*

 



Thơ Mỗi Ngày


*

ANNA KAMIENSKA
[dates unknown]

Anna Kamienska was a Christian deeply living both the Old Testament and the New Testament. In her old age she achieved much serenity and acceptance of the world created by God. I find this a very good poem.

A PRAYER THAT WILL BE ANSWERED

Lord let me suffer much
and then die

Let me walk through silence
and leave
nothing behind not even fear

Make the world continue
let the ocean kiss the sand just as before

Let the grass stay green
so that the frogs can hide in it

so that someone can bury his face in it
and sob out his love

Make the day rise brightly
as if there were no more pain

And let my poem stand clear as a windowpane
bumped by a bumblebee's head

Translated from the Polish by Stanislaw Baraniczak and Clare Cavanagh

DENISE LEVERTOV
1923-

A slow maturing, long awaited, probably identical with prayer, sometimes called by the mystics "the night of the soul" can, in modem poetry, take the lay form of a black eye mask.

EYE MASK

In this dark I rest,
unready for the light which dawns
day after day,
eager to be shared.
Black silk, shelter me.
I need
more of the night before I open
eyes and heart
to illumination. I must still
grow in the dark like a root
not ready, not ready at all.

TO MONDAY

Once you arrive it is plain
that you do not remembe
the last time 

you are always
like that
insisting upon
beginning
upon it all beginning
over again
as though nothing had really happened
as though beginning
went on and on
as though it were everything
until it had begun 

you never know who you are
the hands of the clock find you
and keep going
without recognition
though what your light
reveals when it rises
wakes from another time
which you appear to have forgotten 

traveling all that way
blank and nowhere
before you came to be
with the demands
that you bring with you
from the beginning 

each time it is
as though you were the same
or almost
oh unrepeatable one
needing nothing yourself
and not waiting 

-W. S. Merwin 

NYRB 11 Oct, 2012

Ba bài thơ trên, thì là đều nói giùm Gấu, về thời gian còn lại, cũng chẳng bao lăm.
Bài đầu:

Lời cầu nguyện sẽ được Ông Giời lắng nghe

Ông Giời bắt Gấu cực kỳ đau khổ
Trải qua những mấy địa ngục, đen, đỏ, bạn quí....
Và rồi, ngỏm.

Bước trong câm lặng
Và chẳng để lại gì, kể cả sự sợ hãi

Cho phép thế giới cứ thế tiếp tục, đếch thèm để ý gì đến Gấu đi xa
[Đừng thèm để ý đến câu của tụi Tẩy, 1 kẻ vắng mặt là thế gian kể như tiêu!]
Biển tiếp tục hôn cát như trước

Cỏ vưỡn xanh và mấy chú cóc nhái,
ễnh ương vưỡn ẩn náu ở đó

Và một thằng cha Gấu khác, sẽ vùi mặt vô
Khóc một BHD khác, bỏ nó

Mặt trời vưỡn mọc, sáng ngời mỗi ngày
Như thể làm đếch gì có khổ đau ở trên cõi đời này

Và hãy để cho bài thơ này trong sáng như kính cửa sổ
khiến 1 con ong nghệ đụng đầu vô đánh bốp 1 cái!

NEITHER HERE NOR THERE

An airport is nowhere
which is not something
generally noticed

yet some unnamed person in the past
deliberately planned it
to be there

and you have spent time there
again
and are spending time there again
for something you have done
which you do not entirely remember
like the souls in Purgatory

you sit there in the smell
of what passes for food
breathing what is called air
while the timepieces measure
their agreement

you believe in it
while you are there
because you are there
and sometimes you may even feel happy
to be that far on your way
to somewhere

-W S.Merwin

The New Yorker, Oct 15, 2012

Note: Bài này cũng tuyệt.
Chẳng xứ Mít, chẳng xứ Lạnh, mà là Lò Luyện Ngục: Không lẽ số mệnh của Gấu "bảnh" thế?
Nên nhớ, phải thứ chọc trời khuấy nước thì khi chết  mới được mời vô Lò Luyện Ngục. Cao Bồi, khi sống, phán, địa ngục đầy lũ VC, đếch còn chỗ cho ta, là cũng muốn được mời vô Purgatoire.


Thơ Mỗi Ngày         

Sightseeing in the Capital

These grand old buildings
With their spacious conference rooms,
Leather-padded doors,
Where they weigh life and death
Without a moment of fear
Of ever being held accountable,

And then withdraw to dine in style
And drink to each other's health
In private clubs and country estates,
While we linger on the sidewalk
Admiring the rows of windows
The evening sun has struck blind.

Charles Simic: Master of Disguieses

Cảnh sắc Sài Gòn

Những tòa biu đinh lớn,
Những phòng họp rộng
Cửa gỗ quí
Nơi chúng ọ ẹ phán về sống và chết
Chẳng 1 chút sợ hãi
Sau này lịch sử Mít sẽ vạc mặt chúng ra
Và rồi vỗ tay, bế mạc, ôm hôn thắm thít [thít, không phải thiết]
Và kéo tới những câu lạc bộ riêng
Của Mafia Đỏ
Nâng ly chúc sức khoẻ nhau 

Trong lúc dân Xề Gòn lần lữa nơi hè đường
Trầm trồ ngưỡng mộ
Những nhà hàng, những ô cửa kính sang trọng
Mà ánh mặt trời buổi chiều chói lòa,
Làm đui con mắt.

Note: Bài thơ này có tính thời sự, và làm liên tưởng cuộc họp thượng đỉnh của VC đang xẩy ra. Nhưng với Gấu, nó làm nhớ tới bài biết sau đây, và bài này thì lại làm nhớ tới bài của Rushdie.

Chán thế!

My hero: Kurt Vonnegut by Alison Moore (1)
'His dark stories are so full of love and acceptance, as well as wit'
 

Khi Gấu đọc, thì bỗng nhớ ra bài viết của Rushdie về KV, trong Quê Hương Tưởng Tượng, trong có đề cập tới 1 cuốn, trong có một nhân vật, cựu chiến binh Mẽo ở Việt Nam, và kinh nghiệm này ăn tới "xương tới hồn tới tuỷ" của anh ta. Một trong những bồ nhí kể, anh ta chỉ có 1 câu chào,“Chào mừng tới Việt Nam, Bienvenue au Vietnam”, với tất cả mọi bướm, nếu bướm này khùng đến nỗi thương anh ta. Và, với anh này, con số những bướm mà anh ta ngủ, thì bằng con số VC mà anh ta làm thịt!

Chán nhất, là, bài của Rushdie, về anh cựu binh Mẽo, làm Gấu nhớ tới nhà văn ly khai VC Nguyễn Vịt. Anh ta tuyên bố, khi được hỏi, nghĩ gì về đàn bà Mít, "Phải để cho tui để con “xê” vô trỏng, rồi, thì mới có ý kiến được!" [Nhớ đại khái]
 

"Even God Needs an Eye-Witness" 

So that man
no longer exists. 

He spoke for a while
then fell silent.
A mourning veil
- virtually transparent -
now covers
his favourite words,
those that once
had given him
(with no little generosity)
his share of silence:
of the night's whiteness
(flakes of clear conscience
in the page's margin)
and death.

Perhaps, one day;
when turning to look back
we'll feel his absence
weighing upon us
like his voice,
when our thoughts
on his irrevocable end
light the path
of our own exile. 

HARIS VLAVIANOS
Translated by David Connolly
TLS 10 September, 2010 

 “Ngay Ông Giời Cũng Cần Chứng Nhân Nhìn Tận Mắt” 

Như vậy là người đàn ông đó
Không còn nữa 

Ông ta lèm bèm một lúc
Rồi lặng thinh
Một tấm khăn tang
-Gần như trong suốt-
Vào lúc này phủ lên những từ bảnh tỏng của ông ta
Những từ đã có lần
Đem đến
(không phải không có tí ti rộng lượng)
Phần chia nín khe của ông:
Của sắc trắng của đêm
(những bông lương tâm trong trắng
ở lề trang sách)
và cái chết.
Có lẽ một ngày nào đó
Khi ngoái nhìn lại
Chúng ta cảm nhận sự vắng mặt của ông ta
Đè lên chúng ta
Như tiếng nói của ông,
Khi những ý nghĩ của chúng ta về sự tận cùng không thể thay đổi của ông
Soi sáng con đường lưu vong của riêng chúng ta (1)

TADEUSZ ROZEWICZ
1921-

This poem by Tadeusz Rozewicz is about absence, but just as in Samuel Beckett, absence expresses something that is not attainable, yet nevertheless exists. And so love, here, is defined only negatively.

Bài thơ này của Tadeusz Rozewicz là về sự thiếu vắng, trống trải, nhưng như với Samuel Beckett, thiếu vắng biểu tả một điều gì không tóm bắt được, tuy nhiên, không có nghĩa, nó không hiện hữu. Và như thế, yêu ở đây, được định nghĩa chỉ theo kiểu tiêu cực

A SKETCH FOR A MODERN LOVE POEM

And yet whiteness
can be best described by greyness
a bird by a stone
sunflowers
in december

love poems of old
used to be descriptions of flesh
they described this and that
for instance eyelashes

and yet redness
should be described
by greyness the sun by rain
the poppies in november
the lips at night

the most palpable
description of bread
is that of hunger
there is in it
a humid porous core
a warm inside
sunflowers at night
the breasts the belly the thighs of Cybele

a transparent
source - like description
of water is that of thirst

Phác thảo bài thơ tình hiện đại

Và, tuy nhiên, “cái gì trăng trắng như em cúi”
có thể được miêu tả, bảnh nhất, bởi cái xám xịt
một con chim, cục đá
hoa hướng dương
vào tháng chạp

những bài thơ tình ngày xưa thường chơi gam màu
sáng, tươi, mát, như da thịt của nàng
chúng miêu tả cái này cái kia,
thí dụ lông mi

tuy nhiên màu đỏ thì nên miêu tả bằng
màu xám
mặt trời bằng cơn mưa
cây anh túc vào tháng một
môi em vào ban đêm

hình ảnh rộn ràng nhất của bánh mì
là cơn đói
trong đó có
một cái lõi xốp, ướt
ấm áp trong
hoa hướng dương vào ban đêm
ngực, dạ dày, bắp vế của Đất Mẹ Cybele

nguồn trong suốt - miêu tả nước,
bảnh nhất,
là cơn khát


   

3. Tethered

The dove outside my window sounds hurt
all the time.

No country of origin.
Living in occupied territory

all the time. In the shadow
of an unattainable heaven,

burdened by a memory
of perfect orchards trimmed by unseen hands.

Maybe being winged means being wounded
by infinity, blessed by the ordeal
of freedom. At crossroads

all the time, all the time rocking
chair, rocking horse, rocking train, rocking boat,

a heart born to a station of oars,
an office of wings, born flying, born

falling between heads and tails,
trespass and grace, home and wilderness. 

Could be thinking is curved, like the earth
and feels, therefore, heavy.

Could be wings are an affliction,
a different kind of tyranny,
and flying is no better than walking upright.

Li-Young Lee: Behind My Eyes

Note: Thần sầu.

Có khi lưu vong thì lại khốn kiếp hơn là không lưu vong:

Maybe being winged means being wounded
by infinity, blessed by the ordeal
of freedom. At crossroads....
Có khi có cánh có nghĩa là, bị thương bởi vô cùng, bị chúc phúc bởi tự do. Ở ngã tư, ngã năm, ngã bảy suốt đời….

Note: Đây là 1 đoạn, trong bài thơ dài, của Li-Young Lee , nhan là, "Những Cuộc Đời của Một Giọng Nói", The Lives of a Voice

Tethered [Buộc, Cột]

Con bồ câu bên ngoài cửa sổ luôn luôn
Kêu như bị thương

Không có quê hương mỗi người chỉ có một.
Luôn luôn sống trong vùng đất bị cai trị, thôn tính

Trong cái bóng của một thiên đàng không làm sao tới được
Nặng chĩu vì gánh nặng hồi ức
Về những vườn cây trái được chăm sóc bởi những bàn tay không nhìn thấy.

Có thể có cánh có nghĩa là bị thương đau,
Bởi vô cùng,
Được chúc phúc bởi thử thách cam go về tự do
Luôn luôn ở ngã ba, ngã tư đường

Luôn luôn trong 1 chiếc ghế, hay trên lưng ngựa, hay trên xe lửa, hay 1 con thuyền,
Lúc nào cũng chuyển động, lắc la lắc lư.

Một trái tim sinh ra cho 1 cái kho của những mái chèo,
Một văn phòng của những cái cánh

Sinh ra trong lúc bay, sinh ra trong té chổng khu
Sinh ra giữa xúc phạm và ân sủng, giữa quê nhà và hoang dại

Có thể, suy nghĩ thì cong cong, vòng vòng, giống như mặt đất
Và cảm nhận, do đó, thì như gánh nặng, như đá đeo.

Có thể những cái cánh thì là nỗi đau
một thứ loại khác của độc tài, chuyên chế
Và bay thì khốn nạn hơn nhiều, so với đi lang thang ở Sài Gòn.

STEVE KOWIT
1938-

At least one poem about being charmed by the nakedness of a woman should be included here.
Ít ra, thì cũng phải có 1 bài thơ tả cảnh Nguyễn Du ngắm Kiều tắm chứ!

WHAT CHORD DID SHE PLUCK 

What chord did she pluck in my soul
that girl with the golden necklace
& ivory breasts
whose body ignited the river:
she who rose like the moon
from her bathing &
brushed back the ebony hair
that fell to her waist
& walked off
into the twilight dark-
O my soul,
what chord did she pluck
that I am still trembling.

after Chandidas

Em điểm trúng huyệt nào hồn tôi?

Em điểm trúng huyệt nào hồn tôi
Cái em đeo chuỗi hạt vàng & cặp vú ngà
tòa thiên nhiên vãi ra thành dòng sông
và vừng trăng bước ra khỏi bồn tắm
hất mớ tóc mun ra phía sau
khi chúng xỏa xuống eo
và bước vô vùng tối chạng vạng
Ôi linh hồn khốn khổ của tôi ơi
Em đã điểm trúng huyệt nào của mi
Mà lúc này ta đang run rẩy?

DENISE LEVERTOV
1923-

Farewells to a body as it once was are like farewells to life.
There is a feeling of the abyss of passing of time in this poem.

A WOMAN MEETS AN OLD LOVER

"He with whom I ran hand in hand
kicking the leathery leaves down Oak Hill Path
thirty years ago

appeared before me with anxious face, pale,
almost unrecognized, hesitant,
lame.

He whom I cannot remember hearing laugh out loud
but see in mind's eye smiling, self-approving,
wept on my shoulder.

He who seemed always
to take and not give, who took me
so long to forget,
remembered everything I had so long forgotten."

Cái cảnh gặp lại người cũ, nhìn từ phía “không phải Mai Thảo”, thì là như sau đây:

Một người đàn bà gặp lại người yêu cũ

Với ông ta tôi đã từng tay trong tay,
Xuống Đồi Thông Hai Mộ
Đuổi lá vàng xào xạc dưới chân
Ba chục năm trước

Úi giời ơi là giời
Thằng chả bi giờ mới bi thương thiểu não làm sao
Mặt mày xanh rờn như mới từ xứ Mít được con cái bảo lãnh qua Mẽo
Tôi gần như không nhận ra thằng chả!

Ông ta, chính là chàng ngày nào!
Đúng là ông ta ư, chàng ngày nào, cười, không chỉ bằng tiếng cười sang sảng,
mà còn bằng cặp mắt, rất ư biết mình có hạng,
Vậy mà khóc mùi mẫn trên vai tôi.

Chàng, đúng là chàng, tên ích kỷ có hạng, chỉ biết lấy mà chẳng biết cho ai bất cứ cái gì
[Đúng Bắc Kít, vùng nước mặn, chắc cùng quê hương với Cao Bồi?]
Vậy mà không biết là bao nhiêu năm tháng qua đi,
Bao nhiêu nước chảy qua cầu,
Linh hồn tôi mới phai mờ hình bóng chàng

Nhìn 1 phát, là bao nhiêu kỷ niệm cũ hiện về, như những bóng ma khủng khiếp!

Note: Bài này dịch loạn, nhưng đúng là cái cảnh Gấu tưởng tượng ra, khi gặp lại BHD!

Phượng Hoàng và Bồ Câu


*

Where is that street,
called lonely street,
where broken dreams
and memories
meet?
Cầm Dương Xanh


&

&

Thu, Phố Gấu

KENNETH REXROTH
1905-1982

Kenneth Rexroth, who used to live in Japan, wrote toward the end of his life a parable on Buddha, a poem of far-reaching nonattachment.

FROM "THE CITY OF THE MOON"

Buddha took some Autumn leaves
In his hand and asked
Ananda if these were all
The red leaves there were.
Ananda answered that it
Was Autumn and leaves
Were falling all about them,
More than could ever
Be numbered. So Buddha said,
"I have given you
A handful of truths. Besides
These there are many
Thousands of other truths, more
Than can ever be numbered."

Từ “Thành Phố Trăng"

Phật lấy 1 dúm lá thu cầm trong tay
Và hỏi Gấu Cà Chớn
Thu như thế, là ở hết trong tay ta, đúng không?
Gấu Cà Chớn lắc đầu,
Thu đầy trời Canada vào lúc này
Phật gật gù,
"Ta ban cho mi chỉ 1 dúm sự thực
Còn đầy ở ngoài kia, thì tự mi kiếm lấy"



RC Poems 1 2

RAYMOND CARVER
1938-1988

Raymond Carver was one of the best-known American short-story writers, but also an excellent poet. Death from cancer interrupted his work at a moment of full development, after he had overcome his alcoholism. I couldn't read this poem on Alexander the Great without thinking of his biography, to which, besides, he refers

WINE

*

Cầu Mirabeau

L'amour s'en va comme cette eau courante
L'amour s'en va
Comme la vie est lente
Et comme l'Espérance est violente

Love goes away the way this river flows away.
How violently flowers fade.
How awfully slow life is.

BHD tàn mới hung bạo làm sao
Đời cu Gấu lử khử lừ khừ hoài mới nhảm làm sao!
[Bản tiếng Anh nhảm thật!]

STEVE KOWIT
1938-

At least one poem about being charmed by the nakedness of a woman should be included here.

WHAT CHORD DID SHE PLUCK

What chord did she pluck in my soul
that girl with the golden necklace
& ivory breasts
whose body ignited the river:
she who rose like the moon
from her bathing &
brushed back the ebony hair
that fell to her waist
& walked off
into the twilight dark-
O my soul,
what chord did she pluck
that I am still trembling.

after Chandidas

DENISE LEVERTOV
1923-

Farewells to a body as it once was are like farewells to life.
There is a feeling of the abyss of passing of time in this poem.

A WOMAN MEETS AN OLD LOVER

'He with whom I ran hand in hand
kicking the leathery leaves down Oak Hill Path
thirty years ago

appeared before me with anxious face, pale,
almost unrecognized, hesitant,
lame.

He whom I cannot remember hearing laugh out loud
but see in mind's eye smiling, self-approving,
wept on my shoulder.

He who seemed always
to take and not give, who took me
so long to forget,
remembered everything I had so long forgotten.'

LITTLE UNWRITTEN BOOK

Rocky was a regular guy; a loyal friend.
The trouble was he was only a cat.
Let's practice, he'd say; and he'd pounce
On his shadow on the wall.
I have to admit, I didn't learn a thing.
I often sat watching him sleep.
If the birds tried to have a bit of fun in the yard,
He opened one eye;
I even commended him for good behavior.

He was black except for the white gloves he wore.
He played the piano in the parlor
By walking over its keys back and forth.
With exquisite tact he chewed my ear
If I wouldn't get up from my chair.
Then one day he vanished. I called.
I poked in the bushes.
I walked far into the woods.

The mornings were the hardest. I'd put out
A saucer of milk at the back door.
Peekaboo, a bird called out. She knew.
At one time we had ten farmhands working for us.
I'd make a megaphone with my hands and call.
I still do, though it's been years.
Rocky; I cry!
And now the bird is silent too.


Cuốn sách nhỏ không viết

Rocky là một gã đường được, một tên bạn đúng là bạn
Kẹt 1 phát, hắn chỉ là một con mèo
Hãy thực tập này, gã nói, và thế là gã phóng lên
Vồ cái bóng của gã ở trên tường
Tôi phải thú nhận, tôi chẳng học được gì, từ cú phóng đó.
Tôi thường ngồi ngắm gã ngủ.
Nếu những con chim bày trò gì đó ở ngoài sân
Gã mở 1 con mắt.
Tôi phải đi 1 đường dè chừng, hãy cư xử cho đèm đẹp, nghe chưa!

Một con mèo mun, trừ cặp bao tay trắng
Gã chơi dương cầm ở phòng khách,
Bằng cách bước tới bước lui trên những phím đàn
Với 1 cú thần sầu, gã “day day” cái tai của tôi
Nếu tôi cứ ngồi lỳ trên ghế, đếch chịu đứng dậy
Thế rồi 1 ngày, gã biến mất.
Tôi gào gọi
Tôi lục lạo mấy bụi cây.
Tôi đi vô cả những cánh rừng

Những buổi sáng mới căng ơi là căng
Một cái dĩa sữa để ở cửa sau
Peekabo, một con chim gọi lớn. Ẻn biết.
Có 1 dạo, chừng mươi người làm vườn trại cho chúng tôi
Tôi vòng tay làm cái ống loa, và gọi lớn.
Tôi vẫn làm như vậy, dù bao năm tháng đã qua đi
Rocky, tôi khóc thảm thiết
Và bây giờ
Những con chim
Cũng nín thinh.

SLAUGHTERHOUSE FLIES

Evenings, they ran their bloody feet
Over the pages of my schoolbooks.
With eyes closed, I can still hear
The trees on our street
Saying their moody farewell to summer,

And someone at home recalling
The weary old cows, hesitating,
At long last growing suspicious
Just as the blade drops down on them.

Charles Simic

Ruồi Lò Sát Sinh

Chiều, chúng dzê những cái chân máu của chúng
Trên những cuốn tập của tui
Mắt nhắm, nhưng tôi vưỡn nghe
Đám cây ngoài phố
Bye bye Mùa Hè
Giọng của chúng nghe cải lương lắm.
Cái gì gì Em chở mùa hè của ta đi mô?

Và 1 kẻ nào đó
Ở nhà
Nhớ những con bò già
Dáng thiểu não
Vẻ ngần ngại,
Và cái nhìn hồ nghi dài sau cùng,
Đúng lúc lưỡi dao chém xuống cổ


*

Thảo Trần & Hoàng Dược Thảo @ Tara, Fall, 2003

*

20.10.2010

Automne

Dans le brouillard s'en vont un paysan cagneux
Et son bœuf lentement dans le brouillard d'automne
Qui cache les hameaux pauvres et vergogneux 

Et s'en allant là-bas le paysan chantonne
Une chanson d'amour et d'infidélité
Qui parle d'une bague et d'un cœur que l'on brise

Oh! l'automne l'automne a fait mourir l'été
Dans le brouillard s'en vont deux silhouettes grises

Apollinaire

Mùa Thu

Trong sương mù, một người nhà quê đi, chân liềng khiềng
Và con bò của anh ta lừng khừng đi trong sương mù mùa thu
Lấp ló trong lớp sương mù là những thôn xóm nghèo nàn và xấu hổ

Và trong khi đi như thế, anh nhà quê ư ử hát
Một bài tình ca và sự không trung thuỷ
Nói về một cái nhẫn và một trái tim mà người ta làm tan nát

Ôi mùa thu, mùa thu làm chết đi mùa hè
Trong sương mù cập kè hai cái bóng xám

CHINESE POEM
Zagajewski

Tôi đọc thơ Tầu,
viết từ một ngàn năm trước.
Thi sĩ nói về những giọt mưa đêm,
rơi trên mái thuyền tre,
và sau cùng đem đến sự bình an cho trái tim của mình.
Liệu chỉ là tình cờ,
Tháng Chạp lại tới,
với sương mù,
và hoàng hôn nặng nề?
Liệu chỉ là nhân duyên,
Một người nào đang sống, ở đâu đó?
Thi sĩ đặt nặng vào giải thưởng, thành công
nhưng thu này, thu tới
vặt lá ra khỏi đám cây cao ngạo
và nếu có gì còn lại,
thì chỉ là tiếng thầm thì của mưa
trong những bài thơ
chẳng hạnh phúc, mà cũng chẳng buồn bã.
Chỉ có sự tinh khiết là không thể nhìn thấy
Và buổi chiều, khi cả hai, ánh sáng và bóng tối,
đều quên chúng ta trong thoáng chốc
vì bận bịu trao đổi những điều bí ẩn


Liu Xiaobo: Cái ngày đó


Thơ Mỗi Ngày

THE FRIENDS OF HERACLITUS

Your friend has died, with whom
You roamed the streets,
At all hours, talking philosophy.
So, today you went alone,
Stopping often to change places
With your imaginary companion,
And argue back against yourself
On the subject of appearances:
The world we see in our heads
And the world we see daily,
So difficult to tell apart
When grief and sorrow bow us over.

You two often got so carried away
You found yourselves in strange neighborhoods
Lost among unfriendly folk,
Having to ask for directions
While on the verge of a supreme insight,
Repeating your question
To an old woman or a child
Both of whom may have been deaf and dumb.

What was that fragment of Heraclitus
You were trying to remember
As you stepped on the butcher's cat?
Meantime, you yourself were lost
Between someone's new black shoe
Left on the sidewalk
And the sudden terror and exhilaration
At the sight of a girl
Dressed up for a night of dancing
Speeding by on roller skates.

Chaeles Simic: The Voice at 3:00 AM

Những người bạn của Heraclitus

Bạn của bạn đã chết
Cái tay mà bạn lang thang
phố này qua phố khác
giờ nào cũng như giờ nào
nói chuyện triết học
Bởi vậy, bữa nay, bạn đi 1 mình
Lâu lâu dừng lại để đổi chỗ
Với người đồng hành tưởng tượng
Và lèm bèm, cà khịa với chính mình
Chứ còn ai đâu nữa?
Về đề tài bề ngoài, vẻ mặt, biểu hiện
Cái thế giới mà chúng ta nhìn thấy ở trong đầu chúng ta
Không thể tách ra khỏi cái thế giới hàng ngày chúng ta nhìn
Một khi mà khổ đau và sự buồn phiền quật chúng ta oằn người

Bạn thường xuyên bị đầy đi mãi xa
Bạn thấy bạn ở trong những khu xóm lạ
Thất lạc giữa những đống người không chút thân thiện
Phải hỏi đường
Và một khi tới đỉnh của đốn ngộ
Bạn bèn lập lại câu hỏi của mình
Cho một bà già, và 1 đứa bé
Cả hai có thể điếc và câm.

Có phải đó 1 mẩu Heraclitus
Mà bạn cố nhớ lại
Khi bạn dẫm lên con mèo của tên đồ tể?
Vào lúc này, bạn, chính bạn
Thất lạc giữa chiếc giầy đen mới của ai đó
Bỏ trên hè đường
Và nỗi khủng khiếp bất thần, và còn là cơn tức cười đến phát rồ
Khi nhìn thấy 1 cô gái
Ăn mặc thật là bảnh cho một dạ hội
Lướt qua bạn trên cặp pa-tanh.

RAYMOND CARVER
1938-1988

The most classical poem of nonattachment is that of a sudden realization, in a flash, of the shortness of the time one has left to live.
Czeslaw Milosz
Bài thơ cổ điển nhất, về sự tách rời, đếch dính vào cái gì nữa, là về cái phút bất thình lình ngộ ra, về tí mẩu thời gian còn lại, và sau đó là ngỏm, của 1 con người.

THE COBWEB

A few minutes ago, I stepped onto the deck
of the house. From there I could see and hear the water,
and everything that's happened to me all these years.
It was hot and still. The tide was out.
No birds sang. As I leaned against the railing
a cobweb touched my forehead.
It caught in my hair. No one can blame me that I turned
and went inside. There was no wind. The sea was
dead calm. I hung the cobweb from the lampshade.
Where I watch it shudder now and then when my breath
touches it. A fine thread. Intricate.
Before long, before anyone realizes,
I'll be gone from here.

Sợi tơ nhện

Vài phút trước đó, tôi đứng trước hiên nhà
Từ đó, tôi nhìn trời nước
và tất cả những gì đã xẩy đến với tôi trong tất cả những năm tháng đó.
Trời nóng, tĩnh mịch
Con nước xuống
Không tiếng chim
Khi tôi tựa vào bao lơn
Trán tôi dụng vô 1 sợi tơ nhện
Và nó vướng vào tóc tôi
Chẳng ai có thể trách tôi nếu tôi quay vô bên trong  nhà.
Không một chút gió.
Biển chết lặng.
Tôi treo sợi tơ nhện vào cái chao đèn
Và tôi ngắm nó run rẩy, rùng mình, mỗi khi hơi thở của tôi đụng nó.
Sợi tơ nhện mới nhỏ, mịn làm sao. Rối vào nhau.
Lâu, thật lâu, trước khi 1 người nào đó nhận ra.
Tôi đi mẹ từ đời nào,
Ra khỏi cuộc đời này.
 

OU YANG HSIU
1007-1072

There's a considerable number of Chinese poems in this book, for a simple reason: the pictorial qualities of that poetry, expressed in close cooperation with a calligrapher and an artist. "Fisherman" is really like a painting. And in fact the poem has been "translated" into an image by the brush of a painter, many times imitated and often reproduced in books on Chinese art. Drizzle and mist form an obstacle to seeing clearly, and this reminds us that a seeing person-an observer-exists.

Có khá nhiều thơ Tầu trong tuyển tập này, vì 1 lý do giản dị là, những tính chất “tranh” của thơ Tẫu đó, được diễn tả thật gần với nghệ thuật viết chữ đẹp và của 1 nghệ sĩ. “Người câu cá"  là 1 bức họa. Và đúng như thế, bài thơ được “dịch” thành  hình ảnh bằng cái chổi vẽ của họa sĩ, rất nhiều phen được bắt chước và thường xuyến được tái sản xuất trong những cuốn sách nghệ thuật Tẫu. Sương mù chập chờn, trạng thái ngất ngư con tàu đi cản cái nhìn thật rõ, điều này nhắc nhở chúng ta, người nhìn – kẻ quan sát - hiện hữu.

FISHERMAN

The wind blows the line out from his fishing pole.
In a straw hat and grass cape the fisherman
Is invisible in the long reeds.
In the fine spring rain it is impossible to see very far
And the mist rising from the water has hidden the hills.

Translated from the Chinese by Kenneth Rexroth

Người câu cá

Gió thổi bay sợi dây câu ra khỏi cái cần
Mũ rơm, áo tơi, người câu cá nhập vào với lớp sậy
Trong cơn mưa xuân mịn màng thật cũng khó mà nhìn thật xa
Và sương mù dâng lên từ mặt nước giấu mẹ mất mấy ngọn đồi

ROBINSON JEFFERS
1887-1962

In this poem, a woman speaks, but what she says is related by a man. This is one of Robinson Jeffers' late poems, and even a cursory knowledge of his biography suffices to recognize the voice of Una Custer, Jeffers' wife, with whom he'd lived in Carmel since his youth.

Trong bài thơ này, một người đàn bà nói, nhưng điều bà nói thì lại mắc mớ tới 1 người đàn ông. Đây là 1 bài thơ về cuối đời của Robinson Jeffers, và chỉ 1 tí ti hiểu biết v tiểu sử ông, là biết liền, đây là giọng bà vợ của ông, hai vợ chồng sống ở Carmel, từ khi ông còn trẻ.

CREMATION

It nearly cancels my fear of death, my dearest said,
When I think of cremation. To rot in the earth
Is a loathsome end, but to roar up in flame-besides, I
am used to it,
I have flamed with love or fury so often in my life,
No wonder my body is tired, no wonder it is dying.
We had great joy of my body. Scatter the ashes.

Hoả táng

Nó gần như xóa sạch nỗi sợ chết của Em,
người thân thương nhất của tôi nói,
Khi Em nghĩ đến hỏa táng.
Chết rữa thối ra thì thật là tởm,
nhưng chết rực rỡ như thế kia, trong đám lửa reo hò,
mới đẹp làm sao!
Vả chăng, Em quen với nó.

Em cháy thành ngọn lửa rực rỡ,
Trong tình yêu
Trong điên cuồng rồ dại
Thường xuyên là như vậy
Trong đời
Bởi thế, đừng ngạc nhiên khi thân này mệt mỏi
Khi thân này chết.
Chúng ta đã quần cho nó thật là đã đời, mê tơi, tơi bời hoa lá!
[Em lên anh nhá!
Lao vào l
ửa
Mèo đêm
Mưa không ướt lỗ]

Hãy hoả táng, và mớ tro than,
Cầm bằng theo gió bay đi!