Notes
|
Paul Celan
Memory of France
Together with me recall: the sky of Paris, that giant
autumn
crocus ...
We went shopping for hearts at the flower girl's booth:
they were blue and they opened up in the water.
It began to rain in our room,
and our neighbour came in, Monsieur Le Songe, a lean
little man.
We played cards, I lost the irises of my eyes;
you lent me your hair, I lost it, he struck us down.
He left by the door, the rain followed him out.
We were dead and were able to breathe.
Hồi ức Tây
Tôi và em cùng nhớ, bầu trời Paris,
cái màu vàng nghệ của Mùa Thu khổng
lồ
Đôi ta đi mua tâm hồn ở ki-ốt hoa của 1 cô
gái
Hoa thì xanh và chúng mở ra một vùng
nước
Trời bắt đầu mưa ở trong phòng của chúng
ta
Và người hàng xóm bước vô,
Ông Mộng Mị, một người đàn ông nhỏ con, gầy ốm
Chúng tôi chơi bài. Tôi thua
cặp tròng đen; em cho tôi mượn mái tóc,
tôi lại thua, anh ta vét chúng tôi đến
cạn láng
Anh ta đi ra cửa, cơn mưa theo anh ra ngoài
Chúng tôi chết, và có thể thở.
A LEAF, treeless
for Bertolt Brecht:
What times are these
when a conversation
is almost a crime
because it includes
so much made explicit?
Một Cái Lá, không cây
gửi Bertolt Brecht
Thời nào, những thời như thế này
Khi tán gẫu là một tội
Bởi là vì nó bao gồm quá nhiều
điều
Nhờ tán gẫu mà trở thành dứt khoát?
Homecoming
Snowfall, denser and denser,
dove-coloured as yesterday,
snowfall, as if even now you were sleeping.
White, stacked into distance.
Above it, endless,
the sleigh track of the lost.
Below, hidden,
presses up
what so hurts the eyes,
hill upon hill,
invisible.
On each,
fetched home into its (oday,
an I slipped away into dumbness:
wooden, a post.
There: a feeling,
blown across by the ice wind
attaching its dove- its snow-
coloured cloth as a flag.
In Memoriam Paul Eluard
Lay those words into the dead man's grave
which he spoke in order to live.
Pillow his head amid them,
let him feel
the tongues of longing,
the tongs.
Lay that word on the dead man's eyelids
which he refused to him
who addressed him as thou,
the word
his leaping heart-blood passed by
when a hand as bare as his own
knotted him who addressed him as thou
into the trees of the future.
Lay this word on his eyelids:
perhaps
his eye, still blue, will assume
a second, more alien blueness,
and he who addressed him as thou
will dream with him: We.
All poets are
Jews
Marina Tsvetayeva
[Paul Celan trích dẫn làm tiêu
đề cho 1 bài thơ của ông]
Mọi thi sĩ là... Ngụy!
Đúng ý Vương Đại Gia, Vương Trí
Nhàn, "May mà có Ngụy"!
[Without title. Fragment
of an
unfinished poem]
The grass of your eyes, bitter grass.
Wind, billow above it, eyelid of
tallow.
The water of your eyes, forgiven
water.
[Vô đề. Mẩu bài thơ chưa hoàn
tất]
Cỏ trong mắt em, cỏ cay đắng
Gió, biển ở trên, mí mỡ
Nước trong mắt em, nước tha thứ.
Night of the New
Year
During the night of the New Year, season without
hours,
you dispatched the young catafalque
to petition your lover;
towards her the incendiary tears
marched out of the
mirrors
in the torch snowed over with sorrow,
sprouting out of her
head.
The ring extinguished in a cup perched
up on the window
to spy her traipsing through snow
with slumbering tresses;
the unbraided hands rushed to the
gate to await her,
while above in the chambers the
poets stepped to the
waltz.
But she strolled through the threshold
to fight back an
eyelid,
to witness the quick of her wakening
breast drift off to
sleep.
A die tumbled between the slabs,
with eyes of a nectarine
hue,
and the wooden citadel's steeple
left with a shadow.
Encounter
Tonight it'll rain on the green
dunes of limestone,
The wine preserved til today in
the mouth of a dead man
will awaken the land of foot-bridges,
displaced in a bell.
A human tongue will trumpet audacity
in a helmet.
And thus the trees will arrive in
a fury
to wait for the leaf that speaks,
delivered in an urn,
the heralds of the coast of sleep
sent off to the tide of
banners.
Let it douse in your eyes, so I'll
think that we'll die
together.
Your hair dripping out of the mirrors
will blanket the
regions of air,
where, with a hand of frost, I'll
set an autumn on fire.
From the waters imbibed by the blind
my short laurel will
scurry
up on a belated ladder, to take
a bite from your forehead.
Gặp Gỡ
Đêm nay mưa sẽ rơi trên những đụn đá vôi xanh
Rượu được gìn giữ cho đến bữa nay, trong miệng người chết
Sẽ đánh thức miền đất của những chiếc cầu chân đất, lạc
lõng trong tiếng chuông
Một giọng người sẽ thổi sự hung hãn trong cái nón
sắt
Và như thế đó, cây sẽ tới trong vội vã
Đợi lá, được giải thoát khỏi cái bình, cất
tiếng
Những viên sứ truyền lệnh của bờ biển của giấc ngủ
Sẽ được phái đi tới ngọn triều của những biểu ngữ
Hãy để nó tắt ngấm trong mắt em, như thế, anh sẽ nghĩ,
chúng mình sẽ cùng chết bên nhau
Tóc em trườn ra khỏi những chiếc gương sẽ phủ bầu trời
Ở đó, bằng bàn tay của sương giá, anh sẽ để mùa
thu lên giàn lửa
Từ nước hút bởi 1 người mù, vòng nguyệt quế ngắn
ngủi của anh sẽ leo
Cái thang muộn, để cắn vào trán em
To confront his executioners in the name of
the language they share with him, and to force them to their knees.
That was the major bet, held.
Have I ever read Paul Celan? I have listened to him for
a long time. I listen to him. Each time his books renew a dialogue
the beginning of which I can't remember, though nothing has come to
interrupt it since then.
Silent dialogue through words as light as free and adventurous
birds; all the world's gravity being in the sky; like stones laid
by nostalgic ghosts on the marble of nonexistent tombs; all the world's
pain being in the earth; and like ashes of an interminable day of horror
of which there remains but the unbearable image of pink smoke above
millions of burned bodies.
A nothing rose
a Noone's Rose
A nothing
were we, are we, will we remain, blossoming:
the nothing - , the
noonesrose.
Edmond Jabès: The Memory of Words
Để đối chất với lũ đao phủ Bắc Kít, những kẻ cùng chia
sẻ tiếng nói với mi
Để bắt chúng quỳ gối
Quả đúng 1à 1 cú đánh quả lớn.
Tôi đã từng đọc Paul Celan? Tôi đã nghe ông
nói một thời gian dài. Tôi lắng nghe ông. Mỗi
lần sách của ông làm mới lại 1 cuộc thoại, bắt đầu ra
sao, tôi chẳng thể nhớ, nhưng kể đó, chưa lần đứt đoạn bởi bất
sự điều gì.
Thoại lặng câm qua những con chữ, thì nhẹ như chim trời
tự do rong ruổi trong những chuyến ngao du; cái trọng lực của thế
giới thì ở trên trời, trong không khí; như những
hòn đá được bầy ra bởi những hồn ma của hoài nhớ trên
những phiến cẩm thạch của những nấm mồ không hiện hữu, tất cả nỗi đau
của kiếp người thì ở trong đất; và như tro than của một ngày
triền miên của nỗi ghê rợn mà với nó, chẳng có
gì còn lại, ngoại trừ một hình ảnh không làm
sao chịu đựng nổi của một BHD, giống như sương khói mầu hồng ở bên
trên hàng triệu triệu những thân xác bị thiêu
đốt
Một bông hồng hư vô
Một BHD của Không Ai
All poets are Jews
Marina Tsvetayeva
[Paul Celan trích dẫn làm tiêu đề cho 1 bài
thơ của ông]
Mọi thi sĩ là... Ngụy!
Đúng ý Vương Đại Gia, Vương Trí Nhàn, "May
mà có Ngụy"!
Note:
Đây là hình ảnh những nấm mồ ở trên không,
cực kỳ thần sầu, do quá thê luơng, trong Tẩu Khúc Của
Thần Chết.
Kertesz, Nobel văn chương, chôm, mà không biết (1)
Alexandre Gefen:
Trở lại với Kaddish, và cú rụng rời chân tay,
lỡ chuyến tàu, tôi nghĩ, nguồn của nó, đúng là
“Tẩu Khúc của Thần Chết”, “Fugue de la mort”, của Paul Celan.
Kertesz:
Khi tôi bắt đầu viết Kaddish, tôi bị ám ảnh bởi
ẩn dụ “mồ đi trên mây” [“la tombe au-dessus des nuages”], chẳng
hề biết là tôi trích dẫn thơ Celan.
Sau này, biết, tôi lập tức đi 1 tiểu chú [Du coup,
je l’ai ajouté en exergue]….
Ông cảm thấy ra sao, lần đầu đọc bài
thơ?
Tôi đọc nó, lần đầu tiên, qua Tây
Đức, như là 1 dịch giả, năm 1983. Có một phụ nữ trẻ, trốn từ
Đông Đức qua, trao tay cho tôi bài thơ, tại nhà
xb của những dịch giả, Straelen. Không phải 1 bài thơ được in,
nhưng 1 băng audio cassette.
Ghi âm bài thơ của Celan?
Đúng thế. Thực ra là tôi hoàn
toàn không hiểu. Tôi biết tiếng Đức, nhưng thứ tiếng Đức
văn học, một thứ tiếng Đức khác, ông biết đấy.
Lần đó, đúng là âm nhạc của ngôn ngữ
Đức mà tôi được nghe, thật là đẹp…
[Without title. Fragment of an
unfinished poem]
The grass of your eyes, bitter grass.
Wind, billow above it, eyelid of tallow.
The water of your eyes, forgiven water.
Night of the New Year
During the night of the New Year, season without
hours,
you dispatched the young catafalque to petition your lover;
towards her the incendiary tears marched out of the
mirrors
in the torch snowed over with sorrow, sprouting out of
her
head.
The ring extinguished in a cup perched up on the window
to spy her traipsing through snow with slumbering tresses;
the unbraided hands rushed to the gate to await her,
while above in the chambers the poets stepped to the
waltz.
But she strolled through the threshold to fight back an
eyelid,
to witness the quick of her wakening breast drift off
to
sleep.
A die tumbled between the slabs, with eyes of a nectarine
hue,
and the wooden citadel's steeple left with a shadow.
Encounter
Tonight it'll rain on the green dunes of limestone,
The wine preserved til today in the mouth of a dead man
will awaken the land of foot-bridges, displaced in a bell.
A human tongue will trumpet audacity in a helmet.
And thus the trees will arrive in a fury
to wait for the leaf that speaks, delivered in an urn,
the heralds of the coast of sleep sent off to the tide
of
banners.
Let it douse in your eyes, so I'll think that we'll die
together.
Your hair dripping out of the mirrors will blanket the
regions of air,
where, with a hand of frost, I'll set an autumn on fire.
From the waters imbibed by the blind my short laurel will
scurry
up on a belated ladder, to take a bite from your forehead.
Paul Celan
Thơ Celan không dễ đọc.
Gấu mua cuốn thơ vì mấy bài viết về ông, bài
nào cũng thần sầu. Không thể bỏ bài nào.
Vấn nạn thơ Celan, cũng là vấn nạn không
thể viết, nhất là bằng tiếng Đức, của Kafka, theo Gấu. Trong
bài viết về ông, của Edmond Jabès, cũng in trong
cuốn sách, Hồi ức
của chữ, The Memory of Words, nguyên tác tiếng Tây,
La Mémoire des Mots,
(Paris: Fourbis, 1990), Jabès viết: Đằng sau
ngôn ngữ Celan là tiếng vang chẳng thể nào tắt ngấm
của một ngôn ngữ khác.
Nhận xét này cũng áp dụng cho Kafka,
theo Gấu.
Nhưng nhận xét sau đây,
của Jabès, mới thần sầu:
Stéphane Mosès ghi nhận, trong bài
nghiên cứu của ông,
“Trò chuyện trong núi, Conversations in the Mountains",
trong bài thơ này, việc Celan sử dụng một số cảm nghĩ vay
mượn từ Judeo-German [Đức-Do Thái] có thể nằm trong phần
thách đố của ông, đối với đám đao phủ thủ [could
well be on his part a challenge to the executioners]
Theo Jabès, không phải như vậy.
Cái sự thách đố
lũ VC Đức Nazi này, thì nằm ở chỗ khác. Nó
nằm ngay trong chính cái gọi là thơ, chính
thơ.
The challenge to the executioner lies elsewhere. It resides
in the very language of the poetry.
Tuyệt!
Tin Văn sẽ đi hết mấy bài
viết về Celan, trong ENCOUNTERS WITH PAUL CELAN, bài nào cũng
ngắn.
Bởi là vì có thể, đây cũng
chính là vấn nạn của thơ Mit, ngôn ngữ Mít.
Cũng chính là
vết thương hình chữ S.
Giả như có thứ “Lời Thiết
Yếu, Parole Essentielle”, tức thơ, trổi lên làm câm mẹ
“Lời Thô Sơ, Parole Brute”, tức tiếng nói của đời thường, thì
đó không phải thơ của vợ chồng nhà thơ Khoa Hữu.
“Mười năm rồi lại mười năm nữa” [thơ KH], sẽ có lúc, sẽ
tới cái thì của nó, in time, tiếng thơ của họ lại
cất lên, như 1 bi khúc cho 1 miền đất. (1)
(1): Đọc lại, không
thấy ghi nguồn.
Chắc là
trích từ 1 bài viết của Thầy Đạo trên Gió O.
Làm đếch gì có
câm lặng ở đây! Thứ từ ngữ “câm lặng, hố thẳm, hư vô….”
là của thời hiện sinh, của những ông thầy của Thầy Đạo, như
Blanchot, Heidegger… Thầy ăn không tiêu, lại nhả ra, áp
dụng vào thơ NTST!
Uổng cả
1 đời, bởi là vì cũng sắp đi xa rồi, chẳng để lại được cái
gì hết, vậy mà mỗi lần viết là 1 lần khệnh khạng!
Một cách
nào đó, nếu có 1 vấn đề Do Thái cho 1 nhà
thơ như Paul Celan, thì cũng có 1 vấn đề Ngụy, cho những nhà
thơ như KH, TTT, TTY…
Cuốn sách
trên, về Paul Celan, Gấu đã giới thiệu, khi còn viết
cho tờ Văn Học của NMG, có trên Tin Văn. Bi giờ mới vớ được nó,
ở tiệm sách cũ.
Tại sao thi
sĩ, trong một thời đại khốn khổ như thế này?
(Pourquoi des poètes en temps
de détresse? Holderlin)
Paul Celan
PAUL CELAN AND LANGUAGE
Paul Celan và ngôn ngữ
JACQUES DERRIDA
Nothing insures
a poem against its death, because its archive can always be burned in crematory
ovens or in house fires, or because, without being burned, it is simply
forgotten, or not interpreted or permitted to slip into lethargy. Forgetting
is always a possibility.
Chẳng có gì bảo
hiểm cho một bài thơ chống lại cái chết của nó, bởi
là vì hồ sơ của nó thì luôn luôn
bị cháy rụi tại lò thiêu hay trong những căn nhà
cháy, hay là, bởi vì giả như không bị thiêu
đốt, thì giản dị bị quên lãng, hay đếch làm
sao dẫn giải, hay được phép chìm vào
hôn mê.
Quên
lãng thì luôn luôn là 1 khả hữu.
Coetzee viết về Paul Celan:
Trong thời gian ở Bucharest
sau chiến tranh, Celan trau giồi tiếng Nga và dịch Lermontov và
Chekhov sang tiếng Romania. Ở Paris ông tiếp tục dịch thơ Nga, tìm
thấy trong tiếng Nga 1 sự đón mừng, a welcome, chống lại căn nhà
Đức, counter-Germanic home. Đặc biệt, ông đọc chăm chú, intensively,
Osip Mandelstam (1891-1938). Ở Mandelstam, ông gặp, không chỉ
1 con người mà chuyện đời, life-story, ông cảm thấy, kỳ quặc,
so với của riêng ông, mà còn là một hồn
ma giao tiếp rất hợp với những nhu cầu sâu thẳm của ông [a ghostly
interlocutor who responded to his deepest needs], người đem đến cho ông
[offer], theo như lời của ông, in Celan’s words, “cái tình
anh em – theo 1 nghĩa thật quí, thật trang trọng, của từ này,
‘what is brotherly – in the most reverential sense I can give that word’.
Bỏ việc sáng tác ra 1 bên, ông chúi vào
dịch Mandelstam qua tiếng Đức, hầu hết thời gian từ 1958 tới 1959. Những
bản dịch của ông, tạo ra [constitute] một hành động lạ thường,
an extraordinary act, là tạo ra 1 nơi ăn chốn ở cho 1 nhà
thơ khác, inhabiting another poet, mặc dù bà vợ góa
của nhà thơ, Nadezhda Mandelstam, thật hữu lý, khi phán,
một tiếng khóc than quá xa nguyên tác, ‘a very
far cry from the original text’.
Cái quan điểm của Mandelstam, bài thơ là đối thoại,
đã rất nhiều tái tạo hình dạng của chính lý
thuyết thơ của Celan, did much to reshape Celan’s own poetic
theory.
Q: Ông muốn nói,
một người phải, như Celan, thí dụ, có khả năng sống cái
chết của ngôn ngữ để làm cho kinh nghiệm này thành
“sống”?
Derrida:
Theo tôi, ông ta
phải sống cái chết đó từ mỗi thời điểm, khoảnh khắc. Theo
một vài đường hướng. Ông ta phải sống nó ở mọi nơi,
một khi mà ông ta cảm thấy, rằng, cái ngôn ngữ
Đức đã bị làm thịt, theo một cách nào đó,
bởi lũ Nazi Đức. Lũ này đã sử dụng tiếng Đức một cách
đặc biệt để hưởng lợi, trục lợi, từ đó [nước Mít là
một, sông có thể cạn núi có thể mòn,
song chân lý này không bao giờ thay đổi, thí
dụ]: Tiếng nói, ngôn ngữ Mít bị lũ VC thao túng,
làm thịt, khi bắt phải nói thế này, thế nọ, nói
khác là đi tù cải tạo mút mùa lệ thủy.
Kinh nghiệm Nazi/VC là một tội ác đối với ngôn ngữ
Mít/Đức. Điều được nói dưới chế độ VC/Nazi là một
cái chết. Còn một cái chết khác, là đào
rạch, tầm thường hóa ngôn ngữ, bất cứ lúc nào,
bất cứ ở đâu. Và rồi còn 1 cái chết khác
nữa, một cái chết đúng ra không thể xẩy ra cho ngôn
ngữ, bởi vì nó là ngôn ngữ, đó là,
sự lập đi lập lại, chìm vào hôn mê, máy
móc hoá, etcetera. Hành động thơ ca do đó tạo
ra một hình thức tái sinh, nhà thơ là một người
thường trực mắc míu với một ngôn ngữ đang chết, và anh
cố làm nó tái sinh, không phải bằng cách
đem cho nó một khiá cạnh, sắc thái huy hoàng,
chiến thắng nào đó, nhưng mà là, làm
cho nó, đôi khi, trở lại như một bóng ma [Ta về như
bóng ma hờn tủi. TTY]: nhà thơ đánh thức ngôn
ngữ, và như thế, anh ta thực sự làm “sống’ cái kinh
nghiệm đánh thức đó, cái sự trở về lại với đời sống
của ngôn ngữ, người phải luôn luôn thật cận kề với cái
cái xác thân ngôn ngữ. Người phải gần gụi tới mức
tối đa mà người đó có thể, với cái còn
lại, tro cốt, tro than của ngôn ngữ. Tôi không muốn làm
cái trò thở than, vãi linh hồn ở đây, nhưng tôi
giả dụ, đề xuất rằng thì là Celan đã phải hằng hằng,
liên luỷ ăn thua đủ [deal] với 1 ngôn ngữ đang trong cơn nguy
nàn trở thành 1 ngôn ngữ chết. Nhà thơ là
một kẻ nào đó, và kẻ này nhận ra rằng ngôn
ngữ, ngôn ngữ của anh ta, ngôn ngữ mà anh ta thừa hưởng
như tôi mới vừa nói, có nguy cơ lại trở thành
1 ngôn ngữ chết, và do đó, anh ta có trách
nhiệm, một trách nhiệm nặng nề, là đánh thức nó
dậy, làm cho nó tái sinh [tái sinh ở đây
không có nghĩa tràn đầy hào quang, ân sủng
theo Ky Tô giáo, nhưng mà là theo nghĩa, sự tái
sinh của ngôn ngữ), không phải như là một cái
bất tử, cũng không phải như là 1 cái xác đầy
vinh quang [như Xác Ướp của Bác ở trong Lăng Ba Đình,
thí dụ đểu!], nhưng là 1 cái xác phàm
có sống có chết, mảnh mai, mỏng manh, và đôi
khi, không thể giải mã, như mỗi bài thơ của Celan. Mỗi
bài thơ là 1 tái sinh, một sự tái sinh khiến
chúng ta có thể dấn thân vào 1 cơ thể tầm thường,
yếu ớt, rất dễ bị tổn thương, và có thể, rất dễ lại chìm
vào cõi mê, vào giấc hôn thụy. Tôi
tin rằng, theo một đuờng hướng nào đó, tất cả những bài
thơ của Celan không thể giải mã được, chúng giữ 1 cái
sự không thể giải mã nào đó. Và cái
sự không thể giải mã này kêu gọi một thứ "lại dẫn
giải", một tái sinh, những hơi thở mới của diễn giải, hay...
diễm xưa dần, và lại điêu tàn, huỷ diệt. Chẳng có
gì bảo đảm [insure: bảo hiểm] một bài thơ chống lại cái
chết của nó....
Note: Bài viết của Derrida,
tuy ngắn, nhưng thật quan trọng, về 1 vấn nạn mà Mít gần
như lơ là, tức là về ngôn ngữ Mít, sau Lò
Cải Tạo.
Khi dịch "Phép Lạ Hổng",
của Steiner, Gấu đã lờ mờ nhận ra điều này, và chôm
1 câu trong bài, làm đề từ cho bài điểm cuốn
Chuyện Kể Năm 2000
của Bùi Ngọc Tấn:
For let us keep one fact clearly
in mind: the German language was not innocent of the horrors of Nazism.
(Hãy minh bạch một điều: ngôn ngữ Đức không thơ ngây
vô tội trước những điều ghê gớm, tởm lợm của chủ nghĩa Nazi.)
Paul Celan và những người dịch ông
Paul Celan and his translators
J.M. Coetzee
Paul Antschel sinh năm 1920 tại Czernowitz, Bukovina,
vùng đất, khi đế quốc Áo Hung tan vỡ ra vào năm 1918,
trở thành một phần của Romania.
Vào những ngày đó, Czernowitz là một thành
phố hiền hòa, trí thức, dễ sống với một cộng đồng nhỏ xíu
những người Do Thái nói tiếng Đức. Antschel được nuôi
dậy trong một môi trường văn hóa Đức cao; học vấn của ông,
một phần ở Đức, một phần ở Romania, và ông đã
từng theo học đánh vần tại một trường Hebrew. Khi còn trẻ,
ông làm thơ, rất mê, phải nói, sùng kính,
Rilke.
Sau một năm học, 1938-39, tại một trường thuốc ở Paris, tại đây
ông gặp đám Siêu Thực, ông về nhà nghỉ
hè, và chiến tranh bùng nổ, hết đi Tây. Do hiệp
ước Hitler-Stalin, Bukovina bị sáp nhập vô Ukraine: Trong một thoáng,
ông có vinh hạnh là một người dân Liên
Xô.
Tháng Sáu 1941, Hitler xâm lăng Liên Xô.
Đám Do Thái ở Czernowitz bị lùa vô ghetto, chẳng
mấy chốc những cuộc tống xuất bắt đầu. Có vẻ như ngửi ra được thảm
họa, Antschel trốn kịp, trong đêm cha mẹ bị bắt, tống lên tầu
chở tới trại lao động tại vùng Uraine bị Đức chiếm đóng.
Cả hai chết ở đó, bà mẹ bị bắn vô đầu khi không
còn lao động được. Antschel cũng trải qua những năm chiến tranh
bằng khổ sai lao động tại Axis Romania.
Được người Nga giải phóng vào năm 1844, ông làm
việc như là một phụ tá trong một nhà thương tâm
thần, rồi tại Bucharest, như một biên tập viên và dịch
giả, lấy cái nick Celan, đảo tự, từ tên cúng cơm, theo
cách đánh vần bằng tiếng Romania. Vào năm 1947, trước
khi bức màn sắt của Stalin buông xuống, ông kịp chuồn
đi Vienna, và sau đó
chuồn tiếp tới Paris.
Ở Paris ông lấy “chơi" mảnh bằng Cử nhân Văn khoa, và
được bổ nhiệm làm giảng viên, a lecturer, về văn chương Đức,
tại ngôi trường hách xì xằng École Normale Supérieure,
và ông bám lấy nó cho tới khi chết. Ông
kết hôn với một bà đầm Pháp, dân Ky Tô,
gốc gác quí tộc.
Thành công
do cuộc đào thoát từ Đông qua Tây của ông
chẳng mấy chốc bị mất vui. Trong số những nhà văn Celan chuyển dịch
tác phẩm của họ, có nhà thơ người Pháp Yvan Goll
(1891-1950). Claire, bà vợ góa của ông này, lôi
những bản dịch ra và la toáng lên rằng thì là
Celan đã chôm một số những bài thơ tiếng Đức của chồng
mình. Những lời tố cáo tuy thực vô lý, và
có thể nói, điên khùng, tuy nhiên, chúng
ảnh hưởng tới Celan, đến độ ông tin rằng, đây nằm trong một
âm mưu chống lại ông “Chúng ta, những người Do Thái
còn phải chịu đựng đến mức nào nữa, những điều gì nữa?”,
ông viết một lá thư tâm sự cho một người bạn thân
của mình là Nelly Sachs, cũng Do Thái như ông,
và cũng viết bằng tiếng Đức. “Không đâu, bạn không
thể nào biết có bao nhiêu kẻ dính vô vụ
này. Không lẽ tôi kể hết tên họ? Bạn sẽ chết sững
vì ghê sợ”.
Phản ứng của ông không phải là do hoảng loạn, hoang
tưởng. Một nước Đức hậu chiến ngày một tin tưởng hơn thì đồng
thời, những luồng tư tưởng, hành động bài Do Thái bắt
đầu ló dạng, không chỉ ở phía hữu, mà cả ở tả
phái, ngày càng gây nhiễu, và, sự kiện Celan
nghi ngờ, không phải là không có lý, ông
trở thành điểm nhắm thuận lợi của một chiến dịch về một thứ văn hóa
Đức dành cho thứ người Đức thượng hảo hạng, the Aryanisation of German
culture [thì cũng giống Mít, văn hóa sông Hồng,
Bắc Kít mới là văn hóa chuẩn, chính, còn
ba thứ khác là đặc sản, cục bộ, địa phương, đồi trụy, phản
động...!]
Claire không ngừng nghỉ chiến dịch chống Celan, truy đuổi ông
tới bên kia nấm mồ, những lời buộc tội của con mụ đầm này
tẩm độc những ngày tháng sau cùng của Celan, góp
phần nặng nề làm cho ông chán ngán đến suy sụp
hoàn toàn.
Paul Celan and his translators
J.M. Coetzee
Từ 1938 cho tới khi tự trầm vào năm 1970,
Celan làm chừng 800 bài thơ bằng tiếng Đức; trước đó,
là cả một khối, a body, bằng tiếng Romania.
Sự công nhận tài năng của ông cũng sớm sủa, ngay từ
1952, khi xuất hiện Mohn und Gedachtis
[tên tiếng Anh, Poppy and Memory], ông củng cố tiếng tăm của
mình như là một trong những thi sĩ trẻ viết bằng tiếng Đức,
với Sprachgitter (Speech Grille,
1959), và Die Nietmandsrose
[The No-One’s Rose, 1963). Thêm hai tập xuất hiện khi ông còn
sống, và, ba, sau khi ông mất. Mảng thơ muộn, lệch điệu -
ngả qua tả phái- đối với tầng lớp trí
thức Đức sau 1968, cho nên không được hồ hởi đón nhận.
Về danh tiếng quốc tế của ông, cho tới 1963, thiên hạ dễ
dàng tiếp cận thơ ông, Tuy nhiên mẻ thơ muộn thật khó
đọc, có thể nói, tối tăm. Đám phê bình gọi
thơ hũ nút, do cái phần biểu tượng bí hiểm và
những qui chiếu mang tính riêng tư, cá nhân. Ông
la bai bải: “Làm gì có cái chuyện hũ nút”.
“Đọc! Tiếp tục đọc, cái hiểu tự nó mò tới” [“Read!
Just keep reading, understanding comes of itself”]
Hũ nút đúng điệu thơ Celan, là bài thơ in
sau khi ông mất, vô đề, tôi [Coetzee] trích dẫn
ở đây theo bản dịch của John Felstiner:
You lie amid a great listening,
enbushed, enflaked.
Go the Spree, to the Havel,
go to the meathooks,
the red apple stakes
from Sweden
-
Here comes the gift table,
it turns around an Eden
-
The man became a sieve, the Frau
had to swim, the sow,
for herself, for no one, for everyone -
The Landwehr Canal
won't make a murmur.
Nothing
stops.
Ở
cái mức thô thiển nhất của nó,
bài thơ nói về cái
gì vậy? Thật khó nói, cho tới khi có người may
mắn vớ được tí thông tin, do chính Celan xì
ra cho nhà phê bình Karl Liebknecht. Cái cô phải
bơi đó, là Rosa Luxemburg. “Eden” là tên khu
nhà xây trên khu đất hai nhà hoạt động bị bắn
vào năm 1919, mấy cái móc treo thịt là ở Plotzensee,
bờ sông Havel River, nơi mấy kẻ tự coi là những sát
thủ tính làm thịt Hitler bị móc lên, vào
năm 1944… Từ những thông tin như vậy, bài thơ ló dạng,
như là một bình luận bi quan về sự tiếp tục sát nhân
của cánh hữu ở Đức, và sự câm nín của người
Đức về chuyện đó.
Bài
thơ Rosa Luxemburg trở thành một locus classicus nho nhỏ, triết gia Hans-Georg
Gadamer sử dụng nó để bảo vệ Celan, chống những cáo buộc
thơ hũ nút; ông khẳng định, bất cứ một độc giả đầu óc
cởi mở, chịu hấp thụ, chịu cảm nhận, receptive, thủ sẵn một nền tảng văn
hóa Đức là có thể hiểu được điều quan trọng cần hiểu,
trong thơ Celan, chẳng cần sự giúp đỡ nào khác, và,
thông tin nền tảng, background information phải coi như là
thứ cấp, second place, so với “điều bài thơ [tự thân] hiểu”
(“what the poem [itself] knows).
Coeztee
viết, lời phán của Gadamer can đảm, nhưng, thua, [Gadamer’s argument
is a brave but losing one].
Paul Celan
PAUL CELAN AND LANGUAGE
Paul Celan và ngôn ngữ
JACQUES DERRIDA
Nothing insures
a poem against its death, because its archive can always be burned in crematory
ovens or in house fires, or because, without being burned, it is simply
forgotten, or not interpreted or permitted to slip into lethargy. Forgetting
is always a possibility.
Chẳng có gì bảo
hiểm cho một bài thơ chống lại cái chết của nó, bởi
là vì hồ sơ của nó thì luôn luôn
bị cháy rụi tại lò thiêu hay trong những căn nhà
cháy, hay là, bởi vì giả như không bị thiêu
đốt, thì giản dị bị quên lãng, hay đếch làm sao dẫn giải, hay được phép chìm vào
hôn mê.
Quên
lãng thì luôn luôn là 1 khả hữu.
Coetzee viết về Paul Celan:
Trong thời gian ở Bucharest
sau chiến tranh, Celan trau giồi tiếng Nga và dịch Lermontov và
Chekhov sang tiếng Romania. Ở Paris ông tiếp tục dịch thơ Nga, tìm
thấy trong tiếng Nga 1 sự đón mừng, a welcome, chống lại căn nhà
Đức, counter-Germanic home. Đặc biệt, ông đọc chăm chú, intensively,
Osip Mandelstam (1891-1938). Ở Mandelstam, ông gặp, không chỉ
1 con người mà chuyện đời, life-story, ông cảm thấy, kỳ quặc,
so với của riêng ông, mà còn là một hồn
ma giao tiếp rất hợp với những nhu cầu sâu thẳm của ông [a ghostly
interlocutor who responded to his deepest needs], người đem đến cho ông
[offer], theo như lời của ông, in Celan’s words, “cái tình
anh em – theo 1 nghĩa thật quí, thật trang trọng, của từ này,
‘what is brotherly – in the most reverential sense I can give that word’.
Bỏ việc sáng tác ra 1 bên, ông chúi vào
dịch Mandelstam qua tiếng Đức, hầu hết thời gian từ 1958 tới 1959. Những
bản dịch của ông, tạo ra [constitute] một hành động lạ thường,
an extraordinary act, là tạo ra 1 nơi ăn chốn ở cho 1 nhà
thơ khác, inhabiting another poet, mặc dù bà vợ góa
của nhà thơ, Nadezhda Mandelstam, thật hữu lý, khi phán,
một tiếng khóc than quá xa nguyên tác, ‘a very
far cry from the original text’.
Cái quan điểm của Mandelstam, bài thơ là đối thoại,
đã rất nhiều tái tạo hình dạng của chính lý
thuyết thơ của Celan, did much to reshape Celan’s
own poetic theory.
Q: Ông muốn nói,
một người phải, như Celan, thí dụ, có khả năng sống cái
chết của ngôn ngữ để làm cho kinh nghiệm này thành
“sống”?
Derrida:
Theo tôi, ông ta
phải sống cái chết đó từ mỗi thời điểm, khoảnh khắc. Theo
một vài đường hướng. Ông ta phải sống nó ở mọi nơi,
một khi mà ông ta cảm thấy, rằng, cái ngôn ngữ
Đức đã bị làm thịt, theo một cách nào đó,
bởi lũ Nazi Đức. Lũ này đã sử dụng tiếng Đức một cách
đặc biệt để hưởng lợi, trục lợi, từ đó [nước Mít là
một, sông có thể cạn núi có thể mòn, song
chân lý này không bao giờ thay đổi, thí dụ]:
Tiếng nói, ngôn ngữ Mít bị lũ VC thao túng, làm
thịt, khi bắt phải nói thế này, thế nọ, nói khác
là đi tù cải tạo mút mùa lệ thủy. Kinh nghiệm
Nazi/VC là một tội ác đối với ngôn ngữ Mít/Đức.
Điều được nói dưới chế độ VC/Nazi là một cái chết. Còn
một cái chết khác, là đào rạch, tầm thường hóa
ngôn ngữ, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Và
rồi còn 1 cái chết khác nữa, một cái chết đúng
ra không thể xẩy ra cho ngôn ngữ, bởi vì nó là
ngôn ngữ, đó là, sự lập đi lập lại, chìm vào
hôn mê, máy móc hoá, etcetera. Hành
động thơ ca do đó tạo ra một hình thức tái sinh, nhà
thơ là một người thường trực mắc míu với một ngôn ngữ
đang chết, và anh cố làm nó tái sinh, không
phải bằng cách đem cho nó một khiá cạnh, sắc thái
huy hoàng, chiến thắng nào đó, nhưng mà là,
làm cho nó, đôi khi, trở lại như một bóng ma
[Ta về như bóng ma hờn tủi. TTY]: nhà thơ đánh thức
ngôn ngữ, và như thế, anh ta thực sự làm “sống’ cái
kinh nghiệm đánh thức đó, cái sự trở về lại với đời
sống của ngôn ngữ, người phải luôn luôn thật cận kề với
cái cái xác thân ngôn ngữ. Người phải gần
gụi tới mức tối đa mà người đó có thể, với cái
còn lại, tro cốt, tro than của ngôn ngữ. Tôi không
muốn làm cái trò thở than, vãi linh hồn ở đây,
nhưng tôi giả dụ, đề xuất rằng thì là Celan đã
phải hằng hằng, liên luỷ ăn thua đủ [deal] với 1 ngôn ngữ đang
trong cơn nguy nàn trở thành 1 ngôn ngữ chết. Nhà
thơ là một kẻ nào đó, và kẻ này nhận ra
rằng ngôn ngữ, ngôn ngữ của anh ta, ngôn ngữ mà
anh ta thừa hưởng như tôi mới vừa nói, có nguy cơ lại
trở thành 1 ngôn ngữ chết, và do đó, anh ta có
trách nhiệm, một trách nhiệm nặng nề, là đánh
thức nó dậy, làm cho nó tái sinh [tái
sinh ở đây không có nghĩa tràn đầy hào quang,
ân sủng theo Ky Tô giáo, nhưng mà là theo
nghĩa, sự tái sinh của ngôn ngữ), không phải như là
một cái bất tử, cũng không phải như là 1 cái
xác đầy vinh quang [như Xác Ướp của Bác ở trong Lăng
Ba Đình, thí dụ đểu!], nhưng là 1 cái xác
phàm có sống có chết, mảnh mai, mỏng manh, và
đôi khi, không thể giải mã, như mỗi bài thơ của
Celan. Mỗi bài thơ là 1 tái sinh, một sự tái
sinh khiến chúng ta có thể dấn thân vào 1 cơ thể
tầm thường, yếu ớt, rất dễ bị tổn thương, và có thể, rất dễ
lại chìm vào cõi mê, vào giấc hôn
thụy. Tôi tin rằng, theo một đuờng hướng nào đó, tất
cả những bài thơ của Celan không thể giải mã được, chúng
giữ 1 cái sự không thể giải mã nào đó.
Và cái sự không thể giải mã này kêu
gọi một thứ "lại dẫn giải", một tái sinh, những hơi thở mới của diễn
giải, hay... diễm xưa dần, và lại điêu tàn, huỷ
diệt. Chẳng có gì bảo đảm [insure: bảo hiểm] một bài
thơ chống lại cái chết của nó....
Note: Bài viết của Derrida,
tuy ngắn, nhưng thật quan trọng, về 1 vấn nạn mà Mít gần
như lơ là, tức là về ngôn ngữ Mít, sau Lò
Cải Tạo.
Khi dịch "Phép Lạ Hổng",
của Steiner, Gấu đã lờ mờ nhận ra điều này, và chôm
1 câu trong bài, làm đề từ cho bài điểm cuốn
Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc
Tấn:
For let us keep one fact clearly
in mind: the German language was not innocent of the horrors of Nazism.
(Hãy minh bạch một điều: ngôn ngữ Đức không thơ ngây
vô tội trước những điều ghê gớm, tởm lợm của chủ nghĩa Nazi.)
George
Steiner, Phép Lạ Hổng (The Hollow Miracle)
Paul Celan
Mẹ có đau khổ không mẹ ơi
PAUL CELAN AND LANGUAGE
JACQUES DERRIDA
Q: Would you say that one must
have been, like Celan maybe, capable of living the death of language in
order to try to render that experience "live"?
A: It seems to me that he had
to live that death at each moment. In several ways. He must have lived
it everywhere where he felt that the German language had been killed in
a certain way, for example by subjects of the German language who made
a specific use of it: the language is manhandled, killed, put to death because
it is made to say in this or that way. The experience of Nazism is a crime
against the German language. What was said in German under Nazism is a death.
There is another death, namely the canalization, the trivialization of language,
of the German language for example, anywhere, anytime. And then there is
another death, which is the one that cannot happen to language because of
what it is, that is to say: repetition, slide into lethargy, mechanization,
etcetera. The poetic act thus constitutes a kind of resurrection: the poet
is someone who is permanently involved with a language that is dying and
which he resurrects, not by giving it back some triumphant aspect but by making
it return sometimes, like a specter or a ghost: the poet wakes up language
and in order to really make the "live" experience of this waking up, of
this return to life of language, one has to be very close to the corpse of
the language. One has to be as close as possible to its remains. I wouldn't
want to give in to pathos too much here, but I suppose that Celan had constantly
to deal with a language that was in danger of becoming a dead language. The
poet is someone who notices that language, that his language, the language
he inherits in the sense I mentioned earlier, risks becoming a dead language
again and that therefore he has the responsibility, a very grave responsibility,
to wake it up, to resuscitate it (not in the sense of Christian glory but
in the sense of the resurrection of language), neither as an immortal body
nor as a glorious body but as a mortal body, fragile and at times indecipherable,
as is each poem by Celan. Each poem is a resurrection, but one that engages
us with a vulnerable body that may yet again slip into oblivion. I believe
that in a certain way all of Celan's poems "remain indecipherable, keep some
indecipherability, and this decipherability can either call interminably
for a sort of interpretation, a resurrection, new breaths of interpretation
or fade away, perish again. Nothing insures a poem against its death, because
its archive can always be burned in crematory ovens or in house fires, or
because, without being burned, it is simply forgotten, or not interpreted
or permitted to slip into lethargy. Forgetting is always a possibility.
From an interview with Evelyne
Grossman, Europe 861-62 (January
-February 2001): 90-91.
Ông muốn nói, một
người phải, như Celan, thí dụ, có khả năng sống cái
chết của ngôn ngữ để làm cho kinh nghiệm này thành
“sống”?
Theo tôi, ông ta
phải sống cái chết đó từ mỗi thời điểm, khoảnh khắc. Theo
một vài đường hướng. Ông ta phải sống nó ở mọi nơi,
một khi mà ông ta cảm thấy, rằng, cái ngôn ngữ
Đức đã bị làm thịt, theo một cách nào đó,
bởi lũ Nazi Đức. Lũ này đã sử dụng tiếng Đức một cách
đặc biệt để hưởng lợi, trục lợi, từ đó [nước Mít là
một, sông có thể cạn núi có thể mòn, song
chân lý này không bao giờ thay đổi, thí dụ]:
Tiếng nói, ngôn ngữ Mít bị lũ VC thao túng, làm
thịt, khi bắt phải nói thế này, thế nọ, nói khác
là đi tù cải tạo mút mùa lệ thủy. Kinh nghiệm
Nazi/VC là một tội ác đối với ngôn ngữ Mít/Đức.
Điều được nói dưới chế độ VC/Nazi là một cái chết. Còn
một cái chết khác, là đào rạch, tầm thường hóa
ngôn ngữ, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Và
rồi còn 1 cái chết khác nữa, một cái chết đúng
ra không thể xẩy ra cho ngôn ngữ, bởi vì nó là
ngôn ngữ, đó là, sự lập đi lập lại, chìm vào
hôn mê, máy móc hoá, etcetera. Hành
động thơ ca do đó tạo ra một hình thức tái sinh, nhà
thơ là một người thường trực mắc míu với một ngôn ngữ
đang chết, và anh cố làm nó tái sinh, không
phải bằng cách đem cho nó một khiá cạnh, sắc thái
huy hoàng, chiến thắng nào đó, nhưng mà là,
làm cho nó, đôi khi, trở lại như một bóng ma
[Ta về như bóng ma hờn tủi. TTY]: nhà thơ đánh thức
ngôn ngữ, và như thế, anh ta thực sự làm “sống’ cái
kinh nghiệm đánh thức đó, cái sự trở về lại với đời
sống của ngôn ngữ, người phải luôn luôn thật cận kề với
cái cái xác thân ngôn ngữ. Người phải gần
gụi tới mức tối đa mà người đó có thể, với cái
còn lại, tro cốt, tro than của ngôn ngữ. Tôi không
muốn làm cái trò thở than, vãi linh hồn ở đây,
nhưng tôi giả dụ, đề xuất rằng thì là Celan đã
phải hằng hằng, liên luỷ ăn thua đủ [deal] với 1 ngôn ngữ đang
trong cơn nguy nàn trở thành 1 ngôn ngữ chết. Nhà
thơ là một kẻ nào đó, và kẻ này nhận ra
rằng ngôn ngữ, ngôn ngữ của anh ta, ngôn ngữ mà
anh ta thừa hưởng như tôi mới vừa nói, có nguy cơ lại
trở thành 1 ngôn ngữ chết, và do đó, anh ta có
trách nhiệm, một trách nhiệm nặng nề, là đánh
thức nó dậy, làm cho nó tái sinh [tái
sinh ở đây không có nghĩa tràn đầy hào quang,
ân sủng theo Ky Tô giáo, nhưng mà là theo
nghĩa, sự tái sinh của ngôn ngữ), không phải như là
một cái bất tử, cũng không phải như là 1 cái
xác đầy vinh quang [như Xác Ướp của Bác ở trong Lăng
Ba Đình, thí dụ đểu!], nhưng là 1 cái xác
phàm có sống có chết, mảnh mai, mỏng manh, và
đôi khi, không thể giải mã, như mỗi bài thơ của
Celan. Mỗi bài thơ là 1 tái sinh, một sự tái
sinh khiến chúng ta có thể dấn thân vào 1 cơ thể
tầm thường, yếu ớt, rất dễ bị tổn thương, và có thể, rất dễ
lại chìm vào cõi mê, vào giấc hôn
thụy. Tôi tin rằng, theo một đuờng hướng nào đó, tất
cả những bài thơ của Celan không thể giải mã được, chúng
giữ 1 cái sự không thể giải mã nào đó.
Và cái sự không thể giải mã này kêu
gọi một thứ "lại dẫn giải", một tái sinh, những hơi thở mới của diễn
giải, hay... diễm xưa dần, và lại điêu tàn, huỷ
diệt. Chẳng có gì bảo đảm [insure: bảo hiểm] một bài
thơ chống lại cái chết của nó....
Note: Bài viết của Derrida,
tuy ngắn, nhưng thật quan trọng, về 1 vấn nạn mà Mít gần
như lơ là, tức là về ngôn ngữ Mít, sau Lò
Cải Tạo.
Khi dịch "Phép Lạ Hổng",
của Steiner, Gấu đã lờ mờ nhận ra điều này, và chôm
1 câu trong bài, làm đề từ cho bài điểm cuốn
Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc
Tấn:
For let us keep one fact clearly
in mind: the German language was not innocent of the horrors of Nazism.
(Hãy minh bạch một điều: ngôn ngữ Đức không thơ ngây
vô tội trước những điều ghê gớm, tởm lợm của chủ nghĩa Nazi.)
George Steiner, Phép
Lạ Hổng (The Hollow Miracle)
ENCOUNTERS WITH PAUL CELAN
E. M. CIORAN
Précis de decomposition, my first book written in French,
was published in I949 by Gallimard. Five works of mine had been published
in Romanian. In 1937, I arrived in Paris on a scholarship from the Bucharest
Institut francais, and I have never left. It was only in I947, though, that
I thought of giving up my native language. It was a sudden decision. Switching
languages at the age of thirty-seven is not an easy undertaking. In truth,
it is a martyrdom, but a fruitful martyrdom, an adventure that lends meaning
to being (for which it has great need!). I recommend to anyone going through
a major depression to take on the conquest of a foreign idiom, to reenergize
himself, altogether to renew himself, through the Word. Without my drive
to conquer French, I might have committed suicide. A language is a continent,
a universe, and the one who makes it his is a conquistador. But let us get
to the subject. ...
The German translation of the Précis proved difficult.
Rowohlt, the publisher, had engaged an unqualified woman, with disastrous
resuits. Someone else had to be found. A Romanian writer, Virgil Ierunca,
who, after the war, had edited a literary journal in Romania, in which Celan's
first poems were published, warmly recommended him. Celan, whom I knew
only by name, lived in the Latin quarter, as did 1. Accepting my offer,
Celan set to work and managed it with stunning speed. I saw him often, and
it was his wish that I read closely along, chapter by chapter, as he progressed,
offering possible suggestions. The vertiginous problems involved in translation
were at that time foreign to me, and I was far from assessing the breadth
of it. Even the idea that one might have a committed interest in it seemed
rather extravagant to me. I was to experience a complete reversal, and,
years later, would come to regard translation as an exceptional undertaking,
as an accomplishment almost equal to that of the work of creation. I am sure,
now, that the only one to understand a book thoroughly is someone who has
gone to the trouble of translating it. As a general rule, a good translator
sees more clearly than the author, who, to the extent that he is in the
grips of his work, cannot know its secrets, thus its weaknesses and its limits.
Perhaps Celan, for whom words were life and death, would have shared this
position on the art of translation.
In 1978, when Klett was reprinting Lehre vom Zerfall (the German Précis), I was asked
to correct any errors that might exist. I was unable to do it myself, and
refused to engage anyone else. One does not correct
Celan. A few months before he died, he said to me that he would like to
review the complete text. Undoubtedly, he would have made numerous revisions,
since, we must remember, the translation of the Précis
dates back to the beginning of his career as a translator. It is really
a wonder that a noninitiate in philosophy dealt so extraordinarily well
with the problems inherent in an excessive, even provocative, use of paradox
that characterizes my book.
Relations with this deeply torn being were not simple. He clung to his
biases against one person or another, he sustained his mistrust, all the
more so because of his pathological fear of being hurt, and everything hurt
him. The slightest indelicacy, even unintentional, affected him irrevocably.
Watchful, defensive against what might happen, he expected the same attention
from others, and abhorred the easygoing attitude so prevalent among the Parisians,
writers or not. One day, I ran into him in the street. He was in a rage,
in a state nearing despair, because X, whom he had invited to have dinner
with him, had not bothered to come. Take it easy, I said to him, X is like
that, he is known for his don't-give-a-damn attitude. The only mistake was
expecting him. Celan, at that time, was living very simply and having no
luck at all finding a decent job. You can hardly picture him in an office.
Because of his morbidly sensitive nature, he nearly lost his one opportunity.
The very day that I was going to his home to lunch with him, I found
out that there was a position open for a German instructor at the Ecole normale
supérieure, and that the appointment of a teacher would be imminent.
I tried to persuade Celan that it was of the utmost importance for him to
appeal vigorously to the German specialist in whose hands the matter resided.
He answered that he would not do anything about it, that the professor in
question gave him the cold shoulder, and that he would for no price leave
himself open to rejection, which, according to him, was certain. Insistence
seemed useless.
Returning home, it occurred to me to send him by pneumatique,
a message in which I pointed out to him the folly of allowing such an opportunity
to slip away. Finally he called the professor, and the matter was settled
in a few minutes. "I was wrong about him," he told me later. I won't go
so far as to propose that he saw a potential enemy in every man; however,
what was certain was that he lived in fear of disappointment or outright
betrayal. His inability to be detached or cynical made his life a nightmare.
I will never forget the evening I spent with him when the widow of a poet
had, out of literary jealousy, launched an unspeakably vile campaign against
him in France and Germany, accusing him of having plagiarized her husband.
"There isn't anyone in the world more miserable than I am," Celan kept saying.
Pride doesn't soothe fury, even less despair.
Something within him must have been broken very early on, even before
the misfortunes which crashed down upon his people and himself. I recall
a summer afternoon spent at his wife's lovely country place, about forty
miles from Paris. It was a magnificent day.
Everything invoked relaxation, bliss, illusion. Celan, in a lounge chair,
tried unsuccessfully to be lighthearted. He seemed awkward, as if he didn't
belong, as though that brilliance was not for him. What can I be looking
for here? he must have been thinking. And, in fact, what was he seeking
in the innocence of that garden, this man who was guilty of being unhappy,
and condemned not to find his place anywhere? It would be wrong to say that
I felt truly ill at ease; nevertheless, the fact was that everything about
my host, including his smile, was tinged with a pained charm, and something
like a sense of nonfuture.
Is it a privilege or a curse to be marked by misfortune? Both at once.
This double face defines tragedy. So Celan was a figure, a tragic being.
And for that he is for us somewhat more than a poet .
E. M. Cioran, "Encounters with
Paul Celan," in Translating Tradition: Paul Celan in France, edited by Benjamin
Hollander (San Francisco: ACTS 8/9,1988): 151-52.
Is it a privilege or a curse
to be marked by misfortune? Both at once. This double face defines tragedy.
So Celan was a figure, a tragic being. And for that he is for us somewhat
more than a poet .
Đặc quyền, hay trù ẻo,
khi nhận "ân sủng" của sự bất hạnh?
Liền tù tì cả hai!
Cái bộ mặt kép đó định nghĩa thế nào là
bi kịch.
Và như thế, Celan là 1 hình tượng, một con người
bi thương.
Và như thế, ông bảnh hơn nhiều, chứ không "chỉ là
1 nhà thơ"!
Cô độc như Celan
"Celan est malade – Il est incurable"
(Celan bịnh. Vô phương cứu chữa).
Heidegger
"Trong cuốn sách căn
lều,
Nhìn ngôi sao con suối,
Và ở nơi trái tim,
Hy vọng
Một lời sẽ tới"
(Dans le livre de la hutte,
avec un regard sur l’étoile de la fontaine,
avec, au coeur,
l’espoir d’une parole à venir)
Celan.
Paul Antschel sinh năm 1920
tại Czernowitz thuộc vùng Bukovina; sau khi Đế quốc Áo Hung
sụp đổ (1918), vùng đất này trở thành một phần của Romania.
Vào những ngày đó, Czernowitz sống cuộc sống êm
ả trí thức với một nhóm nhỏ Do Thái nói tiếng
Đức của nó. Anstchel được nuôi dưỡng để nói thứ tiếng
Đức bậc cao; học vấn, một phần tiếng Đức, một phần tiếng Romania, trong
có cả phần học vấn từ một trường Hebrew. Khi còn trẻ, ông
làm thơ. Như Rilke.
Sau một năm học trường y (1938-1939) tại Pháp, gặp nhóm
Siêu Thực, ông trở về nhà nghỉ hè, và
chiến tranh làm kẹt luôn. Do hiệp ước giữa Hitler và
Staline, Czernowitz bị sáp nhập vào Ukraine, thế là
ông trở thành một "đề tài Xô viết" (a Soviet subject).
Tháng Sáu 1941, Hitler xâm lăng Liên Xô.
Nhóm Do Thái ở Czernowitz bị xua vào một ghetto; liền
theo đó là tống xuất. Hình như được báo trước,
Antschel trốn được, vào cái đêm cha mẹ ông bị
bắt. Họ bị đưa xuống tầu tới trại lao động khổ sai ở Ukraine bị Đức chiếm
đóng, rồi chết ở đó, bà mẹ bị bắn vào đầu, khi
bà không còn đủ sức đi lao động. Chính Antschel
cũng đã trả qua những năm chiến tranh như một lao động khổ sai tại
Axis Romania.
Được những người Nga giải phóng vào năm 1944, ông
làm việc một thời gian, như một trợ viên tại một bệnh viện
tâm thần, rồi làm biên tập viên và dịch
giả tại Bucharest, lấy bút hiệu là Celan, một đảo tự của từ
Antschel theo cách đọc Romania. Vào năm 1947, trước khi bức
màn sắt của Stalin buông xuống, ông thoát được,
tới Vienna, rồi từ đó, tới Paris. Tại đây, ông lấy được
mảnh bằng Cử nhân văn khoa, và được bổ nhiệm làm "lecturer",
về văn học Đức tại ngôi trường nổi tiếng Cao Đẳng Sư Phạm, một chức
vụ mà ông giữ tới khi chết. Ông kết hôn với một
người đàn bà Pháp, theo Ca tô giáo, và
thuộc dòng quí tộc.
Cuộc thành công, khi di chuyển từ Đông qua Tây,
chẳng mấy chốc cho thấy mầm độc hại của nó.
Trong số những nhà thơ mà Celan chuyển dịch, có
thi sĩ người Pháp Yvan Goll (1891-1950). Claire, bà vợ góa
của nhà thơ này đã lên tiếng tố cáo Celan
ăn cắp một số bài thơ bằng tiếng Đức của chồng bà. Mặc dù
những lời tố cáo bẩn thỉu, có lẽ phải nói là
khùng điên, nhưng thảm thay, chúng thấm vào Celan,
đến nỗi ông tin rằng Claire Goll là một phần trong một âm
mưu chống lại ông. "Những người Do Thái chúng ta còn
phải chịu đựng thế nào nữa?", ông viết cho một bạn tâm
phúc Nelly Sachs, cũng nhà văn Do Thái viết bằng tiếng
Đức. "Bạn không thể đếm được bao nhiêu người trong số chủ chốt
đâu, không, bạn Nelly Sachs, bạn không hiểu gì
hết! Nếu tôi đọc tên [những kẻ đó], bạn sẽ cảm thấy ghê
rợn."
Phản ứng của nhà thơ không phải là hoang tưởng.
Cùng với một nước Đức hậu chiến ngày thêm tự tin về
nó, chủ nghĩa bài Do Thái lại ló mòi,
không chỉ ở phía hữu, mà luôn cả ở phía
tả. Celan cảm thấy – không phải là không có căn
cứ – rằng ông là một cái đích thuận tiện của
phong trào đòi hỏi một văn hoá Đức mang tính
thượng đẳng Aryan. Phong trào này đã không chịu
buông tay đầu hàng vào năm 1945, và chỉ đi vào
hoạt động bí mật.
Claire Goll không bao giờ chùn bước trong chiến dịch bôi
nhọ Celan, truy đuổi ông xuống tận dưới mồ; những trò truy
bức này đã ảnh hưởng nặng nề tinh thần nhà thơ, và
góp phần rất nhiều trong việc đẩy nhà thơ tới suy sụp hoàn
toàn, và cuối cùng là tự trầm.
Ân sủng của bất hạnh?
Khi viết những dòng trên,
có thể Cioran có trong đầu, trường hợp quái dị của
bài thơ Tẩu Khúc Của Thần Chết của Paul Celan:
Bài thơ đã đem
đến cho người Đức một niềm khuây khỏa "lớn lao, kỳ diệu", ngang xứng
với khôi hài đen, một nghệ thuật lớn vốn thịnh hành cùng
thời: "Người Đức sẽ chẳng bao giờ có thể tha thứ cho người Do thái
về Auschwitz”
Mẹ có đau khổ không, Mẹ ơi...
Thơ Celan không dễ đọc.
Gấu mua cuốn thơ vì mấy bài viết về ông, bài
nào cũng thần sầu. Không thể bỏ bài nào.
Vấn nạn thơ Celan, cũng là vấn nạn không thể viết, nhất
là bằng tiếng Đức, của Kafka, theo Gấu. Trong bài viết về ông,
của Edmond Jabès, cũng in trong cuốn sách, Hồi ức của chữ, The Memory of Words,
nguyên tác tiếng Tây, La Mémoire des Mots, (Paris: Fourbis,
1990), Jabès viết: Đằng sau ngôn ngữ Celan là tiếng vang
chẳng thể nào tắt ngấm của một ngôn ngữ khác.
Nhận xét này cũng áp dụng cho Kafka, theo Gấu.
Nhưng nhận xét sau đây,
của Jabès, mới thần sầu:
Stéphane Mosès ghi nhận, trong bài nghiên
cứu của ông, “Trò chuyện trong
núi, Conversations in the Mountains", trong bài thơ
này, việc Celan sử dụng một số cảm nghĩ vay mượn từ Judeo-German [Đức-Do
Thái] có thể nằm trong phần thách đố của ông,
đối với đám đao phủ thủ [could well be on his part a challenge to
the executioners]
Theo Jabès, không phải như vậy.
Cái sự thách đố
lũ VC Đức Nazi này, thì nằm ở chỗ khác. Nó
nằm ngay trong chính cái gọi là thơ, chính
thơ.
The challenge to the executioner lies elsewhere. It resides in the very
language of the poetry.
Tuyệt!
Tin Văn
sẽ đi hết mấy bài viết về Celan, bài nào cũng ngắn.
Bởi là vì có thể, đây cũng chính là
vấn nạn của thơ Mit, ngôn ngữ Mít.
Cũng chính là
vết thương hình chữ S.
|
|