*




Thơ Mỗi Ngày

The Devils

You were a 'victim of semiromantic anarchism
In its most irrational form.'
I was 'ill at ease in an ambiguous world 

Deserted by Providence.' We drank wine
And made love in the afternoon.
The neighbors' TVS were tuned to soap operas.

The unhappy couples spoke little.
There were interminable pauses.
Soft organ music. Someone coughing. 

'It's like Strindberg's Dream Play,' you said.
'What is?' I asked and got no reply.
I was watching a spider on the ceiling.

It was the kind St Veronica ate in her martyrdom.
'That woman subsisted on spiders only,'
I told the janitor when he came to fix the faucet.

He wore dirty overalls and a derby hat.
Once he had been an inmate of a notorious state institution.
'I'm no longer Jesus,' he informed us happily. 

He believed only in devils now.
'This building is full of them,' he confided.
One could see their horns and tails 

If one caught them in their baths.
'He's got Dark Ages on his brain,' you said.
'Who does?' I asked and got no reply.

The spider had the beginnings of a web
Over our heads. The world was quiet
Except when one of us took a sip of wine

Những Con Quỉ

Em là ‘nạn nhân của chủ nghĩa vô chính phủ nửa lãng mạn,
Trong cái hình thức phi lý nhất của nó.’
Còn anh thì ‘chẳng thích thú gì ở trong một thế giới hàm hồ

Bị Chúa bỏ rơi.’ Chúng tôi uống rượu vang
Và làm tình vào buổi chiều
TV hàng xóm thì đang chiếu chương trình soap operas.

Cặp tình nhân bất hạnh coi bộ ít nói.
Có những khúc nghỉ kéo dài.
Nhạc organ nhẹ. Một người nào đó ho.

‘Thật giống như trong Kịch Mơ của Strindberg,’ em nói.
‘Cái gì?’ tôi hỏi, nhưng không nghe trả lời.
Tôi ngắm một con nhện ở trên trần nhà.

Giống St Veronica ăn, trong cái xen tuẫn nạn của bà.
‘Người đàn bà đó chỉ tồn tại nhờ mấy con nhện,’
Tôi nói với người coi nhà, khi ông ta tới để sửa cái vòi nước.

Ông ta mặc cái áo ngoài dơ dáy và đội một cái nón quả dưa.
Ông đã có thời ở trong nhà thương điên Biên Hòa nổi tiếng.
‘Tớ hết còn là Ðấng Cứu Thế,’ ông hoan hỉ thông báo hai đứa chúng tôi.

Ông bây giờ chỉ tin vào Quỉ Ðỏ.
‘Tòa biu đinh này thì đầy Quỉ Ðỏ,’ ông tâm sự.
Người ta có thể nhìn thấy sừng và đuôi của chúng

Nếu bắt gặp chúng trong nhà tắm.
‘Cái đầu ông ta thì chìm vào Thời Ðen Tối rồi,' em nói.
‘Ai chứ?’, tôi hỏi nhưng không nghe trả lời

Con nhện đang giăng tơ, khởi sự làm cái lưới
Ở trên đầu chúng tôi. Thế giới thì yên tĩnh
Ngoại trừ khi một trong hai đứa chơi 1 ngụm vang.

*

Nửa khuya thức dậy
đọc lại Bếp Lửa
(thắp cây hương cho ngày giỗ thứ bảy TTT)
Đinh Cường (2)

THE DOVE

The dove brought news
of the end of the flood, an olive leaf
in her mouth, like a man holding a letter
in his mouth as he searches for something
with both hands
or like a girl holding pins
in her mouth as she repairs her dress.

- YehudaAmichai
(Translated, from the Hebrew, by Bernard Horn.)

Bồ Câu

Bồ Câu mang tin Lụt chấm dứt,
một cái lá olive ngậm trong mỏ,
như 1 người đàn ông ngậm lá thư trong miệng, và
kiếm một cái gì đó với cả hai tay
hay như một thiếu nữ ngậm kim
khi sửa chiếc áo dài.

LIGHTNESS IN AGE

It means not having to muscle your bag
Onto the baggage rack for the flight to Dublin.
A girl your daughter's age will do that for you.
It means the boy distributes the groceries justly
In your carry-alls so you'll make the car without spillage.
Those lightnesses are not to be taken lightly,
But more than those it's the many-faceted lightness
Of the goldfinch feathering down at morning,
The chickadee's darting blur for the one seed
He spirits away and devours discreetly,
And it's the tenderness of a long-known kiss
Touching your mouth or eyelid or anywhere
With this new lightness, its flickering back-lit by the glow
Of that consuming first one fifty years ago.

-Gibbons Ruark
 

The New Yorker, 18 March 2013

Gửi Đồng Xu

Lạnh và bão là cái đêm tôi dong buồm rời Montevideo
Và khi thuyền chúng tôi lượn vòng Cerro
Từ trên boong thuyền cao
Tôi thẩy 1 đồng xu xuống dòng nước bùn.
Lấp lánh, thoáng chốc,
Như một điểm sáng được thời gian và đêm đen đợp đánh ực một phát
Tôi cảm thấy mình phạm 1 hành động không làm sao thu hồi lại được
Thêm vào lịch sử của hành tinh
Hai chuỗi dài song song, chắc là vô tận:
Số phận của riêng tôi, được dệt bằng những âu lo, thảng thốt, tình yêu,
Và những bực bội cà chớn, vô ích
Và của đồng xu, một cái dĩa kim khí
Được dòng nước cuốn tới những vùng sâu thăm thẳm, trầm lắng
Hay là tới những những vùng biển xa vời vợi
Cho tới bây giờ vẫn còn loay loay với
Những gì còn lại của những sắc dân Saxon và Viking.
Bất cứ một khoảnh khắc của tôi, ngủ gà ngủ gật, hay thức thao láo
Thì đều xứng hợp với một khoảnh khắc của đồng xu đã mất dạng
Có những lúc tôi cảm thấy hối hận tràn trề
Như là cái lần tính bước xuống đường cho xe hơi cán
Ở bên ngoài khu Phước Lộc Thọ
Và những lúc khác, thì lại thèm muốn, ước ao
Em, Sad Seagull
Đang hiện hữu, như đôi ta đang hiện hữu, trong thời gian và mê cung của nó
Nhưng không biết điều này.

J.L. Borges

Borges viết về cái khoảnh khắc xém lên chuyến tàu suốt của GCC ở bên ngoài khu Phước Lộc Thọ:

The Suicide

Not a single star will be left in the night.
The night will not be left.
I will die and, with me,
the weight of the intolerable universe.
I shall erase the pyramids, the medallions,
the continents and faces.
I shall erase the accumulated past.
I shall make dust of history, dust of dust.
Now I am looking on the final sunset.
I am hearing the last bird.
I bequeath nothingness to no one.

-A.R.

Đi Xa

Đêm nay Gấu sẽ không cho phép ngôi sao nào được bỏ lại ở trên bầu trời
Đêm cũng đếch được bỏ lại
Gấu sẽ đi xa, và, cùng với Gấu
Là cái sức nặng đếch làm sao chịu đựng nổi của vũ trụ
Gấu sẽ xoá sạch những kim tự tháp
Những cái mề đay, nhất là cái của cái tên Nobel Toán người xứ Bắc Kít
Những đại lục, và những khuôn mặt.
Gấu sẽ xóa sạch quá khứ được tích tụ từ bốn ngàn năm của xứ Mít –
như vậy đủ rồi, với Gấu Cà Chớn –
Gấu sẽ làm cho lịch sử Mít biến thành bụi, bụi của bụi.
Và bi giờ, Gấu đối diện với buổi mặt trời lặn lần cuối cùng
Ở bên ngoài khu Phước Lộc Thọ, ở thủ đô lưu vong của giống Mít.
Gấu nghe tiếng chim cuối cùng
Gấu đếch thèm để lại chúc thư văn chương cho bất cứ thằng chó nào!

Hà, hà!



Đen

Một người da đen một khúc hát đen
Bầu trời đen sâu không cùng
Những giòng nước mắt
Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng giọng của máu của tủy của hồn bắt đầu ngày tháng
Giữa rừng không lời rừng mãi trống không
Ném mình ném đám đông vào trần truồng tủi cực hờn xác thịt
Tan vỡ hôm qua hôm nay kể gì ngày mai
Tội rằng không quên chẳng thể được quên
Vì Blues không xanh vì điệu Blues đen
Trên mầu da nức nở
Trong hộp đêm
Bắt đầu chảy máu thầm kín khóc cổ họng mình
Ngón tay cấu lấy ống kèn như bùa thiêng
Chọn ngoài thể xác ngoài thương yêu ngoài dữ tợn
Chọn thế giới va chạm những loài kim réo gọi
Thời gian mềm
Không gặp thời gian
Không gian quay thành những vòng kỷ niệm
Rồi một buổi nào Blues hiện về xanh. 

Thanh Tâm Tuyền: Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy

Tinh Thần Miền Nam (1)

W.J. Cash [1900-1941], viết cuốn sách độc nhất của đời mình, Linh Hồn Miền Nam, The Mind of The South, và tự sát ba tháng sau đó. Ông chẳng hề biết cuốn sách được hậu thế vồ vập như thế nào. Trong nhiều năm, hàng trăm đại học nghiên cứu nó, kể từ thập niên 1940. Vào những năm 1960, cuốn sách trở thành một thứ Di Chúc Của Miền Nam, nhưng Cash thực sự tin rằng, Miền Nam Không Có Linh Hồn, thay vì Linh Hồn, là Tính Khí.
Đây cũng là ý của Henry James: "Strickly, The Southerner had no mind; he had a temperament"....

Robert Fulford: The Spirit of the South, Queen's Quarterly, số Mùa Thu 2005

To a Coin

Cold and stormy the night I sailed from Montevideo.
As we rounded the Cerro,
I threw from the upper deck
a coin that glinted and winked out in the muddy water,
a gleam of light swallowed by time and darkness.
I felt I had committed an irrevocable act,
adding to the history of the planet
two endless series, parallel, possibly infinite:
my own destiny, formed from anxieties, love and futile upsets
and that of that metal disk
carried away by the water to the quiet depths
or to far-off seas that still wear down
the leavings of Saxon and Viking.
Any moment of mine, asleep or wakeful,
matches a moment of the sightless coin's.
At times I have felt remorse,
at others, envy
of you, existing, as we do, in time and its labyrinth,
but without knowing it.
-A.R.

J.L. Borges

Gửi Đồng Xu

Lạnh và bão là cái đêm tôi dong buồm rời Montevideo
Và khi thuyền chúng tôi lượn vòng Cerro
Từ trên boong thuyền cao
Tôi thẩy 1 đồng xu xuống dòng nước bùn.
Lấp lánh, thoáng chốc,
Như một điểm sáng được thời gian và đêm đen đợp đánh ực một phát
Tôi cảm thấy mình phạm 1 hành động không làm sao thu hồi lại được
Thêm vào lịch sử của hành tinh
Hai chuỗi dài song song, chắc là vô tận:
Số phận của riêng tôi, được dệt bằng những âu lo, thảng thốt, tình yêu,
Và những bực bội cà chớn, vô ích
Và của đồng xu, một cái dĩa kim khí
Được dòng nước cuốn tới những vùng sâu thăm thẳm, trầm lắng
Hay là tới những những vùng biển xa vời vợi
Cho tới bây giờ vẫn còn loay loay với
Những gì còn lại của những sắc dân Saxon và Viking.
Bất cứ một khoảnh khắc của tôi, ngủ gà ngủ gật, hay thức thao láo
Thì đều xứng hợp với một khoảnh khắc của đồng xu đã mất dạng
Có những lúc tôi cảm thấy hối hận tràn trề
Như là cái lần tính bước xuống đường cho xe hơi cán
Ở bên ngoài khu Phước Lộc Thọ
Và những lúc khác, thì lại thèm muốn, ước ao
Em, Sad Seagull
Đang hiện hữu, như đôi ta đang hiện hữu, trong thời gian và mê cung của nó
Nhưng không biết điều này.



*

Mặt Trời Lặn ở Fossoli

Tôi biết, nghĩa là gì, không trở về.
Qua những hàng rào kẽm gai
tôi nhìn thấy mặt trời xuống và chết
Và da thịt tôi như bị xé ra
Bởi những dòng thơ của một thi sĩ già:
“Mặt trời thì có thể lặn và mọc
Nhưng chúng tôi, ngược hẳn lại
Ngủ, sau 1 tí ánh sáng ngắn ngủi,
Một đêm dài ơi là dài”

Tháng Hai, 7, 1946
Primo Levi

Romania

Herodotus once said that
Our ancestors, the Tracs
Might have become all-powerful
If each did not against the other fight.

But for them, there was never
a desire for unity.
Gods in vain have told them to relent.
They have fought, and fight again.

We, descendants of their blood,
Have walked their roads for centuries.
But never, and nowhere
Have we found the healing flowers.

To argue is our way
as their cursed schemes remain.
We are wedded to the conflicts
That Herodotus knew well.

ALEXANDRU CETATEANU

Asia Literary Review. Winter 2009

ALEXANDRU CETATEANU was born in Romania, which he escaped during the Ceausescu regime to Canada where he now lives.
He edits Destine Literare and runs Scricorii Romani, an association of expatriate Romanian writers. Cerateanus published works include A Romanian in Canada (Helios, 1995), Canada- Country of Hyperboreans (Amim Ivireanul/Edition Langues et Cultures Européennes, 2004), and A Foreigner in America (Junimea, 2007).
ALEXANDRU CETATEANU gốc Romania, bỏ chạy quê hương, chuồn qua Canada.

Xứ Mít

Sử gia Ngô Sĩ Liên có lần phán
Giống Mít đúng ra là
Đả Biến Thiên Hạ Vô Địch Thủ
Nếu chúng đừng đâm chém lẫn nhau

Nhưng với lũ Mít
Chẳng hề có chuyện kết hợp thành 1 khối
Thần Thánh năn nỉ chúng hoài
Hãy tha thứ cho nhau, hãy thư thả,
Đừng giết nhau dữ quá,
Ít ít thì còn được!
Chúng đâu có chịu nghe.

Chúng ta, lũ hậu duệ của Con Rồng Cháu Tiên,
Không thể ở với nhau đời đời được
Có cái máu làm thịt lẫn nhau từ thời dựng nước
Và cứ tiếp tục con đường máu của tổ tiên để lại hoài

Tìm hoài, tìm hoài,
Chẳng bao giờ, và chẳng nơi đâu,
Những bông hoa chữa lành
Vết thương hình chữ S

Cái Xứ mình nó thế
Sử gia họ Ngô biết rất rành điều này
Hà, hà!

In the Library

For Octavio   

There’s a book called
”A Dictionary of Angels.”
No one has opened it in fifty years,
I know, because when I did,
The covers creaked, the pages
Crumbled. There I discovered

The angels were once as plentiful
As species of flies.
The sky at dusk
Used to be thick with them.
You had to wave both arms
Just to keep them away. 

Now the sun is shining
Through the tall windows.
The library is a quiet place.
Angels and gods huddled
In dark unopened books.
The great secret lies
On some shelf Miss Jones
Passes every day on her rounds.

She’s very tall, so she keeps
Her head tipped as if listening.
The books are whispering.
I hear nothing, but she does. 

Trong thư viện

Gửi Octavio

Có 1 cuốn sách kêu là
Từ điển thiên thần
Năm muơi năm không có ai đụng vô
Gấu biết, ấy là vì khi mở ra
Cái bìa kêu “cục” 1 phát,
Những trang giấy bở ra.
Và Gấu khám phá 

Thiên thần ngày xưa nhiều lắm
Như muỗi rừng Cà Mâu thời Miền Nam Sâu Thẳm
Vào buổi chiều, chúng bay đặc trời
Bạn phải lấy cả hai tay xua
Để chúng bỏ đi

Bây giờ, mặt trời chói chang
Qua những khung cửa sổ cao
Thư viện lặng lẽ
Thiên thần, thánh thần
Bèn chui vô những cuốn sách đóng kín, tối thui
Niềm bí ẩn lớn nằm
Trong kệ sách nào đó
Miss Jones mỗi ngày
Đi vòng vòng

Em cao ơi là cao
Em bèn cúi cái đầu
Như thể đang lắng nghe
Những cuốn sách thì thầm
Gấu chẳng nghe thấy cái chó gì hết!
Nhưng Em, nghe.
 

ARS POETICA

To look at the river made of time and water
And remember that time is another river,
To know that we are lost like the river
And that faces dissolve like water.

To be aware that waking dreams it is not asleep
While it is another dream, and that the death
That our flesh goes in fear of is that death
Which comes every night and is called sleep.

To see in the day or in the year a symbol
Of the days of man and of his years,
To transmute the outrage of the years
Into a music, a murmur of voices, and a symbol,

To see in death sleep, and in the sunset
A sad gold-such is poetry,
Which is immortal and poor. Poetry
Returns like the dawn and the sunset.

At times in the evenings a face
Looks at us out of the depths of a mirror;
Art should be like that mirror
Which reveals to us our own face.

They say that Ulysses, sated with marvels,
Wept tears of love at the sight of his Ithaca,
Green and humble. Art is that Ithaca
Of green eternity, not of marvels.

It is also like the river with no end
That flows and remains and is the mirror of one same
Inconstant Heraclitus, who is the same
And is another, like the river with no end.

-W.S.M.

J.L. Borges

ARS POETICA

Nhìn dòng sông dệt bằng thời gian và nước
Bèn ngộ ra thời gian là 1 dòng sông khác.
Và ngộ thêm ra rằng chúng mình thì cũng sẽ mất nhau, như dòng sông
Và khuôn mặt đôi ta rã ra như là nước

Và để ý rằng thì là, những giấc mộng thức, thì không phải là ngủ
Nó là một giấc mộng khác,
Rằng cái chết,
Cái chết mà xác thịt chúng ta sợ hãi nó,
Là cái chết hàng đêm chúng ta quen gọi là giấc ngủ. 

Là nhìn ra, trong ngày, hoặc trong năm, một biểu tượng
Của những ngày của người, và những năm của nó
Thế là bèn chuyển hóa cơn giận dữ của những năm
Vào âm nhạc, vào tiếng thì thầm, vào một biểu tượng

Để nhìn ra trong giấc ngủ sâu như cái chết, trong hoàng hôn,
Một nỗi buồn vàng – và cái đó gọi là thơ ca của Miền Nam, là nhạc sến
Nó thì mới bất tử, và nghèo nàn làm sao. Thơ
Trở lại như rạng đông và hoàng hôn.

Có những lúc vào buổi chiều, một khuôn mặt
Nhìn chúng ta từ những chiều sâu thăm thẳm của 1 chiếc gương
Nghệ thuật thì như thế đấy,
Như tấm gương đó
Nó vén lên, như 1 em vén váy, làm lộ ra cho chúng ta,
Bộ mặt riêng của chúng ta
Một bướm đẹp tuyệt trần

Người ta nói là Anh Cu Gấu,
Chán chường những điều huyền diệu của tụi mũi lõ,
Và quá tởm Lò Thiêu
Khóc những giọt nước mắt thương yêu khi nhìn thấy Xề Gòn
Xanh vô cùng, khiêm tốn vô cùng
Nghệ thuật là Xề Gòn đó
Xề Gòn của Niềm Xanh Vĩnh Cửu.
Đếch phải những huyền diệu, kỳ tích.

Nó cũng là dòng sông chẳng tận cùng
Trôi đi và ở lại và là tấm gương của vẫn một
Heraclitus không hằng hằng,
Kẻ vẫn thế,
Và kẻ khác,
Như dòng sông không tận cùng.

ELEGY

Three very ancient faces stay with me:
one is the Ocean, which would talk with Claudius,
another the North, with its unfeeling temper,
savage both at sunrise and at sunset;
the third is Death, that other name we give
to passing time, which wears us all away.
The secular burden of those yesterdays
from history which happened or was dreamed,
oppresses me as personally as guilt.
I think of the proud ship, carrying back
to sea the body of Scyld Sceaving,
who ruled in Denmark underneath the sky;
I think of the great wolf, whose reins were serpents,
who lent the burning boat the purity
and whiteness of the beautiful dead god;
I think of pirates too, whose human flesh
is scattered through the slime beneath the weight
of waters which were ground for their adventures;
I think of mausoleums which the sailors
saw in the course of Northern odysseys.
I think of my own death, my perfect death,
without a funeral urn, without a tear.

-A.R.

J.L. Borges

Bi Khúc

Có những khuôn mặt từ đời nào đời nảo
Ở hoài với tôi:
Một là Đại Dương, lèm bèm hoài với Claudius
Cái nữa, là Miền Bắc, với cái tính khí cà chớn của nó,
hung dữ, man rợ, cả vào rạng đông cũng như hoàng hôn
Cái nữa, là, Thần Chết,
Một cái tên khác mà chúng ta ban cho
Thời gian,
Nó lẵng nhẳng như đỉa đói, có bao giờ tha làm phiền chúng ta đâu?
[Kiếp trước mi đúng là con đỉa
Như 1 nữ thi sĩ mắng Gấu Cà Chớn
Nên kiếp này mi làm phiền ta hoài,
Ta bận chồng, bận con
Bận làm thơ,
Đâu có thì giờ dành cho mi]
Cái gánh nặng trường kỳ của những ngày hôm qua
của lịch sử, xẩy ra, hoặc, mơ xẩy ra.
Chúng đè dí tôi xuống, riêng tư, cá nhân, như là tội lỗi.


Beckett, portrait

"THE USES OF POETRY"
by Anne Atik
FOR S.B. (13 APRIL 1906-22 DECEMBER 1989)

I 

A Bible-reading man, he came and left
between two holy days he didn't much observe:
the Good Friday of his birth, near the Christmas of his death.
His life between, a pilgrim's progress with a smile
for what he saw along the way and wrote of,
oversleeping, age and hope and sloth.
Then saw, and wrote of, wrenched along the way,
age and hope and helpless weeping. But
he would have, reading those two states, rejected both
as most remotely holding but one part
or more than minute dose
of the inexpressible, whole truth
of how it is, it was.

II

He showed the shortest way to get across
a line like this:
crossed out such words as these to get to
speechlessness.
He crossed out rivers to get to their stones.
To get to the bottom, when the crisis is reached
and truth-telling begins.
Whatever he knew he knew to music.
He found the pace for misery,
matched distress to syncope, and joke
to a Beethoven stop at the punch line.
But thought that he'd failed to find failure's pulse.
What that says about failure,
music and us.