|
Blues
Eighteen
years I've spent in Manhattan.
The landlord
was good, but he turned bad.
A scumbag,
actually. Man, I hate him.
Money is
green, but it flows like blood.
I guess I've
got to move across the river.
New Jersey
beckons with its sulphur glow.
Say,
numbered years are a lesser evil.
Money is
green, but it doesn't grow.
I'll take away
my furniture, my old sofa.
But what
should I do with my windows' view?
I feel like
I've been married to it, or something
Money is
green, but it makes you blue.
A body on
the whole knows where it's going.
I guess it's
one's soul that makes one pray,
even though
above it's just a Boeing.
Money is
green, and I am gray.
1992
Joseph Brodsky: So Forth
Blues
Mười tám niên
của tớ qua đi ở Manhattan.
Tên chủ nhà
lúc đầu OK, nhưng sau đó đếch được.
Một tên khốn
kiếp. Man, sao tớ tởm hắn ta thế!
Tiền thì
xanh, nhưng nó chảy như máu.
Tớ nghĩ, chắc
là phải khăn gói quả mướp làm 1 chuyến qua sông
New Jersey gật
đầu, vẫy vẫy, với khối ánh sáng rực lửa của nó
Nè, mười mí
năm qua đi thì cũng không đến nỗi tệ.
Tiền thì
xanh, nhưng nó không nẩy nở.
Tớ mang đi cái bàn, cái
ghế, cái tràng kỷ cũ.
Nhưng làm
sao bi giờ, với những lần đứng ở cửa sổ ngó trời đất, đường phố?
Không hiểu vì
sao không đóng bao giờ:
Tớ cảm thấy mình kết hôn với nó, lấy nó làm vợ, hay 1 điều
gì đại khái như thế.
Tiền thì
xanh, nhưng nó khiến bạn thành “blue”
Nghe tiếng cơm
sôi cũng nhớ nhà:
Cơ thể, trọn 1 cục, nó biết, nó đi đâu, cho dù chỉ là 1 chuyến
giang hồ vặt
Tôi nghi là,
hồn ai người nấy giữ, người đó cầu nguyện
Cho dù, phía
bên trên kia, chỉ là cái Boeing.
Tiền thì
xanh, và Gấu thì nhớ Hải Âu
[To U. Merry
Christmas. Take Care. GNV]
BYPASSING RUE DESCARTES
Né con phố Descartes
Né con phố Descartes
Tớ đi xuống phía sông Seine, lấm la lấm lét, gã du lịch trẻ,
tên mán, tên mọi,
vừa mới tới thủ đô thế giới
Bọn chúng tớ, đông lắm, từ
Jassy, và Koloshvar, Wilno, Bucharest, Saigon và Marrakesh
Xấu hổ nhớ những thói quen, truyền thống, tập quán, cổ tục ở xứ sở quê
hương nhà chúng tớ
Những thứ mà chẳng một ai ở đây, được nghe nói tới, hay nghe kể :
Vỗ tay 1 cái,
Và thế là mấy đứa người hầu gái chân trần chạy vội vô
Vừa chia đồ ăn vừa đọc thần chú
Đọc kinh cầu nguyện, cả nhà, cả chủ lẫn tớ.
Tớ để những vùng mây mù ở
phiá sau
Tớ tiến vô xứ phổ cập, ngỡ ngàng và ham muốn
Chẳng mấy chốc, rất nhiều
đứa, từ Jassy và Koloshvar, hay Saigon hay Marrakesh,
Bị giết vì họ muốn huỷ bỏ những tập tục ở quê nhà của họ
Chẳng mấy chốc những đồng
chí của họ ‘nàm’ cách mạng, khởi nghĩa, nổi dậy, cướp chính quyền..
Thế là chúng làm thịt, thủ tiêu, cho đi mò tôm đám Ngụy, Việt Gian....
Nhân danh những tư tưởng đẹp đẽ, phổ cập
Trong khi đó, thành phố
ứng xử thật thích hợp với bản chất tự nhiên của nó
Rù rì với tiếng cười ở nơi cổ họng trong bóng tối
Nướng thứ bánh mì giống như những đôi đũa và rót rượu vang vô những cái
bình, cái vại bằng xành, bằng gốm.
Dửng dưng, như nó vẫn, tới ba cái trò vinh dự hay nhục nhã, hay cao cả,
hay vinh quang
Bởi vì ba cái trò này thì đã được thực hiện từ đời tám hoánh nào rồi,
và tự biến thành những đài tưởng niệm thằng chó nào chẳng ai còn biết!
Hay biến thành những bài aria thật khó mà nghe ra
Hay những tiết lảm nhảm, lèm bèm.
Thế là tớ lại dựa vào bờ
tường bằng đá cẩm thạch cứng,
Như thể tớ vừa trở về, từ những chuyến du lịch xuyên
qua những thế giới ngầm, thế giới bên kia, vương quốc của ma quỉ,
Và bất thình lình tớ nhìn thấy ánh sáng từ cái bánh xe thời gian vào
những lúc giao mùa
Khi những đế quốc sụm xuống, và những con người đã có thời sống, thì
bây giờ, ngỏm mẹ tất cả rồi
Làm đếch gì có thủ đô của thế giới, dù ở đây, hay bất cứ ở nơi nào,
dù Bắc Bộ Phủ của VC, hay là Bắc Kinh của Thiên Triều!
Và những cổ tục, hủ tục, tập tục nhỏ bé đã bị huỷ bỏ, triệt tiêu, đào
thải… thì lại bò về, trong tí hào quang nho nhỏ của
chúng
Và tớ ngộ ra 1 điều, thời gian của những thế hệ con người, thì đếch
phải thời gian của trái đất!
Về những tội lỗi nặng nề
của GNV, thì tớ nhớ ra 1 cái, thật là sống động:
Như thế nào, một lần, đi trên một con đường, bên 1 con suối, trong 1
cánh rừng,
Tớ đẩy 1 hòn đá lên 1 con rắn nước nằm cuộn tròn trên cỏ,
Và những gì mà tớ gặp phải ở trên cõi đời ô trọc này thì đều là những
hình phạt do tội lỗi đó mà ra!
Thứ hình phạt sẽ tới với bất cứ 1 ai, bất cứ kẻ nào dám bẻ gẫy một
ta-bu, 1 điều cấm kỵ!
Czeslaw Milosz/GNV
Milosz viết:
Mặc dù những tư tưởng phổ
cập thì không còn hứng thú cho lắm đối với chúng tôi, từ Wilno, Warsaw,
hay Budapest, điều này không có nghĩa, chúng mất mẹ hứng thú ở mọi nơi.
Những tên ăn thịt người trẻ tuổi, nhân danh những nguyên lý cứng nhắc,
làm thịt [M dùng chữ butcher], nhân dân của chúng, là dân chúng
Cambodia, đám này đều đã từng du học Paris, học Sorbonne. Chúng giản dị
trồng những tư tưởng triết học mà chúng học được, tại xứ sở của chúng,
[giống như Bác H của Mít chúng ta, áp dụng 1 cách thông mình, thiên tài
vào xứ Mít, trồng trẻ con Bắc Kít, bằng nọc độc hận thù!]
Ui chao, GNV này đã từng
viết y chang, như trên [lại tự thổi, hà hà!], trong truyện ngắn "đầu
tay", khi còn ở trại tị nạn Thái Lan:
Gặp lại những nhân vật của
Koestler, những nhân vật văn chương còn mang nặng những nét đặc thù của
nguyên mẫu ngoài đời, những Roubachof suốt đời tắm bằng máu của kẻ
khác, kể cả của người yêu, bạn bè, đến khi chết lại mong trở thành
những Thánh Tử Đạo, đọc lại nhhững câu văn mang sự thực khủng khiếp còn
hơn cả những lời nguyền rủa: "Bằng roi vọt chúng ta quất lên đám đông
đang rên rỉ, bắt họ hướng về hạnh phúc chỉ có tính tương lai và hoàn
toàn lý thuyết...", tôi bỗng nhận ra một điều thật giản dị: Nếu những
tác phẩm lớn đều cưu mang trong nó bóng dáng của những tác phẩm lớn
khác - một cách nào đó Hemingway chú giải Joyce, Camus mô phỏng Kafka,
rõ ràng Garcia Marquez viết lại Faulkner... - Cũng vậy, những bạo chúa
chỉ là những bản sao của những bạo chúa khác. Staline bắt chước Néron,
cả hai đều có tham vọng văn chương, một muốn làm thi sĩ, một muốn ngự
sử văn đàn, kẻ ban phát giải thưởng văn học. Mao diễn lại tuồng đốt
sách, chôn học trò. Molotov chỉ mong người đời coi là một Robespierre
của Cách Mạng Nga. Người ra lệnh bắn vào sinh viên biểu tình tại Thiên
An Môn là một học trò đắc ý của Chu Ân Lai, ông này lại là một học trò
đắc ý nhất của Cách Mạng Pháp. Polpot đã từng du học ở Paris. Tất cả
đều tâm đắc một điều: Không có một cuộc cách mạng nào mà không có quá
độ. Một cuộc cách mạng không đổ máu thì rất đáng ngờ.
Lần Cuối
Sài Gòn
V/v Làm thịt con rắn nước.
Milosz giải thích, vấn đề
không phải làm thịt bất cứ 1 sinh vật là tội lỗi, nhưng mà là, ở xứ
Lithuania của chúng tôi, rắn nước được coi là linh thiêng [holy]. Người
ta thường đặt những bình sữa ở trước thềm nhà cho chúng, và coi chúng
tượng trưng cho sự màu mỡ, sự màu mỡ của đất đai, và của gia đình, và
Mặt Trời yêu mấy chú rắn nước. Có 1 bài đồng dao Lithuania, “Đừng để 1
chú zaltys chết trên mặt cỏ. Hãy chôn nó. Chỉ nội nhìn thấy 1 chú rắn
nước nằm chết trên mặt cỏ là mặt trời bật khóc”
Czeslaw
Milosz: The Witness of Poetry
Note: Bài
thơ này, TV đã post & dịch. Nay thêm lời bàn của Robert Hass, trong
có nhắc
tới Bác Hồ thân yêu của Mít. Hóa ra là, thời gian Bác làm nghề chụp
hình, ở
Paris, thì Milosz cũng ở Paris!
Vậy mà không
quen nhau.
Hass là người cùng với Milosz, dịch & giới thiệu rất nhiều thơ
& thi sĩ
thế giới.
*
In a note to
the poem, in his Collected Poems (Ecco/Harper), Milosz writes: "In
Lithuania, where the author grew up, many pagan beliefs survived, among
them
the cult of water snakes, which were associated with the sun. A strict
taboo
protected a water snake from any harm inflicted by man."
Milosz gets
so much history into this poem. He's thinking, I'm sure, about the
Marxism, or
rather the Stalinism, of Parisian intellectuals in the 1930s. It
occurred to me
that Ho Chi Minh must have been in Paris at the same time Milosz was,
and lots
of others who would figure in the history of the century. This
poem-Lithuania,
like Poland, had been gobbled up by the
Russians-comes down on the side of local custom and against empire.
Custom, but
not tribe. It interested me to read that the water snake is associated
with the
sun. It argues against the grand ideas, which must be part of what he
means by
"bypassing Rue Descartes," but not against ideas. The sun, after all,
is the source of life. To place a prohibition on our relationship to
some aspect
of nature seems to be for him a way of setting all the political and
tribal
passions of the "time of human generations" aside and acknowledging
the time of the earth, wondering at the time of the earth. Poems, of
course, are not finally made from ideas. What's so vivid to me in this
one is
that young man dazed by Paris and the old man's sudden vision of "the
reeling wheel of the seasons." An image to think about as the last year
of
the century turns toward its winter.
Robert Hass: Now & Then
November 7 [1999]
Czeslaw
Milosz: An Argument About Imperialism
TOMAS
TRANSTROMER: A TRIBUTE
ROBERT
HASS
Zbigniew Herbert
Request
Teach us too
to fold our fingers
To brace a
door on the other side
of rooms of
a love already lost
may what
dreamed of happiness
and
shielded a slender flame
when the
need arises form afist
and after
the struggle is ended
allow us to
straighten our fingers
even if it leaves us only a void
taking
defeat in an open hand
holding a
skull in soft fingers
at that
moment you start again
the great
cause of open hands
a playful
traveling over strings
the ultimate
grain of salvation
Zbigniew
Herbert
Yêu cầu
Hãy cũng dạy
chúng ta khum ngón tay
Ôm phía bên
kia cửa
Những căn
phòng của một tình yêu đã mất
Cầu, điều mơ
tưởng hạnh phúc
Che chở một
ngọn lửa mỏng manh
Khi sự cần
thiết dâng lên tạo thành quả đấm
Và khi cuộc
chiến đấu đã chấm dứt
Cho phép duỗi
ngón tay
Kể cả cái
còn lại,
Chỉ là một
trống rỗng
Nắm thất bại
bằng bàn tay mở
Cầm cái sọ bằng
những ngón tay mềm mại
Vào đúng lúc
đó, bạn lại bắt đầu
Nghĩa cả, bàn
tay mở rộng
Cuộc du ngoạn
trên những sợi dây đàn
Hạt tối hậu
của sự cứu rỗi
Zbigniew
Herbert
Trên Blog NL
thấy có đi một đường chê Raymond Carver.
Có thể, nếu
không có cái tay biên tập, số phận Ray sẽ khác. Nhưng không có bột làm
sao nên
hồ.
Với riêng Gấu. Carver có những bài thơ thần sầu. Czezlaw Milosz cũng
nhận
ra điều này, và có những dòng thật là đẹp về Ray, trong tuyển tập thơ
của ông.
Rushdie
cũng vậy.
Raymond
Carver
Trên TV đã từng đăng thơ
Carver. Từ Fires, từ báo, tạp chí. Bữa nay chơi luôn cả tập.
Hà, hà!
Ông này, đời cũng thê lương chẳng kém gì Scott Fitzgerald.
May tí chót đời cũng đơ đỡ.
Thơ RC rất đỗi
thê lương, và nỗi cô đơn đến với chúng ta, rất đỗi bất ngờ. Trong thơ
ông có nỗi
buồn cháy da cháy thịt, nhưng không phải là do mất 1 người thân, thí dụ
như bài
sau đây, GCC thật mê.
Chiều tối
Tôi câu cá 1
mình
vào buổi chiều
tối mùa thu tiều tụy đó,
Màn đêm cứ
thế mò ra.
Cảm thấy,
mất mát ơi
là mất mát
và rồi,
vui ơi là
vui,
khi tóm được
một chú cá hồi bạc,
mời chú lên
thuyền
nhúng 1 cái
lưới bên dưới chú.
Trái tim bí
mật!
Khi tôi nhìn
xuống làn nước xao động,
nhìn lên đường
viền đen đen của rặng núi
phiá sau
thành phố,
chẳng thấy gợi
lên một điều gì,
và rồi
tôi mới đau
đớn làm sao,
giả như sự
chờ mong dài này,
lại trở lại
một lần nữa,
trước khi
tôi chết.
Xa cách mọi
chuyện.
L'AUTRE VIE
Et
maintenant l'autre vie.
Celle où
on ne fera pas d'erreurs.
Lou
LIPSITZ.
Cõi Khác
Nào, bây giờ là cõi khác
Cõi đếch có lầm lẫn
Mới tậu, hàng qua tay
[second-hand] (1)
Thằng chả sống
ở đâu đó, giữa mộng và thực
“He lived in
a state somewhere between reality and a dream”
Luơng tri biểu
chúng ta, những sự vật trên thế gian này chỉ hiện hữu tí ti, và cái
thực
tại thực
thì chỉ ở trong mộng.
“Common
sense tell us that the things of the earth exist only a little, and
that true
reality is only in dreams”
Charles
Baudelaire
Dedication of Les Paradis Artificiels (1860)
RC ngỏm vì
rượu, giả như hầu hạ Cô Ba của Gấu, cũng đặng!
[Note: Ray bỏ được rượu, nhưng sau đó, chết vì ung thư]
Một câu thật
tuyệt của RC, trong Sổ Tay:
“Tớ đếch biết
tớ muốn cái gì, nhưng mà lúc này tớ muốn nó, I don’t know what I want,
but I
want it now”.
Còn 1 cái tít
của 1 chương sách trong tiểu sử RC, tặng Sông
của NNT, thì thật là tuyệt, tuy chưa đọc Sông, nhưng đọc điểm Sông:
Where Water Comes Together
with Other
Water:
Nơi Nước Quần Tụ, và Quần Tụ với Nước Khác
Hay là chơi
luôn cái tít của Thảo Trần, Nơi Dòng Sông
Chảy Về Phía Nam!
RAYMOND
CARVER
1938-1988
Raymond
Carver was one of the best-known American short-story writers, but also
an
excellent poet. Death from cancer interrupted his work at a moment of
full development,
after he had overcome his alcoholism. I couldn't read this poem on
Alexander
the Great without thinking of his biography, to which, besides, he
refers
WINE
Reading a
life of Alexander the Great,
Alexander whose rough father, Philip, hired Aristotle
to tutor
the young scion and warrior, to put some polish
on his smooth
shoulders. Alexander who, later,
on the campaign trail into Persia, carried a
copy of
The Iliad in a velvet-lined
box, he loved that book so
much. He loved to fight and drink, too.
I came to
that place in the life where Alexander, after
a long night of carousing, a
wine-drunk (the worst kind of drunk-
hangovers you don't forget), threw the
first brand
to start a fire that burned Persepolis, capital of the Persian Empire
(ancient even in Alexander's day).
Razed it
right to the ground. Later, of course,
next morning-maybe even while the fire
roared-he was
remorseful. But nothing like the remorse felt
the next evening
when, during a disagreement that turned ugly
and, on Alexander’s part,
overbearing, his face flushed
from too many bowls of uncut wine, Alexander rose
drunkenly to
his feet,
grabbed a spear and drove it through the breast
of his
friend, Cletus, who'd saved his life at Granicus.
For three
days Alexander mourned. Wept. Refused food. "Refused
to see to his bodily
needs." He even promised
to give up wine forever.
(I've heard
such promises and the lamentations that go with them.)
Needless to
say, life for the army carne to a full stop
as Alexander gave himself over to
his grief.
But at the
end of those three days, the fearsome heat
beginning to take its toll on the.
body of his dead friend,
Alexander was persuaded to take action. Pulling
himself together
and leaving his tent, he took out his copy of Homer, untied
it,
began to turn the pages. Finally he gave orders that the funeral
rites
described for Patroklos be followed to the letter:
he wanted Cletus to have the
biggest possible send-off.
And when the pyre was burning and the bowls of wine
were
passed his way during the ceremony? Of course, what do you
think?
Alexander drank his fill and passed
out. He had to be carried to his tent. He
had to be lifted, to be put
into his bed.
RAYMOND CARVER
1938-1988
The most classical poem of
nonattachment is that
of a sudden realization, in a flash, of the shortness of the time one
has left
to live.
Czeslaw Milosz
Bài thơ cổ điển nhất, về sự tách rời, đếch dính vào cái gì nữa, là về
cái phút
bất thình lình ngộ ra, về tí mẩu thời gian còn lại, và sau đó là ngỏm,
của 1
con người.
THE COBWEB
A few minutes ago, I stepped
onto the deck
of the house. From there I could see and hear the water,
and everything that's happened to me all these years.
It was hot and still. The tide was out.
No birds sang. As I leaned against the railing
a cobweb touched my forehead.
It caught in my hair. No one can blame me that I turned
and went inside. There was no wind. The sea was
dead calm. I hung the cobweb from the lampshade.
Where I watch it shudder now and then when my breath
touches it. A fine thread. Intricate.
Before long, before anyone realizes,
I'll be gone from here.
Sợi tơ nhện
Vài phút trước đó, tôi đứng
trước hiên nhà
Từ đó, tôi nhìn trời nước
và tất cả những gì đã xẩy đến với tôi trong tất cả những năm tháng đó.
Trời nóng, tĩnh mịch
Con nước xuống
Không tiếng chim
Khi tôi tựa vào bao lơn
Trán tôi dụng vô 1 sợi tơ nhện
Và nó vướng vào tóc tôi
Chẳng ai có thể trách tôi nếu tôi quay vô bên trong nhà.
Không một chút gió.
Biển chết lặng.
Tôi treo sợi tơ nhện vào cái chao đèn
Và tôi ngắm nó run rẩy, rùng mình, mỗi khi hơi thở của tôi đụng nó.
Sợi tơ nhện mới nhỏ, mịn làm sao. Rối vào nhau.
Lâu, thật lâu, trước khi 1 người nào đó nhận ra.
Tôi đi mẹ từ đời nào,
Ra khỏi cuộc đời này.
RAYMOND
CARVER
1938-1988
Just before
daybreak, when it is still dark, an electrical blackout causes the
speaker to look
outside at the landscape, which appears extraordinarily calm. The
speaker feels pure
inside at that moment. Later the same morning, electricity is restored
and "things
stood as they had before."
Czeslaw
Milosz
Trước bình
minh chỉ 1 tị, khi trời đất còn tối hù, một cú mất điện xẩy ra, khiến
cái tay
phát ngôn viên trong bài thơ dưới đây, nhìn ra bên ngoài, và phong cảnh
làm chàng
sững sờ: nó thinh lặng một cách lạ thường. Và chàng cảm thấy bên trong
chàng mới
thanh tẩy làm sao. Sau đó, cũng buổi sáng đó, có điện lại, và thế gian
lại “vũ
như cẩn”.
THE WINDOW
A storm blew
in last night and, knocked out
the
electricity. When I looked
through the
window, the trees were translucent.
Bent and
covered with rime. A vast calm
layover the
countryside.
I knew
better. But at that moment
I felt I'd
never in my life made any
false
promises, nor committed
so much as
one indecent act. My thoughts
were
virtuous. Later on that morning,
of course,
electricity was restored.
The sun
moved from behind the clouds,
melting the
hoarfrost.
And things
stood as they had before.
Cửa sổ
Một trận bão
hoành hành đêm qua và làm mất điện.
Khi tôi nhìn ra cửa sổ, cây cối thật u minh.
Ngã gục, ngổn
ngang, phủ đầy sương muối
Một cơn
thinh lặng trùm lên tất cả
Tôi biết hơn
thế, bảnh hơn thế.
Nhưng vào lúc
đó,
Tôi cảm thấy
mình trong đời chưa từng giả đò, hứa nhảm,
Chưa từng làm một hành
động bửn.
Tư tưởng của
tôi thì thật là thánh thiện
Sau đó một lát,
lẽ dĩ nhiên, điện có lại
Mặt trời
chui ra khỏi những đám mây
Làm tan lớp
sương muối
Và mọi chuyện lại như cũ
Czeslaw
Milosz, trong tuyển tập thơ quốc tế của
ông, A Book of Liminous Things,
chọn hai bài của RC, đều thần sầu, và đều
nói đến giây phút đốn ngộ.
Một đốn ngộ chết, và một, sống.
BUS TO
TUXTLA
Sometimes
you wait a while for the bus-
the bus of
happiness
probably-just
now passing the fried pie hutch
or crossing
the stream like an old lady
carefully
lifting her skirts from the water-bus of transversal
and
hopefulness-sometimes you wait all afternoon
and into the
twilit hours, when, as time reverses slightly,
you feel the
scarlet undergarments brush your cheek
as they go
by, as the vastness disguised as a young girl passes,
sometimes,
as the bus that is entering the outskirts of the ancient city
you've loved
but never been at home in, bus with the face
of a tiger
painted on the front, growling
to a stop at
the marshy local park
where an old
woman slowly growing used to being alone
waits
quietly-sometimes, like a man of weary but unconquerable faith,
you wait all
your life for the bus with its equipage of silver
rods and
checked-cloth seats, its companionable
or fractious
passengers, some growing weary now,
some broken
beyond repair, others still hoping for an easement-
wizard or
laundress-one for whom the door,
with an
exculpatory gush, will open,
and as one
ascending the last few steps into heaven
will rise,
dreaming of a breeze lifting
slender
curls of new vine in the old vineyard
that's gone
now, and grasp the silver rod like the impossible means
into a
paradise once hoped for on earth and nearly
found one
afternoon among sequins and discarded undergarments
under a
tamarind tree with a lover
who's dead
and faded to haze and misremembered gestures-
and find a
seat,
and just
now, not long before the bus
reaches her
stop,
disappears
like the Mixtec kings into time.
Charlie Simith
nụ hôn. cũ
vào chợ. mua
lại nụ. hôn. trên môi
người con
gái. đeo. mặt nạ thời gian. đã cũ
tôi. uống rượu.
như một gã thất tình
người đàn
bà. cùng vết xâm. thời gian
xiêu. vẹo
ôm. trong tay nụ hôn. cũ
những con.
đường cao. thấp
tiếng gọi.
đi. tìm nơi ẩn. núp
chiếc xe đạp.
chạy. thụt lùi
anh hề. với
trái banh đỏ. trên chỏm mũi
tôi. giận dữ
với đêm. tối
tiếng hú. của
con sói. lạc
nụ hôn. cũ
môi. người cũ
hom hem. bên
ngọn đèn. lạc
ngày. biệt
tích
những vật. tế
thần. trong đó có tôi
họ. thiêu sống.
tất cả. trong thành phố
bên kia bờ.
đại dương
tôi. tỉnh giấc.
tay cầm chặt. nụ hôn cũ
trong giấc
mơ. mới vừa đi. qua
hương. tóc
mùa vàng
phai mấy. độ
một lần. rồi
một. lần
chạy. theo
vòng ngày. tháng
dĩ vãng.
mùi. thời gian
tôi nhớ em.
hương. Tóc
Đài Sử
Czeslaw
Milosz
SECRETARIES
I am no more than a
secretary of the invisible thing
That is dictated to me and a few others.
Secretaries, mutually unknown, we walk the earth
Without much comprehension. Beginning a phrase in the middle
Or ending it with a comma. And how it all looks when completed
Is not up to us to inquire, we won't read it anyway.
Berkeley, 1975
NHỮNG
TÊN THƯ KÝ
Tớ thì chỉ là 1 tên thư ký
của điều vô hình
Nó đọc cho tớ và vài người khác
Những tên thư ký, chẳng quen biết nhau, chúng tớ dạo bộ trên mặt đất
Cũng chẳng ưa gì nhau mấy. Bắt đầu một câu, ở giữa,
Hay chấm dứt nó, bằng 1 cái dấu phẩy.
Nó ra sao nhỉ, nhìn toàn thể, khi hoàn tất?
Chắc giống 1 trang, hay 1 bài viết trên TV, hà hà!
Nhưng Gấu Cái đâu cần biết làm khỉ gì
Cũng chẳng cần kiểm tra
Bả đâu có đọc!
MID-TWENTIETH-CENTURY
PORTRAIT
Hidden behind his smile of
brotherly regard,
He despises the newspaper reader, the victim of the dialectic of power.
Says: "Democracy," with a wink.
Hates the physiological pleasures of mankind,
Full of memories of those who also ate, drank, copulated,
But in a moment had their throats cut.
Recommends dances and garden parties to defuse public anger.
Shouts: "Culture!" and" Art!" but means circus games really.
Utterly spent.
Mumbles in sleep or anesthesia: "God, oh God!"
Compares himself to a Roman in whom the Mithras cult has mixed
with the cult of Jesus.
Still clings to old superstitions, sometimes believes himself to be
possessed by demons.
Attacks the past, but fears that, having destroyed it,
He will have nothing on which to lay his head.
Likes most to play cards, or chess, the better to keep his own counsel.
Keeping one hand on Marx's writings, he reads the Bible in private.
His mocking eye on processions leaving burned-out churches.
His backdrop: a horseflesh-colored city in ruins.
In his hand: a memento of a boy "fascist" killed in the Uprising.
Krakow, 1945
CHÂN DUNG GIỮA THẾ KỶ 20
Giấu đàng sau nụ cười Anh
Hai, Anh Cả
Hắn khinh thường độc giả nhựt trình, nạn nhân của biện chứng của quyền
lực
Này, “Dân chủ ccc”, với 1 cái nháy mắt.
Thù ghét thú vui sinh lý của nhân loại
Đầy hồi ức của những người cũng ăn, ngủ, đụ, ị
Nhưng trong một khoảnh khắc cổ họng bị cắt.
Đề xuất khiêu vũ, và hội hè ở trong vườn, để gỡ bỏ sự giận dữ của công
chúng.
La: “Văn hóa!” và “Nghệ
thuật”, nhưng thực sự, trò xiệc.
Thì cũng qua thôi, hoàn
toàn qua rồi.
Lầm bầm trong khi ngủ, hay mê: “Ôi Chúa, ôi Phật!”
So sánh chính mình với 1 tên La Mã, tên này lầm sùng bái Mithras với
sùng bái Chúa Ky Tô.
Vưỡn bám vào những mê tín cổ xưa, đôi khi tin, bản thân mình bị Quỉ Đỏ
đợp mẹ mất linh hồn!
Tấn công quá khứ, nhưng
sợ, phá huỷ nó,
Thì sẽ đếch còn cái chi để mà gối đầu lên
[Chửi Ngụy ra rả tuy nhiên trong bụng thì sợ và tiếc,
ui chao, sao mà lại huỷ diệt nó, lấy gì mà… tự hào bi giờ?]
Thích nhất, chơi bài, cờ, cách tốt để giữ lời khuyên của riêng mình.
Một tay để lên những trang sách của Marx, đọc Thánh Kinh trong “cõi
riêng”.
Mắt chế nhạo đám rước, bỏ mặc nhà thờ cháy rụi.
Phông đằng sau hắn: một thành phố điêu tàn màu thịt ngựa.
Trong tay hắn: Bản “memo” của 1 đứa trẻ “phát xít” bị giết trong cú Nổi
Dậy.
Zbigniew Herbert
Mưa
Khi
ông anh của tớ từ mặt trận trở về
Trán của anh có 1 ngôi sao bạc nho nhỏ
Và bên dưới ngôi sao
Một vực thẳm
Một
mảnh bom
Đụng anh ở Plê Ku
Hay, có lẽ, ở Củ Chi
(Anh quên những chi tiết)
Anh
trở thành nói nhiều
Trong nhiều ngôn ngữ
Nhưng anh thích nhất trong tất cả
Ngôn ngữ lịch sử
Đến
hụt hơi,
Anh ra lệnh đồng ngũ đã chết, chạy
Nào anh Núp,
Nào anh Trỗi.
Anh
la lớn
Trận đánh này sẽ là trận chiến thần thánh chót
[Mỹ Kút, Ngụy Nhào, còn kẻ thù nào nữa đâu?]
Rằng Xề Gòn sẽ vấp ngã,
Sẽ biến thành Biển Máu
Và rồi, xụt xùi, anh thú nhận
Bác Hồ, lũ VC Bắc Kít đếch ưa anh.
[Hà, hà!]
Chúng
tôi nhìn anh
Ngày càng xanh mướt, tái nhợt
Cảm giác bỏ chạy anh
Và anh lần lần trở thành 1 đài tưởng niệm liệt sĩ
Trở
thành những cái vỏ sò âm nhạc của những cái tai
Đi vô khu rừng đá
Và da mặt anh
Thì được bảo đảm bằng những cái núm mắt khô, mù
Anh
chẳng còn gì
Ngoại trừ xúc giác
Những
câu chuyện gì, anh kể
Với những bàn tay của mình.
Bên phải, những câu chuyện tình
Bên trái, hồi ức Anh Phỏng Giái
Chúng
mang ông anh của tớ đi
Đưa ra khỏi thành phố
Mỗi mùa thu anh trở về
Ngày càng ốm nhom, mỏng dính
Anh không muốn vô nhà
Và đến cửa sổ phòng tớ gõ
Hai anh em đi bộ trong
những con phố Xề Gòn
Và anh kể
cho tớ nghe
Những câu
chuyện chẳng đâu vào đâu
Và sờ mặt
thằng em trai của anh
Với những
ngón tay mù,
Của mưa.
Zbigniew Herbert
REPORT FROM
A BESIEGED CITY
Báo cáo từ thành phố bị vây hãm
and if the
City falls and one man survives
he will
carry the City inside him on the paths of exile
he will the
City
we look into
hunger's face the face of fire face of death
the worst of
all-the face of betrayal
and only
our
dreams have not been humiliated
Và nếu Xề
Gòn bị VC đợp mất, và chỉ còn 1 tên Xề Gòn sống sót,
Tên đó sẽ ôm trọn Xề Gòn vào trong nó, trên con đường lưu vong,
Tên đó sẽ là Xề Gòn.
Và chỉ những giấc mộng của chúng ta là đếch bị VC làm nhục!
Hà, hà!
ANNA
KAMIENSKA
[dates
unknown]
Anna
Kamienska was a Christian deeply living both the Old Testament and the
New
Testament. In her old age she achieved much serenity and acceptance of
the world
created by God. I find this a very good poem.
Anna Kamienska là 1 tín
hữu Ky Tô thấm đẫm tinh thần Cựu và Tân Ước. Về
già, bà đạt tới cõi thanh thản, chấp nhận thế giới được Chúa tạo ra.
Đây là 1
bài thơ quá bảnh, theo tôi.
Czeslaw Milosz
A
PRAYER
THAT WILL BE ANSWERED
Lord let me
suffer much
and then die
Let me walk
through silence
and leave
nothing
behind not even fear
Make the
world continue
let the
ocean kiss the sand just as before
Let the
grass stay green
so that the
frogs can hide in it
so that
someone can bury his face in it
and sob out
his love
Make the day
rise brightly
as if there
were no more pain
And let my
poem stand clear as a windowpane
bumped by a
bumblebee's head
Translated
from the Polish by Stanislaw Baraniczak and Clare Cavanagh
*
Lời cầu nguyện sẽ được Ông Giời lắng
nghe
Ông Giời bắt Gấu cực kỳ
đau khổ
Trải qua những mấy địa ngục, đen, đỏ, bạn
quí....
Và rồi, ngỏm.
Bước trong câm lặng
Và chẳng để lại gì, kể cả sự sợ hãi
Cho phép thế giới cứ thế tiếp tục, đếch thèm
để ý gì đến Gấu đi xa
[Đừng thèm để ý đến câu của tụi Tẩy, 1 kẻ vắng mặt là thế gian kể như
tiêu!]
Biển tiếp tục hôn cát như trước
Cỏ vưỡn xanh và mấy chú
cóc nhái,
ễnh
ương vưỡn ẩn náu ở đó
Và một thằng cha Gấu khác,
sẽ vùi mặt
vô
Khóc một BHD khác, bỏ nó
Mặt trời vưỡn mọc, sáng ngời
mỗi ngày
Như thể làm đếch gì có khổ đau ở trên cõi đời này
Và hãy để cho bài thơ này trong
sáng như kính cửa sổ
khiến 1 con
ong nghệ đụng đầu vô đánh
bốp 1 cái!
*
Brodsky
& Milosz. Hai nhà thơ, cùng từ xứ CS, một, bị đuổi đi lưu vong,
một, đào tị,
khi đang là 1 cán bộ ngoại giao đỏ, và đều dân Ky Tô, và đều được
Nobel.
Thơ của cả
hai đều đẫm chất Ky Tô.
Elegy
About a year
has passed. I've returned to the place of battle,
to its birds
that have learned their unfolding of wings from a subtle
lift of a
surprised eyebrow, or perhaps from a razor blade
-wings, now
the shade of early twilight, now of stale bad blood.
Now the
place is abuzz with trading in your ankles' remnants, bronzes
of sunburnt
breastplates, dying laughter, bruises,
rumors of
fresh reserves, memories of high treason,
laundered
banners with imprints of the many who since have risen.
All's
overgrown with people. A ruin's a rather stubborn
architectural
style. And the heart's distinction
from a
pitch-black cavern
isn't that
great; not great enough to fear
that we may
collide again like blind eggs somewhere.
At sunrise,
when nobody stares at one's face, I often
set out on
foot to a monument cast in molten
lengthy bad
dreams. And it says on the plinth "Commander
in
chief." But it reads "in grief," or "in brief," or
"in going under."
[1985/
Translated by the author]
Joseph
Brodsky: To Urania
This is
philosophical poetry, bearing the mark of what Goethe considered the
highest
stage in the spiritual development of the individual, which he called
"Respect." It is a poetry at two poles of human existence: love as it
is lived and suffered through, and death almost tasted and feared
...
As a
defense against despair, we have the oeuvre of a man wholly
concentrated on his
poetry.
-CZESLAW
MILOSZ, The New York Review of Books
Lời giới thiệu [bìa sau]: Đây là thơ triết, mang dấu
ấn, về điều mà Goethe coi là
giai đoạn cao nhất của sự phát triển tinh thần của một cá nhân, mà ông
gọi là
"Kính Trọng". Đây là thơ ở hai đầu của hiện hữu con người: tình yêu,
như được sống và được đau khổ, và cái chết, hầu như được nếm và được
sợ.
... Như 1
cú chống trả sự chán chường, chúng ta có tác phẩm của 1 con người xoáy
trọn đời
mình vào thơ ca.
Brodsky phán:
Xuyên suốt cuộc đời 1
người, Thời gian nói [address] với Con Người trong muôn vẻ, variety,
ngôn ngữ; ngôn ngữ của sự ngây thơ, tình yêu, niềm tin, kinh nghiệm,
lịch sử, ... Trong những ngôn ngữ đó, ngôn ngữ của tình yêu rõ ràng là
một lingua franca, ngôn ngữ bắc cầu. Bộ từ điển của nó, its
vocabulary hấp thụ, nuốt, absorb, tất cả những tiếng nói khác, other
tongues, và sự phát ra của nó, its utterance, thí dụ, anh thương em,
làm hài lòng, gratify, một chủ thể, a subject, cho dù vô tri vô giác,
inanimate, cỡ nào. Bằng cách thốt ra như thế, anh thương em,
chủ thể sướng điên lên, và cái sự sướng điên lên đó, nói lên, làm vọng
lên, echoing, cả hai chiều: chúng ta cảm nhận những đối tượng của những
đam mê của chúng ta, và cảm nhận Lời Chúa [Good Book’s suggestion],
và Chúa là gì, as to what God is. Tình yêu thiết yếu
là một thái độ được gìn giữ, maintain, bởi cái vô cùng đối với cái hữu
hạn. Sự đảo ngược, the reversal, tạo nên, hoặc niềm tin, hay thi ca.
Đoạn
trên, theo GCC, là cơ
bản thiết yếu, của thơ Brodsky.
Nói rõ hơn, thơ của ông là thơ tôn giáo, thơ của một nhà thơ Ky Tô.
Chính vì thế, GCC khó nhập vô thơ ông, vì là 1 tên ngoại đạo. GCC viết
ra, để phúc đáp 1 vị độc giả, tại sao Gấu lèm bèm hoài về Brodsky mà
không dịch thơ Brodsky! (1)
Cafe Trieste: San Francisco
To: L.G.
To this
corner of Grant and
Vallejo
I've returned like an echo
to the lips that preferred
then a kiss to a word.
Nothing
has changed here.
Neither
the furniture nor the
weather.
Things, in one's absence, gain
permanence, stain by stain.
Cold,
through the large
steamed window
watch the gesturing weirdos,
the bloated breams that warm
up their aquarium.
Evolving
backward, a river
becomes a tear, the real
becomes memory which
can, like fingertips, pinch
just
the tail of a lizard
vanishing in the desert
which was eager to fix
a traveler with a sphinx
Your
golden mane!
Your riddle! The lilac skirt,
the brittle
ankles! The perfect ear
rendering “read” as “dear.”
Under
what cloud's pallor
now throbs the tricolor
of your future, your past
and present, swaying the
mast?
Upon
what linen waters
do you drift bravely toward
new shores, clutching your
beads
to meet the savage needs?
Still,
if sins are forgiven
that is, if souls break even
with flesh elsewhere, this
joint,
too, must be enjoyed
as
afterlife's sweet parlor
where, in the clouded
squalor,
saints and the ain'ts take five,
where I was first to arrive
[ 1980 ]
Joseph
Brodsky: To Urania
Bài thơ "Uống cà phê Quán Chùa"
của Brodsky mà chẳng tuyệt cú mèo sao ?
Khổ thơ đầu mới sướng làm
sao.
Nó làm nhớ lời hát,
"uống môi em ngọt", của PD:
Nơi
góc con phố có Quán Chùa,
Tôi trở về nơi này,
Như một tiếng vang.
Về với đôi môi ,
thèm một nụ hôn
hơn là câu hát,
"đừng yêu lính bằng lời"!
Czeslaw
Milosz
The Good vs The Christian
Cái Tốt vs Cái
Ky Tô!
Christianity
has been stigmatised "as a redoubt of ignorance", as has the word
"liberal…as if generosity were culpable".
Tinh thần Ky
Tô bị bêu rếu như “đồn nhỏ, ga xép của sự ngu dốt", như thể "rộng luợng
là phạm tội"!
Tây phương
hay nói “Giá trị Kitô”; các giá trị này, Liberté, Égalité, Fraternité,
Tự do,
Binh đẳng, Huynh đệ có nguồn gốc từ Lời dạy của Jésus, dù lời dạy này
đã có từ
muôn ngàn năm trước nhưng điểm mốc vẫn là từ năm zéro.
Liberté: Có
nhiều dụ ngôn đề cao tinh thần làm chủ: Làm chủ mới có tự do.
Égalité: Mọi
người đều được mời cả những thành phần indésirables, intouchables.
Fraternité:
Yêu người như mình vậy.
Nguồn gốc
này bây giờ trở thành “Ở đời muôn sự của chung” nên mới không còn căn
tính của
mình: the word 'Christian' now is
seen less as identifying an ethic and more as
identifying a demographic!
Mong bác khỏe
luôn nghe.
Tks
Merry
Christmas and Happy New Year to Both of U.
NQT
Tinh thần Ky
Tô Mẽo, công chúng, và chính trị của khổ hạnh, cả ba đều cảm thấy họ
"như được
nhắc tới", [all three got tough ride], trong đêm Thứ Năm [28.11.2013],
khi Marilynne Robinson, nữ tiểu thuyết gia
vừa đoạt
giải Pulitzer, nói chuyện với cử tọa tại London.
Là tín hữu
Ky Tô, bà cho biết, được dậy dỗ về sự rộng lượng và tinh thần lạc quan,
bởi
phong trào nhân quyền, nhưng, bà than thở, hàng chục năm nay, tinh thần
Ky Tô bị
bêu rếu, “như là đồn xép, ga nhỏ của sự ngu dốt”, như thể, “hào phóng,
rộng lượng
là phạm tội”. Bà tố thêm, "cái từ 'Ky Tô' bây giờ, thì ít được coi như
đạo
hạnh, và nhiều, như là 1 từ thuộc phạm trù nhân khẩu học”.
Hệ quả, là
cú song đấu, giữa cái tốt, cái đẹp “versus” tinh thần Ky Tô. Và, “bộ
lạc” Ky
Tô, những thành viên của họ “có thể ác liệt tha thứ cho chính họ, và,
rất độc
ác, khi tố cáo bất cứ người nào khác.”
Đúng là 1
hoàn cảnh chẳng thú vị, không hề hấp dẫn: Có những điều tệ hại hơn
nhiều, so với
“đã chắc gì như thế”, và, trong số đó, cái “bất chắc” này cũng là 1 giả
dụ.
Truyền thông,
công chúng, the media, Mẽo, cảm thấy nhột hơn nhiều, khi bà “lịch sự”
nói, họ đếch
thích thứ người biết điều, "the media do not find reasonable people
interesting". Sau đó, với 1 tay của BCC, [Mark Lawson], bà buộc tội một
số
chương trình TV, đài phát thanh Mẽo, đã làm ung thối nặng nề cuộc chát
chiếc quốc
gia, profoundly corrupting the national conversation. Nó bị giựt dây,
và có mùi
phản dân chủ, ở ngay gốc của nó, bởi là vì nó muốn đưa vô cuộc sống
công cộng
những nhận xét giả tạo”, "It's manipulative and at its root it's
anti-democratic, because it wants to intrude artificial considerations
into
public life."
Khủng nhất,
là khi bà đưa ra nhận xét, khi được 1 khán thính giả hỏi, bà nghĩ gì về
thứ chính
trị của sự khắc khổ: "Tôi nghe người ta nói, 'Bạn nhịn đói hôm nay, để
ngày mai ăn khỏi
trả tiền'! Tôi đếch tin, tất nhiên! Tôi cũng đã sống đủ, biết đủ, để mà
nói rằng thì là,
chúng ta đang đếch làm cái gì cả, ngoại trừ phá huỷ tương lai, khi cướp
đoạt, bỏ
đói… những con người dễ bị tổn thương. Thật quá tởm, đối với tôi”
Thơ
Mỗi Ngày
Zbigniew Herbert:
REPORT FROM
A BESIEGED CITY
Báo cáo từ thành phố bị vây hãm
and if the
City falls and one man survives
he will
carry the City inside him on the paths of exile
he will the
City
we look into
hunger's face the face of fire face of death
the worst of
all-the face of betrayal
and only
our
dreams have not been humiliated
Và nếu Xề
Gòn bị VC đợp mất, và chỉ còn 1 tên Xề Gòn sống sót,
Tên đó sẽ ôm trọn Xề Gòn vào trong nó, trên con đường lưu vong,
Tên đó sẽ là Xề Gòn.
Và chỉ những giấc mộng của chúng ta là đếch bị VC làm nhục!
Hà, hà!
— Hừm! Thời
nay tục nay như thế rồi đi tới đâu?
— Tới thơ
trí tuệ.
— Bạn nghĩ vậy
thật đấy à?
— Không nghĩ
vậy không xong. Một mặt bạn, chính bạn, bảo rằng thơ dịch bây giờ xuất
hiện
trên khắp tạp chí văn nghệ các nước; một mặt tôi nhớ ông Nguyễn Hưng
Quốc có lần
cũng nhận thấy bây giờ nhiều thơ trí tuệ. Người nào cũng đúng cả. Tôi
chỉ thêm
vào một ý kiến: E giữa hai sự việc có mối liên hệ. Bạn nghĩ coi: Khi
bạn sống
giữa một thời đại mà các đại danh gia quốc tế, các con đại bàng trên
đỉnh Thi
Sơn (Parnasse), các thi hào thi bá tiền tiến nhất của thế kỷ đều trao
gửi đến
ta toàn thơ xương cả thì ai còn lòng nào ngó ngàng tới chất thịt của
thơ nữa.
Trăm trường hợp như một: thơ các vĩ nhân dịch ra đều chỉ còn trơ cái ý
thơ
thôi. Thơ như thế đang thành công lớn; họa có điên mới làm khác.
Võ
Phiến - Thơ dịch
Reason and
Rose
Adam Zagajewski
Nhưng có lẽ, ý nghĩa sâu
xa nhất của thái độ chính trị của Milosz thì nằm ở một nơi nào đó; theo
gót những bước chân của Simone Weil vĩ đại, ông mở ra cho mình một kiểu
suy nghĩ, nối liền đam mê siêu hình với sự nhủ lòng, trước số phận của
một con người bình thường.
Tuyệt!
Milosz, giống như Cavafy
hay Auden, thuộc dòng những thi sĩ mà thơ ca của họ dậy lên mùi hương
của trí tuệ chứ không phải mùi hương của những bông hồng.
Nhưng Milosz hiểu từ trí
tuệ, reason, intellect, theo nghĩa thời trung cổ, có thể nói, theo
nghĩa “Thomistic” [nói theo kiểu ẩn dụ, lẽ dĩ nhiên]. Điều này có nghĩa
là, ông hiểu nó theo một đường hướng trước khi xẩy ra cuộc chia ly đoạn
tuyệt lớn, nó cắt ra, một bên là, sự thông minh, trí tuệ của những nhà
duy lý, còn bên kia là của sự tưởng tượng, và sự thông minh, trí tuệ
của những nghệ sĩ, những người không thường xuyên tìm sự trú ẩn ở trong
sự phi lý, irrationality.
Thơ
trí tuệ vs Thơ tình cảm
Tháng Mấy
gửi một người không quen…
Tháng Mấy rồi,
Em có biết?
tấm lịch sắp
đi vào ngõ cụt
ngày không
còn dông dài nói chuyện cũ
hàng cây
thưa lá cho nắng và gió tự do bông đùa
chiếc xe em
về đậu mỗi chiều
con đường dầy
thêm với lá
rung rúc còi
tàu không tìm được sân ga
những ngôi
nhà nhả khói
và đêm về thắp
đèn
Tháng Mấy rồi,
Em có biết?
chạy luống
cuống những buổi sáng muộn
ngày se lạnh
no tròn hạt sương sớm
đọng trên
mái tóc
nụ hôn sâu
trong đêm
những đổ vỡ
chảy dài theo cuốn lịch
mất tích
Tháng Mấy rồi,
Em có biết?
con sông
ngưng chảy
nheo mắt qua
những xa lộ
nhịp thở chậm
Rồi buổi chiều
cuối năm sẽ đến
ai bấm
chuông cửa vào giữa đêm
tuyết chắc
chắn sẽ rơi
và trời sẽ lạnh
vô cùng
Tháng Mấy rồi
sẽ qua
Vẫn còn một
người đợi em
Đài Sử
GCC lèm bèm:
Gấu mê nhất bài thơ này, của tác giả. Chữ
dùng tuyệt. Tình cảm đầy, nhưng giấu thật kín.
Làm nhớ tới ý thơ Lão Tử, thánh
[thi cũng được] nhân, thật bất nhân.
Coi loài người như ‘sô cẩu’.
Mặt lạnh
như tiền, nhưng trái tim thì nóng bỏng!
Đẩy tới cực điểm
ra ý của Kafka:
In the duel
between you and the world, back the world.
Trong trận đấu
sinh tử tay đôi giữa bạn và thế giới
[tha nhân, như GCC hiểu],
hãy hỗ trợ thế
giới
[Hãy đâm vào sau lưng bạn].
Bạn đọc TV
bi giờ chắc là hiểu ra tại làm sao, Gấu nằm dưới chân tượng Quan Công,
tỉnh dậy,
bò xuống sông Mekong tắm 1 phát, thấy cái xác của Gấu trôi qua!
Hà, hà!
Xạo tổ cha!
Già rồi mà nói
dóc quá xá!
Mé sau Chùa
Long Vân, Parsé.
Gấu nằm ngủ trưa dưới tượng Quan Công.
Dậy, xuống mé sông Mekong tắm.
|
|