệm Mai Thảo
Chúng ta, bữa
hôm nay, thử lèm bèm, về nó, về những đứa con "tư sinh", như một niềm
“tự hào”,
[tự hào
cái con khỉ!], hay như là 1 “bad faith"....
GIẢI ĐỀ: CHỮ
TRINH CÒN MỘT CHÚT NÀY
Bạn ta — “Xuống
núi” không tìm gặp bạn, nghĩ cũng tệ. Thật thì chẳng có lý do nào ngăn
trở hết.
Mỗi lần đáp xuống thành phố, vẫn chỉ ngần ấy thói quen: Ngồi quán, gặp
vài
khuôn mặt thân thuộc và ngày dứt trong khuya ngất ngưởng. Thế thôi,
không gì
khác. Ta chẳng thích mất những thói quen.
Xuống, nghe
bạn ta lại phải dấn thân vào trường “gió tanh mưa máu”, còn mắc nạn
nữa. Hơi buồn.
Biết làm sao được, phải không? Đúng là “ma đưa lối quỷ đưa đường, lại
tìm những
chốn đoạn trường mà đi.” Cái nhà ông Nguyễn Du, lâu lâu sực nhớ ông,
bắt giật nẩy
mình. Ngày xửa, ngày xưa, ta đã cứ thắc mắc hoài về mấy câu nói của
nàng Kiều
khi tái ngộ chàng Kim... Chữ trinh còn một chút này, chẳng cầm cho vững
lại dày
cho tan. Giờ mới thấm thía, tội cho nàng Kiều biết mấy. Ông Nguyễn Du
là chúa độc,
hơn cả anh chàng Tây Độc (hỗn danh của bạn ta đó). Nàng Kiều trầm mình
xuống
sông Tiền Đường, tưởng đã thoát nợ kiếp này, ông lôi cổ lên đẩy về nhà,
bắt phải
mở mắt mà trông: Này chồng, này mẹ, này cha; này là em ruột, này là em
dâu...
Cô ngồi xuống đó đi, trước mắt đông đủ mọi người — hết thảy mọi người,
yên ổn
và êm ấm nhưng không thể quên cô — và trước mắt tình lang mười lăm năm
cũ cô ngồi
đó trong kiếp đoạn trường nào đâu đã dứt. Cô đã trả món nợ hồng nhan
cho ông trời
già cay nghiệt, nhưng chưa xong. Còn cái món nợ tình với chàng Kim nữa,
cô ơi.
Ôi, cái món nợ tình, món thế tục cầm chân ta lại trong vòng khiến ta
bắt buộc
ngồi đó với bẽ bàng. Cái “bước trần ai” ta cứ động lòng. Nhưng mà động
lòng đến
chừng nào, hỡi bạn ta. Còn một chút này.... thật là thảm, bạn ta nghĩ
mà coi.
Chút này là chút nào? Chàng Kim chỉ có thể hiểu đến chỗ: Gặp nhau còn
chút bấy
nhiêu là tình. Thiệt kỳ cục.
...
Giả như gặp
nhau, ta cũng đến lặng ngắt. Hoặc giả ta khua inh sự lặng ngắt. Thế
thôi. Mà ta
rõ đã lăn thân vào chốn ấy, bạn không muốn nghe sự lặng ngắt. Ta cũng
đang khua
gióng sự lặng ngắt đây. Bạn ta nghe chăng?
1971
Source
Thanh Tâm
Tuyền được xem là một trong những nhà thơ khởi xướng phong trào Thơ Tự
Do tại
miền nam Việt Nam với tập thơ Tôi Không Còn Cô Độc xuất bản năm 1956.
Ông di cư
vào Nam khi còn rất trẻ. Chủ trương nguyệt san Lửa Việt năm 1954.
Sau đó, cùng
với Mai Thao thành lập Tạp Chí Sáng Tạo từ 1956 đến 1960.
Nhập ngũ năm
1962 và trở thành sĩ quan cấp úy trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Bị bắt học tập
cải tạo 7 năm sau 1975.
Rồi được thả
và đi định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO năm 1990.
Ông qua đời
tại Minnesota năm 2006 vì bệnh ung thư phổi.
Blog PN
Tay chủ blog
này, GCC không quen, nhưng thấy quen hầu như suốt một cõi giang hồ gió
tanh mưa
máu.
Những dòng giới thiệu TTT, trên, chứng tỏ, cũng 1 thứ bỏ chạy cuộc
chiến, chắc hẳn
thế?
Thanh
Tâm
Tuyền được xem,
được xem là cái con khỉ gì?
Ông là, hay
không là, chứ làm gì có thứ “được xem”?
Mai Thảo, thì
ông ta đánh máy là Mai Thao.
Bị bắt học tập cải tạo. Làm gì có chuyện đó. TTT
tự ý đi trình
diện, như hầu hết mọi người, vì tin là xong rồi, đi 10 ngày là về.
Ông di cư vào Nam khi còn
rất trẻ.
Rất trẻ
gì nữa.
Thua xa lời
giới thiệu của Le Huu Khoa:
[TV đã từng
dịch ra tiếng Mít đoạn sau đây, nhưng kiếm không ra, sorry!]
Poète majeur de la
littérature vietnamienne
moderne, Thanh Tam Tuyen a apporté une double contribution originale à
la vie
littéraire après 1945. En poésie, il marque la rupture avec
l'ancienne
tradition de la musicalité poétique et représente dans ce domaine la
génération
des poètes du mouvement Tho tu do (poésie en vers libres). Ses deux
premiers
recueils de poèmes : Je ne suis plus
solitaire et Lien, la nuit et le
soleil retrouvé ont donné naissance à une génération qui « fait de
la
poésie » et « ne fait plus des vers ».
En prose, son premier récit Foyer du feu
marquait aussi un point de non-retour par rapport à l'ancienne
technique de
narration. Chez Thanh Tam Tuyen, la concision du message contribue à
l'accélération des rythmes et à la maîtrise du sens esthétique. Reconnu
mais
peu étudié en profondeur par la critique durant la guerre de 1954-1975,
il
reste à l'heure actuelle l'auteur le plus redoutable de la critique
littéraire
vietnamienne, par sa démarche créative complexe et par sa théorie
littéraire
synthétique. Tout cela sur fond d'une invention nouvelle de la
musicalité
poétique.
Thanh Tam Tuyen fait partie des écrivains qui ont le mieux saisi la
destruction
du Vietnam par les guerres mais il est aussi un des ceux qui ont connu
la
répression du régime totalitaire actuel, qui ont vécu l'emprisonnement,
les
camps de rééducation pendant de longues années sous la répression du
nouveau
régime entre 1975 et 1990. Il évoque ici ce que fut son expérience de
l'écriture sous la répression.
Kiếm hoài, cầu cứu tới cả
Google Desktop, không
ra, đành dịch lại vậy:
Nhà thơ lớn của văn học
Việt Nam hiện đại,
TTT đã mang tới một đóng góp kép, uyên nguyên, cho đời sống văn học sau
1954. Về
thơ, ông đánh dấu cú đoạn tuyệt với truyền thống cũ về nhạc tính trong
thơ, và đại
diện, trong địa hạt này, cho những thi sĩ của trào lưu Thơ Tự Do. Hai
tập thơ đầu
của ông Tôi không còn cô độc
và Liên, Đêm, Mặt Trời Tìm Thấy đã
khai sinh ra một
thế hệ “làm thơ” “và "không làm thơ vần nữa”. Về văn xuôi, truyện kể
đầu
tay Bếp
Lửa cũng đánh dấu điểm không thể trở về với kỹ thuật cũ về tự
sự. Ở TTT, tính súc
tích, ngắn gọn của thông điệp góp phần vào gia tốc của nhịp điệu và sự
làm chủ
cảm quan mỹ học.
Được nhìn nhận những ít được nghiên cứu sâu bởi giới phê bình trong
thời kỳ 1954-1975, vào giờ phút này ông là
1 tác
giả đáng gờm nhất của giới phê bình Việt Nam, do bước đi sáng tạo đa
dạng và bởi
lý thuyết văn học tổng hợp. Tất cả trên cái nền của một sự phát minh
mới mẻ về
nhạc tính của thơ.
Dịch lại
xong, thì lại mò ra khúc đã dịch:
Nhà thơ chủ
yếu của văn học Việt Nam hiện đại, Thanh Tâm Tuyền đã hai lần đóng góp,
và đóng
góp nào cũng mang tính uyên nguyên, cho cuộc sống văn học sau 1945.
Về thơ, ông
cắt đứt truyền thống cổ điển về nhạc tính trong thơ, và trong mảnh đất
mới mẻ
này, ông là người đại diện của nó: người sáng lập ra trường phái thơ tự
do. Hai
tập thơ đầu 'Tôi Không Còn Cô Độc' và 'Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy' khai
sinh ra
một thế hệ "làm thơ", "không làm những câu thơ".
Về văn xuôi,
truyện kể đầu tay, Bếp Lửa,
cũng đánh dấu sự không thể trở lại với cách kể chuyện
cũ nữa.
Tính ngắn gọn
của thông điệp làm tăng nhịp văn và làm chủ cảm quan thẩm mỹ.
Được nhìn nhận,
nhưng không được nghiên cứu sâu, bởi giới phê bình trong thời kỳ chiến
tranh
1954-1975, tuy nhiên, vào lúc này, ông quả là một tác giả đáng gờm của
giới phê
bình văn học Việt Nam, bởi tính đa dạng trong đường hướng sáng tạo, và
bởi lý
thuyết văn học mang tính tổng hợp. Tất cả điều này sở dĩ có được, là
nhờ dựa
trên một phát kiến mới mẻ của ông về nhạc tính của thơ.
Thanh Tâm
Tuyền thuộc trong số những nhà văn sớm cảm nhận sự huỷ hoại của đất
nước Việt
Nam chiến tranh triền miên nhưng ông cũng là một trong số những người
hiểu thế
nào là sống trong một chế độ toàn trị kìm kẹp như chế độ hiện thời,
trải qua tù
đầy, trại cải tạo, trong nhiều năm ròng rã, dưới sự áp bức của chế độ
mới, từ
năm 1975 tới 1990. Ông kể lại sau đây, kinh nghiệm viết của ông, dưới
áp bức,
kìm kẹp.
Source
Những
bài
thơ gởi đảo xa & trăng màu hồng
Sáng
nay, trong email Cường lại gởi cho những tài liệu về Thanh Tâm Tuyền
(TTT)
trong đó chứa những điều mình chưa từng biết, những điều lần đầu
tiên được
công bố. Về một mối tình và những bài thơ cho đảo xa.
GCC
thắc mắc: Ai cho phép mà lần đầu tiên được công bố?
Thư riêng, mail riêng, làm sao dám đăng lên, rồi tự cho phép lần đầu
tiên được
công bố?
NQT
TV đã từng
viết về những kỷ niệm thật riêng tư về TTT, tính, qua đó, lần ra những
liên hệ với
những bài thơ, bài viết, truyện ngắn, truyện dài của ông, nhưng sau đó,
nhận được
mail của bạn C ra lệnh ngưng.
*
Một bạn văn
vừa cho biết nguồn của những bài thơ của TTT.
Tks. NQT
From:
Sent:
Tuesday, February 14, 2012 5:43 PM
Subject:
tinvan.net
<
GCC thắc mắc:
Ai cho phép mà lần đầu tiên được công bố?
Thư riêng,
mail riêng, làm sao dám đăng lên, rồi tự cho phép lần đầu tiên được
công bố?
>
Ong GCC nay
qua la bop chop (as always)
Trong cai
link chinh inh o post cua ong GCC : "Giờ đây, sau khi nha tho nằm xuống
sáu
năm, tất cả được công bố. Mà do người tình trăng hồng hạ kia." (http://phovanblog.blogspot.com/)
Thi
"nguoi tinh hong ha" cong bo "thu rieng" . The
ong GCC phan doi a ? Ai noi ong "thu
rieng khong dam (sic)
dang len" ? Nha tho...cung la mot
"public figure" trong pham tru VN . Dang len
cung ...OK lam chu nhi !
Ong la ai
cua nha tho ...qua't la'o the ?
Ong bat duoc
"nguon" roi , co phan ung gi chang nhi ?
Phuc Đap:
Ban hieu lam
roi
...
Phu nhan của
nha tho la nguoi khong lien quan den “giang ho, gio tanh mua mau” (1)
NXT la ban
cua TTT
Anh phai
biet chuyen do
O dau post
cung duoc
Nhung Pho
Van dung nen post
Regards
NQT
xin loi ong
GCC .
Bay gio la
"mode" tung ...thu* rieng len mang, nguoi doc "net" binh
thuong nhu toi cung nga'n , nhu kieu Dao Anh-TCS ...bay gio "Cu*?a
Kho'a
Trai' " - "Trang Hong" - va Nha Tho Tu Do vi dai cua Mien Nam !
Do la thu* /
tho* trong tinh tha^`n van nghe , mot kieu lang mang ngoai doi song
...gia dinh
(von khong lang mang cua TTT).
Toi dong y ve post cua ong ve NXT .
Tran trong va xin loi lam phien
Bye
Take Care
NQT
(1)
Cái câu của bà vợ Trung Uý
Kiệt, trong Một Chủ Nhật
Khác, có thể áp dụng ở đây:
-Mấy người không thấy là
mấy người diễn trò dâm loàn, đồi bại...
Thùy
bật la lên, chụp lấy
Kiệt xâu xé. Kiệt chết sững, không phản ứng. Thùy rít lên: Đồ tồi bại,
đốn mạt,
sadique... tu es sadique, không ngờ, không tưởng tượng nổi. Tởm,
tởm quá.
Kiệt chảy nước mắt những vẫn cười nôn.
Khi nguôi ngoai, Thùy hỏi:
-Có thật đàn ông các anh ngấm ngầm đều ưa những trò tồi bại? Có thật
anh chán
tôi, vì tôi không thể... bước vào khách sạn, hay nằm ngoài trời với anh
như....
-Đừng bậy. Anh không phải thế....
-Thế anh là thế nào? Còn vết sẹo kia giải thích thế nào?...
Kiệt nghẹn
lời. Chàng không thể hé môi. Làm
cách nào chàng có thể mở miệng giải thích?
Rồi cũng qua.
Bây giờ, Kiệt tự đùa mình: một hôm nào tình cờ người tình cũ của ta có
thể đột
ngột xuất hiện chăng? Chàng hơi trợn trước câu hỏi.
Source
Đọc
lại, và đọc những "lần đầu công bố", thì GCC mới hiểu, Kiệt, có thể
đã tính ra được chuyện người tình cũ đột ngột xuất hiện, ở nhà 1 bà
bạn, ở Đà
Lạt, mà có lẽ luôn cả chuyện vừa mới xẩy ra, và đây là những lời tạ
lỗi, tự coi
thường chính mình, trước Thùy?
-Anh
sa sút thật. Anh sa sút đến em cũng không ngờ.
Kiệt muốn sa nước mắt sau câu nói của Thùy.
Thi sĩ Tầu,
Lý Thưởng Ẩn, mà Gấu đã từng mượn cái tên của ông, để dịch 1 truyện
ngắn của
Joyce, đăng trên Tập San Văn Chương, có câu thơ thần sầu, “Gặp đã khó,
xa nhau
lại càng khó.”
Ui chao sao
có người rẻ rúng cái chuyện gặp [đã khó], mà còn rẻ rúng luôn cả cái
chuyện xa
nhau [lại càng khó]?
Sự thực chỉ
tươi rói, khi một người nào đó phịa ra nó, với tài năng.
“La vérité n’est crue que lorsque quelqu’un l’invente
avec talent”. Santayana.
Câu trên do
Simon Leys trích dẫn, trong mục thường xuyên của ông, “lettre des
antipodes”, trên
tờ Le Magazine Littéraire, số về “Dada, tinh thần nổi loạn”, Tháng 10,
2005.
Bài viết của
ông, nhan đề, Sự thực của tiểu thuyết gia, Vérité du romancier, là về Patrick
O’Brian,
tác giả “Những cuộc phiêu lưu của Jack Aubrey”.
Leys viết: Khi phịa ra
những nhân
vật của mình, sự thực, P.O. phịa ra chính mình!
[En
inventant ses héros, Patrick O’Brian inventait en fait son propre
personnage]
Liệu, cũng
giống trường hợp tác giả Một chủ nhật khác?
Cái hư danh,
là người yêu của nhà thơ vĩ đại nhất xứ Mít đã khiến bà này tung hê thư
riêng lên
net.
Chẳng có lý do nào khác. Bởi là vì cũng khá nhiều người trong giới
giang hồ
gió tanh mưa máu biết chuyện này rồi, như nhiều chuyện khác nữa liên
quan tới
nhà văn nữ nổi tiếng. NQT
Cũng thật lạ
khi nhà thơ coi mình là Lỗ Bình Sơn, và người tình là “hòn đảo của tôi”?
Phải nói, rất
ư là tình cờ, GCC vớ được 1 số báo TLS, 23 August 2002, trong có hai
bài thật bảnh
về Xì ta lin,và 1 bài thật ngắn, về du lịch, điểm cuốn “Đi tìm Lỗ Bình
Sơn”, và
qua bài điểm thì GCC mới biết là Defoe đã cho Lỗ Bình Sơn ở hòn đảo
quạnh hiu,
không có người, đến…. 28 năm, rồi mới tìm cách
cho vượt thoát.
TRAVEL
How goes the
maroon
[Kẻ bị bỏ quên trên đảo thì ra sao]
NICHOLAS
CRANE
Tim Severin
SEEKING
ROBINSON CRUSOE
353pp.
Macmillan. £18.99. 0333905555
More than twenty
years have passed since Tim Severin sailed an oxhide boat across the
Atlantic
to prove that Irish monks might have reached North America before the
Norsemen.
Severin's subsequent vessels have included a twenty-oared Bronze Age
galley, a
bamboo raft, and a ninth-century Arab sailing ship which he used to
investigate
the stories of Sinbad the Sailor.
In one of
his earlier books, In Search of Moby-Dick
(1999), this latter-day Thor Heyerdal referred to his adventures as
"practical experiments into the truths which lie behind the great
legends
of our culture". Severin's latest quest is "to examine the truth
behind the universal image of the maroon". That maroon is Robinson
Crusoe,
the character who launched Daniel Defoe's career as a novelist, and who
was
famously resourceful. Crusoe lasted for twenty-eight years on an
uninhabited
South American island near the mouth of the Orinoco, before Defoe
engineered
his escape. Crusoe proved an ingenious islander, fabricating and
furnishing a
house from flotsam, sowing barley and rice, and baking his own pots.
His
handmade canoe had a mast, a sail and a sun umbrella. Severin keeps
Crusoe's
moral conundrums below decks; what matters are his practical aptitudes
as a
castaway and the "geographical realities" behind Defoe's fictitious
island.
Severin
knows how to spin a sailor's yarn, and he quickly hooks his reader with
the discovery
in an Edinburgh archive of two mysterious artifacts, "the first clues
along the trail". The coconut goblet and dark red sea-chest are said to
have belonged to Alexander Selkirk, the popular prototype for Defoe's
Robinson Crusoe.
Readers of Severin's earlier works can be sure that goblet and
sea-chest will
be amply filled by the end of the tale.
And so we
set a course for Juan Fernandez, the cluster of islands off the Pacific
coast
of Chile, where Selkirk spent five lonely years. A bigamist, cheat and
a bully,
the Scotsman proves an unsatisfactory model for Crusoe, and so does
another
Juan Fernandez castaway, the "self-seeking rogue" Captain George
Shelvocke. From the Pacific, Severin pursues his fictive quarry into
the swamps
of Honduras and Nicaragua, interweaving buccaneering epics with his
own,
increasingly hazardous enterprise. In the manner of his hapless
maroons, Severin's
narrative has by now been blown off course and Destination Defoe
recedes below
the horizon as the author gets sucked into a marvelous series of
intra-plots in
which the reader meets narcotic smugglers, "turtle men" and an odd
English maroon called Norman who lives alone on a stilted shack fifteen
miles
out to sea. We fly out to a coral outcrop which is the home to 4,000
Kuna
people, refugees from the mainland. "They had deliberately marooned
themselves", writes Severin, before returning to the jungle saga of
Lionel
Wafer, a buccaneer surgeon who had found himself cast upon the Kuna 300
years
earlier.
Alone on an
alien shore, Severin's miscellaneous castaways are characters with the
pretence
peeled back. Some are callous beyond belief, others reveal unforeseen
fortitude. Unsurprisingly, Severin's own heroes are the maroons who
have been
able to reverse their potentially fatal misfortunes: the armourer John
Popplestone, whose "energy, self-discipline and practical competence
with
every material" enabled the building of a twenty-ton escape boat; and
"Will the Moskito", the Man Friday who broke up his gun to fashion
"Harpoons, Lances, Hooks and a Long Knife". Will, a Caribbean Indian,
survived alone on an island for three years.
Seeking Robinson Crusoe is a castaway's cocktail
of
adventure and salty evocation. Irresistibly drawn to unsafe boats,
Severin ends
the book by boarding an ancient English sailing trawler: "No engine,"
he writes with relish, "no electrics, no radio, no electronic
navigation
aids." The narrator buys a torch so that the foreman crew can read the
compass card at night, and they set off for a 1,400 mile Caribbean
odyssey
which draws them to a blighted isle called Salt Tortuga. It is here
that the
quest to identify the "real" Robinson Crusoe comes to a most
satisfactory conclusion.
Subject: Xin
được ở trong mailbox
Date: Fri,
22 Jan 2010 14:40:55 -0800
To: GNV
Ông là một
trong những "Niềm Kinh Ngạc" đối với tôi.
Nên chỉ mỗi
ông đọc thư của tôi là đủ cho tôi lấy làm hân hạnh rồi.
Xin GNV đừng
đưa H/A lên web. Tôi thích ở trong mailbox hơn.
Xin cảm ơn.
H/A
Plse
Forgive. NQT
Vị độc giả
trên, rất thân, với toàn gia đình GCC. (1) Vị này không muốn trang TV
biến
thành 1 trang
có nhiều dấu vết riêng tư, và thuần chỉ là 1 trang văn học, như
có lần
căn dặn GCC.
Trong khi
GCC thì coi đây là “nhà của mình”, cái gì cũng đưa lên... khoe!
Nhà của mình
mà!
Không phải như trường hợp “Nhà có cửa đếch chịu khoá”!
(1)
Bac Gau oi,
dung lien luy nhieu voi cay viet khac. Enjoy your works, your life and
family.
Your readers
and your family need you and are more important.
I don't have
Vietnamese unicode so it's difficult to write long.
Please keep
email personal, not for TV.
Soon,
|
|