|
RESIGNATION
I like trees
because they seem more resigned
to the way
they have to live than other things do.
— Willa
Cather
Here the oak
and silver-breasted birches
Stand in
their sweet familiarity
While
underground, as in a black mirror,
They have
concealed their tangled grievances,
Identical to
the branching calm above
But there
ensnared, each with the others' hold
On what gives-life to which is brutal
enough.
Still, in the air, none tries to keep company
Or change
its fortune. They seem to lean
On the
light, unconcerned with what the world
Makes of
their decencies, and will not show
A jealous
purchase on their length of days.
To never
having been loved as they wanted
Or deserved,
to anyone's sudden infatuation
Gouged into
their sides, to all they are forced
To shelter
and to hide, they have resigned themselves.
—J. D.
McClatchy
AN PHẬN
Tôi thích
cây cối bởi vì chúng trông có vẻ an phận với đời hơn hết thảy những
loài khác .
Willa Cather
Này là cây sồi
và những cây bạch dương
Lúc nào
trông cũng đứng an lành
Trong khi
đó, như thể soi qua một tấm kính đen,
Dưới lòng đất
thì chúng giấu đi những nỗi oán than đang quặn thắt
Giống hệt những
cành vươn ra êm ả ở trên không
Nhưng dưới
kia, bị cầm kẹp, chúng nương nhau mà bám lấy những gì được trao cho –
đời như
thế cũng đã đủ tàn bạo rồi
Vậy mà, trên
không kia, chẳng cành nào chịu tìm cách thích cánh cùng nhau
Hoặc tìm
cách thay đổi vận mệnh mình . Chúng dường như chỉ
ỷ vào ánh
sáng, chẳng hề quan tâm xem thế giới
đang làm gì
với những thứ lịch lãm của chúng, và cũng sẽ không tỏ ra tranh tìm gì
cho đời sống
của mình
Đối với việc
chưa bao giờ được yêu mến như chúng mong
muốn,
hay xứng
đáng, đối với những mê đắm bất ngờ của ai đó đang đục khoét sườn mình
Đối với tất
cả những ai bắt chúng phải che chở hay giấu giếm ,
Chúng đều nhận
tất .
J. D.
McClatchy
K
dịch
Tks. NQT
Kẻ biến mất
Lúc này trời
ấm áp, ngồi ở cổng, vào lúc đêm
Một người nào
đó chợt nhớ tới một người hàng xóm
Chuyện xẩy
ra cũng đã hơn ba mươi năm rồi
Sau bữa ăn
chiều, bà làm cú tản bộ
Và chẳng bao
giờ trở về nhà nữa
Với ông chồng
và mấy đứa nhỏ.
Chẳng ai lúc
này còn nhớ nhiều về bà
Ngoại trừ, như
thế nào, bà nở nụ cười, và nét mặt trở nên suy tư
Bất thình lình,
và chẳng hiểu tại sao, khi được hỏi
Như thể bà đã ôm
trong lòng một điều gì bí mật
Hoặc, cực đau
lòng, khi chẳng thể nào có một.
Charles Simic
The
New Yorker April 7, 2014
LEAVES
Lá khô vì đợi
chờ,
Cũng như hồn mình quá âm u
Nhại lời
nhạc TCS
Lovers who
take pleasure
In the
company of trees,
Who seek
diversion after many kisses
In each
other's arms,
Watching the
leaves,
The way they
quiver
At the
slightest breath of wind,
The way they
thrill,
And shudder
almost individually;
One of them
beginning to shake
While the
others are still quiet,
Unaccountably; unreasonably-
What am I
saying?
One leaf in
a million more fearful,
More happy;
Than all the
others?
On this oak
tree casting
Such deep
shade,
And my lids
closing sleepily
With that
one leaf twittering
Now darkly; now luminously.
Lá
Những
cặp tình nhân
Thích
có cây cối cùng với họ
Tìm
sự giải trí sau nhiều cái hôn
Tay
trong tay,
Họ
ngắm lá.
Cái
cách lá run lên
Trước
một tí gió
Cách lá rên lên
Rất
ư là mình ên;
Một cánh
lá bắt đầu lay động
Trong
khi những lá khác vẫn im lặng,
Không
tính đếm, không tra hỏi -
Tôi
đang tính nói gì nhỉ?
Một
cánh lá, thì hàng triệu lần
sợ
hãi,
hạnh
phúc
hơn
những lá khác?
Trong
khi cây sồi này
Tỏa
bóng dầy đến như thế đấy
Thì
đôi mi tôi bắt đầu khép lại
Trong
giấc mơ đầy
Với
một cánh lá
Bồn chồn
Lúc thì âm u
Lúc thì tỏa sáng
Haiku
A woman is
gathering
the ashes of
someone she loves
a violet
flowering close to her
Một người đàn bà thu gom tro than của một người thân thương của bà
Một bông hoa nở tím, ngay kế bên bà.
Collected
Haiku of Yosa Buson
Translated
by W.S. Merwin & Takako Lento
Note: Bài thơ haiku, trên,
làm GCC nhớ tới bài thơ của Thích Nhất Hạnh, rất nổi tiếng, trong thời
chiến tranh Mít, và hình như đã từng được PD phổ nhạc, dưới đây.
Lạ, là khi đặt hai bài thơ song song, thì 1 hình ảnh mới, bật ra, với
GCC, và nó lại làm GCC nhớ đến cái lần, thằng em trai, vô nhà bảo sanh
thăm thằng con trai lớn của Gấu, mới sinh, rồi đi luôn:
Liệu cái bông hoa màu tính, vớ tro than của người thân mà vị phu nhân
thu gom, là một?
Peace
They woke me
this morning
To tell me
my brother had been killed in battle.
Yet in the
garden, uncurling moist petals,
A new rose
blooms on the bush.
And I am
alive, can still breathe the fragrance of roses and
dung.
Eat, pray,
and sleep.
But when can
I break my long silence?
When can I
speak the unuttered words that are choking me?
-Nhat Hanh
Hòa
Bường
Người ta đánh thức tôi
Để báo tin thằng em tôi tử trận
Ngoài vườn, một bông hoa mới nở....
The Absentee
Landlord
Surely, he
could make it easier
When it
comes to inquiries
As to his
whereabouts.
Rein in our
foolish speculations,
Silence our
voices raised in anger,
And not
leave us alone
With that
curious feeling
We sometimes
have
Of there
being a higher purpose
To our
residing here
Where
nothing works
And
everything needs fixing.
The least he
could do is put up a sign:
AWAY ON
BUSINESS
So we could
see it,
In the
graveyard where he collects the rent
Or in the
night sky
Where we
address our complaints to him.
Charles
Simic
Người chủ đất
vắng mặt
Hẳn là như
thế rồi, thằng chả có thể làm cho mọi chuyện trở nên dễ dàng hơn
Ấy là về những
dò hỏi của chúng tôi
Về thẳng chả hồi này làm cái chó gì,
Lang bạt đâu đâu.
Nè, tụi mi đừng
có đoán bậy đoán bạ
Làm chúng tôi
câm họng trước khi lớn giọng giận dữ
Và chẳng
để cho chúng tôi yên thân
Với cái ý
nghĩ kỳ cục
Đôi khi đến
với chúng tôi
Chẳng hạn như
là
Có một cái mục
đích chi đó, cao cả hơn chăng
Mắc mớ đến
chuyện chúng tôi ở đây - ở chốn hạ giới khốn nạn này –
Một khi mà
chẳng có cái gì ra cái gì,
Hay chẳng có
chi hoạt động
Và mọi thứ
thì đều cần phải sửa chữa.
Ít nhất, thằng
chả cũng có thể dựng 1 tấm biển:
Tớ Vắng Mặt
[khi Lò Thiêu, Lò Cải Tạo xẩy ra]
Để cho chúng
tôi nhìn thấy
Ở bãi tha ma
Nơi thằng chả
tới thu tiền trọ, tiền đất.
Hay là, ở
ngay trên bầu trời, về ban đêm
Nơi chúng tôi
gửi tới cho thằng chả
Những lời cằn nhằn.
Alberto
Blanco
Spanish
born 1951
THE
PARAKEETS
They talk
all day
and when it
starts to get dark
they lower
their voices
to converse
with their own shadows
and with the
silence.
They are
like everybody
- the
parakeets-
all day
chatter,
and at night
bad dreams.
With their
gold rings
on their
clever faces,
brilliant
feathers
and the
heart restless
with speech
...
They are
like everybody
-the
parakeets-
the ones
that talk best
have
separate cages.
1995
W.S. Merwin: Translations
Những Con Vẹt
Chúng lèm bèm
suốt ngày
Xẩm tối
Chúng hạ thấp
giọng
Để lầm bầm với
những chiếc bóng của chính chúng
Và với im lặng
Chúng giống
như mọi người
-Những con vẹt
–
Suốt ngày chát
chiếc
Và đêm, những
giấc mơ xấu
Với những
chiếc nhẫn vàng
Trên khuôn mặt
thông minh
Lông sáng ngời
Và trái tim
không ngừng nghỉ
Với diễn văn…
Chúng như mọi
người
-Những con vẹt
–
Những con hót
bảnh nhất
Có chuồng riêng.
June 1968
In the
golden afternoon, or in
a serenity
the gold of afternoon
might
symbolize,
a man
arranges books
on waiting
shelves
and feels
the parchment, the leather, the cloth,
and the
pleasure bestowed
by looking
forward to a habit
and
establishing an order.
Here
Stevenson and Andrew Lang, the other Scot,
will
magically resume
their slow
discussion
which seas
and death cut short,
and surely
Reyes will not be displeased
by the
closeness of Virgil.
(In a
modest, silent way,
by ranging
books on shelves
we ply the
critic's art.)
The man is
blind, and knows
he won't be
able to decode
the handsome
volumes he is handling,
and that
they will never help him write
the book
that will justify his life in others' eyes;
but in the
afternoon that might be gold
he smiles at
his curious fate
and feels
that peculiar happiness
which comes
from loved old things.
-H.R.
J.L. Borges
Tháng Sáu
1968
Vào một buổi
chiều vàng,
hay trong sự lặng lẽ mà biểu tượng của nó
có thể là một buổi chiều vàng,
một người đàn ông xếp sách của anh ta
lên kệ,
cảm thấy mùi giấy, da thuộc, vải bìa
và sự hài lòng
do thói quen, và sự gọn gàng, ngăn nắp.
Stevenson và ông bạn Scotsman kia, Andrew Lang,
bằng con đường huyền ảo, sẽ tiếp tục câu chuyện dang dở,
bởi những đại dương, và cái chết,
và Alfonso Reyes sẽ hài lòng được chia sẻ một khoảng không gần kề với
Virgil.
(Sắp xếp thư viện là làm nghệ thuật phê bình,
theo đường lối thầm lặng và khiêm tốn).
Người đàn ông, vốn mù,
biết ông ta chẳng còn đọc được
những cuốn sách mà ông ta đang xếp,
chúng cũng chẳng giúp ông viết cuốn sách,
cuối cùng có thể biện minh ông ta,
nhưng vào buổi chiều có lẽ vàng,
ông ta mỉm cười với số mệnh kỳ lạ của mình
và cảm thấy một hạnh phúc đặc biệt,
đến từ những điều mà chúng ta quen biết và yêu thương.
Note: Bài thơ
này, và bài viết "Nói về thơ" của Borges, Gấu dịch từ những ngày đầu ra
hải ngoại,
thời gian viết cho VHNT trên lưới của Phạm Chi Lan.
Nay post lại, và nếu có thể,
sẽ "hiệu đính" sau.
A Buddhist Poet
in Vietnam
Originally
published June 9, 1966
Note: Như thế, bài thơ của
Borges, những bài thơ của TNH, và cái truyện ngắn của GCC, được viết
trong cùng thời kỳ có cú Mậu Thân.
Lần đầu
đăng trên báo Văn, nó có cái tên là Kiếp Khác
Cõi
Khác
Những đêm trực ở Đài, hoặc ngủ
ngay sau
khi đọc vớ vẩn một mẩu báo, một trang tiểu thuyết, nghe lơ đãng một
điệu nhạc,
một giọng hát, chập chờn theo khói thuốc rồi ngủ lúc nào không hay. Có
khi ngủ
luôn tới sáng. Đó là những đêm thành phố may mắn không bị pháo kích,
tình hình
chiến sự tương đối yên tĩnh. Nhưng hầu như đêm nào cũng bị dựng dậy.
Khi thì
nhân viên viễn ký hai hãng AP, UPI yêu cầu chỉnh lại tín hiệu. Hoặc
đồng nghiệp
trực Đài phát tín Phú Thọ nhắc đến giờ thay đổi tần số liên lạc. Có khi
một
đồng nghiệp Phi Luật Tân ở mãi Manila réo chuông máy viễn ký liên hồi,
chỉ để
hỏi thăm thời tiết Sài-gòn, tình trạng vợ con gia đình, hay nhờ dịch
giùm một
message bằng tiếng Pháp của hãng SITA than phiền nhân viên RCA Manila
làm ăn
cẩu thả. Một lần ngủ quá say dù đã cẩn thận để điện thoại ngay kế bên,
và chỉ
giật mình thức giấc khi nghe tiếng đập cửa ầm ầm: Anh chàng Mẽo trưởng
phòng
tin tức AP và nhân viên viễn ký, cũng đồng nghiệp Bưu Điện làm ngoài
giờ cho
hãng thông tấn ngoại quốc, một đỏ gay tức giận, một lắc đầu ái ngại,
hình như
vào lúc đó hai ông Thiệu Kỳ đang gặp tổng thống Johnson tại đảo Midway.
Hôm sau
bị ông Tổng Giám Đốc, cũng may còn là thầy dậy cũ khi học trường Quốc
Gia Bưu
Điện, gọi lên văn phòng giũa cho một trận. Bị nặng nhất là trong Mậu
Thân đợt
hai. Khoảng gần nửa đêm, UPI vớ được hình đặc biệt, bằng mọi giá phải
chuyển
ngay đi Tokyo: Chừng trên dưới một chục ký giả, phóng viên ngoại quốc,
ngồi xe
díp lùn có gắn bảng báo chí, Press, ở kính trước, không may bị Việt
Cộng tóm
được tại khu chợ Thiếc. Sau cùng là thảm sát. Người gục chết trên vô
lăng, kẻ
vắt nửa khúc đầu trên sàn xe, nửa khúc đuôi trên mặt lộ. Sau này, khi
cuộc
chiến nghiêng về phía Miền Bắc, dư luận thế giới hình như chỉ còn nhớ
cảnh
tướng Loan xử bắn tù binh ngay trên đường phố. Hôm sau, Horst Fass,
trưởng
phòng hình ảnh AP, thay vì gọi điện thoại than phiền với Trưởng Đài Vô
Tuyến
Điện Thoại, anh viết văn thư tố cáo gã chuyên viên trẻ, Jeune
Technicien, nhân
viên Bưu Điện làm cho UPI, đã gửi hình trong giờ giới nghiêm. Sau cùng
mọi
chuyện cũng ổn thỏa, vì ngay những ngày đầu biến cố Mậu Thân, khi hai
bên đang
tranh giành từng viên gạch, hoặc đánh cuộc xem tao Dù hay mày Biệt Động
Thành,
ai chết trước tại Đài Phát Thanh Sài-gòn ngay kế bên, khi đám quân cảnh
Mỹ đang
vật lộn tay đôi với Việt Cộng tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ cách đó cũng không
xa, gã
chuyên viên trẻ do nhà ở cạnh Đài, lại đúng đêm trực nên đã một mình
"tử
thủ", sau thêm tay phóng viên AP được đám lính Dù, lính chiến xa mở
vòng
kẽm gai cho vào bên trong phòng tuyến. Gã chuyên viên trẻ đã chuyển
hình cho
AP, giùm ông bạn già trước cũng nhân viên Bưu Điện nhưng bị An Ninh
Quân Đội cho
đi nằm ấp một thời gian dài, khi được thả bị Bưu Điện cho về hưu non,
do có kẻ
tố cáo ông là Việt Cộng nằm vùng ngay từ hồi còn ông Diệm. Sự thực ông
bị một đồng
nghiệp mưu hại chỉ vì nhất định không vào đảng Cần Lao hay tham gia
phong trào
Cách Mạng Quốc Gia. Những ngày đầu tháng Tư, AP đề nghị cho cả gia đình
ông đi
Mỹ, nhưng ông từ chối.
A Joseph Brodsky poem from
1964 (three translations) (1)
In Villages God Does Not Live
by Joseph Brodsky
In villages God does not
live only in icon corners as the
scoffers claim, but plainly everywhere. He sanctifies each roof and
pan,
divides each double door. In villages God acts abundantly– cooks
lentils in
iron pots on Saturdays, dances a lazy jig in flickering flame, and
winks at me,
witness to all of this. He plants a hedge, and gives away a bride (the
groom’s
a forester), and, for a joke, he makes it certain that the game warden
will
never hit the duck he’s shooting at. The chance to know and witness all
of
this, amidst the whistling of the autumn mist, is, I would say, the
only touch
of bliss that’s open to the village atheist.
1964 From “Selected Poems”
(Harper & Row, 1973),
translated from the Russian by George L. Kline.
In Villages God Does Not Live in Corners
God does not only live in
the corners of the ceiling,
as many scoffers like to say,
but everywhere. He sanctifies roofs and plates,
bowls and cooking pans,
and honestly divides every double door
into halves.
In the village,
God is found in great overabundance.
On Saturday, he cooks lentils in the
big iron pot. He dances sleepily over the fire
and waves at me, as to a witness.
He sets up the fences and gives the
son of the forest warden a nice young
woman for a wife.
And for sure playful fun he lets the
game warden miss the duck he tries to
shoot about one thousand times.
The openness to recognize all these things,
by listening to the sounds of the heart,
is by the way,
the only grace,
which is open to the
atheist in the village.
–Joseph Brodsky, Collected Poems in English
IN VILLAGES GOD DOES NOT LIVE IN CORNERS
In villages God does not
live in corners
as skeptics think. He’s everywhere.
He blesses the roof, he blesses the dishes,
he holds his half of the double doors.
He’s plentiful. In the iron pot there.
Cooking the lentils on Saturday.
He sleepily jigs and bops in the fire,
he winks at me, his witness. He
assembeles a fence, he marries some sweetheart
off to the woodsman. Then for a joke
he makes the warden’s every potshot
fall just short of a passing duck.
The chance to watch all this up close,
while autumn’s whistling in the mist,
is the only blessed gift there is
in villages, for the atheist.
— Joseph Brodsky
(1940-1996)
(Translated from the Russian, by Glyn Maxwell and Catherine
Ciepiela.)
Note GCC đọc bài thơ trên, trong số báo The New
Yorker, Feb 25, 2013. Bản dịch của Glyn Maxwell và Catherine Ciepiela.
Tò mò, gõ Google, ra thêm 1 số bản dịch khác nữa.
In Villages
God Does Not Live in Corners
By Joseph
Brodsky (1940-1996)
Số báo này, còn bài thơ sau đây, chỉ
có đúng 1 câu, tả
đúng cái tình trạng của GCC bữa đó đó, hà, hà!
H/A viết, Cali chẳng có gì lạ, Noel năm nay, ngoài tí flu vương vất
trong gió.
Christmas
and New Year in California is always with flu in the air, so don't feel
miss
it.
Thành ra đừng tiếc, đã lỡ hẹn!
I'm sorry. Please take care. GNV
Bài thơ [câu thơ đúng hơn]
ly kỳ ở cái cụm từ "Tôi không thể không", I
cannot not...
ADVICE
Someone
dancing inside us
learned only
a few steps:
the
"Do-Your-Work" in 4/4 time,
the
"What-Do-You-Expect" waltz.
He hasn't
noticed yet the woman
standing
away from the lamp,
the one with
black eyes
who knows
the rhumba,
and strange
steps in jumpy rhythms
from the
mountains in Bulgaria.
If they
dance together,
something
unexpected will happen.
If they
don't, the next world
will be a
lot like this one.
BILL HOLM
The Rag and the Bone Shop
of the
Heart: A
Poetry
Anthology
[Ed by
Robert Bly, James Hillman and Michael Meade]
Khuyến cáo
Một người
nào đó bên trong chúng ta
Chỉ biết lèo
tèo vài đường “nhót”
Boléro thì
như đạp xế đạp,
“Son mì son”
thì như “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”
Thẳng chả
không để ý đến một em
Đứng xa xa
ngọn đèn
Người phụ nữ
với đôi mắt đen
Dáng thấp -
nhớ đại khái - hà, hà -
Rất rành
Rumba
Với những bước
đi hoang dại của dân miền núi Bún Gà Ri
Nếu hai đứa
mà cùng khiêu vũ
Ui chao sẽ
là một phép lạ
Nếu không,
thế giới tiếp theo, sẽ tới
Sẽ “vũ như cẩn”.
Thơ
Mỗi Ngày
BRANKO
MILJKOVIC
[1934-1960]
As a child
in Nis, Milkjovic witnessed two massacres during the war. He studied
literature
and philosophy at the university, translated French symbolist poetry
and
Russian poetry, and started publishing early. In 1960 he moved to
Zagreb, where
he hung himself in February 1961, a week after writing a letter to a
periodical
renouncing all his poetry. Since his death, his brief life has become
as
legendary as Sylvia Plath's.
Khi còn là 1
đứa bé, M. chứng kiến hai cú tàn sát trong cuộc chiến. Ông học văn
chương và triết
học ở đại học, dịch thơ tượng trưng (symbolic) Pháp và Nga, và khởi sự
in thơ sớm.
Năm 1960, ông dời đi Zagreb, và tự treo cổ ở đó, vào
Tháng Hai 1961, sau khi gửi thư cho 1
tờ báo, từ bỏ mọi bài thơ của mình. Kể từ khi ông chết, cuộc đời ngắn
ngủi của ông
trở thành 1 huyền thoại chẳng khác gì của Sylvia Plath
Sea without
Poets
You wait for
a right moment
To attune
yourself to words
But there is
no such poet
Nor a word
fully free
O bitter and
blind sea
In love with
shipwreck
Biển
đếch có thi sĩ
Mi đợi đúng lúc
Bèn thả hồn theo những con chữ
Nhưng làm chó gì có thi sĩ như thế
Làm gì có từ nào hoàn toàn thảnh thơi
Ôi biển đắng cay, ôi biển mù lòa
Tương tư tầu đắm
Ljubomir
Simovic
1935-
Simonic sinh
tại Uzice, học văn và triết tại Ðại học Belgrade. Thành công cả về viết
kịch và
làm thơ. Kể từ khi cuốn sách đầu tay, Slavic
Elegies, xb năm 1958, ông có thêm
một số tuyển tập và 1 cuốn thơ tuyển.
Breakfast
Didn't I say
last night it will snow?
What else
would there be but snow?
I no longer
wait for the rustle of wings,
Or some dove
to make my heart leap
And shine
its light on me.
Snow has
hatched in every den and lair
Putting out
every fire
The snow: our key and lock.
I woke in my
bed as if in another world,
As if in a
drift of snow.
The three hills were all white.
I put on my
cold boots, made a fire,
Cut three
rashers of bacon into the skillet
By the
window where it's starting to snow again.
The bacon
sizzles. I break an egg.
In the room
the shadows of jackdaws fly to and fro.
I rejoice
because of the egg.
Ljubomir
Simovic
The Horse
Has Six Legs
An anthology
of Serban Poetry, ed by Charles Simic
Ðóng đinh
Chúa
Chúa Giê Su
bị đóng đinh trên cây thập tự vàng
Mưa lạnh dội
xuống, rửa sạch Người
Nguời vươn rộng
tay
Như chơi đàn
accordion.
Người
nghiêng tai xuống gần nhạc cụ
Như để nghe
rõ thêm tiếng đàn
Không để ý đến
anh hàn nồi đi qua,
Lạnh và đói,
Chôm mẹ cây
đàn.
Chúng bỏ rơi
Người, lũ người ngạo mạn
Lũ ham vui,
đám nhảy nhót
Chỉ có chim
sẻ, dế, và những bông tuyết
Vẫn khiêu vũ
quanh Người.
Cây thập tự
thì ở ngã tư,
Khi đường
làng gặp đường tỉnh
Nếu bạn nghe
âm nhạc
Hãy ngưng lại,
và lắng nghe
Thực đấy, bạn
có thể nghe âm nhạc!
A Buddhist Poet
in Vietnam
Thơ Mỗi Ngày
Curses
1
May the wind
extinguish everything for you
except the
candle on your grave.
May you not
run away from the ax,
or the
cannon.
May you not
have fish in Fishville,
a bull in
Bullsville,
nor a single
sheep in Sheepsville.
May you be
afraid to meet your brother
without a
knife.
May you move
from your house to the cemetery.
May you find
neither a root nor a leaf.
May you stir
with a right hand
the soup
made with the left hand.
2
May you buy
a hat
and have
nothing to put it on.
May your
wife knead dust,
rain's bread
dough.
May your
hair give you the slip,
your flesh
too.
May you
raise in vain your chin
above the
flood.
May you
breathe only as much
as your
suffering requires.
3
May a man in
armor await you
wherever you
go.
May he ride
into your wheat,
into your
bed,
into your
church.
May your kin
rise against you.
All hounds
on your trail!
All evils on
what you hold dear!
May evil not
touch you
until you
raise your knife.
4
If in a
stranger's eye
you didn't
put the sun out.
If in the
hour of the wolf
you didn't
call out like a wolf.
May sun
shine for you out of the wind,
out of your
brother,
and a fish
in the brook,
the oak
tree, the unexpected guest.
With wheat
up to your waist
and clear
sky spreading,
with your
arm around your wife
may you
watch the back
of the
flood
.
Yosa Buson
Japanese
1716-1783
UPON
MARYUNA'S REQUEST FOR A VERSE
TO GO ON HIS
PAINTING OF A BLACK DOG
[Bạn cần 1 câu thơ cho 1 bức họa 1 con chó đen]
His bark
comes
out of the
darkness inside him
deep in
the
autumn night
Tiếng sủa từ khối đen trong nó
Vọng ra
Ở cõi tít mù của đêm thu
It is autumn
in me
but tomorrow
will come
and I will
miss tonight
Thu chìm trong Gấu
Nhưng ngày mai
sẽ tới
Và Gấu sẽ nhớ
đêm nay
Is it a
winter shower
or a mouse
running
over the
koto strings
Đậu bằng quá giá vũ như ti
Hay chỉ là con chuột dạo chơi trên mấy sợi dây đờn?
BASHO'S TOMB
AT KONPUKU-JI TEMPLE
Thăm mộ Basho
I will die
too
let me be a
dry grass flower
here by the
monument
Tớ sẽ chết
Hãy cho tớ là bông hoa cỏ khô
Bên nấm mồ
In the wild
winter wind
the voice of
the water is torn
falling
across the rocks
Gió Đông hung bạo,
Tiếng nước bị xé giữa những
tảng đá mới dữ dằn làm sao
I bury the
charcoal embers
in the ashes
my hut is
covered with snow
I wear this
hood
rather than
look as though
I belonged
to the drifting world
Silence
of an oak
grove
the moon
high in the trees
A mouse
peeps out
eyeing the
freezing oil
of my lamp
Whenever I
go to bed
with my
socks on
I have bad
dreams
PUTTING ON
MY STRAW HAT AND
SANDALS FOR
A JOURNEY
Since Basho
went
not a single
year
has lived up
to its promise
Kể từ Basho đi xa,
Không có năm nào vươn tới chỉ,
Như nó hứa hẹn với ông!
1990-2010,
haiku
translated
with Takaka Lento
W.S. Merwin
Thơ Mỗi Ngày
THE YOUNG
NIGHT
And now the
lustral waters of night absolve me
from the
many colors and the many forms.
In the
garden, birds and stars exalt
the
longed-for return of the ancient norms
of sleep and
shadow. Darkness is sealing
the mirrors
which copy the fiction of things.
Goethe said
it best: everything near becomes far.
Those four
words capture the entire twilight.
In the
garden, roses cease to be roses;
they wish to
be the Rose.
-C.M.
J.L. Borges: Poems of the Night
Note:
p. 137. The Young
Night:
Borges discussed the line by Goethe
quoted in the poem: "Alles Nahe
werde fern, everything near becomes far. Goethe was referring to
the
evening twilight. Everything near becomes far. It is true. At
nightfall, the
closest to us seems to move away from our eyes. So the visible world
has moved
away from my eyes, perhaps forever. Goethe could be referring not only
to
twilight but to life. All things go off, leaving us. Old age is
probably the
supreme solitude-except that the supreme solitude is death. And
'everything
near becomes far' also refers to the slow process of blindness which is
not a
complete misfortune. It is one more instrument among the many-all of
them
strange- that fate or chance provide," "Blindness," Selected
Non-Fictions (edited by Eliot Weinberger), New York, Penguin, 1999, p.
483.
Đêm trẻ
Và bây giờ
nước thanh tẩy của đêm
Xóa cho tôi rất
nhiều màu sắc và hình thể.
Trong vườn,
chim và sao tán tụng sự trở về hằng mong mỏi
Những tiêu
chuẩn xa xưa về ngủ và bóng
Đêm đen sẽ đóng
khằn những tấm gương
Chúng lập lại
giả tưởng của sự vật
Về cú này,
Goethe phán bảnh nhất, mọi vật gần
thì bèn xa,
[Cái "gì gì", ôm
em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới ?]
Chỉ mấy từ tóm
trọn chạng vạng
Trong vườn
những bông hồng ngưng là những bông hồng
Chúng trở thành
BHD.
Li Po
Chinese
701-762
QUIET NIGHT
THOUGHTS
I wake and
my bed is gleaming with moonlight
Frozen into
the dazzling whiteness I look up
To the moon
herself
And lie
thinking of home
-1966
W.S. Merwin
Tĩnh Dạ Tứ
Sàng tiền
khán nguyệt quang
Nghi thị địa
thương sương
Cử đầu vọng
minh nguyệt
Đê đầu tư cố
hương.
Lý Bạch
Ý Nghĩ Trong
Đêm Vắng
Trước giường
ngắm ánh trăng sa,
Trắng phơi mặt
đất, ngỡ là ánh sương
Ngẩng đầu
trông ngắm vầng trăng;
Cúi đầu lại
nhớ xóm làng ngày xưa.
Trần Trọng
San dịch
The Emperor
Wears a
smirk on his face.
Sits in a
wheelchair.
A black
cigarillo in one hand,
A live fly
in the other.
Hey, sweet
mama, he shouts.
I'm wearing
my paper crown today
And my
wraparound shades
Just for
you!
The Garden
of Eden parking lot
Needs
weeding,
And the
candy store
Is now
padlocked.
On the
street of Elvis look-alikes,
I saw the
Klan Wizard in his robes.
I saw the
panhandling Jesus
And heard
the wind-chime in his head .
•
It's live
honor-movie time,
Says the
Emperor,
A can of bug
spray in his hand.
He lets my
frail mother
Help him
cross the street.
She's
charmed by his manner and exclaims:
"Such a
nice boy!"
Even with
his empty eye sockets
And his
amputated legs .
•
When
midnight comes-
Commands the
Emperor-
Put a mike
up to the first roach
Crawling up
the kitchen wall.
Let’s hear
about their exotic dancers,
Their
tuxedos-for-rent places
And se e
their
witch trials
Are just the
ones we have
The priest
with a flycatcher
On the altar
of a church.
The child
left as a baby in a shoebox
Now having a
haircut in a barbershop.
The Emperor
and his three-legged dog
Peeking in
through the open door.
•
Make us see
what you see in your head,
Emperor.
I see toy
soldiers under everyone's feet.
I see a
house of cards about to falL
I see a
parrot in a cage admiring himself in a mirror.
I see a tall
ladder meant to reach the moon
teeming with
demons and men.
Charles Simic: New and Selectecd Poems
ODE WRITTEN
IN 1966
No one is
the homeland. Not even the rider
High in the
dawn in the empty square,
Who guides a
bronze steed through time,
Nor those
others who look out from marble,
Nor those
who squandered their martial ash
Over the
plains of America
Or left a
verse or an exploit
Or the
memory of a life fulfilled
In the
careful exercise of their duties.
No one is
the homeland. Nor are the symbols.
No one is
the homeland. Not even time
Laden with
battles, swords, exile after exile,
And with the
slow peopling of regions
Stretching
into the dawn and the sunset,
And with
faces growing older
In the
darkening mirrors,
And with
anonymous agonies endured
All night
until daybreak,
And with the
cobweb of rain
Over black
gardens.
The
homeland, friends, is a continuous act
As the world
is continuous. (If the Eternal
Spectator
were to cease for one instant
To dream us,
the white sudden lightning
Of his
oblivion would burn us up.)
No one is
the homeland, but we should all
Be worthy of
that ancient oath
Which those
gentlemen swore-
To be
something they didn't know, to be Argentines;
To be what
they would be by virtue
Of the oath
taken in that old house.
We are the
future of those men,
The
justification of those dead.
Our duty is
the glorious burden
Bequeathed
to our shadow by those shadows;
It is ours
to save.
No one is
the homeland-it is all of us.
May that
clear, mysterious fire burn
Without
ceasing, in my breast and yours.
J.L. Borges
[W. S.
Merwin]
Bài “Ode” viết
năm 1966
Chẳng ai là
quê hương, đất mẹ, quê cha.
Ngay cả cái
tên kỵ mã
Sừng sững trong
rạng đông, trong cái ô vuông trống rỗng
Kẻ dẫn dắt
con chiến mã đồng qua thời gian
Cũng không,
là những kẻ từ mớ cẩm thạch, hoa cương nhìn ra
Cũng không,
là những kẻ hoang phí tro than chiến trận của họ
Trên những cánh
đồng Mỹ Châu
Hay để lại một
câu thơ, hay một kỳ công
Hay hồi ức của
một đời được hoàn tất
Bằng 1 thực
thi kỹ lưỡng, những bổn phận của họ
Chẳng ai là
quê nhà. Những biểu tượng cũng không.
Không ai là
quê nhà. Ngay cả thời gian
Chất đầy những
trận đánh, gươm đao, lưu vong tiếp theo lưu vong,
Và với những
con người, trải dần qua những vùng, miền
Vươn tới rạng
đông, vươn vào hoàng hôn
Và với những
bộ mặt cằn cỗi dần, già dần
Trong những
tấm gương tối dần
Và với những
cơn hấp hối vô danh kéo dài
Và với lưới
mưa đan
Trên những
khu vườn đen
Quê nhà,
bạn
ơi, là một hành động liên tục
Như thế giới
liên tục (Giả như Tên Khán Giả Vĩnh Viễn ngưng 1 khoảnh khắc
Để mơ tưởng
chúng ta, thì cái tia sáng bất thình lình trắng
Của niềm lãng
quên của hắn ta, sẽ đốt cháy bùng chúng ta.)
Chẳng ai là
nhà, nhưng tất cả chúng ta sẽ thật xứng đáng với lời thề xa xưa
Mà những tên
phong lưu, tài tử phong nhã, đã từng thề -
Trở thành một
điều gì chúng không biết, Trở thành Ác hen ti na;
Trở thành điều
họ sẽ là, bằng đạo hạnh
Lời Thề Thốt
đã được thốt ra trong căn nhà cũ này.
Chúng là tương
lai của những con người đó.
Sự chứng thực
của những kẻ đã chết đó.
Nhiệm vụ chúng
ta là 1 gánh nặng vinh quang
Để lại cho cái
bóng của chúng ta, nhờ những cái bóng đó;
Đó là của chúng
ta, để mà gìn giữ
Chẳng ai là
nhà – đó là cả chúng ta
Cầu sao cho ngọn
lửa sáng ngời, bí ẩn cháy
Không ngừng,
trong lồng ngực của ta và của bạn
Note: Tự
dưng bài thơ này lòi ra, với 1 cái note đính kèm:
Mi thử đổi từ “homeland”
thành
“f-land" [flagland], thì nó bật ra tính thời sự của bài "ode" viết năm
1966, của Borges
[Gấu viết "Cõi Khác" 1969]:
Không có thứ cờ nào là quê
nhà!
1969
Hay những lần gặp sau đó, những
buổi tối
ngồi trò chuyện ở phòng khách trong khi mấy đứa em, mấy cô bạn ở chung
nhà đã
lui vào phía trong. Kể cô nghe những chuyện lặt vặt ở sở, cuốn phim vừa
coi,
cuốn sách vừa đọc, xứ Bắc Kỳ xa xôi, và Hà-nội. Nghe cô kể những năm
học trường
quận lỵ, trung học Mỹ Tho, đại học Đà Lạt. Nghe cô giảng giải về một
miền đất
không hoàn toàn giản dị. Phải nhạy cảm lắm mới nhận ra chút dấu hiệu
thật mơ
hồ, mong manh của sự chuyển mùa: Mối tình lúc đầu giống như chớm thay
đổi thời
tiết. Tự nhủ thầm cô bạn chắc không nhận ra, và sẽ chẳng bao giờ dám
thú nhận.
Sau này nhớ lại, đã thực sự yêu thương, không phải lần vì quá cô đơn,
lén viết
lên trang tiểu thuyết Tô Hoài cô đang đọc, trong lúc cô lui vào trong,
Je vous
aime, nhưng khi tới báo tin đứa em trai tử trận, không gặp, đành nhờ
một cô bạn
ở chung nhà nói giùm, tin chắc cô sẽ hiểu.
Và trong những đêm ngồi canh
xác đứa em
tại nhà Hội thị xã Sóc Trăng, chờ máy bay đưa về nghĩa trang quân đội
Gò Vấp
mai táng, trong lúc loay hoay thắp từng cây nến trên quan tài bị gió
thổi tắt,
hay nhặt nhạnh từng mẩu nến, đốt lên ngọn lửa ngồi xúm quanh, chia nhau
chút
hơi ấm, hơi lạnh của người đã chết, nghe những người lính, viên sĩ quan
cùng
đơn vị nói về những ngày đầu chuẩn uý tới nhậm chức, những giờ phút
cuối...
Trong những giờ phút thê lương vẫn nghĩ rằng một ngày nào sẽ kể lại tất
cả.
Sau cùng phải cảm ơn cô bạn đã
cho có đủ
thời giờ kể hết mối tình. Con chó dại trong một phút cô đơn, tỉnh táo
không còn
sợ hãi cái bóng của chính nó. Những lần từ biệt cô trên đường trở về,
thành phố
những đêm run rẩy chờ đợi những đợt pháo kích bất thần giáng xuống.
Những ngã
tư đường chằng chịt những vòng kẽm gai. Có những khoảng đường phải
xuống xe dẫn
bộ. Đôi khi đi lầm vào một quãng đường cấm phải đi ngược trở lại. Trong
bóng
đêm nhợt nhạt của những ngọn đèn đường, nhìn thấy những mũi súng đen
sâu thăm
thẳm chứa đầy ngờ vực đe dọa. Nhìn thấy hết mọi nỗi bi thương, nếu
chẳng may
sinh ra mà không được gặp cô bạn, nếu chẳng may bị cô hất hủi, nói
không, nói
không thể yêu, không thể hiểu được tình yêu là gì. Nhiều lần tới nhà
khi đã quá
khuya, trong nhà đèn đã tắt, tất cả chắc đã yên ngủ từ lâu: Hoặc hết
sức muốn
gặp. Muốn nhìn thấy bóng dáng. Nghe tiếng chân di động. Tiếng lách cách
mở cửa.
Rồi tiếng nói, tiếng nói... Muốn liều lĩnh đập cửa ầm ầm. Bắt buộc cô
hốt hoảng
trở dậy, vội vã bật đèn, vội vã mở cửa. Bắt buộc cô phải nghe, phải
nói, phải
gật đầu ưng thuận, trong khi không có thì giờ để phân vân, cân nhắc...
Hoặc không hề có ý định gặp.
Không hề
trông mong cô sẽ giúp đỡ, thông cảm... Đứng yên lặng trước mái hiên
hàng giờ, nghe
tiếng chuột chạy trên đám lá khô, tiếng mèo kêu thảm thiết trên mái
ngói, chờ
cơn cuồng nộ vô ích tàn lụi dần rồi thất thểu rời con ngõ. Một lần xe
hết xăng,
đứng xớ rớ ngay giữa mặt lộ, mơ hồ hy vọng một tên khùng, một thằng
say, hay
một người lính ban cho một cái chết lãng nhách, nhưng ít ra còn có thể
giải
thích như một tai nạn. Sau cùng một người đi đường đã thương tình kéo
về tận
đỉnh cồn. Nơi làm việc là tầng lầu trên cùng của một building, bất động
sản của
người Pháp. Những đêm trực thường lợi dụng những lúc rảnh rỗi giao Đài
cho
người phụ ca, lấy xe chạy vòng vòng. Ghé quán cà phê khu Đa Kao, nơi
đứa em
từng ngồi dán lưng vô tường chờ Thần Chết dựng dậy. Quán cà phê túi, hủ
tíu Tầu
khu ngã Sáu Sài-gòn, hồi tưởng những ngày còn đi học, cuốn sách trên
tay, ly
hồng xà trước mặt và cứ thế ngồi suốt buổi. Ghé sạp thuốc lá, mua từng
điếu lẻ,
một thói quen từ hồi còn đi học, sống bằng sự yêu thương đùm bọc của Bà
Trẻ
trong căn nhà ở cuối hẻm Đội Có, Phú Nhuận. Ghé sạp báo mua một tờ có
đăng
truyện chưởng Kim Dung. Lướt qua những hàng chữ lớn nơi trang nhất. Một
lần đọc
thấy tin quận lỵ quê cô bạn bị pháo kích, sáng sớm hôm sau vội ghé nhà
rồi cả
hai ra bến xe đón những chuyến đầu tiên từ lục tỉnh lên. Khi biết cuộc
pháo
kích không gây thiệt hại nghiêm trọng, đã đánh bạo rủ cô ra Sài-gòn. Đó
có lẽ
là lần du ngoạn đầu tiên.
Một lần trên đường về, khi chạy
xe đến gần
khu chợ Bến Thành, từ xa đã nhìn thấy một gói đồ nằm giữa mặt lộ, đường
Trần
Hưng Đạo, dưới ánh đèn chói lòa. Có tiếng súng nhỏ rồi tiếng còi xe
Quân Cảnh
thổi dạt xe cộ, người đi đường qua hai bên. Khi cơn báo động hoảng đã
qua đi,
trong một thoáng bỗng nhận ra vẻ tiều tụy của thành phố. Của mối tình.
Ngay cả
những giây phút êm đềm ngồi quây quần bên mấy đứa em, mấy cô bạn, vẫn
cảm thấy
cực kỳ cô đơn, có cảm giác như không còn thương yêu nổi ai, đã tự lừa
dối khi
nghĩ rằng đã yêu thương cô bạn. Đã lấy mức độ pháo kích làm thước đo
tình yêu,
đã lầm tiếng hỏa tiễn là tiếng reo hò đắc thắng của mối tình: Nhiều khi
quẩn
trí còn mong mỏi thành phố bị pháo kích hoài hoài để được sống mãi mãi
những
giờ phút thê thảm nhất của mối tình.
Những ngày Mậu
Thân căng thẳng,
Đại Học
đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng
hoàng
khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng
hỏa tiễn
réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy
cùng với
những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn
sống sót,
vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách bình thường, giản dị
như thế
nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...
Thơ Mỗi Ngày
MY GIFT TO YOU
My gift to you will be an
abyss, she said,
but it will be so subtle you'll perceive it
only after many years have passed
and you are far from Mexico and me.
You'll find it when you need it most,
and that won't be
the happy ending,
but it will be an instant of emptiness and joy.
And maybe then you'll remember me,
if only just a little.
Roberto Bolano
The Paris Review Summer
2012
Xuống phố, đổi phim, ghé
tiệm sách, mua số The Paris Review có
bài thơ tuyệt vời của Bolano, tả đúng tâm sự Gấu, đúng cái cảnh tình cờ
gặp lại Em, khi Em đi chợ Bến Thành, về, và “kín đáo” nói cho biết, tại
làm sao Em vờ Gấu, và chọn một anh bồ, cùng học Y Khoa. (1)
Quà BHD tặng Gấu
Quà ta tặng mi sẽ là 1 vực
thẳm, em nói
Nhưng nó
"tế vi" đến nỗi mi không thể nào nhận ra
Chỉ sau
thật nhiều năm, có khi, chỉ sau khi ta đi xa rồi,
Và cả hai
đều chạy ra khỏi cả hai quê hương Bắc Kít và Nam Kít rồi
Thì lúc
đó mi mới tìm thấy món quà ta tặng mi
Khi mà mi
cực cần đến nó
Và chắc
chắn không phải là một kết thúc hạnh phúc
Nhưng sẽ
là một thoáng chốc của sự trống rỗng và niềm vui.
Và có
thể, chỉ lúc đó mi mới nhớ ta,
Và mới
hiểu cái gọi là "mono no aware",
“Nỗi buồn cháy da, cháy thịt khi ta đã đi ra
khỏi đời của mi".
Nhưng
cũng chỉ được 1 tí tí.
The Lights
Are On Everywhere
The Emperor
must not be told night is coming.
His armies
are chasing shadows,
Arresting
whippoorwills and hermit thrushes
And setting
towns and villages on fire.
In the
capital, they go around confiscating
Clocks and
watches, burning heretics
And painting
the sunrise above the rooftops
So we can
wish each other good morning.
The rooster
brought in chains is crowing,
The flowers
in the garden have been forced to stay open,
And still
yet dark stains spread over the palace floors
Which no
amount of scrubbing will wipe away.
Charles
Simic: New and selected poems
Ánh sáng thì
ở mọi nơi
Sáu Dân, aka Víp Va Ka,
aka Hồ Tôn Hiến phải không được bẩm báo, đêm đang tới
Những binh đoàn
của Người Vĩ Đại Học Lớp Một đang săn đuổi những cái bóng
Bắt giữ chim
đợp muỗi, chim hét ẩn dật
Đốt thành
phố và làng xóm
Ở Xề Gòn, chúng xục xạo
khắp nơi
Tịch thu đồng
hồ treo tường, đồng hồ đeo tay, đốt sách, thiêu dị giáo
Cho sơn mặt
trời mọc phía bên trên những mái nhà
Nhờ vậy chúng
ta có thể chào nhau, good morning.
Chú gà trống
bị xiềng, được đem tới, đang gáy
Bông trong vườn
hoa Tao Đàn bị ép, phải nở,
Tuy nhiên những
vết thâm xì, loang lổ trên sàn dinh Độc Lập
Thì đếch làm
sao kỳ cọ cho sạch, dù có đổ cả đống nước mắt
Ba mươi năm
mới có ngày hôm nay
Vui
sao nước
mắt lại trào!
Mật
khu Lê Hồng
Phong
Tướng giỏi cầm
quân trăm trận thắng
Còn ngại
hành quân động Thái An
Cát lún bãi
mìn rừng lưới nhện
Mùa khô thiếu
nước lính hoang mang
Ðêm nằm ngủ
võng trên đồi cát
Nghe súng rừng
xa nổ cắc cù
Chợt thấy
trong lòng buồn bát ngát
Nỗi buồn
sương khói của mùa thu
Mai ta đụng
trận ta còn sống
Về ghé Sông
Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi
buồn cùng gái điếm
Vung tiền
mua vội một ngày vui
Ngày vui đời
lính vô cùng ngắn
Mặt trời
thoát đã ở phương tây
Nếu ta lỡ chết
vì say rượu
Linh hồn chắc
sẽ biến thành mây bay
Linh hồn ta
sẽ thành đom đóm
Vơ vẩn trong
rừng động thái an
Miền Bắc
sương mù giăng bốn quận
Che mưa giùm
những đám sương tàn
Nguyễn Bắc Sơn
Evening
The snail
gives off stillness.
The weed is
blessed.
At the end
of a long day
The man
finds joy, the water peace.
Let all be
simple. Let all stand still
Without a
final direction.
That which
brings you into the world
To take you
away at death
Is one and
the same;
The shadow
long and pointy
Is its church.
At night
some understand what the grass says.
The grass
knows a word or two.
It is not
much; It repeats the same word
Again and
again, but not too loudly ...
Charles
Simic
Chiều Tối
Con ốc sến rùng
mình 1 phát
Cái mầm
thì được chúc phúc
Cuối ngày dài
Con người tìm
thấy nguồn vui, nước, bình an
Hãy cứ giản
dị như thế, tất cả. Hãy đứng im
Đếch cần biết
hướng đi sau cùng
Điều mang bạn
tới thế giới này
Đưa bạn qua thế
giới bên kia
Thì là một, như nhau
Cái bóng dài,
nhọn
Thì có nhà
thờ của nó
Vào ban đêm
một người nào đó hiểu, cỏ rì rầm điều gì.
Nó biết một,
hay hai từ
Không nhiều.
Nó lập đi lập
lại vưỡn một từ
Không lớn giọng
BERTOLT
BRECHT
"When
I'd reported to the couple, thus"
The
Augsburger walks with Dante through the hell of the departed. He
addresses
the
inconsolable and reports to them that on earth some things have changed.
When I'd
reported to the couple, thus
That up
there no one murders now for gain
Since no one
owns a thing, the faithless spouse
Who'd
beguiled that woman so improperly
Lifted his
hand, now tied to hers by chains
And looked
at her and turned perplexed to me
So no one
steals, if there's no property?
I shook my
head. And as their hands just touched
I saw a
blush suffuse the woman's cheeks.
He saw it
too and cried, She hasn't once
Shown so
much since the day she was seduced!
And
murmuring, Then there's no abstinence?
They moved
off swiftly. And the ties that fused
Them tight
were of no weight or consequence.
Translated from the German
by Tom
Kuhn
Poetry
Magazine Nov 2014
Khi tớ
nói với
cặp vợ chồng như thế
Khi tớ nói với
họ, như thế đó
Rằng trên thế
gian không còn sát nhân để chiếm đoạt
Kể từ khi chẳng
ai còn gì
Người chồng vô
đạo
Từng lừa dối
người đàn bà một cách chẳng ra gì
Nhắc cánh
tay lên, lúc này bị xiềng vào người đàn bà
Nhìn bà vợ,
và quay qua nhìn tớ, vẻ bối rối
Vậy là chẳng
có ai ăn cắp, nếu chẳng có của cải?
Tớ lắc đầu.
Và khi tay của
họ chạm nhau
Tớ nhìn thấy
má người đàn bà ửng đỏ
Ông chồng cũng
thấy, và bèn khóc.
Bà chẳng bao giờ rạng ngời
Từ cái bữa bị ông chồng dụ khị!
Và lẩm bẩm,
vậy là cũng chẳng kiêng khem?
Và như
thế,
họ từ từ rời bỏ
Những sợi dây
buộc họ, thật chặt,
Chẳng
sức nặng,
mà cũng chẳng hậu quả
|
|