The Rain
The
afternoon grows light because at last
Abruptly a
minutely shredded rain
Is falling,
or it fell. For once again
Rain is
something happening in the past.
Whoever
hears it fall has brought to mind
Time when by
a sudden lucky chance
A flower
called “rose” was open to his glance
And the
curious color of the colored kind.
This rain
that blinds the windows with its mists
Will gladden
in suburbs no more to be found
The black
grapes on a vine there overhead
In a certain
patio that no longer exists.
And the
drenched afternoon brings back the sound
How longed
for, of my father’s voice, not dead.
[From Dreamtigers,
by Jorge Luis Borges,
translated by Harold Morland]
LA PLUIE
Brusquement
s'éclaircit le ciel embarrassé :
II pleut enfin.
Le flot minutieux arrose
Ma rue. Ou
l'arrosa. La pluie est une chose
En quelque
sorte qui survient dans le passé.
Je l'écoute;
à sa voix, dans le soir remplacé,
Tout un
temps bienheureux s'entrouvre et se propose:
Le temps qui
m'enseigna le parfum de la rose
Et l'étrange
couleur du rouge courroucé.
La rafale
qui bat aux vitres aveuglées
Rejouira les
noirs raisins et les allées
Poudreuses
d'un jardin qui n'est plus, vers le bord
Indécis d'un
faubourg. A travers la durée,
L'heure humide
m'apporte une voix desirée :
Mon pere est
là, qui revient et qui n'est pas mort.
Ibarra
LEONARD
NATHAN
Erotic imagination and
disinterested
care-how can we separate them? In any case, it is difficult to do so in
this
poem, the author of which is my colleague and co translator Leonard
Nathan, who
lives in Berkeley.
Czeslaw
Milosz
TOAST
There was a
woman in Ithaca
who cried
softly all night
in the next
room and helpless
I fell in
love with her under the blanket
of snow that
settled on all the roofs
of the town,
filling up
every dark
depression.
Next morning
in the motel
coffee shop
I studied
all the made-up faces
of women.
Was it the middle-aged blonde
who kidded
the waitress
or the young
brunette lifting
her cup like
a toast?
Love,
whoever you are,
your courage
was my companion
for many
cold towns
after the
betrayal of Ithaca,
and when I
order coffee
in a strange
place, still
I say,
lifting, this is for you.
Is it
appropriate or inappropriate! Perhaps it's appropriate, since the poet,
Leonard
Nathan,
wrote and published it; and in spite of its john8 form, this is a
serious
poem,
sufficiently complex in its thou8ht to discoura8e us from retellin8 it
in our
own words.
BLADDER SONG
On a piece
of toilet paper
Afloat in
the un-flushed piss,
The fully
printed lips of a woman.
Nathan,
cheer up! The sewer
Sends you a big
red kiss.
Ah,
nothing's wasted, if it's human.
WALT WHITMAN
1819-1892
Walt Whitman
had avid eyes. He wanted to see everything, to memorize everything, and
to
enclose it all in his poems. But he remains for us primarily a poet of
great heart,
of all-embracing love, which fuses its varieties into one love, erotic,
but
also compassionate, protective, and marveling at everything great and
magnificent in man. This aspect of his poetry prompted me to place
several
fragments of his oeuvre in this chapter.
Some Civil
War poems of Whitman's should be placed here, because they are the most
direct
in invoking the dead of that war.
Czeslaw Milosz
A SIGHT IN
CAMP IN THE DAYBREAK
GRAY AND DIM
A sight in
camp in the daybreak gray and dim,
As from my
tent I emerge so early sleepless,
As slow I
walk in the cool fresh air the path near by the
hospital
tent,
Three forms
I see on stretchers lying, brought out there
untended
lying,
Over each
the blanket spread, ample brownish woolen blanket,
Gray and
heavy blanket, folding, covering all.
Curious I
halt and silent stand,
Then with
light fingers I from the face of the nearest the first
just lift
the blanket;
Who are you
elderly man so gaunt and grim, with well-
gray'd hair,
and flesh all sunken about the eyes?
Who are you
my dear comrade?
Then to the
second I step-and who are you my child and
darling?
Who are you
sweet boy with cheeks yet blooming?
Then to the
third-a face nor child nor old, very calm, as of
beautiful
yellow-white ivory;
Young man I
think I know you-I think this face is the face of the
Christ himself,
Dead and
divine and brother of all, and here again he lies.
Borges at 80
10
The
Nightmare, That Tiger of the Dream
Indiana
University,
April 1980
I am often
haunted by nightmare.
And I feel
that were I a theologian-happily
I am not-I
might find an argument in
favor of
hell. . . . The nightmare has a
peculiar
horror to it. The nightmare, that
tiger of the
dream.
WILLIS
BARNSTONE: In the years that we have known each other we have
spoken almost exclusively about poetry.
JORGE LUIS
BORGES: Yes. It's the only subject, really.
BARNSTONE: A
few days ago when we took a plane in New York,myou asked
what the name of the airline was, and I said 1W A. You asked what that
stood for, and I said Trans World Airlines. Do you remember what you
said?
BORGES: Yes.
I said that that stood for Walt Whitman Trans World.
He would
have enjoyed that.
Ainsi Lisait Borges
Người
ta có thể đọc « cả 1 thư viện » của thế gian, nhưng vẫn là 1 tên vô
học. Nhưng nếu chỉ vô tư ‘chơi’ một, hoặc hai câu, mà thôi, và thế là
thành 1 tay uyên bác.
Tuyệt !
GNV có lần được 1 độc giả, trên 1 blog [không phải TV] khen,
đọc hết cõi văn Tây !
Đa tạ, nhưng không phải vậy.
GNV này, nếu nói về đọc văn người, Ta hay Tây, thì, như TTT viết về nhà
văn nhà thơ Mít, "hết thời thanh xuân là... thôi", cái đọc của Gấu chấm
dứt, sau khi VC ăn cướp được Miền Nam!
Muốn đọc nữa, cũng chịu thua!
Cặn kẽ hơn, nó chấm dứt trước đó, với Camus, và Faulkner.
Từ khi ra hải ngoại, Gấu chưa hề có diễm phúc được đọc, hay đọc được,
chỉ 1 tác phẩm văn chương, do trúng 1 cú rìu phá băng của… Steiner, và
vì cú đó, khám phá ra Lò Thiêu, rồi bị 1 đòn hồi mã thương, tức cú đánh
quật ngược lại, và nhờ cú này, khám phá ra Lò Cải Tạo.
Bị trúng hai búa khủng khiếp như thế, không bị THNM, là nhờ... BHD.
Một độc giả TV đã nhận ra điều này, khi phán, ngoài những trang về BHD,
còn lại là đen thui !
Chỉ chừng 1 năm nay, GNV mới lại có lại được cái thú đọc văn, và như để
đền bù, ông Trời còn cho phép Gấu làm được tí thơ, và đọc được Thơ!
Anticipation
of love
Neither the
intimacy of your look, your brow fair as
a feast day,
nor the
favor of your body, still mysterious, reserved,
and
childlike,
nor what
comes to me of your life, settling in words
or silence,
will be so
mysterious a gift
as the sight
of your sleep, enfolded
in the vigil
of my arms.
Virgin
again, miraculously, by the absolving power of
sleep,
quiet and
luminous like some happy thing recovered
by memory,
you will
give me that shore of your life that you
yourself do
not own.
Cast up into
silence
I shall
discern that ultimate beach of your being
and see you
for the first time, perhaps,
as God must
see you-
the fiction
of Time destroyed,
free from
love, from me.
[Robert Fitzgerald]
J.L. Borges: Selected Poems
1923-1967
A Bilingual ed
by Norman Thomas Di Giovanni
Đường vào tình
yêu
Không phải vẻ
thân mật, riêng tư của cái nhìn, cặp lông mi ngày hội của em
Không phải mùi
cơ thể của em, tuy vưỡn bí hiểm, vưỡn dành riêng cho anh, và vưỡn muôn
đời trẻ
thơ
Không phải điều
đến với anh, từ em, bằng lời, hay bằng im lặng
Sẽ cực kỳ bí
ẩn, như một món quà
Khi nhìn thấy
em ngủ,
Cuộn tròn,
thánh thiện, như thiên thần, như thánh nữ - của bạn Cà - trong tay anh
Thánh nữ,
again, như lời kinh, bằng cái quyền uy
thấm nhập của giấc ngủ
lặng lẽ,
long lanh, như một điều “gọi là” hạnh phúc, được tìm thấy lại, từ hồi
nhớ
Em sẽ cho
anh bến bờ đó của đời em, mà em, chính em, không sở hữu.
Nhập vào im
lặng
Anh sẽ nhận
ra bãi biển tối hậu của sự hiện hữu là em
Và sẽ nhìn
thấy em lần đầu, có lẽ,
Như Ông Giời
phải, bắt buộc phải, chiêm ngưỡng em, như thế -
Giả tưởng của
Thời Gian bị hủy diệt
Vô tư thoát
ra khỏi tình yêu
Thoát ra khỏi
anh.
Iosip
Brodsky
Russian
1940-1996
THE MONUMENT
Let us set
up a monument
in the city,
at the end of the long avenue,
or at the
center of the big square,
a monument
that will
stand out against any background
because it
will be
quite well
built and very realistic.
Let us set
up a monument
that will
not disturb anybody.
We will
plant flowers
around the
pedestal
and with the
permission of the city fathers
we will lay
out a little garden
where our
children
will blink
at the great
orange sun
and take the
figure perched above them
for a
well-known thinker
a composer
or a
general.
I guarantee
that flowers will appear
every
morning
on the
pedestal.
Let us set
up a monument
that will
not disturb anybody.
Even taxi
drivers
will admire
its majestic silhouette.
The garden
will be a place
for
rendezvous.
Let us set
up a monument,
we will pass
under it
hurrying on
our way to work,
foreigners
will have their pictures taken
standing
under it,
we will
splash it at night with the glare
of
floodlights.
Let us set
up a monument to The Lie.
1967,
translated with
Wladimir
weidle
W.S. Merwin
Đài Kỷ Niệm
Mít chúng
mình hãy xây 1 đài kỷ niệm/tưởng niệm/lăng miện/lăng mạ...
như Lăng
Bác
Ở Xề Gòn, cuối con đường thiệt là dài Hồng Thập Tự
hay ở Quảng
Trường Lớn Chợ Bến Thành
Một đài kỷ
niệm hiên ngang, hùng dũng, vượt lên khỏi/đếch cần 1 thứ nền tảng, gốc
gác
Ngụy/Cách
Mạng/Bắc Kít/Nam Kít/Trung Kít…
Bởi là vì nó
sẽ được xây thật là bảnh, và thật là hiện thực Xạo Hết Chỗ Nói
Mít chúng ta
sẽ xây một đài kỷ niệm
Nó sẽ đếch
làm bực mình bất cứ 1 tên Mít nào.
Chúng mình sẽ
trồng hoa quanh Đài
Và, với sự
cho phép của ông cha thành phố
Chúng mình sẽ
xây dựng 1 công viên Lê Văn Tám nho nhỏ
Nơi đám con
nít của chúng ta
Sẽ chói mắt
khi mặt trời chân lý xoáy qua tim
Sẽ chụp hình
kỷ niệm dưới chân Đài
Cho một tư tưởng
gia nổi tiếng, thí dụ Bác Hồ
Một nhà soạn
nhạc, Phạm Duy
Một ông tướng,
Võ Tướng Quân
Tớ bảo đảm
hoa sẽ nở mọi buổi sáng
quanh Đài.
Hãy để cho đám
Mít Miền Nam dựng 1 Đài Kỷ Niệm ở Thành Hồ
như Lăng Bác
ở Hà Lội
Nó sẽ chẳng
làm phiền bất cứ một ai.
Ngay cả 1 tên
tài xế tắc xi
Sẽ trầm trồ
vì cái dáng sang cả của Đài
Khu vườn sẽ
là nơi hò hẹn
Hãy dựng 1 Đài
Chúng ta sẽ đi
dưới nó
Trên đường hối
hả tới chỗ làm việc
Đám mũi lõ sẽ
chụp hình búa xua, khi đứng tạo dáng bên Đài.
Mỗi lần Xề Gòn
vào mùa mưa, là Đài sẽ lấp lánh với muôn vàn đợt sóng lung linh dưới
ánh đèn lũ lụt
Hãy dựng 1 Đài
Tưởng Niệm/Kỷ Niệm/Lưu Niệm Tình Hữu Nghị Việt-Trung…
Và đặt
tên nó
là: Sự Dối Trá
Thơ
Mỗi Ngày
MY WHOLE
LIFE
Here once
again the memorable lips, unique and like yours.
I am this
groping intensity that is a soul.
I have got
near to happiness and have stood in the shadow
of
suffering.
I have
crossed the sea.
I have known
many lands; I have seen one woman and two
or three
men.
I have loved
a girl who was fair and proud, with a Spanish
quietness.
I have seen
the city's edge, an endless sprawl where the sun
goes down
tirelessly, over and over.
I have
relished many words.
I believe
deeply that this is all and that I will neither see
nor
accomplish new things,
I believe
that my days and my nights, in their poverty and
their
riches, are the equal of God's and of all men's.
[W. S.
Merwin]
MA VIE ENTIÈRE
Me voici
encore, les lèvres mémorables, unique et semblable à vous.
J'ai persévéré
dans l'à-peu-près du bonheur et dans l'intimité de la peine.
J'ai traversé
la mer.
J'ai connu
bien des pays; j'ai vu une femme et deux ou
trois
hommes.
J'ai aimé une
enfant altière et blanche et d'une hispanique
quiétude.
J'ai vu
d'infinies banlieues ou s'accomplit sans s'assouvir
une immortalité
de couchants.
J'ai gouté à
de nombreux mots.
Je crois
profondément que c'est tout et que je ne verrai ni
ne ferai de
nouvelles choses.
Je crois que
mes journées et mes nuits
égalent en
pauvreté comme en richesse celles de Dieu et
celles de tous
les hommes.
[Ibarra]
Trọn đời Gấu
Lại là tôi, ở
đây, đôi môi gợi
nhớ, độc nhất và như của em
Đắm đuối nơi “xém một tí” hạnh phúc, và, trong bóng của sự đau khổ
Tôi đi hết biển [đếch thấy xứ
Mít]
Tôi
biết nhiều xứ sở; tôi nhìn thấy 1 người đàn bà, và hai hoặc ba
người đàn ông
Tôi yêu một cô gái kiêu sa, trầm lắng Tây Ban Nha
Tôi đã nhìn thấy mép bờ thành phố,
một cõi bao la trải dài, nơi mặt
trời lặn, lặn hoài,
không mệt mỏi.
Tôi nếm đi nếm lại rất nhiều từ
Tôi nghĩ như vậy là quá đủ, chẳng cần thêm gì nữa.
Tôi tin tưởng, những ngày, những đêm của tôi, trong cái sự khốn cùng
cũng như giầu sang của chúng,
thì chẳng thua gì, của Thượng Đế, và của tất cả mọi
người.
June 21
Father's
Day: Cornelius Eady
Cornelius
Eady is a New York City poet. Last year he published a small book about
his
father's death. It's called You Don't
Miss Your Water. The title comes from a song lyric: "But when you
left
me, O how I cried. You don't miss your water till the well runs dry."
It's
about a son's relation to a difficult father at the time of his dying.
Only
about twenty pieces, a mix of poems and short prose, written in the
plainest
language, the book also became the basis for an off-Broadway theater
piece.
Here's a taste:
A Little Bit of Soap
One of the
things my father never liked about me was my dark skin. You
used to be so pretty was the way he'd put it, and it was true,
there
is proof, a baby picture of a curly-haired, just a hairs breadth away
from fair
skinned child, me, my small fingers balled up into a fist.
And then, as if some
God shrugged and suddenly turned away its gaze, something caved in, and
I was
dark, dark, and all that it implied.
So what happened? My father always seemed
to want me
to explain, what did this desertion mean? This skin that seemed born to
give
up, this hair that crinkled to knots, this fairy tale-like
transformation?
You
used to look real good, my father, a man of
slightly
lighter hue, would say to me, his son, his changeling. Maybe
you ought to wash more.
Robert Hass
[1998] Now & Then
Ngày của Bố
Cornelius
Eady là 1 nhà thơ New York City. Năm ngoái ông cho xb một cuốn sách nhỏ
về cái
chết của cha ông, “Bố đừng quên nước của Bố”.
Cái tít là từ một bài ca,
“Nhưng
khi bố rời con, ôi con khóc làm sao. Bố đừng quên nước của bố cho tới
khi giếng
cạn”. Cuốn sách mỏng là về liên hệ của đứa con trai với người bố khó khăn, lúc ông bố mất. Chỉ hai mươi bài,
thơ trộn với những đoản văn, viết bằng 1 thứ ngôn ngữ trần trụi, cuốn
sách được
làm nền dựng thành kịch Broadway. Sau đây là một mùi vị:
Một tí xà bông
Một điều mà ông
bố của tôi bực, về tôi, là da tôi xậm. Hồi
bé mi đâu có vậy. Và quả thế thực. Thằng bé con ngày nào là tôi,
nhìn tấm hình,
mới đẹp làm sao. Đẹp ơi là đẹp, và thế rồi, Ông Giời cà chớn nhãng đi 1
phát, một
điều gì xẩy ra, khắc vào thằng bé, chắc hẳn, thế là thành ra tôi sau
đó, 1
thằng bé
da đen thui.
Chuyện quái gì xẩy ra vậy? Cha tôi
hình như muốn tôi giải thích. Tại làm sao lại có
sự “đào ngũ, đào
nhiệm, ruồng bỏ… cái con mẹ gì” như thế?
Làn da của tôi, như được bà mụ nhào nặn ra, là để... đầu hàng, hà
hà!
Ngày bé mi mới xinh xắn
làm sao,
cha tôi lầu bầu hoài, có lẽ mi phải chịu khó tắm nhiều lần
thêm 1
tí!
Ui chao, Gấu
đọc, thì bèn nhớ đến ông bố của mình, bị 1 đấng học trò dìm xuống sông,
đến ngạt
thở mà chết.
Thế là hồi nhỏ, mỗi lần đi tắm sông, tắm ao, là thằng cu Gấu, nhà
quê, Bắc Kít, lần nào cũng vậy, bèn lặn thật sâu, nín thở thật lâu, như
để nhìn
thấy, hoặc tưởng tượng ra, cái xen, ông bố của mình đang ngạt thở!
A Quoi Bon Dire
Seventeen
years ago you said
Something
that sounded like Good-bye;
And
everybody thinks that you are dead,
But I.
So I, as I
grow stiff and old,
To this and
that say Good-bye too;
And
everybody sees that I am old
But you.
And one fine
morning in a sunny lane
Some boy and
girl will meet and swear
That nobody
can love their way again
While over
there
You will
have smiled, I shall have tossed your hair.
The next
year T. S. Eliot's "Love Song of J. Alfred Prufrock" would appear and
come in another and more surprising way at the subject of lived and
unlived life. It's fascinating to see, as Keegan allows us to do, the
poems we
know in relation to some of the poems we seem to have forgotten.
Robert Hass: Now & Then
À Quoi Bon
Dire
Lời Nào Em
Không Nói
Mười bảy năm
trước em phán
Có điều gì
nghe như Good-bye
Và mọi người
đều nghĩ, em đi xa
Không phải
em mà là anh.
Và như thế,
anh, ườn mãi ra, già mãi đi.
Uờn như thế,
già như thế, thì cũng là Good-bye.
Và mọi người
thì đều thấy anh già.
Em, vưỡn như ngày nào.
Và một buổi sáng
đẹp trời, nơi con lộ lẻ, nhuộm nắng
Một cô và một
cậu sẽ gặp, và sẽ thề thốt
Rằng loài
người sẽ chẳng còn ai yêu, như là họ yêu nhau
Trong khi đâu
đó, ở đằng xa kia,
Em sẽ mỉm cười,
và anh sẽ đụng nhẹ lên mái tóc em.
*
Đáng lẽ đầu
năm thì bỏ qua, mà đọc bài thơ dịch "A quoi bon dire" ... thì phải ghẹo
ít chữ .
Bài thơ này,
theo như lời giới thiệu :
Here, from
1916, in the years of American modernism, next to poems by D. H.
Lawrence and
Ezra Pound and H.D., is a piece by Charlotte Mew:
Tức là của
bà Charlotte Mew, vậy thì người xưng I ở đây chắc nên cho là phái nữ .
K nghĩ ý nó
như vậy nè :
Mười bảy năm
trước anh nói
gì gì nghe
như thể vĩnh biệt
Và giờ đây mọi
người đều nghĩ, anh chết rồi
Trừ em
Thế rồi, em
càng ngày càng khô, càng lão
Em giờ cũng
nói vĩnh biệt này nọ.
Và ai cũng
thấy rằng em già thật
Trừ anh
Và một buổi
sáng đẹp trời, nơi con lộ lẻ, nhuộm nắng
Một cô và một
cậu sẽ gặp, và sẽ thề thốt
Rằng loài
người sẽ chẳng còn ai yêu, như là họ yêu nhau
Trong khi
đâu đó, ở đằng xa kia,
Anh sẽ mỉm
cười, và em sẽ đùa với mái tóc của anh.
Tks.
Nhân tiện,
chúc Tết Tây K & O luôn.
NQT
Robert Hasas: Now & Then
Thơ
Mỗi Ngày
THE YOUNG
NIGHT
And now the
lustral waters of night absolve me
from the
many colors and the many forms.
In the
garden, birds and stars exalt
the
longed-for return of the ancient norms
of sleep and
shadow. Darkness is sealing
the mirrors
which copy the fiction of things.
Goethe said
it best: everything near becomes far.
Those four
words capture the entire twilight.
In the
garden, roses cease to be roses;
they wish to
be the Rose.
-C.M.
J.L. Borges: Poems of the Night
Note
p. 137. The Young
Night:
Borges discussed the line by Goethe
quoted in the poem: "Alles Nahe
werde fern, everything near becomes far. Goethe was referring to
the
evening twilight. Everything near becomes far. It is true. At
nightfall, the
closest to us seems to move away from our eyes. So the visible world
has moved
away from my eyes, perhaps forever. Goethe could be referring not only
to
twilight but to life. All things go off, leaving us. Old age is
probably the
supreme solitude-except that the supreme solitude is death. And
'everything
near becomes far' also refers to the slow process of blindness which is
not a
complete misfortune. It is one more instrument among the many-all of
them
strange- that fate or chance provide," "Blindness," Selected
Non-Fictions (edited by Eliot Weinberger), New York, Penguin, 1999, p.
483.
Đêm trẻ
Và bây giờ
nước thanh tẩy của đêm
Xóa cho tôi rất
nhiều màu sắc và hình thể.
Trong vườn,
chim và sao tán tụng sự trở về hằng mong mỏi
Những tiêu
chuẩn xa xưa về ngủ và bóng
Đêm đen sẽ đóng
khằn những tấm gương
Chúng lập lại
giả tưởng của sự vật
Về cú này,
Goethe phán bảnh nhất, mọi vật gần thì bèn xa,
[Cái gì gì ôm
em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới ?]
Chỉ mấy từ tóm
trọn chạng vạng
Trong vườn
những bông hồng ngưng là những bông hồng
Chúng trở thành
BHD.
Li Po
Chinese
701-762
QUIET NIGHT
THOUGHTS
I wake and
my bed is gleaming with moonlight
Frozen into
the dazzling whiteness I look up
To the moon
herself
And lie
thinking of home
-1966
W.S. Merwin
Tĩnh Dạ Tứ
Sàng tiền
khán nguyệt quang
Nghi thị địa
thương sương
Cử đầu vọng
minh nguyệt
Đê đầu tư cố
hương.
Lý Bạch
Ý Nghĩ Trong
Đêm Vắng
Trước giường
ngắm ánh trăng sa,
Trắng phơi mặt
đất, ngỡ là ánh sương
Ngẩng đầu
trông ngắm vầng trăng;
Cúi đầu lại
nhớ xóm làng ngày xưa.
Trần Trọng
San dịch
[No Subject
]
Friday, June
13, 2014 7:49 PM
Gửi đến
bác, một bài thơ trích từ một tổ khúc,
cũng nằm trong mạch "sầu nhớ xứ"...
Chúc bác mãi
vui trong cõi văn chương của mình.
Kính!
D.V
xxix
ngồi chờ rạng
đông, đến hết đêm
ngồi lần giở
những hồn ma
từ trang sách thức dậy
sống với cõi
đời khác, những không gian đã lùi xa
những mặt
người đã lùi xa
cùng với những
cái đau, gục đầu, nức nở
cùng với tiếng
cười, vọng từ lòng giếng xóm cũ
hãy trở lại,
trở lại
giữa những
không gian nhòa lẫn vào nhau
trong tiếng
nước nhỏ giọt, nhịp
bền bỉ dửng
dưng của đồng hồ
(nghe như tiếng
mọt gặm nhấm một thời xa, xa nữa)
và thời
gian, như dòng cát mịn, lần hồi
đưa chân người
chậm bước, loạc xoạc…
có phải đang
ngồi đây, trước trang sách mở
hay đang trở
về thẩn thơ, dọc bờ cát biển đêm xưa?
Dã Viên
Đa Tạ
Take Care
NQT
Re: Mãi vui.
Gửi bạn bài thơ sau đây. Sẽ đi 1 đuờng dịch dọt sau.
Dans mon métier,
mon art
morose
Dans mon métier,
mon art morose
exercé dans
la nuit silencieuse
quand la
lune seule fait rage
quand les
amants sont étendus
avec toutes
leurs douleurs dans les bras,
je
travaille, à la lumière du chant,
non par
ambition ou pour mon pain
ni pour le
semblant, ni par commerce
de charmes
sur des scènes d'ivoire
mais pour le
salaire ordinaire
du profond
secret de leurs coeurs,
Ni pour le
prétentieux, ignorant
la lune qui
fait rage, j'écris
sur ces pages
mouillées d'embrun,
ni pour les
morts trop hauts
avec leurs
rossignols et leurs psaumes
mais pour
les amants, leurs bras
enlacant les
chagrins du Temps,
qui n'accordent
ni attention, ni salaire
ni éloge à
mon métier, mon art morose.
Dylan
Thomas: Vision et Prière
Note: GCC
mua cuốn này lâu lắm rồi, khi không đọc được thơ. Cứ tự nhủ, rồi có
ngày đọc được.
Y chang cái
hồi mới lớn, mua… Lukacs. Trần Phong Giao có lần hất hàm hỏi, cậu mua
thứ này để
nhát ma hả?
Bạn quí Mít
Butor thì khinh khỉnh, mi học trường Mít, tiếng Tây ăn đong, mà cũng
bày đặt đọc
tiểu thuyết mới!
Thơ
Mỗi Ngày
LET'S GO
For L
Let's go-
Fallen
leaves blow into deep valleys
But the song
has no home to return to.
Let's go-
Moonlight on
the ice
Has spilled
beyond the river bed.
Let's go-
Eyes gaze at
the same patch of sky
Hearts
strike the twilight drum.
Let's go-
We have not
lost our memories
We shall
search for life's pool.
Let's go-
The road,
the road
Is covered
with a drift of scarlet poppies.
Bei Dao: The
Rose of Time
Đi thôi
Gửi L
Đi thôi-
Lá rụng dạt
xuống thung lũng sâu
Nhưng bài hát
không có nhà để trở về
Đi thôi-
Trăng sáng
trên mặt băng,
Tràn quá lòng sông
Đi thôi-
Mắt, vẫn mảnh
trời
Tim, nhịp hoàng
hôn
Đi thôi-
Đôi ta chưa
mất kỷ niệm
Sẽ tìm ao đời
Đi thôi-
Con đường,
con đường
Lều bều anh
túc đỏ
Jorge Luis
Borges
Spanish
1899-1986
MY WHOLE
LIFE
Here once
again the memorable lips, unique and like yours.
I am this
groping intensity that is a soul.
I have got
near to happiness and have stood in the shadow of suffering.
I have
crossed the sea.
I have known
many lands; I have seen one woman and two or three men.
I have loved
a girl who was fair and proud, with a Spanish quietness.
I have seen
the city's edge, an endless sprawl where the sun goes down
tirelessly,
over and over.
I have
relished many words.
I believe
deeply that this is all and that I will neither see nor accomplish
new things.
I believe
that my days and my nights, in their poverty and their riches,
are the
equal of God's and of all men's.
1968
W.S. Merwin
THE POET
TELLS OF HIS FAME
The rim of
the sky is the measure of my glory,
The
libraries of the East argue over my verses,
The rulers
seek me out to fill my mouth with gold,
The angels
already know my last couplet by heart.
The tools of
my art are humiliation and anguish.
Oh if only I
had been born dead!
from the
Divan of Abulcasim
EI Hadrami
(rzth century)
1968
W.S. Merwin
LE POÈTE PROCLAME SA RENOMMÉE
Le cercle du Ciel est la
mesure de ma gloire,
Les bibliothèques de l'Orient se disputent mes vers,
Les emirs me cherchent pour emplir ma bouche d'or,
Les anges savent déjà par coeur jusqu' à mon dernier zejel,
Mes instruments de travail sont l'humiliation et l'angoisse;
Plut à Dieu que je fusse né mort.
GCC đòi vinh danh là nhà văn của thế kỷ...
21
Bầu trời là thước đo vinh
quang của GCC
Thư Viện Đông Phương cãi nhau ỏm tỏi
Vì những bài Tạp Ghi thần kỳ của GNV
VC xin gặp Gấu để mời về làm Trùm Văn Học xứ Mít
Những thiên thần thuộc lòng thơ của Gấu
Dụng cụ viết văn của Gấu là tủi nhục, và đau thương.
May quá, Gấu không chết lần vượt biển ở Vũng Tầu!
Ta thấy hình ta những miếu đền
Ta thấy tên ta những bảng
đường
Đời ta,
sử chép cả ngàn chương
Sao
không, hạt cát sông Hằng ấy
Còn chứa
trong lòng cả đại dương
Mai Thảo
The Moon
for
Maria Kodama
There is such loneliness
in that gold.
The moon of the nights is not the moon
Whom the first Adam saw. The long centuries
Of human vigil have filled her
With ancient lament. Look at her. She is your mirror.
-W.B.
Trăng
Có cái cô
đơn khủng khiếp như thế đó ở trong mảnh trăng vàng.
Trăng của đêm không phải trăng Adam đầu tiên nhìn thấy
Những thế kỷ dài của những lời khẩn cầu của con người
Đã tẩm vào nàng lời than van xưa, cũ.
Hãy nhìn nàng kìa.
Nàng là tấm gương của em đó.
THE YOUNG
NIGHT
And now the
lustral waters of night absolve me
from the
many colors and the many forms.
In the
garden, birds and stars exalt
the
longed-for return of the ancient norms
of sleep and
shadow. Darkness is sealing
the mirrors
which copy the fiction of things.
Goethe said
it best: everything near becomes far.
Those four
words capture the entire twilight.
In the
garden, roses cease to be roses;
they wish to
be the Rose.
-C.M.
J.L. Borges: Poems of the Night
Note
p. 137. The Young
Night:
Borges discussed the line by Goethe
quoted in the poem: "Alles Nahe
werde fern, everything near becomes far. Goethe was referring to
the
evening twilight. Everything near becomes far. It is true. At
nightfall, the
closest to us seems to move away from our eyes. So the visible world
has moved
away from my eyes, perhaps forever. Goethe could be referring not only
to
twilight but to life. All things go off, leaving us. Old age is
probably the
supreme solitude-except that the supreme solitude is death. And
'everything
near becomes far' also refers to the slow process of blindness which is
not a
complete misfortune. It is one more instrument among the many-all of
them
strange- that fate or chance provide," "Blindness," Selected
Non-Fictions (edited by Eliot Weinberger), New York, Penguin, 1999, p.
483.
Thơ
Mỗi Ngày
THE MIRABEAU
BRIDGE
Under the
Mirabeau Bridge the Seine
Flows and
our love
Must I be
reminded again
How joy came
always after pain
Night comes
the hour is rung
The days go
I remain
Hands within
hands we stand face to face
While
underneath
The
bridge
of our arms passes
The loose
wave of our gazing which is endless
Night comes
the hour is rung
The days go
I remain
Love slips
away like this water flowing
Love slips
away
How slow
life is in its going
And hope is
so violent a thing
Night comes
the hour is rung
The days go
I remain
The days
pass the weeks pass and are gone
Neither time
that is gone
Nor love
ever returns again
Under the
Mirabeau Bridge Flows the Seine
Night comes
the hour is rung
The days go
I remain
1956
W.S Merwin
Cầu Mirabeau
Dưới cầu
Mirabeau, sông Seine chảy
Và tình đôi
ta
Liệu anh phải
nhớ
Niềm vui luôn
tới, sau nỗi đau
Đêm tới, giờ
đổ
Ngày đi, ta ở
Tay trong
tay mặt nhìn mặt
Dưới cầu đôi
tay
Sóng uể oải lập
đi lập lại
Nhân lên mãi
mãi
Ánh mắt thiên
thu hoài hoài của đôi ta
Đêm tới, giờ
đổ
Ngày đi, ta ở
Tình đi, như
nước chảy
Tình đi
Ôi, đời sao
chậm lụt
Hy vọng sao
hung bạo đến như vầy
Đêm tới giờ
đổ
Ngày đi, ta ở
Ngày đi, tháng
đi
Thời gian không
đi
Tình không
bao giờ trở lại
Dưới cầu
Mirabeau sông Seine chảy
Đêm tới, giờ
đổ
Ngày đi, ta ở
Thu 2014
What I
Overheard
In summer's
idle time,
When trees
grow heavy with leaves
And spread
shade everywhere
That is a
delight to lie in
Alone
Or in the
company of a dear friend,
Dreaming or
having a quiet talk
Without
looking at each other,
Until she
feels drowsy
As if after
too much wine,
And you draw
close for a kiss
On her
cheek, and instead
Stay with
lips pursed, listening
To a bee
make its rounds lazily,
And a
far-off rooster crow
On the edge
of sleep with the leaves hushed
Or rustling,
ever so softly,
About
something or other on their mind.
Charles
Simic
Điều Gấu thoáng
nghe
Mùa hạ, lúc
rảnh rỗi
Khi cây nặng
trĩu lá
Trải bóng lên
mọi nơi
Sướng làm
sao, nằm
Một mình
Hay với một
em thật thân, là Em, tất nhiên, hà hà!
Lơ tơ mơ,
hay đi 1 đường chuyện vãn êm ả
Đếch thèm nhìn
nhau
Cho tới khi
Em uể oải, thờ thẫn
Như thể uống
nhiều rượu chát
Và Gấu bèn đi
1 đường nằm sát vô Em
Tính xin 1 cú
hôn
Lên má, và,
thay vì vậy
Thì bèn cứ nằm
yên, môi mím lại, lắng nghe
Một con ong
lười biếng lượn vài đường
Hay con quạ,
xa hơn con gà trống
Ở ven bờ giấc
mộng, cùng đám lá lặng thinh
Hay rì rào
nhẹ ơi là nhẹ
Về một điều,
hay một điều gì khác, trong hồn.
Anonymous
Egyptian
zoth century
B.C.
Death is
before me today
like health
to the sick
like leaving
the bedroom after sickness.
Death is
before me today
like the
odor of myrrh
like sitting
under a cloth on a day of wind.
Death is
before me today
like the
odor of lotus
like sitting
down on the shore of drunkenness.
Death is
before me today
like the end
of the rain
like a man's
homecoming after the wars abroad.
Death is
before me today
like the sky
when it clears
like a man's
wish to see home after numberless years of captivity.
1960
Vô danh,
Ai
Cập 20th century B.C.
Cái chết trước
mặt tớ bữa nay
Như khỏe trước
bịnh
Như rời phòng
ngủ sau cơn bịnh
Cái chết trước
mặt tớ bữa nay
Như mùi dầu
myrrh
Như ngồi dưới
mảnh vải trong một ngày có gió
Cái chết trước
mặt tớ bữa nay
Như mùi hoa
sen
Như ngồi ở bờ
bãi say sưa
Cái chết trước
mặt tớ bữa nay
Như chấm dứt
một trận mưa
Như người đàn
ông trở về sau nhiều trận chiến ở thật xa nhà, ở hải ngoại.
Cái chết trước
mặt tớ bữa nay
Như bầu trời,
khi trong sáng
Như ước mong
của một người đàn ông nhìn thấy nhà của mình
Sau bao nhiêu
năm tù dài dằng dặc
1960
Thơ
Mỗi Ngày
Khong Lo
Vietnamese
medieval, Ly
dynasty
died 1119
The Ideal
Retreat
I will
choose a place where the snakes feel safe.
All day I
will love that remote country.
At times I
will climb the peak of its lonely mountain
to stay and
whistle until the sky grows cold.
1967,
translated with
Nguyen Ngoc
Bich
Trong bài tưởng
niệm NTN trên Hậu Vệ, Nguyễn Đạt viết:
Nhà thơ Nguyễn
Đăng Thường thấy thơ Nhan trong Thánh Ca “có tí hương vị Rimbaud, một
Rimbaud
không vô thần”, thì tôi cho rằng, trong bản chất thi sĩ của hai người,
Nhan và
Rimbaud, ít nhiều có chỗ giống nhau. Tôi biết rõ, Nhan không đọc một
dòng thơ
nào của Rimbaud, không một dòng thơ dòng văn nào của bất cứ nhà thơ nhà
văn nhà
triết học nào của phương Tây. Và tôi lại thấy Nhan, trong Thánh Ca, có
nhiều
hương vị Phạm Công Thiện. Và tôi hiểu, cả hai, Nhan và Phạm Công Thiện:
ngôn ngữ
của thi sĩ, sản sinh từ cùng một ly nước, một ly nước có chất cà phê
hay men rượu
mà cả hai đã uống.
Source
Theo Gấu, thơ
NTN chẳng có tí Rimbaud, mà cũng chẳng có tí PCT, nhưng rõ ràng là có
chất
Thiền, một
thứ Thiền của Việt Nam.
Trước 1975,
tình cờ GNV có đọc một bài thơ của anh, viết về một nhà sư Việt Nam, sư
Không Lộ,
hình như vậy, trên Thời Tập, và như
còn nhớ được, chất Thiền mạnh lắm.
Theo như trí nhớ tồi tệ của
GCC, bài thơ của Nguyễn Tôn Nhan, về Không Lộ, có cái ý “thét lên 1
tiếng lạnh
hư không”, chắc là bài thơ trên, được W.S. Merwin và Nguyễn Ngọc Bích
chuyển
qua tiếng Mẽo
Nơi
thần sầu
để rút dù
Tớ sẽ chọn một nơi mà rắn
[độc hay không độc] cảm thấy an toàn
Cả ngày tớ sẽ mê cái “lost domain” xa xôi đó
Tớ sẽ leo lên cái đỉnh núi trơ cu lơ của nó
Đếch thèm tìm bản chúc thư [của MT], hay xác con gấu, hay con cáo gì gì
đó [của
Hemingway]
Mà để hét lên
1 tiếng lạnh hư không!
Osip
Mandelstam
LENINGRAD
Russian
1891-1938
I've come
back to my city. These are my own old tears,
my own
little veins, the swollen glands of my childhood.
So you're
back. Open wide. Swallow
the fish oil
from the river lamps of Leningrad.
Open your
eyes. Do you know this December day,
the egg yolk
with the deadly tar beaten into it?
Petersburg!
I don't want to die yet!
You know my
telephone numbers.
Petersburg!
I've still got the addresses:
I can look
up dead voices.
I live on
back stairs, and the bell,
torn-out
nerves and all, jangles in my temples.
And I wait
till morning for guests that I love,
and rattle
the door in its chains.
Leningrad.
December 1930
1972,
translated with
Clarence
Brown
W.S. Merwin
I returned
to my city, familiar to tears,
to my
childhood's tonsils and
varicose
veins.
You have
returned here-then swallow
the
Leningrad street-lamps' cod-liver oil.
Recognize
now the day of December fog
when ominous
street-tar is mixed with the yolk of egg.
Petersburg,
I do not want to die yet
I have your
telephone numbers in my head.
Petersburg,
I still have addresses at which
I will find the voice of the dead.
I live on a
black stair, and into my temple
strikes the
doorbell, torn out with flesh.
And all
night long I await the dear guests,
and I jangle
my fetters, the chains on the door.
[Osip
Mandelstam, Selected Poems,
translated by David McDuff. Cambridge: River Press,
1973, p.111] (1)
Tôi trở lại
thành phố của tôi, thân quen với những
dòng lệ,
với cơn đau thịt thừa trong cổ họng thuở ấu thơ,
và chứng chướng tĩnh mạch
Bạn đã trở về đây - vậy thì hãy nuốt
dầu đèn phố Leningrad
Hãy nhận ra
bây giờ ngày tháng Chạp mù sương...
Petersburg, tôi chưa muốn chết
Tôi có số điện thoại của bạn ở trong đầu Petersburg,
tôi vẫn có những địa chỉ, tại đó, tôi sẽ tìm ra tiếng nói của những
người đã chết...
OCTOBER
LIGHT
That same light
by which I saw her last
Made me
close my eyes now in revery;
Remembering
how she sat in the garden
With a red
shawl over her shoulders
And a small
book in her lap,
Once in a
long while looking up
With the
day's brightness on her face,
As if to
appraise something of utmost seriousness
She has just
read at least twice,
With the sky
clear and open to view;
Because the
leaves had already fallen
And lay
still around her two feet.
Charles
Simic
Ánh Sáng
Tháng Mười
Cũng ánh
sáng này tôi nhìn nàng lần sau cùng
Bây giờ nó
làm tôi nhắm mắt lại và mơ màng
Nhớ lại nàng
ngồi trong khu vườn
Khăn đỏ
choàng trên vai
Cuốn sách nhỏ
trên đùi
Nàng nhìn
lên một lúc thật lâu
Với ánh sáng
ban ngày rạng rỡ trên khuôn mặt
Như thể để
thẩm định một điều gì thật sự nghiêm trọng
Nàng vừa đọc
ít nhất là hai lần,
Bầu trời thì
trong, mở ra để nhìn ngắm,
Bởi vì những
chiếc lá đã rụng
Phủ quanh
chân nàng.
Late Train
A few
couples walk off into the dark.
In the spot
where they vanished,
The trees
are swaying as if in a storm
Without
making the slightest sound.
The train, too,
sits still in the station.
I remember a
friend telling me once
How he woke
up in a long train
Put out of
service in a railroad yard.
In the
dining car the tables were all set
With wine
glasses and fresh flowers,
And the
moon's white glove on one of them.
Here,
there's nothing but night and darkness.
In the empty
coach, far in the back,
I think I
can see one shadowy passenger
Raising his
pale hand to wave to me,
Or to peer
at the watch on his wrist
I suspect
has stopped running years ago.
Tàu muộn
Vài cặp bước
vô khoảng tối
Ở cái điểm sáng
từ đó họ biến mất
Cây lắc lư
như trong một trận bão
Đếch thèm phát
ra một tiếng động, dù cực nhỏ
Con tàu, cũng
thế, đứng im lìm tại một nhà ga
Gấu bỗng nhớ
một đấng bạn, có lần kể cho nghe
Như thế nào,
anh ta thức giấc trong một con tàu dài thòng
Một con tàu
“hoang”, một sân ga “phế”!
Tại toa ăn của
con tàu
Bàn được dọn
Những ly rượu
sáng choang bên cạnh những bó hoa tươi rói
Phủ lên tất
cả là cái bao tay màu trắng của Chị Hằng từ phía bên trên kia nhìn xuống
Ở đây ư, làm
gì có vẻ đẹp liêu trai mộng mị như thế
Mà chỉ là đêm
đen và bóng tối
Trong một
toa trống, ở tận xa về phía sau của con tầu
Gấu nghĩ, Gấu
nhìn thấy bóng của một hành khách
Giơ cánh tay
nhợt nhạt lên vẫy GCC/GNV
Hay là, chỉ
để coi giờ của cái đồng hồ đeo ở cổ tay
Đã chết sững
từ "ru mãi ngàn năm".
Paradise
In a
neighborhood once called Hell's Kitchen
Where a
beggar claimed to be playing Nero's fiddle
While the
city burned in midsummer heat;
Where a lady
barber who called herself Cleopatra
Wielded the
scissors of fate over my head
Threatening
to cut off my ears and nose;
Where a man
and a woman went walking naked
In one of
the dark side streets at dawn.
I must be
dreaming, I told myself.
It was like
meeting a couple of sphinxes.
I expected
them to have wings, bodies of lions:
Him with his
wildly tattooed chest;
Her with her
huge, dangling breasts.
It happened
so quickly, and so long ago!
You know
that time just before the day breaks
When one
yearns to lie down on cool sheets
In a room
with shades drawn?
The hour
when the beautiful suicides
Lying side
by side in the morgue
Get up and
walk out into the first light.
The curtains
of cheap hotels flying out of windows
Like
seagulls, but everything else quiet….
Steam
rising
out of the subway gratings….
Bodies
glistening with sweat ...
Madness,
and
you might even say, paradise!
Thiên Đàng
Trong 1 khu
xóm có thời được gọi bằng cái nick, Nhà Bếp của Địa Ngục
Nơi một người
ăn xin, vỗ ngực xưng tên, ta chơi cây vĩ cầm Nero
Nơi thành phố
cháy bỏng cái nắng giữa hè;
Nơi bà chủ
tiệm làm tóc tự gọi mình là Cleopatra
Khuơ khuơ
cây kéo số mệnh trên đầu Gấu
Hăm, ta sẽ
thiến tai và mũi, và có thể, 1 cái gì đó nữa, của mi!
Nơi một đấng
đàn ông và một cô nường tản bộ, cả hai trần như nhộng
Tại một con
phố tôi tối, vào lúc rạng đông.
Mi đúng là
đang mớ, Gấu bảo Gấu
Đúng là như
gặp một cặp nhân sư
Gấu đã mong,
họ có cánh, và có mình, sư tử
Chàng, ngực trạm trổ
hoang dại
Nàng, vú cực bự đong đưa
Chuyện xẩy
ra thật lẹ, và cũng lâu lắm rồi, từ thuở Diễm Xưa....
Bạn biết, thời
gian đó, ngay trước rạng đông
Khi con người
thèm ngả lưng xuống những chiếc khăn trải giường mát lạnh
Trong 1 căn
phòng, những chiếc mành mành đã được kéo xuống
Đúng thời khắc
mà những cái chết đẹp đẽ vì tự vận
Nằm song
song bên nhau trong nhà xác,
Bèn thức dậy,
bước ra ngoài, nhập vào tia sáng đầu tiên
Những bức rèm
của những khách sạn rẻ tiền bay ra khỏi cửa sổ
Như những
con hải âu, nhưng mọi thứ, mọi vật khác thì đều êm ả…
Hơi nước bốc
lên từ những lưới sắt đuờng xe điện ngầm …
Những cơ thể
lấp lánh mồ hôi…
Khùng điên,
vậy mà bạn dám biểu, thiên đàng!
Thơ
Mỗi Ngày
Paradise
In a
neighborhood once called Hell's Kitchen
Where a
beggar claimed to be playing Nero's fiddle
While the
city burned in midsummer heat;
Where a lady
barber who called herself Cleopatra
Wielded the
scissors of fate over my head
Threatening
to cut off my ears and nose;
Where a man
and a woman went walking naked
In one of
the dark side streets at dawn.
I must be
dreaming, I told myself.
It was like
meeting a couple of sphinxes.
I expected
them to have wings, bodies of lions:
Him with his
wildly tattooed chest;
Her with her
huge, dangling breasts.
It happened
so quickly, and so long ago!
You know
that time just before the day breaks
When one
yearns to lie down on cool sheets
In a room
with shades drawn?
The hour
when the beautiful suicides
Lying side
by side in the morgue
Get up and
walk out into the first light.
The curtains
of cheap hotels flying out of windows
Like
seagulls, but everything else quiet….
Steam rising
out of the subway gratings….
Bodies
glistening with sweat ...
Madness, and
you might even say, paradise!
Cabbage
She was
about to chop the head
In half,
But I made
her reconsider
By telling
her:
"Cabbage
symbolizes mysterious love."
Or so said
one Charles Fourier,
Who said
many other strange and wonderful things,
So that
people called him mad behind his back,
Whereupon I
kissed the back of her neck
Ever so
gently,
Whereupon
she cut the cabbage in two
With a
single stroke of her knife.
Charles
Simic
Bắp Cải
Nàng tính bổ
1 phát
Là cái bắp cải
biến thành hai
Nhưng tôi
khiến nàng nghĩ lại
Khi đi 1 đường
cầu hòa:
“Bắp cải tượng
trưng cho tình yêu bí ẩn”
Một gã tên là
Charles Fourier hình như đã phán như vậy
Hắn phán nhiều
điều kỳ lạ và tuyệt vời
Bởi vậy họ gọi
hắn là thằng khùng, ở sau lưng
Nhân lúc đó,
Gấu bèn hôn sau cổ nàng
Thật dịu dàng
Như chưa ai
từng hôn dịu dàng như thế
Nhân lúc đó,
nàng đi 1 đường dao thật là ngọt
Tình
của chúng
tôi - cái bắp cải - như thế là chia làm đôi
Merwin
Khong Lo
Vietnamese
medieval, Ly
dynasty
died 1119
The Ideal
Retreat
I will
choose a place where the snakes feel safe.
All day I
will love that remote country.
At times I
will climb the peak of its lonely mountain
to stay and
whistle until the sky grows cold.
1967,
translated with
Nguyen Ngoc
Bich
Anonymous
Egyptian
zoth century
B.C.
Death is
before me today
like health
to the sick
like leaving
the bedroom after sickness.
Death is
before me today
like the
odor of myrrh
like sitting
under a cloth on a day of wind.
Death is
before me today
like the
odor of lotus
like sitting
down on the shore of drunkenness.
Death is
before me today
like the end
of the rain
like a man's
homecoming after the wars abroad.
Death is
before me today
like the sky
when it clears
like a man's
wish to see home after numberless years of captivity.
1960
Guillaume
Apollinaire
French
1880-1918
THE MIRABEAU
BRIDGE
Under the
Mirabeau Bridge the Seine
Flows and
our love
Must I be
reminded again
How joy came
always after pain
Night comes
the hour is rung
The days go
I remain
Hands within
hands we stand face to face
While
underneath
The bridge
of our arms passes
The loose
wave of our gazing which is endless
Night comes
the hour is rung
The days go
I remain
Love slips
away like this water flowing
Love slips
away
How slow
life is in its going
And hope is
so violent a thing
Night comes
the hour is rung
The days go
I remain
The days
pass the weeks pass and are gone
Neither time
that is gone
Nor love
ever returns again
Under the
Mirabeau Bridge Flows the Seine
Night comes
the hour is rung
The days go
I remain
1956
Lament for
the makers: Khóc người làm thơ
ROBERT
FROST
NEITHER OUT
FAR NOR IN DEEP
The people
along the sand
All
turn and
look one way
They
turn
their back on the land.
They
look at
the sea all day.
As long as
it takes to pass
A ship keeps
raising its hull;
The wetter
ground like glass
Reflects a
standing gull.
The land may
vary more;
But wherever
the truth may be-
The water
comes ashore,
And the
people look at the sea.
They cannot
look out far.
They cannot
look in deep.
But when was
that ever a bar
To any watch
they keep?
Không xa mà
cũng chẳng sâu
Ném mẩu thuốc
cuối cùng xuống dòng sông
Mà lòng mình
phơi trên kè đá
TTT
Đám người dọc
theo cát
Tất cả quay
và nhìn một phía.
Lưng xoay vô
đất
Mắt nhìn biển
cả ngày.
Con tàu dâng thân lên
Chừng nào
nó đi qua
Thân tầu, lóng
lánh như mặt gương,
Phản chiếu một hải âu đứng sững.
Đất có thể
tang thương như thế nào
Một khi sự
thực thì như thế nào đó –
Nước vẫn tạt
vô bờ
Và mọi người
nhìn ra biển
Họ không thể
nhìn xa
Họ không thể
nhìn sâu
Nhưng liệu có
1 cái kè đá nào
Cho bất cứ 1
cái nhìn mà họ giữ?
Ui chao đọc
bài thơ này, thì bèn nghĩ liền đến bài thơ của Gấu!
Biển
Buổi
chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê nhà.
Sóng
đẩy biển lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả
Cát
ở đây được con người chở từ đâu tới
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này
Số
phận còn thua hạt cát.
Hàng
cây trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời
Chỉ
còn ta cô đơn lẫn vào đêm
Như con hải âu già
Giấu chút tình sầu
Vào lời thì thầm của biển...