We
must therefore listen attentively to every whisper of the world, trying
to
detect the images that have never made their way into poetry, the
phantasms
that have never reached a waking state. No doubt this is an impossible
task in
two senses: first because it would force us to reconstitute the dust of
those
actual sufferings and foolish words that nothing preserves in time;
second, and
above all, because those sufferings and words exist only in the act of
separation.
Michel Foucault, Madness and Civilization.
[Chúng
ta do đó phải chăm chú nghe mọi tiếng thì thầm của thế giới, cố nhận
ra những hình ảnh chẳng tìm ra con đường của chúng để đến với thơ ca,
những hồn
ma bóng quế không làm sao thức giấc. Hiển nhiên đây là một nhiệm
vụ bất khả, theo hai nghĩa: thứ nhất nó sẽ ép chúng ta phải tái tạo lớp
tro
than bụi bặm của những khổ đau và những từ ngữ điên khùng mà chẳng có
gì gìn giữ
chúng với thời gian; thứ nhì, và trên tất cả, bởi vì những khổ đau và
những từ
ngữ này chỉ hiện hữu trong hành động chia lìa, cách trở: Từ lúc đưa em
về là
ngàn trùng xa cách!]
Michel Foucault, Madness and Civilization. Khùng điên và Văn minh W.G. Sebald trích dẫn, làm đề từ cho bài viết Strangeness,
Integration
and Crisis: On Peter Handke's play Kaspar, trong CAMPO SANTO
Tiếng dội của
gió trong cây có khác nhau không? Làm gì có tiếng dội của gió trong
cây, mà
nghe. Có chứ, nhưng chắc phải còn tùy người nghe. Người nghe có lắng
tai, có để
cả tâm mình trong tiếng dội lại của gió hay không? Khi trận gió lớn đi
qua, cái
âm dội lại trong hàng thông có khác với âm dội lại trong những cây
phong? Thật
ra không phải cái tai nào cũng nghe được, ta phải để cả cái tâm của
mình khi
gió đến và khi gió bỏ đi thì ta mới thấy được âm thanh của gió dội lại
khác
nhau thế nào. Vì có người nói, họ có thể nghe tiếng dội của cánh hoa
hồng rơi
xuống lòng vực. Người này chắc phải là một thi sĩ!
TMT
Walter Bejamin là
ai? Một triết gia? Một nhà phê bình? Một sử gia? Hay "chỉ là" một nhà
văn?
Câu trả lời hay nhất có lẽ là của Hannah Arendt: ông ta là một "trong
số
những người không thể xếp loại… là những người có tác phẩm không hợp
với trật
tự đang có, mà cũng chẳng đưa ra một thể loại mới nào."
Ui chao, cái sự kiện,
GNV bị độc giả VOA rũa tơi bời, một phần vì đám đệ tử của Thầy cứ thấy
bài của
Gấu là chửi, một phần còn là vì lý do, như trên!
“Nhịp thời gian”:
một bài viết ‘không phù hợp với trật tự đang có, mà cũng chẳng đưa ra
một thể
loại mới nào’!
Tuyệt!
* Lê Tấn
Lộc
(Canada)
Cảm ơn Tha
La đã nói giùm tôi (và có lẽ của rất nhiều thân hữu cũng như văn hữu
của NXH).
Xin nhắn NXH chớ quá chiều chuộng bạn bè mà bắt thiên hạ trân mình chịu
đựng
"loạt bài" bắn rafale non-stop nầy, có ngày chúng tôi bị stroke hết!
VOA
LTL, chắc ông
anh KT?
Bạn lầm rồi.
Gấu chẳng hề ham viết cho VOA.
Đã viết chùa còn bị chúng chửi, gần như suốt đời
sống đời ‘đâm thuê chém mướn’, Gấu đâu có ngu đến như thế!
Blog VOA của
NXH & Bạn hữu xuất hiện cũng đã lâu, đâu có Gấu trong số những thân
hữu, văn
hữu?
Mới đây thôi, bạn quí xin số phone, qua một bạn văn ở Cali, nói
bịnh quá, đi giùm một, hai đường ‘cứu bồ’.
Loạt bài ‘rafale non stop’, là để đăng trên TV.
Cái sự không ưa Mẽo của Gấu, dài dòng, nhiêu khê lắm. Bữa nào
rảnh, kể hầu độc giả TV.
Chửi
còn đỡ. Khen mới khổ!
Nathalie Sarraute, kể, nhờ Sartre đọc Chân dung một kẻ lạ, coi
đây là một
thứ 'phản tiểu thuyết', mà bà nổi tiếng, cám ơn ông ta, làm sao không,
nhưng
Sartre chẳng hiểu tí chó gì về cuốn sách của tôi!
Được
triết gia, giáo chủ giáo
phái hiện sinh khen, mà còn khổ như thế, thử tưởng tượng Gấu được Thầy,
đệ tử
của Thầy, và bây giờ, “You too, Brutus?”, xúm
lại xoa đầu thì
chắc chết đứ đừ như Cesar!
*
Sự kiện trang TV lọt vào Top
Ten, đứng chỉ sau Chợ Cá, Băng Đảng Hậu Vệ, thật sự làm Gấu ngạc nhiên,
chỉ mãi
sau này mới hiểu ra: Độc giả TV, một cách nào đó, đều bị cái rìu phá
băng của
Kafka choảng cho một cú, hoặc nặng hoặc nhẹ; hay nói cách khác, đều bị
thương tổn,
nặng nề hoặc không nặng nề, vì Cái Ác Bắc Kít, đều đau lòng vì Con Bọ,
Con Ruồi
xuất hiện sau cú 30 Tháng Tư 1975, ở cả hai miền đất nước!
Gấu cũng đã từng lầu
bầu, Gấu làm trang TV chẳng hề vì mục đích văn chương, làm sao có
chuyện khen
chê Gấu viết văn, số 1 hay số 10 trong thiên hạ?
Một độc giả TV đã từng than
thở, vô TV của anh cu Gấu, ngoại trừ những
trang viết về BHD, tất cả còn lại thì đen thui, có khi vô một lần, mà
lẩn thẩn
mất cả một tuần lễ!
*
Thu, March 18, 2010 1:06:48
PM
From:
To:
Cc:
Trụ ơi,
Thích bài này lắm.
Cám ơn Trụ.
email cua moa la:….
Cậu liên lạc qua email nay
nhe!
Xin cậu 1 tấm hình va mấy
dòng bio de di kem bai viet nay..
Cậu gửi sơm cho mình nhe!
Mong lam!
H
Trên
đây là
cái mail, nhận
được từ bạn quí của Gấu, kể từ khi Gấu ngưng viết mục Tạp Ghi cho báo
Văn,
không phải báo Văn Học.
Đành phải phô ra, để ‘thỏ
thẻ’, Gấu không hề ham hố viết cho VOA!
Gấu đâu muốn, đã viết chùa, rồi
còn bị chửi, đồ già khú đế sắp ngỏm củ tỏi, mà còn mơ được gọi là nhà
văn!
Gấu cũng đã từng biết trước,
là cả đám sẽ trơ mặt dầy ra, làm như không hề biết đến những lời nhục
mạ cộng tác
viên của chúng!
Khi đọc
bài viết của Coetzee
về Walter Benjamin, Gấu bị chấn động bởi những dòng sau đây:
Từ một
khoảng
cách, tuyệt tác của Benjamin, kỳ cục thay, gợi nhớ một điêu tàn lớn lao
khác
của văn học thế kỷ 20, "Thi khúc" ("Cantos"), của Pound. Cả
hai tác phẩm đều được chiết ra từ những năm tháng đọc sách theo kiểu cú
vọ
(jackdaw reading). Cả hai đều được dựng nên từ những mẩu đoạn và những
trích
dẫn, và trung thành với một thẩm mỹ học hiện đại bậc cao, về hình ảnh
và dàn
dựng. Cả hai đều có tham vọng kinh tế và đều nằm dưới sự chứng giám của
những
nhà kinh tế (một bên là Marx, và một bên là Gesell và Douglas). Cả
hai tác giả đều có đầu tư vào
trong những ngành cổ học, và cả hai đều đánh giá quá cao sự thích nghi
của
chúng đối với thời đại của chính họ. Chẳng người nào biết, khi nào thì
dừng. Và
cả hai, sau cùng đều tiêu ma vì con quái vật là chủ nghĩa phát xít. Với
Benjamin, là một kết cục bi đát. Với Pound, ô nhục.
Và những dòng đóng
lại bài viết:
What
was Walter Benjamin: a
philosopher? A critic? A historian? A mere 'writer'? The best answer is
perhaps
Hannah Arendt's: he was 'one of the unclassifiable ones ... whose work
neither
fits the existing order nor introduces a new genre' .
His trademark approach -
coming at a subject not straight on but at an angle, moving stepwise
from one
perfectly formulated summation to the next - is as instantly
recognizable as it
is inimitable, depending on sharpness of intellect, learning lightly
worn, and
a prose style which, once he had given up thinking of himself as
Professor
Doctor Benjamin, became a marvel of accuracy and concision. Underlying
his
project of getting at the truth of our times is Goethe's ideal of
setting out
the facts in such a way that the facts will be their own theory. The Arcades book, whatever our verdict on it - ruin,
failure,
impossible project - suggests a new way of writing about a
civilization, using
its rubbish as materials rather than its artworks: history from below
rather
than from above. And his call (in the 'Theses') for a history centred
on the
sufferings of the vanquished, rather than on the achievements of the
victors,
is prophetic of the way in which history-writing has begun to think of
itself
in our lifetime.
(2001)
Walter Bejamin là
ai? Một triết gia? Một nhà phê bình? Một sử gia? Hay "chỉ là" một nhà
văn?
Câu trả lời hay nhất có lẽ là của Hannah Arendt: ông ta là một "trong
số
những người không thể xếp loại… là những người có tác phẩm không hợp
với trật
tự đang có, mà cũng chẳng đưa ra một thể loại mới nào."
Cách tiếp cận độc đáo của ông – tới với một đề tài không theo lối thẳng
băng,
mà đi xiên từ một góc độ, bước từng bậc, từ một tổng kết qui mô đã hoàn
hảo,
tới bậc kế tiếp – khiến người ta nhận ra ngay, vì chẳng ai bắt chước
nổi, với
trí tuệ sắc bén, với kiến thức nhẹ mang, và với một văn phong chính xác
và súc
tích tuyệt vời, đã có lần ông đành không dám nghĩ về mình, là giáo sư
tiến sĩ.
Làm sao tới được sự thực về thời đại của chúng ta, đó là cốt lõi dự án
của ông,
và nó được nhấn mạnh bởi một tư tưởng, mà Bejamin nhận thấy, đã được
diễn tả
bởi Goethe: làm bật ra những sự kiện, theo kiểu này: những sự kiện sẽ
là lý
thuyết của chính chúng.
Cuốn sách "Thương Xá", cho dù chúng ta đánh giá nó như thế nào – điêu
tàn, thất bại, một dự án bất khả, impossible project – đề nghị một
đường lối mới,
để viết về một nền văn minh: sử dụng những rác rưởi làm chất liệu, thay
vì những
nghệ phẩm của cái nền văn minh đó; lịch sử từ đáy thay vì lịch sử từ
đỉnh. Và
lời kêu gọi của Benjamin (trong "Những luận đề" -
"Theses"), cho một lịch sử xoáy vào đau khổ của những người thua,
thay vì thành tựu của những kẻ thắng: lời kêu gọi này mang đầy tính
tiên tri,
về cung cách mà việc viết sử bắt đầu nghĩ về chính nó, trong quãng đời
[còn lại
ngắn ngủi của chúng] ta.
Chính vì vậy, dù
vốn liếng tiếng Anh ăn đong, Gấu vẫn cố, quá sức mình, dịch bài
viết.
Có thể nói, tất cả
những bài dịch đầu tay khi mới ra ngoài này đều quá sức của Gấu, cả về
vốn liếng
tiếng Anh lẫn tầm nhìn: những bài viết của Steiner, Borges, Coetzee…
Có vẻ như trong
khi dịch, Gấu đã mường tượng ra, ngoài hai tác phẩm vĩ đại nhất của thế kỷ, cả
hai đều điêu
tàn và viết về điêu tàn, như tác giả
của
chúng, còn một tác phẩm điêu tàn, khủng hơn nhiều: Cuộc chiến Mít, và
cảnh
tượng điêu tàn băng hoại như hiện
thời!
Following
on from StrangerShores,
which contained J.M. Coetzee's
essays from 1986 to 1999, Inner Workings gathers together his literary
essays
from 2000 to 2005.
Of the writers discussed in
the first half of the book, several - Italo Svevo, Joseph Roth, Bruno
Schulz,
Sandor Marai - lived through the Austro-Hungarian fin de siècle and
felt the
influence of Schopenhauer, Nietzsche and Freud. Coetzee further
explores the
work of six of twentieth-century German literature's greatest writers:
Robert
Musil. Robert Walser, Walter Benjamin, Joseph Roth, Gunter Grass, W.G.
Sebald,
and the poet Paul Celan in his 'wrestlings with the German language'.
There is an essay on Graham
Greene's Brighton Rock and on the short fiction of Samuel Beckett, a
writer
whom Coetzee has long admired. American literature is strongly
represented from
Walt Whitman, through William Faulkner, Saul Bellow and Arthur Miller
to Philip
Roth. Coetzee rounds off the collection with essays on three fellow
Nobel
laureates: Nadine Gordimer, Gabriel Garcia Marquez and V.S. Naipaul.
Bài
essay đầu tiên của Coetzee mà Gấu đọc, viết về
Brodsky, trên tờ NYRB, sau in trong StrangerShores.
Gấu thuổng một ý tuyệt vời của Brodsky - Coetzee cũng thật mê - và sau
đó, đưa
vô bài viết về Võ Phiến, nhà văn Bình Định, gây bất hòa nặng nề giữa
Gấu và nhà
văn THT, khiến ông delete tên của Gấu trong bộ sách vĩ đại của ông, về
văn học
Miền Nam trước 1975:
Nhìn
theo cách đó, chúng ta mới thấm được những dòng
thơ "thiền", giọng điệu cảm khái, tráng sĩ "biên đình" của
những Nguyễn Bắc Sơn, Tô Thùy Yên... hay những lời ca "đồn anh đóng bên
rừng mai, nếu mai nở làm sao biết mùa xuân đã về". Đánh giặc, súng nổ
ầm
ầm, thần chết hỏi thăm từng giây, từng phút, bất cứ lúc nào, nhưng cứ
hở ra
được một chút là lại "thiền"! Vinh danh người lính Việt Nam Cộng
Hòa là đúng, chẳng có gì chuế cả, nhưng cố vực họ dậy, giữa vòng dây
oan nghiệt
của lịch sử là bi thảm hoá một huyền thoại, là tự hài lòng với nỗi bi
thảm: nạn
nhân của phi nhân. Thua trận, nhục nhã thật, nhưng thà rằng thua,
mà vẫn
giữ được "con người"! Làm người lính thiền, chắc chắn là hơn làm đao
phủ thiền! Thi sĩ không bao giờ là nạn nhân (J. Brodsky). Mỗi người
lính, như
Nguyễn Bắc Sơn, Tô Thùy Yên, Khoa Hữu, Cao Thoại Châu, Luân Hoán... là
một nhà
thơ, người lính bảo vệ ngôn ngữ, và trong khi bảo vệ ngôn ngữ, chống
lại những
điều dối trá, phi nhân, họ bảo vệ con người. Nhà văn một kẻ sống sót,
là vậy.
*
Thật lạ lùng, một trong những
bài điểm sách đầu tiên của Gấu, và Gấu thật mê, là bài viết về cuốn
tiểu thuyết
đầu tay của THT khi nó mới ra lò, thời gian Gấu phụ trách trang VHNT
của tờ nhật
báo Tiền Tuyến:
Trước
1975, thời gian phụ trách trang Văn Học Nghệ Thuật của tờ nhật
báo quân đội Tiền Tuyến, trong một bài giới thiệu tác phẩm đầu tay của
một nhà
văn đã có vài tuổi lính, nhớ tới nhà văn Y Uyên vừa mới tử trận, tôi có
đưa ra
một nhận xét: Hãy cố gắng sống sót, và, nếu may mắn sống sót, nếu may
mắn hơn Y
Uyên, bạn sẽ còn phải đụng với một cuộc chiến khác, khủng khiếp cũng
chẳng kém
trận đầu: văn chương!
Ý nghĩ này, tôi gặp lại, sau
1975, khi đọc Người Mẹ Cầm Súng của
Nguyễn Thi, chết trận Mậu Thân... Nguồn
Thế rồi
nó cứ theo Gấu hoài,
và chỉ đến khi ra hải ngoại, đọc những gi mà ông ta viết sau này, thì
mới hỡi ơi:
THT đã không nhận ra lời cảnh báo của GNV trong bài viết, chứng cớ là
cái việc ông
cứ cùi cụi lo vực dậy anh lính VNCH giữa những vòng dây kẽm gai của
lịch sử,
trong khi anh ta đếch có té ngã, chán thế!
Và, thay vì nhận ra, và cám ơn
GNV, thì ông ta lại thù thậm tệ!
*
Bài viết của Coetzee về
Brodsky cũng thật là tuyệt. TV sẽ post và có thể sẽ dịch.
Sau đây
là hai đoạn,
Gấu thuổng, liên quan tới xứ Mít của Gấu, và số phận những nhà văn nhà
thơ như
Gấu, của Miền Nam
trước 1975:
In his
autobiographical
journeying Brodsky never reached the 1960s, the time of his notorious
trial on
charges of social parasitism and his sentencing to corrective labor in
the
Russian far north. This silence was, in all likelihood, deliberate: a
refusal
to exhibit his wounds was always one of his more admirable traits ("At
all
costs try to avoid granting yourself the status of the victim," he
advises
an audience of students; On Grief, p. 144).
[Trong ký sự có tính tự thuật
của ông, Brodsky vờ hẳn đi thập niên 1960, thời gian chúng lôi ông ra
tòa, và
khiến ông nổi đình nổi đám, đến nỗi bà chị, nữ thần thi ca Nga,
Akhmatova gật gù phán, thằng em của tớ đã mướn tụi khốn viết tiểu sử
cho nó đấy.
Cái sự vờ đi một cách rất ư là vô tư này là một nét tuyệt vời đặc
Brodsky: ông
từ chối không bầy ra những vết thương của mình (“Bằng mọi giá hãy cố mà
tránh đừng
tự ban cho mình cái thế giá nạn nhân”, ông phán bảo mấy anh chị sinh
viên, trong một lần nói chuyện]
Gấu dựa
vào những nhận định
sau đây, một phần, để viết về nhạc sến, nhạc lính, nhạc vàng:
If I am right, then Brodsky's
position is not far from that of the educationists of ancient Athens, who
prescribed for students (men
only, not women) a tripartite curriculum of music (intended to make the
soul
rhythmical and harmonious), poetry, and gymnastics. Plato collapsed
these three
parts into two, music absorbing poetry and becoming the principal
mental/spiritual
discipline. Those powers that Brodsky claims for poetry would seem to
belong
less to poetry than to music. For instance, time is the medium of music
more
clearly than it is the medium of poetry: we read poetry on he printed
page as
fast as we like-usually faster than we ought to-whereas we listen to
music in
its own time. Music thus structures the time in which it is performed,
lending
it purposive form, more clearly than poetry does. So why does Brodsky
not make
his case for poetry along Plato's lines, as a species of music?
Coetzee viết
về Brodsky: Thi sĩ đòi cho thơ quyền giáo dục và cứu rỗi con người.
Và nếu
như thế, vị trí của ông, về vấn đề này, gần gụi với Cổ Athens, khi họ
dậy nam
sinh viên [không có nữ], thế chân vạc của âm nhạc [nhạc làm cho tâm hồn
nhịp
nhàng, hài hòa: to make the soul rythmical and harmonious], thơ, và thể
dục.
Plato đạp đổ thế chân vạc, ba còn hai: nhạc nuốt thơ, và trở thành môn
học
chính về tâm thần và tinh thần [the principal mental/spiritual
discipline].
Những quyền năng mà Brodsky phán, thuộc về thơ, có vẻ như thuộc về âm
nhạc nhiều
hơn, theo Coetzee. Thời gian là chốn đồng vọng, the medium, của nhạc
hơn là của
thơ: Chúng ta đọc thơ trên trang giấy in, nhanh cỡ nào tùy theo chúng
ta thích
hay không thích, trong khi chúng ta nghe nhạc, ở trong thời gian của
riêng nó.
Thời gian của riêng nó, với nhạc vàng nhạc sến của Miền Nam, đúng là cái thời để yêu, để hát, và để chết!
Mandelstam chết vì bài thơ sau
đây, vẽ
chân dung Stalin:
Mandelstam's poem on Stalin (November
1933)
We live, deaf to the land
beneath us,
Ten steps away no one hears our speeches,
But where there's so much as half a conversation
The Kremlins mountaineer will get his mention.
His fingers are fat as grubs
And the words, final as lead weights, fall from his lips,
His cockroach whiskers leer
And his boot tops gleam.
Around him a rabble of thin-necked leaders—
fawning half-men for him to play with.
They whinny, purr or whine
As he prates and points a finger,
One by one forging his laws, to be flung
Like horseshoes at the head, the eye or the groin.
And every killing is a treat
For the broad-chested Ossete. (1)
(1) "Ossete." There were
persistent
stories that Stalin had Ossetian blood. Osseda is to the north of Georgia in the Caucasus.
The people, of Iranian stock, are quite different from the
Georgians.
Mandelstam: Chân Dung Bác Xì
[Tà Lỉn]
Chúng ta sống, điếc đặc trước
mặt đất bên
dưới
Chỉ cần mười bước chân là chẳng ai nghe ta nói,
Nhưng ở những nơi, với câu chuyện nửa vời
Tên của kẻ sau cùng trèo tới đỉnh Cẩm Linh được nhắc tới.
Những ngón tay của kẻ đó mập như những con giun
Lời nói nặng như chì rớt khỏi môi
Ánh mắt nhìn đểu giả, râu quai nón-con gián...
Trong cái nhục nhã hèn hạ của
sĩ phu Bắc
Hà, có cái đẹp nhất, và khốn nạn nhất, của giấc đại mộng, nhập Đàng
Trong với
Đàng Ngoài làm một.
*
Bài thơ trên, được chuyển thể thành tiểu
thuyết, và dưới đây là bài điểm cuốn tiểu thuyết đó: THE STALIN EPIGRAM
Strongman
MICHA LAZARUS
đọc
Robert Littell
THE STALIN EPIGRAM
304pp. Duckworth Overlook.
£14.99. 9780715639030
In
November 1933, Osip
Mandelstam composed what would become known as "The Stalin Epigram",
a sixteen-line poem openly critical of the "Kremlin mountaineer", the
"murderer and peasant slayer", Joseph Stalin. In May 1934, Mandelstam
was arrested for "counter-revolutionary activity" and interrogated
for two weeks, but was miraculously spared execution or imprisonment
following
an edict from on high to "isolate and preserve". He and his wife,
Nadezhda,
spent three years sentenced to exile from major cities, and lived
peripatetically among friends and around Moscow
for a further year on their return. In May 1938, however, Osip was
arrested
once more, and sentenced to a camp for five years. Shipped to Vladivostok, he
was able to send a single
note to his brother requesting "proper clothes"; he did not survive
the winter. Nadezhda outlived him by forty-two years, eventually
reconstructing
much of his poetry from memory.
Such details became known in
the West largely thanks to Nadezhda's magnificent memoir, Hope
Against Hope (1970). An admirer of that book, Robert Littell
met Mrs Mandelstam in 1979, towards the end of her life, a meeting he
describes
in the epilogue to The Stalin Epigram. The novel reconstructs the
events of the
four years from Mandelstam's composition of the "epigram" to his
death by means of a fictionalized version of the contemporary voices of
Osip
and Nadezhda and their close friends Anna Akhmatova and Boris
Pasternak, and
the wholly fictional voices of Stalin's chief bodyguard, a beautiful
young
actress connected to the Mandelstams, and a sweet-natured weightlifting
champion and circus strongman whose experiences of Stalinist criminal
justice
are compared to those of the highly strung and sensitive Osip.
Most of the story takes place
around the time of Mandelstam's first arrest. The couple's poetic
creativity
and sexual liberality are set against the destructive and repressive
Soviet
bureaucracy, driven by a Stalin who is more physically decayed each
time he
appears. Littell doesn't stray far from the memoirs: his embroidery
adds color
and pace to a story much of whose imperturbable horror derives from the
banality of the state machinery.
Color and pace, however,
oddly lessen that horror. In order to translate from memoir to novel,
Littell
situates at the thematic centre of the novel a conflict between the
sword and
the pen, Stalin's steel mortality and Mandelstam's poetic immortality.
The connection between the two,
who in reality never met, is elaborated in fictional sequences of
half-lucid
delusions experienced by Mandelstam under duress. This is all very well
for a
story familiarly structured around agency and personality, protagonist,
antagonist, tragic arc and fatal flaw; as such, Littell' s version is a
swift
and engaging piece of fiction. But the macabre pressure of the times is
lifted
in ills account, as the bureaucratic impersonality of events is
transformed
into a straightforward battle of wills.
The novel thus squanders the
opportunity offered by historical fiction to vivify the past and
populate its
silences. The "voices" here shift uncomfortably between intimacy and
expository formality, and sound artificial; the fictional characters
imaginatively recreate the events from multiple perspectives, but (with
the
exception of Fikrit, the strongman) are too typical to add much. "You
have
to have lived through the thirties to understand", says Akhmatova in
the
novel, "and even then you don't understand." Perhaps this is true,
although Nadezhda Mandelstam's retelling was both incisive and
articulate. The Stalin
Epigram is an entertaining, well-researched introduction, but the real
story is
in the· memoirs.
TLS JUNE 4 2010