The Devils
You were a 'victim of
semiromantic anarchism
In its most irrational form.'
I was 'ill at ease in an ambiguous world
Deserted by Providence.'
We drank wine
And made love in the afternoon.
The neighbors' TVS were tuned to soap operas.
The unhappy couples spoke
little.
There were interminable pauses.
Soft organ music. Someone coughing.
'It's like Strindberg's Dream Play,' you said.
'What is?' I asked and got no reply.
I was watching a spider on the ceiling.
It was the kind St
Veronica ate in her martyrdom.
'That woman subsisted on spiders only,'
I told the janitor when he came to fix the faucet.
He wore dirty overalls and
a derby hat.
Once he had been an inmate of a notorious state institution.
'I'm no longer Jesus,' he informed us happily.
He believed only in devils
now.
'This building is full of them,' he confided.
One could see their horns and tails
If one caught them in
their baths.
'He's got Dark Ages on his brain,' you said.
'Who does?' I asked and got no reply.
The spider had the
beginnings of a web
Over our heads. The world was quiet
Except
when one of us took a sip of wine
Những
Con Quỉ
Em là ‘nạn nhân của chủ
nghĩa vô chính phủ nửa lãng mạn,
Trong cái hình thức phi lý nhất của nó.’
Còn anh thì ‘chẳng thích thú gì ở trong một thế giới hàm hồ
Bị Chúa bỏ rơi.’ Chúng tôi
uống rượu vang
Và làm tình vào buổi chiều
TV hàng xóm thì đang chiếu chương trình soap operas.
Cặp tình nhân bất hạnh coi
bộ ít nói.
Có những khúc nghỉ kéo dài.
Nhạc organ nhẹ. Một người nào đó ho.
‘Thật giống như trong Kịch
Mơ của Strindberg,’ em nói.
‘Cái gì?’ tôi hỏi, nhưng không nghe trả lời.
Tôi ngắm một con nhện ở trên trần nhà.
Giống St Veronica ăn,
trong cái xen tuẫn nạn của bà.
‘Người đàn bà đó chỉ tồn tại nhờ mấy con nhện,’
Tôi nói với người coi nhà, khi ông ta tới để sửa cái vòi nước.
Ông ta mặc cái áo ngoài dơ
dáy và đội một cái nón quả dưa.
Ông đã có thời ở trong nhà thương điên Biên Hòa nổi tiếng.
‘Tớ hết còn là Ðấng Cứu Thế,’ ông hoan hỉ thông báo hai đứa chúng tôi.
Ông bây giờ chỉ tin vào
Quỉ Ðỏ.
‘Tòa biu đinh này thì đầy Quỉ Ðỏ,’ ông tâm sự.
Người ta có thể nhìn thấy sừng và đuôi của chúng
Nếu bắt gặp chúng trong
nhà tắm.
‘Cái đầu ông ta thì chìm vào Thời Ðen Tối rồi,' em nói.
‘Ai chứ?’, tôi hỏi nhưng không nghe trả lời
Con nhện
đang giăng tơ, khởi sự làm cái lưới
Ở trên đầu chúng tôi. Thế giới thì yên tĩnh
Ngoại trừ khi một trong hai đứa chơi 1 ngụm vang.
Gửi Đồng Xu
Lạnh và
bão là
cái đêm tôi dong buồm rời Montevideo
Và khi
thuyền
chúng tôi lượn vòng Cerro
Từ trên
boong
thuyền cao
Tôi thẩy
1 đồng
xu xuống dòng nước bùn.
Lấp lánh,
thoáng chốc,
Như một
điểm
sáng được thời gian và đêm đen đợp đánh ực một phát
Tôi cảm
thấy
mình phạm 1 hành động không làm sao thu hồi lại được
Thêm vào
lịch
sử của hành tinh
Hai chuỗi
dài song song, chắc là vô tận:
Số phận
của
riêng tôi, được dệt bằng những âu lo, thảng thốt, tình yêu,
Và những
bực bội
cà chớn, vô ích
Và của
đồng
xu, một cái dĩa kim khí
Được dòng
nước
cuốn tới những vùng sâu thăm thẳm, trầm lắng
Hay là
tới
những những vùng biển xa vời vợi
Cho tới
bây
giờ vẫn còn loay loay với
Những gì
còn lại của những sắc dân Saxon và Viking.
Bất cứ
một
khoảnh khắc của tôi, ngủ gà ngủ gật, hay thức thao láo
Thì đều
xứng
hợp với một khoảnh khắc của đồng xu đã mất dạng
Có những
lúc
tôi cảm thấy hối hận tràn trề
Như là
cái lần
tính bước xuống đường cho xe hơi cán
Ở bên
ngoài
khu Phước Lộc Thọ
Và những
lúc khác, thì lại thèm muốn, ước ao
Em, Sad
Seagull
Đang hiện
hữu,
như đôi ta đang hiện hữu, trong thời gian và mê cung của nó
Nhưng
không
biết điều này.
J.L. Borges
Borges viết
về cái khoảnh khắc xém lên chuyến tàu suốt của GCC ở bên ngoài khu
Phước Lộc Thọ:
The Suicide
Not a single
star will be left in the night.
The night
will not be left.
I will die
and, with me,
the weight
of the intolerable universe.
I shall
erase the pyramids, the medallions,
the
continents and faces.
I shall
erase the accumulated past.
I shall make
dust of history, dust of dust.
Now I am
looking on the final sunset.
I am hearing
the last bird.
I bequeath
nothingness to no one.
-A.R.
Đi Xa
Đêm nay Gấu
sẽ không cho phép ngôi sao nào được bỏ lại ở trên bầu trời
Đêm cũng đếch
được bỏ lại
Gấu sẽ đi xa,
và, cùng với Gấu
Là cái sức nặng
đếch làm sao chịu đựng nổi của vũ trụ
Gấu sẽ xoá sạch
những kim tự tháp
Những cái mề
đay, nhất là cái của cái tên Nobel Toán người xứ Bắc Kít
Những
đại lục, và những khuôn mặt.
Gấu sẽ xóa sạch
quá khứ được tích tụ từ bốn ngàn năm của xứ Mít –
như vậy đủ rồi, với
Gấu Cà Chớn
–
Gấu sẽ làm cho lịch
sử Mít biến thành bụi, bụi của bụi.
Và bi giờ, Gấu
đối diện với buổi mặt trời lặn lần cuối cùng
Ở bên
ngoài khu Phước Lộc Thọ, ở thủ đô lưu vong của giống Mít.
Gấu nghe tiếng chim cuối cùng
Gấu đếch thèm
để lại chúc thư văn chương cho bất cứ thằng chó nào!
Hà, hà!
Đen
Một người da
đen một khúc hát đen
Bầu trời đen
sâu không cùng
Những giòng
nước mắt
Xé nát thân
thể bằng tiếng kèn đồng
Bằng giọng của
máu của tủy của hồn bắt đầu ngày tháng
Giữa rừng
không lời rừng mãi trống không
Ném mình ném
đám đông vào trần truồng tủi cực hờn xác thịt
Tan vỡ hôm
qua hôm nay kể gì ngày mai
Tội rằng
không quên chẳng thể được quên
Vì Blues
không xanh vì điệu Blues đen
Trên mầu da
nức nở
Trong hộp
đêm
Bắt đầu chảy
máu thầm kín khóc cổ họng mình
Ngón tay cấu
lấy ống kèn như bùa thiêng
Chọn ngoài
thể xác ngoài thương yêu ngoài dữ tợn
Chọn thế giới
va chạm những loài kim réo gọi
Thời gian mềm
Không gặp thời
gian
Không gian
quay thành những vòng kỷ niệm
Rồi một buổi
nào Blues hiện về xanh.
Thanh Tâm
Tuyền: Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy
Tinh Thần Miền
Nam (1)
W.J. Cash
[1900-1941], viết cuốn sách độc nhất của đời mình, Linh Hồn Miền Nam, The Mind
of The South, và tự sát ba tháng sau đó. Ông chẳng hề biết cuốn
sách được hậu
thế vồ vập như thế nào. Trong nhiều năm, hàng trăm đại học nghiên cứu
nó, kể từ
thập niên 1940. Vào những năm 1960, cuốn sách trở thành một thứ Di Chúc
Của Miền
Nam, nhưng Cash thực sự tin rằng, Miền Nam Không Có Linh Hồn, thay vì
Linh Hồn,
là Tính Khí.
Đây cũng là ý của
Henry James: "Strickly, The Southerner had no mind; he had a
temperament"....
Robert
Fulford: The Spirit of the South,
Queen's Quarterly, số Mùa Thu 2005
To a Coin
Cold and
stormy the night I sailed from Montevideo.
As we
rounded the Cerro,
I threw from
the upper deck
a coin that
glinted and winked out in the muddy water,
a gleam of
light swallowed by time and darkness.
I felt I had
committed an irrevocable act,
adding to
the history of the planet
two endless
series, parallel, possibly infinite:
my own
destiny, formed from anxieties, love and futile upsets
and that of
that metal disk
carried away
by the water to the quiet depths
or to
far-off seas that still wear down
the leavings
of Saxon and Viking.
Any moment
of mine, asleep or wakeful,
matches a
moment of the sightless coin's.
At times I
have felt remorse,
at others,
envy
of you,
existing, as we do, in time and its labyrinth,
but without
knowing it.
-A.R.
J.L. Borges
Gửi Đồng Xu
Lạnh và bão là
cái đêm tôi dong buồm rời Montevideo
Và khi thuyền
chúng tôi lượn vòng Cerro
Từ trên boong
thuyền cao
Tôi thẩy 1 đồng
xu xuống dòng nước bùn.
Lấp lánh,
thoáng chốc,
Như một điểm
sáng được thời gian và đêm đen đợp đánh ực một phát
Tôi cảm thấy
mình phạm 1 hành động không làm sao thu hồi lại được
Thêm vào lịch
sử của hành tinh
Hai chuỗi dài song song, chắc là vô tận:
Số phận của
riêng tôi, được dệt bằng những âu lo, thảng thốt, tình yêu,
Và những bực bội
cà chớn, vô ích
Và của đồng
xu, một cái dĩa kim khí
Được dòng nước
cuốn tới những vùng sâu thăm thẳm, trầm lắng
Hay là tới
những những vùng biển xa vời vợi
Cho tới bây
giờ vẫn còn loay loay với
Những gì còn lại của những sắc dân Saxon và Viking.
Bất cứ một
khoảnh khắc của tôi, ngủ gà ngủ gật, hay thức thao láo
Thì đều xứng
hợp với một khoảnh khắc của đồng xu đã mất dạng
Có những lúc
tôi cảm thấy hối hận tràn trề
Như là cái lần
tính bước xuống đường cho xe hơi cán
Ở bên ngoài
khu Phước Lộc Thọ
Và những
lúc khác, thì lại thèm muốn, ước ao
Em, Sad
Seagull
Đang hiện hữu,
như đôi ta đang hiện hữu, trong thời gian và mê cung của nó
Nhưng không
biết điều này.
Mặt Trời Lặn
ở Fossoli
Tôi biết, nghĩa là gì,
không trở về.
Qua những
hàng rào kẽm gai
tôi nhìn
thấy
mặt trời xuống và chết
Và da
thịt tôi như bị xé ra
Bởi những
dòng thơ của một thi sĩ già:
“Mặt trời
thì có thể lặn và mọc
Nhưng
chúng tôi, ngược hẳn lại
Ngủ, sau
1 tí ánh sáng ngắn ngủi,
Một đêm
dài ơi là dài”
Tháng Hai,
7, 1946
Primo Levi
Romania
Herodotus
once said that
Our
ancestors, the Tracs
Might have
become all-powerful
If each did
not against the other fight.
But for
them, there was never
a desire for
unity.
Gods in vain
have told them to relent.
They have
fought, and fight again.
We,
descendants of their blood,
Have walked
their roads for centuries.
But never,
and nowhere
Have we
found the healing flowers.
To argue is
our way
as their
cursed schemes remain.
We are
wedded to the conflicts
That
Herodotus knew well.
ALEXANDRU
CETATEANU
Asia Literary Review. Winter 2009
ALEXANDRU
CETATEANU was
born in Romania, which he escaped during the Ceausescu regime to
Canada where he now lives.
He edits Destine Literare and runs Scricorii
Romani, an association of expatriate Romanian writers. Cerateanus
published
works include A Romanian in Canada
(Helios, 1995), Canada- Country of Hyperboreans (Amim
Ivireanul/Edition Langues et Cultures
Européennes, 2004), and A Foreigner in America
(Junimea, 2007).
ALEXANDRU
CETATEANU gốc Romania, bỏ chạy quê hương, chuồn qua Canada.
Xứ Mít
Sử gia Ngô
Sĩ Liên có lần phán
Giống Mít
đúng ra là
Đả Biến
Thiên Hạ Vô Địch Thủ
Nếu chúng đừng
đâm chém lẫn nhau
Nhưng với lũ
Mít
Chẳng hề có
chuyện kết hợp thành 1 khối
Thần Thánh
năn nỉ chúng hoài
Hãy tha thứ
cho nhau, hãy thư thả,
Đừng giết
nhau dữ quá,
Ít ít thì
còn được!
Chúng đâu có
chịu nghe.
Chúng ta, lũ
hậu duệ của Con Rồng Cháu Tiên,
Không thể ở
với nhau đời đời được
Có cái máu
làm thịt lẫn nhau từ thời dựng nước
Và cứ tiếp tục
con đường máu của tổ tiên để lại hoài
Tìm hoài,
tìm hoài,
Chẳng bao giờ,
và chẳng nơi đâu,
Những bông
hoa chữa lành
Vết thương
hình chữ S
Cái Xứ mình
nó thế
Sử gia họ
Ngô biết rất rành điều này
Hà, hà!
In the
Library
For Octavio
There’s a
book called
”A
Dictionary of Angels.”
No one has
opened it in fifty years,
I know,
because when I did,
The covers
creaked, the pages
Crumbled.
There I discovered
The angels
were once as plentiful
As species
of flies.
The sky at
dusk
Used to be
thick with them.
You had to
wave both arms
Just to keep
them away.
Now the sun
is shining
Through the
tall windows.
The library
is a quiet place.
Angels and
gods huddled
In dark
unopened books.
The great
secret lies
On some
shelf Miss Jones
Passes every
day on her rounds.
She’s very
tall, so she keeps
Her head
tipped as if listening.
The books
are whispering.
I hear
nothing, but she does.
Trong thư viện
Gửi Octavio
Có 1 cuốn sách
kêu là
Từ điển thiên
thần
Năm muơi năm
không có ai đụng vô
Gấu biết, ấy
là vì khi mở ra
Cái bìa kêu “cục”
1 phát,
Những trang
giấy bở ra.
Và Gấu khám
phá
Thiên thần
ngày xưa nhiều lắm
Như muỗi rừng
Cà Mâu thời Miền Nam Sâu Thẳm
Vào buổi chiều,
chúng bay đặc trời
Bạn phải lấy
cả hai tay xua
Để chúng bỏ đi
Bây giờ, mặt
trời chói chang
Qua những khung
cửa sổ cao
Thư viện lặng
lẽ
Thiên thần, thánh
thần
Bèn chui vô
những cuốn sách đóng kín, tối thui
Niềm bí ẩn lớn
nằm
Trong kệ sách
nào đó
Miss Jones mỗi
ngày
Đi vòng vòng
Em cao ơi là cao
Em
bèn cúi cái đầu
Như thể đang
lắng nghe
Những cuốn sách
thì thầm
Gấu chẳng
nghe thấy cái chó gì hết!
Nhưng Em,
nghe.
ARS POETICA
To look at
the river made of time and water
And remember
that time is another river,
To know that
we are lost like the river
And that
faces dissolve like water.
To be aware
that waking dreams it is not asleep
While it is
another dream, and that the death
That our
flesh goes in fear of is that death
Which comes
every night and is called sleep.
To see in
the day or in the year a symbol
Of the days
of man and of his years,
To transmute
the outrage of the years
Into a
music, a murmur of voices, and a symbol,
To see in
death sleep, and in the sunset
A sad
gold-such is poetry,
Which is
immortal and poor. Poetry
Returns like
the dawn and the sunset.
At times in
the evenings a face
Looks at us
out of the depths of a mirror;
Art should
be like that mirror
Which
reveals to us our own face.
They say
that Ulysses, sated with marvels,
Wept tears
of love at the sight of his Ithaca,
Green and
humble. Art is that Ithaca
Of green
eternity, not of marvels.
It is also
like the river with no end
That flows
and remains and is the mirror of one same
Inconstant
Heraclitus, who is the same
And is
another, like the river with no end.
-W.S.M.
J.L. Borges
ARS POETICA
Nhìn dòng sông
dệt bằng thời gian và nước
Bèn ngộ ra
thời gian là 1 dòng sông khác.
Và ngộ thêm ra
rằng chúng mình thì cũng sẽ mất nhau, như dòng
sông
Và khuôn mặt
đôi ta rã ra như là nước
Và để ý rằng
thì là, những giấc mộng thức, thì không phải là ngủ
Nó là một
giấc mộng khác,
Rằng cái chết,
Cái chết mà
xác thịt chúng ta sợ hãi nó,
Là cái chết hàng
đêm chúng ta quen gọi là giấc ngủ.
Là nhìn ra,
trong ngày, hoặc trong năm, một biểu tượng
Của những ngày của người, và những năm của nó
Thế là bèn
chuyển hóa cơn giận dữ của những năm
Vào âm nhạc,
vào tiếng thì thầm, vào một biểu tượng
Để nhìn ra
trong giấc ngủ sâu như cái chết, trong hoàng hôn,
Một nỗi buồn
vàng – và cái đó gọi là thơ ca của Miền Nam, là nhạc sến
Nó thì mới bất
tử, và nghèo nàn làm sao. Thơ
Trở lại như
rạng đông và hoàng hôn.
Có những lúc
vào buổi chiều, một khuôn mặt
Nhìn chúng
ta từ những chiều sâu thăm thẳm của 1 chiếc gương
Nghệ thuật
thì như thế đấy,
Như tấm gương
đó
Nó vén lên,
như 1 em vén váy, làm lộ ra cho chúng ta,
Bộ mặt riêng của chúng ta
Một bướm đẹp
tuyệt trần
Người ta nói
là Anh Cu Gấu,
Chán chường những điều huyền diệu của tụi mũi lõ,
Và quá tởm Lò Thiêu
Khóc những
giọt nước mắt thương yêu khi nhìn thấy Xề Gòn
Xanh vô cùng, khiêm tốn vô cùng
Nghệ thuật là
Xề Gòn đó
Xề Gòn của
Niềm Xanh Vĩnh Cửu.
Đếch phải những huyền diệu, kỳ tích.
Nó cũng là dòng
sông chẳng tận cùng
Trôi đi và ở
lại và là tấm gương của vẫn một
Heraclitus
không hằng hằng,
Kẻ vẫn thế,
Và kẻ khác,
Như dòng sông
không tận cùng.
ELEGY
Three very
ancient faces stay with me:
one is the
Ocean, which would talk with Claudius,
another the
North, with its unfeeling temper,
savage both
at sunrise and at sunset;
the third is
Death, that other name we give
to passing
time, which wears us all away.
The secular
burden of those yesterdays
from history
which happened or was dreamed,
oppresses me
as personally as guilt.
I think of
the proud ship, carrying back
to sea the
body of Scyld Sceaving,
who ruled in
Denmark underneath the sky;
I think of
the great wolf, whose reins were serpents,
who lent the
burning boat the purity
and
whiteness of the beautiful dead god;
I think of
pirates too, whose human flesh
is scattered
through the slime beneath the weight
of waters
which were ground for their adventures;
I think of
mausoleums which the sailors
saw in the
course of Northern odysseys.
I think of
my own death, my perfect death,
without a
funeral urn, without a tear.
-A.R.
J.L. Borges
Bi Khúc
Có những khuôn
mặt từ đời nào đời nảo
Ở hoài với tôi:
Một là Đại Dương,
lèm bèm hoài với Claudius
Cái nữa, là
Miền Bắc, với cái tính khí cà chớn của nó,
hung dữ, man rợ, cả vào rạng đông cũng
như hoàng hôn
Cái nữa, là,
Thần Chết,
Một cái tên
khác mà chúng ta ban cho
Thời gian,
Nó
lẵng nhẳng như đỉa đói, có bao giờ tha làm phiền chúng ta đâu?
[Kiếp trước
mi đúng là con đỉa
Như 1 nữ thi
sĩ mắng Gấu Cà Chớn
Nên kiếp này
mi làm phiền ta hoài,
Ta bận chồng,
bận con
Bận làm thơ,
Đâu có thì
giờ dành cho mi]
Cái gánh nặng
trường kỳ của những ngày hôm qua
của lịch sử,
xẩy ra, hoặc, mơ xẩy ra.
Chúng đè dí
tôi xuống, riêng tư, cá nhân, như là tội lỗi.
Beckett,
portrait
"THE
USES OF POETRY"
by Anne Atik
FOR S.B. (13
APRIL 1906-22 DECEMBER 1989)
I
A
Bible-reading man, he came and left
between two
holy days he didn't much observe:
the Good
Friday of his birth, near the Christmas of his death.
His life
between, a pilgrim's progress with a smile
for what he
saw along the way and wrote of,
oversleeping,
age and hope and sloth.
Then saw,
and wrote of, wrenched along the way,
age and hope
and helpless weeping. But
he would
have, reading those two states, rejected both
as most
remotely holding but one part
or more than
minute dose
of the
inexpressible, whole truth
of how it
is, it was.
II
He showed
the shortest way to get across
a line like
this:
crossed out
such words as these to get to
speechlessness.
He crossed
out rivers to get to their stones.
To get to
the bottom, when the crisis is reached
and
truth-telling begins.
Whatever he
knew he knew to music.
He found the
pace for misery,
matched
distress to syncope, and joke
to a
Beethoven stop at the punch line.
But thought
that he'd failed to find failure's pulse.
What that
says about failure,
music and
us.