|
Jennifer
@ Niagara Falls
5.10.2003
Trang TMT
Steiner,
trong bài trả lời phỏng vấn trên The Paris
Review, khi được hỏi, văn chương, khi tới đỉnh cao ngất, thì còn
phân biệt
được của nam hay nữ, phán, văn chương khi tới đỉnh, thì hết còn phân
biệt được.
Sai. Bây giờ thì Gấu nhận ra như vậy.
Chứng cớ là hình ảnh giọt lệ trời ngàn năm trước biến thành giọt lệ
người trên
lưng bàn tay.
Nam thi
sĩ không làm sao tạo
ra được hình ảnh này, bởi vì cùng với nó, là cả một lô huyền thoại, nào
hòn
vọng phu, nào là hòn đá kiên nhẫn (Syngué sabour, Pierre
de patience,
của Atiq Rahimi, giải thưởng Goncourt) ….
Đây
cũng là ý mà Claude Lévi-Strauss vinh danh tác phẩm nghệ thuật,
ngàn năm
trước, ngàn năm sau chỉ là chớp mắt, bỏ đi vài ngàn năm như vậy, vẫn
còn được!
Và
đó cũng là ý của Brodsky, khi coi thơ là một hình thức tiết kiệm tối
tiết
kiệm, (1) tối giản [cả một thế kỷ Lò Thiêu, Lò Cải Tạo, nằm gọn trong
bài thơ
nhỏ xíu Kinh Cầu của Akhmatova, thí dụ], là thời gian được tái
cấu trúc,
ngàn năm biến thành một phút phù du, đủ khô một giọt lệ...
Gấu,
Noel, chẳng biết đi đâu, ngồi nhà ‘đọc chơi’ ba
nhà thơ, TMT, Adam Zagajewski, Wislawa Szymborska, và khám phá ra được
nhiều
điều thú vị…
Bức
hình này thuổng VC, bịt
miệng Cha Lý!
Trong
cùng số báo, có bài về
Wikipédia, mà tác giả bài viết gọi là cửa hàng chạp phô tri thức, le
grand bazar
de la connaissance.
Sự thành công của Wiki thì quá
sức tưởng tượng, không ai tiên đoán được, tuy nhiên, là một cộng đồng
ảo, nó không
thể không bị virus xâm nhập, không thể chống lại được những nhược điểm
của con
người như bất cứ một thứ không tưởng, utopie, nào. Nó không hề ban ưu
tiên cho
những người biết rành về điều mà họ nói tới.
“Nếu bạn đọc những trích dẫn
trong bài viết về Defoe, thì đều là nhảm nhí.”
Cái này thì Gấu cũng nhận ra,
khi thử vô mấy bài viết về những đấng nhà văn Bắc Kít, tức, của thứ văn
chương của
kẻ thắng, hay những đấng hậu hiện đại Mít. Toàn là rác rưởi.
Đa phần là do tự đánh
bóng, hoặc do đệ tử, fan, thổi sư phụ, sư mẫu.
Chưa hề có một bài viết công
tâm nào về Yankee mũi tẹt, về Cái Ác Bắc Kít cả!
Chán thế!
Một
ngàn lẻ một đời
Sài
Gòn nghĩa là gì?
Ấn bản đặc
biệt, dành cho thân
hữu
và những người yêu sách đẹp
Ấn
bản thường
*
MẸ CÓ ĐAU KHỔ KHÔNG MẸ ƠI
NHƯ MẸ ĐÃ TỪNG ĐAU KHỔ
Ấn bản đặc
biệt
Paul
Celan và những người
dịch ông
Paul Celan and his
translators
J.M. Coetzee
Paul Antschel sinh năm 1920 tại
Czernowitz, Bukovina, vùng đất, khi đế quốc Áo Hung tan vỡ ra vào năm
1918, trở
thành một phần của Romania.
Vào những ngày đó, Czernowitz là một thành phố hiền hòa, trí thức, dễ
sống với một
cộng đồng nhỏ xíu những người Do Thái nói tiếng Đức. Antschel được nuôi
dậy trong
một môi trường văn hóa Đức cao; học vấn của ông, một phần ở Đức, một
phần ở
Romania, và ông đã từng theo học đánh vần tại một trường Hebrew.
Khi còn
trẻ, ông làm thơ, rất mê, phải nói, sùng kính, Rilke.
Sau một năm học, 1938-39, tại một trường thuốc ở Paris, tại đây ông gặp
đám
Siêu Thực, ông về nhà nghỉ hè, và chiến tranh bùng nổ, hết đi Tây. Do
hiệp ước
Hitler-Stalin, Bukovina bị sáp nhập vô Ukraine:
Trong một thoáng, ông có vinh hạnh là một người dân Liên Xô.
Tháng Sáu 1941, Hitler xâm lăng Liên Xô. Đám Do Thái ở Czernowitz bị
lùa vô
ghetto, chẳng mấy chốc những cuộc tống xuất bắt đầu. Có vẻ như ngửi ra
được
thảm họa, Antschel trốn kịp, trong đêm cha mẹ bị bắt, tống lên tầu chở
tới trại
lao động tại vùng Uraine bị Đức chiếm đóng. Cả hai chết ở đó, bà mẹ bị
bắn vô
đầu khi không còn lao động được. Antschel cũng trải qua những năm chiến
tranh
bằng khổ sai lao động tại Axis Romania.
Được người Nga giải phóng vào năm 1844, ông làm việc như là một phụ tá
trong
một nhà thương tâm thần, rồi tại Bucharest, như một biên tập viên và
dịch giả,
lấy cái nick Celan, đảo tự, từ tên cúng cơm, theo cách đánh vần bằng
tiếng
Romania. Vào năm 1947, trước khi bức màn sắt của Stalin buông xuống,
ông kịp
chuồn đi Vienna, và sau đó chuồn tiếp
tới Paris.
Ở Paris ông lấy “chơi" mảnh bằng Cử nhân Văn khoa, và được bổ nhiệm làm
giảng
viên, a lecturer, về văn chương Đức, tại ngôi trường hách xì xằng École
Normale
Supérieure, và ông bám lấy nó cho tới khi chết. Ông kết hôn với một bà
đầm
Pháp, dân Ky Tô, gốc gác quí tộc.
Thành công do cuộc đào
thoát từ
Đông qua Tây của ông chẳng mấy chốc bị mất vui. Trong số những nhà văn
Celan
chuyển dịch tác phẩm của họ, có nhà thơ người Pháp Yvan Goll
(1891-1950).
Claire, bà vợ góa của ông này, lôi những bản dịch ra và la toáng lên
rằng thì là
Celan đã chôm một số những bài thơ tiếng Đức của chồng mình. Những lời
tố cáo
tuy thực vô lý, và có thể nói, điên khùng, tuy nhiên, chúng ảnh hưởng
tới
Celan, đến độ ông tin rằng, đây nằm trong một âm mưu chống lại ông
“Chúng ta,
những người Do Thái còn phải chịu đựng đến mức nào nữa, những điều gì
nữa?”, ông
viết một lá thư tâm sự cho một người bạn thân của mình là Nelly Sachs,
cũng Do
Thái như ông, và cũng viết bằng tiếng Đức. “Không đâu, bạn không thể
nào biết có
bao nhiêu kẻ dính vô vụ này. Không lẽ tôi kể hết tên họ? Bạn sẽ chết
sững vì ghê
sợ”.
Phản ứng của ông không phải là
do hoảng loạn, hoang tưởng. Một nước Đức hậu chiến ngày một tin tưởng
hơn thì đồng thời, những luồng tư tưởng, hành động bài Do Thái bắt đầu
ló dạng, không chỉ ở phía
hữu, mà cả ở tả phái, ngày càng gây nhiễu, và, sự kiện Celan nghi ngờ,
không phải
là không có lý, ông trở thành điểm nhắm thuận lợi của một chiến dịch về
một thứ
văn hóa Đức dành cho thứ người Đức thượng hảo hạng, the Aryanisation of
German
culture [thì cũng giống Mít, văn hóa sông Hồng, Bắc Kít mới là văn hóa
chuẩn,
chính, còn ba thứ khác là đặc sản, cục bộ, địa phương, đồi trụy, phản
động...!]
Claire không ngừng nghỉ chiến
dịch chống Celan, truy đuổi ông tới bên kia nấm mồ, những lời buộc
tội của con mụ đầm này tẩm độc những ngày tháng sau cùng của Celan, góp
phần nặng nề làm cho ông chán ngán đến suy sụp hoàn toàn.
Paris Review 4
Tuy nhiên, có
vẻ như ông rất bị ảnh hưởng bởi những nhà văn của thế hệ Do Thái Lưu
Vong
[Jewish Diaspora]?
-Khi bạn sắp sửa ló dạng ra, như là một nhà văn, mọi người sẽ nói cho
bạn biết,
văn của bạn giống, hay, thôi thì nói đại, chôm của ai. Khi còn trẻ, tôi
ngoan
ngoãn lắm, và đồng ý với bất cứ điều gì mà người ta bảo tôi. Một tay
làm việc
cho đài truyền hình Do Thái, một người mới tới, a newcomer, từ Ba Lan,
một bữa
gọi điện thoại cho tôi, và cho biết, cuốn The Smile of the Lamb
của tôi
hiển nhiên là chịu ảnh hưởng của Bruno Schulz. Tôi nói, có thể. Tôi
chưa từng
đọc Bruno Schulz, và chẳng lẽ nói với tay đó, là mình dốt ư?
Ngay từ phút đầu tiên đọc Schulz, tôi cảm thấy như bị điện giật! Mỗi
đoạn văn
là một sự bùng nổ của những thực tại khác nhau - mộng, mị, ác mộng,
tưởng
tượng, quái tưởng, fantasy. Đọc ông ta khiến tôi muốn sống hơn, sống
nữa,
reading him made me want to live more. Rồi
tôi đọc những câu chuyện về cái chết của ông. Ông ta được một sĩ quan
Đức bảo bọc.
Ông này đã từng giết một nha sĩ Do Thái của một viên sĩ quan Đức khác.
Viên sĩ
quan này bèn đi kiếm Schulz và bắn ông ta chết ngay trên đường phố. Bạn
giết tên
Do Thái của tớ thì tớ giết tên Do Thái của bạn.
[Trên TV có một ấn bản khác nữa, nhưng cả
hai đều
xác nhận chuyện Schulz bị một viên sĩ quan Đức khác giết, và khi anh
này nói với
tay sĩ quan bảo trợ Schulz, hắn ta xua tay, nhằm nhò chi, để kiếm thằng
Do Thái
khác thay thế].
Khi đọc điều này, tôi cảm thấy quá đỗi thê lương. Tôi chẳng còn
muốn sống trong một thế giới, nơi một chuyện như thế có thể xẩy ra, khi
con người có thể thay thế, có sẵn đó, tùy nghi sử dụng, replaceable,
disposable.
Tôi cảm thấy tôi phải làm cái gì đó để cứu chuộc cái chết không cần
thiết, và tàn
nhẫn của ông ta [I must redeem his needless, brutal death]. Thế là tôi
viết See Under: Love.
Tôi có thể nói cho bạn
biết, trong hầu hết ngôn ngữ cuốn sách của tôi được dịch – chừng 14 thứ
tiếng- trong vòng chừng 1 năm hay cỡ đó, là có một lần tái bản câu
chuyện về Schulz.
Ui chao
thật là ngọt ngào, thật là dễ thương đối với tôi, khi biết rằng cuốn
sách của mình
đã làm được một điều gì đó cho ông ta, sau khi ông ta làm điều cho tôi.
Ai, ngoài Sshulz ra, ảnh
hưởng
tới ông?
Kafka, tuy nhiên, thật khó mà
kiếm thấy một nhà văn không bị ảnh hưởng bởi Kafka, ngay cả khi người
này không
viết cùng một cái văn phong như của Kafka. Kafka là một giai đoạn văn
học
mà bạn bắt buộc phải vuợt qua [Kafka is a literary stage you have to go
through]. Tôi luôn luôn tưởng tượng ra cái xen, Kafka đứng, hai tay
trên bờ
cửa sổ, nhìn bên trong vào cuộc đời [looking inside into life]. Như thể
ông nhìn ra
phía bên ngoài từ cái chết, ngay cả khi ông đang còn sống. Tôi chưa tìm
ra điều
này, ở bất cứ nhà văn nào khác.
5 năm TTT ra đi
Ai là
Holderlin, kẻ có thể
được tạo nên, để nói, nhân danh cả hai, một, quá khứ đã mất, và một,
tương lai
Quốc Xã?
Coetzee viết về nhà thơ Holderlin:
Thi sĩ trong Tháp Ngà.
Who was Holderlin, who could
be made to speak for both a lost past and a National Socialist future?
Ai là
TTT, kẻ được tạo nên,
để nói, nhân danh cả hai, một, quá khứ đã mất Miền Nam Sâu Thẳm, và,
một, tương
lai một nước Mít VC sau 30 Tháng Tư 1975?
Câu thơ “Ôm em trong tay mà đã nhớ Em những ngày sắp tới”, Gấu “phát
hiện”, khi
quá nhớ BHD, nhưng, chỉ đến khi ra hải ngoại, quá nhớ Sài Gòn, thì mới
nhận ra,
nhà thơ đã tiên tri ra được những ngày sắp tới không còn Sài Gòn!
Có một
sự tương phản thật rõ
nét, giữa một, TCS và một, TTT, như hai nhân vật được Borges viện ra,
dưới đây,
trong bài viết trứ danh, Những tiền thân của Kafka:
Những ghi nhận của tôi còn
hai câu chuyện. Một là từ Chuyện không vui (Histoires Déobligeantes),
của Léon
Bloy, về một vài người sở hữu đủ thứ trái địa cầu, bản đồ thế giới, chỉ
dẫn
đường xe lửa và những tuyến đường lớn, nhưng chết mà chưa từng toan
tính một
lần rời xa tỉnh nhà.
Câu chuyện kia nhan đề "Carcassonne"
và là tác phẩm của Lord
Dunsany. Một quân đội bách chiến bách thắng, gồm những chiến sĩ, rời
tòa lâu
đài vô định, chinh phục những vương quốc, nhìn thấy những quái vật, vét
kiệt
những sa mạc, những núi non, nhưng họ chẳng bao giờ tới được
Carcassonne, mặc
dù có lần họ đã thoáng nhìn thấy, từ xa. (Câu chuyện này, như người ta
dễ dàng
nhận ra, là đảo ngược triệt để của câu chuyện trên; trong câu chuyện
thứ nhất,
là thành phố không thể bị bứng khỏi, còn trong chuyện thứ nhì, chẳng
bao giờ
tới được.)
Ôi ôm em trong tay mà đã nhớ
em những ngày sắp tới.
Quả thế thật.
Nhà văn Doãn Dân, sĩ
quan VNCH, sau tử trận, (1) khi đọc tập truyện Những ngày ở Sài Gòn của Gấu,
qua một anh bạn của Gấu cho mượn, đã than, thằng cha này quá sợ hãi
hạnh phúc,
và, đây là một tập truyện ngắn, nhưng thực ra, là một truyện dài.
Nghe nhận xét của anh, qua người
bạn kể lại,
Gấu nhớ ngay ra, tại làm sao anh ta phán, thằng cha GNV này quá sợ hãi
hạnh phúc:
Lần hẹn
nhau trong thành phố
lạnh và xa, Đà Lạt, nàng thi đậu Tú Tài phần thứ nhất, và đã lên đó
trước,
chàng là công chức nên còn ở Sài Gòn làm việc, chiều thứ bẩy, chàng ra
bến xe
đò, vượt khoảng đường mấy trăm cây số, chàng bỗng nhiên có cảm tưởng,
nàng đang
ở trong Hà Nội, nàng đã trở về Hà Nội trước chàng, và chiến tranh đã
hết, chàng
đang trở về thành phố thời ấu thơ, nay đang gìn giữ hạnh phúc của đời
chàng.
Khi nhìn thấy bóng dáng nàng từ đầu phố tất tả vội vã chạy lại (nàng
dến trễ,
vì còn phải tìm cách nói dối Vi, Vi nhất định đòi đi cùng), chàng bỗng
run lên
vì sợ. Chàng run lên vì sợ hãi, vì sung sướng, vì hạnh phúc, chàng sợ
thực sự,
sợ nàng, sợ hạnh phúc, sợ khổ sở, sợ cô đơn, sợ tất cả...
Thời gian
(1)
Doãn Dân: Tên Trần Doãn Dân,
sinh năm 1938 tại Nam
Định. Sĩ quan. Tử trận tại Quảng Trị ngày 29.4.1972
Tác phẩm: Chỗ của Huệ, 1968; Tiếng gọi thầm,
1972
Võ Phiến VHTQ
*
Ngay từ tập thơ đầu tay, Tôi
không còn cô độc, TTT đã nhìn rõ số phận của mình và bạn bè, và
có vẻ như ông còn
tự hào, khi hạ những dòng, chúng nó làm phát xít, chúng nó làm CS,
chúng ta làm
tù nhân; và những gì gì, anh yêu quê hương
vô cùng, ràng buộc với nó phải là máu mủ, ruột thịt, ôm em trong tay mà
đã nhớ
em những này sắp tới, là một số phận khác, mà ông dành cho đất nước,
khi ông đi
tù, khi ông ra hải ngoại.
Cuốn tiểu thuyết độc nhất của ông, không còn một tí mắc
mớ gì tới Đất Bắc [hai cuốn kia, Bếp Lửa, và Tôi Không Còn Cô Độc, cái
nền của
chúng là xứ Bắc Kít], Một Chủ Nhật Khác, cũng một dạng tiên tri, dành
cho những
kẻ bỏ chạy không thể bợ đít VC, thay vì chọn số phận Do Thái lang
thang, đành trở
về, chết một cái chết lãng nhách.
Có vẻ như cuốn truyện còn tiên tri ra được số phận khốn nạn
của cái đám Miền Nam bỏ chạy bợ đít VC này, đã từng có thời bị VC cấm
không cho
về, dù đã làm tôi mọi, làm chó săn cho chúng.
Nhà thơ
Hữu Loan đã ra đi
Tôi cùng gió mùa
Virus VC
Và
trong một bài báo, «Nhân
nghĩ về hội hoạ», 1956, Thanh Tâm Tuyền khước từ lối «văn chương có thể
đặt tên
là văn chương của bài tập đọc, luận mẫu cho học trò» (Văn 11/1973, tr.
78). Từ
đó, đem Bếp lửa ra giảng dạy ở học đường là việc khó, vì khó tìm ra một
vài
trích đoạn tiêu biểu gọi là «trích diễm». Kinh nghiệm của tôi:
yêu cầu sinh
viên phải đọc toàn bộ tác phẩm, rồi đưa ra những chủ đề tổng hợp, về
hình thức,
nội dung. Ví dụ lối kể chuyện đơn tuyến, một mạch theo dòng thời gian,
không
một lần quay lại quá khứ – cho dù có rơi rớt một vài kỷ niệm – về người
mẹ và
bà ngoại. Lối dùng từ bình dị, ưu tiên cho từ đơn âm, ít từ kép, càng
ít từ Hán
- Việt. Lối đặt câu ngắn, có khi cụt ngủn, có khi lược từ. Câu văn cô
đúc, có
lúc khó hiểu, như là lời nói nén chặt nội tâm: «Một bên đường cỏ hoang
và núi
đóng đồn binh» (tr. 47). «Ngọn núi bắt đầu thấy cứng mình vì nghe nắng
sắp về
dữ dội» (tr. 87). Câu được nhiều người nhắc: «Buổi sáng mùa đông ngây
ngất vào
lối 10 giờ» (tr. 11). «Buổi chiều ngất ngư chưa muốn ngã» (tr. 28).
«Tôi
công nhận nghệ thuật như
một nghề như mọi nghề khác khi tôi hiểu rằng muốn làm được nghệ thuật
người ta
cũng cần học hỏi, luyện tập như tập sự bất cứ nghề gì. Đến đó thôi. Khi những
nhà nghệ sĩ chân chính, để bảo đảm sự thành thực của tác phẩm, đã mang
sinh
mệnh chính mình ra thách đố, thì lúc ấy nghệ thuật không còn là một
nghề nữa,
nó là hành động siêu việt của nhân loại trong cuộc tìm kiếm đời sống
chính
đính» (Văn, số đặc biệt đã dẫn, tr. 78).
Đặng
Tiến viết về sự ra
đi của Thanh Tâm Tuyền
I don't know if
the world can do without German civilization, but I do know that its
corruption
by the teachings of hatred is a crime.
Borges
Tôi không biết,
giả như nhân loại không có thứ văn minh đồng bằng Sông Hồng, thì có làm
sao
không, có bị huỷ diệt hay là không, nhưng tôi biết, cái sự trồng người
khốn
kiếp của nó, bằng hận thù, là một tội ác.
Gấu tin rằng, Cái
Ác Bắc Kít gây họa băng hoại nước Mít như hiện nay, nhưng Borges cho
rằng chính
cái thứ giáo dục dậy hận thù mới là một thứ Đại Ác!
Vấn nạn ở đây là,
liệu "cái thứ" văn chương Miền Nam, như trong Bếp Lửa, Tôi Cùng Gió
Mùa, Thơ Ở Đâu
Xa… một ngày nào đó, sẽ tạo nên một nền giáo dục, một sư phạm học, mới,
thay cho
cái vụ trồng người 100 năm, chỉ có được bọ VC?
Borges, vẫn ông, nói
được, khi phán:
Mọi văn chương thực
sự là để cho con nít
All literature is
really for children
Alastair Reid trích
dẫn, trong bài Tựa cho cuốn Bẩy Đêm, Seven Nights, [Bẩy bài nói chuyện
của
Borges về Divine Comedy, Kịch Trời, Nightmares, Ác mộng, Một ngàn lẻ
một đêm,
Phật giáo, Thơ, The Kabbalah, Blindness,
Mù lòa.]
Gấu có nhớ Xứ Đoài không?
Kỷ
Niệm
Ba
Xuyên, lần viếng thăm hồi
bắt đầu đi làm, những năm tập sự của cuộc đời gã chuyên viên kỹ thuật,
ngày hai
buổi, tại Ty Trung Ương, Cơ Xuởng Vô Tuyến Điện, số 11 đường Phan Đình
Phùng,
Sài Gòn; chuyên lo việc sửa chữa, tu bổ máy móc, đồ dùng kỹ thuật từ
các nơi
gửi về; lâu lâu, do nhu cầu công vụ, được biệt phái tới những đài địa
phương,
để giúp đỡ người trưởng đài, thường chỉ là những hiệu thính viên, biết
sử dụng
máy móc, nhưng không biết, và cũng không có phận sự sửa chữa khi trục
trặc, cần
làm gấp tại chỗ, đại loại như máy nhận bỗng yếu, rè, nhiều tạp âm, khi
nghe
được, khi không; máy phát đột nhiên ngưng, không chịu phát tín hiệu,
không biết
vì lý do gì, hoặc bị cháy, nổ, cần gấp một máy khác thay thế cùng
chuyên viên
lắp đặt... Tất cả những công việc như thế thường chỉ mất một hai ngày
làm, do
đó thời gian trù tính cho mỗi chuyến đi thường trên dưới mười ngày,
nhiều lắm
nửa tháng. Trừ những ngày mới tới, bắt tay ngay vô việc, cặm cụi lo tìm
kiếm,
sửa chữa, những ngày còn lại, là để viếng thăm, làm quen thành phố.
Một thành phố không có gì
đáng nhớ (khi cố gắng muốn nhớ lại), có một người trưởng đài người loắt
choắt
nhưng tính tình thật niềm nở, đã lập gia đình, sau bữa ăn, hoặc khi
rảnh rỗi,
người chồng (người trưởng đài) ưa kể cho khách nghe, về quãng đời đã
qua của
mình (thời còn trẻ, những năm tháng giang hồ, những năm phục vụ trong
quân đội
Pháp, lý do giải ngũ, trường hợp lập gia đình...), hỏi khách tốt nghiệp
đã lâu
chưa, hồi còn ở Bắc quê vùng nào, khi đã tới giờ ngồi vào bàn làm việc,
thường
là với đài chính (Sài Gòn), hoặc khi đã hết câu chuyện để kể, hay để
nói, như
sực nhớ tới hiện tại, ông khuyên khách đừng đi quá xa vượt phạm vi châu
thành,
cười cười, khi người vợ ít nói cùng mấy đứa nhỏ đã lui vào nhà trong,
nói, ở
đây chỉ có những cô Mai Liên, khách phải nghĩ một hồi lâu mới hiểu chủ
nhà định
nói tới những cô gái nước da ngăm đen ở vùng này (1).
Hết hai năm tập sự, đổi qua làm
việc tại một đài chuyên duy trì những đường dây liên lạc quốc tế, về
viễn ký,
viễn ảnh, điện thoại đường dài [điện thoại viễn liên], giữa Sài Gòn và
một số
thủ đô trên thế giới, không còn dịp ra khỏi thành phố, quên dần những
chuyến
đi, những cuộc phiêu lưu vặt, lâu lâu mơ hồ nhơ nhớ về một thành phố
một hai
lần ghé qua, một vài ngày ở lại, những chi tiết vụn vặt không liên
quan, không
ăn nhập vào đâu cả, nhưng không thể rũ bỏ, (hình như) kiến trúc phảng
phất
nhau, khu trung tâm gồm Toà Hành Chánh, một chợ nhỏ vây quanh bởi một
vài khách
sạn chệt, một vài quán nước, tiệm cà phê, hủ tíu, quán bi da, banh bàn;
những
sáng thứ hai toàn thành phố phải đứng nghiêm chào cờ theo lệnh một
chiếc loa
công cộng [thời còn ông Diệm], (thành phố lúc đó có một bộ mặt trang
nghiêm
thật tức cười, những thực khách đang dùng điểm tâm vội vã đứng dậy,
miệng còn
mẩu bánh chưa kịp nuốt, dáng lúng túng của mấy bà già nghễnh ngãng chưa
kịp
hiểu chuyện gì đang xẩy ra), tiếng hát vọng cổ khoảng chập tối, hay
trong khi
chập chờn ngủ, được chiếc tây ban cầm họa theo, từ đám thanh niên tụ
tập trong
quán cà phê phía trước khách sạn, theo gió lọt vào căn phòng, nghe như
tiếng
thở than, hoặc tình tự, của linh hồn tỉnh nhỏ, thay cho lời từ biệt
chẳng hề
nói của cô gái lúc nãy, vội vàng rời căn phòng, chân đi đất không gây
một tiếng
động, như khi lén lút tới, phả hơi nóng thành phố vào tận sâu trong cơ
thể
người khách lạ còn trẻ tuổi, rồi sau đó lén lút rời căn phòng, thay vào
đó, là
một con mèo đen, không biết tới nằm trên thành cửa sổ từ lúc nào, mắt
xanh biếc
trong bóng tối, tiếng nước nhỏ giọt từ buồng tắm phòng kế bên, một
người khách
lơ đễnh không vặn chặt vòi nước, tiếng còi những chiếc xe hàng đánh
thức giấc
ngủ khoảng ban mai, đánh thức luôn mùi ẩm mốc hình như toát ra từ những
bức tường
loang lổ, từ chiếc nệm giường mục nát, vẻ tiều tụy của căn phòng thường
làm dậy
một nỗi trắc ẩn vô duyên cớ, một cảm giác bực bội, buồn bã không đâu...
Trở lại Ba Xuyên khi được tin
đứa em trai chết.
Tử trận.
Mộ Tuyết
Từ 1954 cho tới 1975, Gấu chỉ
sống ở Sài Gòn.
Hai năm trời, sau khi ra trường
Bưu Điện vào năm 1961, hay 62, làm chuyên viên sửa máy thu phát tin tại
Trung Ương
Cở Xưởng VTD, số 11 Phan Đình Phùng, lâu lâu đi thực tế tới những đài
VTD địa
phương cho Gấu biết mùi món lạ Miền Nam, mùi rùa, mùi rắn, mùi mấy em
Mai Liên
vùng Sóc Trăng, tuy nhiên món thịt chuột chưa một lần được hửi.
Để sửa soạn cho bữa đại tiệc
vào một bữa chủ nhật không phải đi lao động ở nông trường cải tạo Đỗ
Hòa, để thưởng
thức lần đầu tiên bản nhạc Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng, ông Trời quả
thật quá
chu đáo với Gấu. Biết Gấu chưa từng xơi món chuột, ông bèn cho Gấu nếm
thử trước
đã!
Cái lần đầu tiên biết mùi thịt
chuột
|
|