*



















Nabokov: Fiodor Dostoievski [1821-1881]

The TLS, Orlando Figes and the law

The background to the story behind the "Historian" reviews on Amazon
PROFILE: Orlando Figes
 A literary mystery came to an end when the scholar blamed first his wife and then illness for anonymously savaging his rivals
 

Cái trò nặc danh, phịa ra một cái tên lạ hoắc để chửi tưởng chỉ Mít mũi tẹt rành, không ngờ mũi lõ cũng chẳng thua, và cái cú đang ì xèo trên thế giới liên can đến toàn thứ dữ.
Orlando Figes, sử dụng nick "Sử gia", viết điểm sách trên Amazon, ra đòn phía dưới bụng, "nữ" đồng nghiệp Rachel Polonsky, tác giả cuốn Molotov's Magic Lantern [Cây đèn thần của Molotov], khen nức nở cuốn Những kẻ nói thầm của chính xừ lủy.

Nặc danh quá tởm? Hẳn thế, nhưng Foucault không nghĩ như vậy!
Trong bài The Masked Philosopher [Triết gia đeo mặt nạ] với tờ Le Monde, khi được hỏi tại sao chọn ẩn danh, ông trả lời:
Ông có biết chuyện một nhà tâm lý học đi tới mãi tít một làng nhỏ, trong rừng sâu Phi Châu để chiếu một cuốn phim cho dân làng. Xong, hỏi, hiểu thế nào, kể lại coi.
Và đây là một giai thoại về nó: Có ba người dân làng, chỉ quan tâm, không phải tới phim, mà là ánh sáng và những bóng tối di động trên những tàng cây.
Foucault giải thích: Với chúng ta, họ thành lập, establish, luật cảm nhận, the laws of perception. Con mắt của chúng ta thường chỉ nhắm vào những hình tượng, figures, tới rồi đi, hiện ra rồi biến mất.

Tại sao tôi chọn ẩn danh? Vượt ra từ hoài nhớ về một thời hoàn toàn vô danh, điều tôi nói có cơ may được nghe tới, được vang vọng. Cuộc gặp gỡ bề ngoài với một độc giả khả hữu, thì chẳng có một vết nhăn. Những hiệu quả của cuốn sách va động ở những nơi chốn không hề biết trước, tạo những tầm vóc mà tôi không chưa từng nghĩ tới.

Gấu cũng đã từng sử dụng bài viết về những cái tôi giả danh, để viết về một Nhị, của Mai Thảo
Tưởng niệm Mai Thảo

Steinbeck đã từng sử dụng đòn trên để ‘sáng tạo’ một câu chuyện cờ tướng thật tuyệt.
Ông kể, một kỳ vương, trên đường đi dự một trận Hoa Sơn luận kỳ, trên xe lửa, gặp tay thanh niên năn nỉ ông chơi cờ, và ông bị lâm vào thế hạ phong, tính chắp tay đầu hàng, thì bèn đứng dậy xưng tên. Tay thanh niên hoảng quá, không ngờ được hân hạnh đấu với kỳ vương, và lại đang thắng thế!
Nhưng than ôi, chính là vì biết đối thủ là kỳ vương, nên khiếp vía, và sau cùng thua!
Lý thú quá phải không?
Chưa.
Vô cuộc Hoa Sơn luận cờ, ông gặp một đối thủ, và sau vài đường cờ, nhận ra, đây chính là tay thanh niên trên tầu. Xấu hổ vì lần trước chơi bẩn, ông chịu thua.
Chưa hết.
Trên đuờng về, trên xe lửa, ông ngộ ra là ông bị tay thanh niên gài bẫy!
Anh ta biết tỏng, ông là kỳ vương!

Alphonse Daudet có câu chuyện những cuộc phiêu lưu Tartarin of Tarascon mà chẳng ly kỳ sao. Trong số đó, có câu chuyện về một lần trên xe đò, Tartarin khoe tài, đã từng làm thịt không biết là bao nhiêu sư tử, mãnh hổ, với tay ngồi kế bên. Cái tay này mới hỏi, ông có quen biết ông “đó đó”, một huyền thoại trong chốn thợ săn, quê vùng này.
Tartarin bèn gật đầu lia lịa, tớ bạn thân của ông ta mà!
Khi ông kia xuống, chào từ biệt, còn lại, anh bèn hỏi mấy người chung quanh, ai vậy. Tất cả mỉm cười, bạn thân của ông đấy!
Gấu đọc chuyện trên, khi còn bé tí, mê quá. Nhớ hoài.
Cứ hy vọng có ngày gặp ông bạn quí đó!
Gặp thật!
*
Le Monde: Ông có nghĩ đám trí thức bây giờ nói nhiều quá? Họ làm phiền chúng ta với ba cái điều họ lèm bèm [their discourse] bất cứ khi nào họ có cơ hội, và thường xuyên là vào lúc không thích hợp đối với chúng ta?
MF: Cái từ ‘trí thức’ lạ lẫm, foreign, đối với tôi. Tôi chưa hề gặp một tay trí thức nào. Tôi biết những người viết tiểu thuyết, và những người khác lo đến chuyện bịnh tật; một vài người làm những nghiên cứu xã hội, và những người khác làm nhạc điện tử. Tôi gặp những người dậy học, vẽ tranh, và những người mà tôi chẳng biết họ làm gì. Nhưng trí thức, chưa hề.
Về mặt khác tôi gặp rất nhiều người nói về những nhà trí thức. Và nghe họ nói, tôi hình dung ra được cái con vật đó là con gì. [I have formed an idea of what this animal might be]. Cũng không khó: trí thức là kẻ có tội, an intellectual is one who is guilty. Có tội tí ti về mọi chuyện: về nói, về nín thinh, về không làm cái gì, về chui vào mọi xó, mọi nơi, mắc mớ vô đủ thứ chuyện.
MF:
The Masked Philosopher



Tư duy biển

Trương Thái Du nói:
21/04/2010 lúc 2:24 chiều

@Lê Thị Thấm Vân: Ngữ cảnh bà trích của tôi rõ ràng là ở trong thời điểm buổi trưa 30.4.1975, tôi đã kiểm chứng điều này hơn 20 năm nay, hàng trăm bà mẹ, hàng chục gia đình từ Bắc chí Nam qua Trung. Chính vì vậy tôi mới dám xác quyết các bà mẹ VN đều giống nhau, đều cảm ơn hòa bình vào giờ phút ấy.

 Lê Thị Thấm Vân nói:
21/04/2010 lúc 1:11 chiều

“…y nhớ chính xác mẹ mình đã ôm chặt ba đứa con, nức nở nỗi niềm “hòa bình”. “Hòa bình rồi các con ơi!”, mẹ y đã thốt lên như vậy. Y tin chắc rằng các bà mẹ Việt Nam đều giống nhau. Nếu không có hòa bình, vài năm nữa thôi, mẹ y lại phải tiễn các con ra trận, như đã tiễn em, tiễn cháu mình và không chảy nổi nước mắt khi nhận những tờ giấy báo tử vô hồn…”
Vì mẹ y là mẹ miền Bắc chứ một số mẹ miền Nam sau ngày 30/4/75 bị đày lên vùng kinh tế mới, nuôi chồng trong trại cải tạo, tìm đường cho con vượt biên. Gia đình tan nát.
Talawas
*
Liền ngay sau 30 Tháng Tư, tâm sự cả nước Mít, đúng hơn, cả Miền Nam, y chang tay Trương Thái Dúi này phán.

Chính vì vậy tôi mới dám xác quyết các bà mẹ VN đều giống nhau, đều cảm ơn hòa bình vào giờ phút ấy.
Trương Thái Dúi

Đúng! Chỉ vào giờ phút ấy, và chỉ thế mà thôi!
Gấu này, khi đi tù cải tạo tại Phạm Văn Cội vậy mà vẫn mơ giấc đại mộng hòa bình thống nhất, xây cái nhà Mít ở trên mặt trăng, nữa là!
*
Cái cú 30 Tháng Tư 1975, ngay VC thổi nào là những đỉnh cao thời đại, bước ngoặt lịch sử…. gì gì đi nữa, cũng chưa xứng với nó!
Dân Mít, Bắc Kít, đúng hơn, được ông Trời cho phép có mặt ở trên cõi đời này, là để có giấc mơ này, và làm sao thực hiện nó.
Chỉ đến khi thực hiện được nó, thì mới hỡi ơi, vì đúng lúc đó, mất nó!

“Nó” liên quan đến cái cực tốt, và cái cực xấu của cái gọi là Bắc Kít.
Cái cực tốt của Bắc Kít tạo ra hình ảnh Thiên Sứ của Sến Cô Nương. Nhờ nó có giống dân Bắc Kít, ở kế ngay tên Đại Hán[g] Gian Ác mà vẫn trường tồn!
Cái cực xấu, là Cái Ác Bắc Kít, tạo ra Lò Cải Tạo!
Tạo ra…  Anus Mundi, mang cái thúi Bắc Kít đi reo rắc cùng khắp thế giới, biến cả thế giới thành bãi đánh hàng, khiến cả thế giới khiếp sợ gọi là họa Hoàng Quỉ.
Và sau cùng hủy diệt giống Mít!

Giống dân nào, được nhân loại nằm mơ, sáng ngủ dậy, biến thành nó: Bắc Kít?
Giống dân nào, ngủ dậy thấy mình biến thành bọ: Bắc Kít!
*

Cái Ác Bắc Kít, cái tội ác của VC, chính là đã tước đoạt của dân Mít, “chính cái gọi là” lý do hiện hữu của họ.

Trước cái phi nhân, lý lẽ thường là một yếu tố nhỏ nhoi, nếu không muốn nói, tức cuời. In the presence of the inhuman, reason is often a small – indeed, a laughable – agent. Steiner viết, trong bài viết về Solzhenitsyn, De Profundis.
Ba cái trò hề nhìn lại cuộc chiến của đám VC đúng là như thế.
Chúng không dám nhìn thẳng vào cái hố đen đó, vẫn như Steiner phán, cùng trong bài viết:
Every time a human being is flogged, starved, deprived of self-respect, a specific black hole opens in the fabric of life.

Cú 30 Tháng Tư, 1975, vào thời điểm ‘hậu 11/9’, vượt ra khỏi bất cứ một ‘nhìn lại cuộc chiến theo kiểu hề của VC’ rồi!
NQT


5 năm TTT ra đi

“Cô không phải là đàn ông. Hôm nay người ta có thể thân nhau lắm mà ngày mai đã hững hờ rồi, vì nhiều nguyên cớ mà cũng có thể chẳng có nguyên cớ nào hết. Rồi người ta lại có những người thân khác, thân khác nữa, mỗi năm, mỗi giai đoạn của cuộc sống.”
Bếp Lửa

Ngày 22 tháng 3 năm nay, 2010, là đúng 5 năm nhà thơ từ giã chúng ta. Trong những nhận xét về thơ của ông, có của Quỳnh Giao, theo người viết, thật độc đáo:
“Thơ Thanh Tâm Tuyền phải được đặt trong vị trí 'di cư' và 'chiến tranh' của một thành phố mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay khung cảnh ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của ông.”

Năm năm đã qua, liệu đã đến lúc chúng ta giải phóng nhà thơ ra khỏi thời của ông, như cách nhìn của Steiner về nhà văn và thời của người đó, rằng, tất cả văn chương lớn thì giầu có hơn, và vượt ra ngoài vòng ôm của một thời, that all literature is richer than any single subsequent time could possibly appreciate in full. (1)
Đây cũng là ý của Bakhtin, khi ông trả lời một tờ báo Nga về tương lai của môn nghiên cứu văn học Nga: “Tác giả và những người đồng thời với họ nhìn, công nhận, và đánh giá, chủ yếu về điều gần gụi với những ngày của chính họ. Tác giả bị cầm tù bởi thời của anh ta, bởi sự hiện diện của chính anh ta. Thời tiếp thời và những thời kế tiếp nhau như thế sẽ giải phóng anh ta ra khỏi sự cầm tù, và giới học giả được vời tới để tham sự vào sự giải phóng này” (1)

(1) Reading George Steiner, [Đọc Steine], Nathan A. Scott, Jr. and Ronald A. Sharp biên tập, The Johns Hopkins University Press.

Sở dĩ Gấu này phải đợi 5 năm nhà thơ ra đi, là để được hân hạnh tham dự vào cái công cuộc giải phóng nhà thơ ra khỏi câu phán tuyệt vời trên, nó đóng chặt nhà thơ vào thời của ông, và sự hiện diện của chính ông!
*

Tại sao đám Bắc Kít, thí dụ, Sến cô nương, [và TTT, tất nhiên], mê Dos; hay nói rộng ra, mê văn học Nga?
Câu trả lời đúng nhất, chắc là của Steiner, qua Joseph Macé-Scaron, tay viết bài éditorial cho số về Dos, trên Le Magazine Littéraire:
Tại Nga, nhà văn, chỉ nhà văn, là một nhà nước đổi chiều, un “État altenatif”. Trong một trò chơi phức tạp và tàn nhẫn chẳng thay đổi chi kể từ thế kỷ 18, những nhà văn lớn lao Nga, trước khi trở thành tài sản quốc gia, luôn luôn bị Điện Cẩm Linh truy đuổi, tàn sát.
Steiner, trong tuyển tập những bài viết cho tờ Người Nữu Ước, cho rằng, tất cả văn chương Nga, [ngoại trừ những bản văn lễ bái, tất nhiên!] thì, phải có tính chính trị như là nền tảng của nó, bởi vì, chỉ có nó, là cái thứ hành động chống lại sự vô trật tự được an bài. (1)

Chỉ có nó dám nói không với nhà nước, thứ nhà nước băng hoại.
Đây cũng là quan điểm của Brodsky, khi ông cho rằng chính trị mới là đỉnh cao của văn học.
Mỹ là mẹ của đạo hạnh.
Viết văn càng bảnh bao nhiêu thì cái tâm càng sáng theo bấy nhiêu!

Rất nhân hậu, và cảm động, là vậy.
Hà, hà!
[Tks U. NQT]
*
(1)

It is a routine observation-the Russians are the first to offer it-that all of Russian literature (with the obvious exception of liturgical texts) is essentially political. It is produced and published, so far as it can be, in the teeth of ubiquitous censorship. One can scarcely count a year in which Russian poets, novelists, or dramatists have worked in anything approaching normal, let alone positive, conditions of intellectual freedom. A Russian masterpiece exists in spite of the regime. It enacts a subversion, an ironic circumlocution, a direct challenge to or ambiguous compromise with the prevailing apparatus of oppression, be it czarist and Orthodox ecclesiastical or Leninist-Stalinist. As the Russian phrase has it, the great writer is "the alternative state." His books are the principal, at many points the only, act of political opposition. In an intricate cat-and-mouse game that has remained virtually unchanged since the eighteenth century, the Kremlin allows the creation, and even the diffusion, of literary works whose fundamentally rebellious character it clearly realizes. With the passage of generations, such works-Pushkin's, Turgenev's, Chekhov's-become national classics: they are safety valves releasing into the domain of the imaginary some of those enormous pressures for reform, for responsible political change, which reality will not allow. The hounding of individual writers, their incarceration, their banishment, is part of the bargain.
Steiner: Under Eastern Eyes
*

Trong bài viết Thời giết người, Killing Time, về cuốn 1984 của Orwell, cho tờ Người Nữu Ước, Steiner cho biết, cuốn sách còn một cái tít nữa, là The Last Man in Europe, Người cuối cùng ở Âu Châu, nhưng sau cùng, tác giả và nhà xb, còn là bạn thân của Orwell, đã chọn cái tít 1984. Bản thảo cuốn sách được hoàn tất tháng 11 năm 1948, và Orwell đã giản dị đảo ngược 48 thành 84.
“Nó là một cuốn sách mà tôi không tính đánh bạc với nó trên phạm vi lớn” [It isn’t a book that I would gamble on for a big scale], ông viết thư cho nhà xb vào Tháng Chạp 1948.
Thành công của cuốn sách vượt quá sự tưởng tượng của mọi người, như chúng ta đều biết. Nhưng nhận định của Steiner về nó, mới thật là tuyệt cú mèo: Bằng cách gọi như thế, Orwell đã xén thời gian, lấy một mẩu cho riêng ông (1). Và như thế, theo Steiner, 1984 bảnh không thua gì
K mẫu tự của Kafka: Kafka nhận xét, vào năm 1914: "Tôi nhận thấy mẫu tự (letter) K tởm lợm, hầu như phát mửa; tuy nhiên tôi viết nó ra, nó phải có một đặc trưng của tôi." Trong bảng mẫu tự cảm tính và tri giác của nhân loại, chữ cái K vĩnh viễn thuộc về, chỉ một người.

Ui chao, nếu nhìn như vậy, thì cuốn Bếp Lửa có lẽ còn một cái tít thật bảnh cho nó là: 1954!
Và như thế câu phán của Quỳnh Dao lại quá quá thần sầu!
(1)
By opting for Nineteen Eighty-Four, George Orwell achieved an uncanny coup. He put his signature and claim on a piece of time. No other writer has ever done this. And there is, I think, only one genuine parallel in the records of consciousness. Kafka knew (we have his witness to this realization) that he had made his own a letter in the Roman alphabet. He knew that "K" would for a long time to come stand for the doomed mask that he assumed in his fictions that it would point ineluctably to himself. The litany of the letter is spelled out by the English poet Rodney Pybus in his "In Memoriam Milena":

K and again K and again K
K for Kafka
K from The Castle
K from The Trial
K the mnemonic of fear: 

O Franz I cannot
escape that letter K after K- 

But although it is now active in scores of languages (I understand that "Kafkaesque" has adjectival status even in Japanese), the identification of “K" with Kafka probably does not extend beyond a literate minority. On a scale vastly beyond the enormous readership of the novel itself, Nineteen Eighty- Four has been, will be drummed into man's time sense. Shakespeare does not own "S"; no twelve months are his monopoly. The Nineteen Eighty-Four preemption is one that neither literary theory nor semantics is really equipped to deal with.
G. Steiner: Killing Time [trong George Steiner at The New Yorker]

*


Đạo văn thì tởm rồi, nhưng tố cáo đạo văn, làm nghề “điểm chỉ văn chương”, tởm hơn!

Les enragés du plagiat
Rapport de police. Accusations de plagiat et autres modes de surveillance de la fiction,
Marie Darrieussecq, éd. P.O.l, 374 p., 19,50 €. 

À deux reprises, en 1998 et en 2007, Marie Darrieussecq est suspectée de plagiat. La première fois, par Marie NDiaye, qui lui reproche la « singerie» de Naissance des fantômes; la seconde par Camille Laurens, qui voit dans Tom est mort «un plagiat psychique ». Plainte infamante, puisqu'elle frappe tout écrivain non seulement au cœur de son métier, mais aussi de son honnêteté, de sa valeur en tant qu'être humain - de son existence même. Une attaque à bout portant, médiatisée et redoublée, qui peut tuer le désir d'écrire, voire de vivre. N'attendez pas de Rapport de police une confession ou un exercice de justification. Les amateurs d'autofiction en seront pour leurs frais. Le ton est cinglant, la démonstration richement étayée, l'accusation retournée comme un gant qui gifle. Darrieussecq a trempé sa plume dans l'érudition et l'ironie normaliennes. Son réquisitoire prend la forme d'un essai, implacable, convoquant différentes figures de cette maladie, la «plagiomanie», virus qui affecte tous ceux qui rêvent d'être plagiés comme on rêve d'être aimé. Répertoriant les nombreux écrivains en butte à cette persécution - de Paul Celan à Mandelstam, de Daphné Du Mauurier à Émile Zola, d'Apollinaire à Danilo Kis -, elle montre comment l'accusation de plagiat repose sur une surveillance policière de l'écriture, sur son appropriation au nom d'une idéologie, d'un fantasme d'autoengendrement ou de la sacralisation du malheur personnel. Une conception totalitaire qui coupe les ailes à la création, en la sommant de rendre des comptes, selon Darrieussecq. Le plagiomane, remarque-t-elle, a besoin d'un public, d'une tribune. Jamais il ne s'adresse directement à celui qu'il accuse. Il utilise le vocabulaire de la dénonciation, une rhétorique ornée des fleurs de style les plus malodorantes - Darrieussecq ose un paralllèle entre Léon Bloy et... Marie NDiaye. La littérature se transsforme alors en un champ de forces où s'affrontent le pur et l'impur. L'autofiction célèbre l'ascèse de l'authenticité et la sainteté de la souffrance? Mais le primat de l'émotionnel et du compassionnel tend à faire oublier que« l'écriture c'est l'inconnu de soi» (Duras). Plaidoyer vibrant pour les droits illimités de la fiction, ce Rapport de police conclut avec force sur la lecture, cet «Autre de l'écriture». Belle insolence que cet hommage de Darrieussecq à tous les livres lus, sans lessquels elle n'aurait pas écrit: «Ma vie n'y aurait pas suffi. »

ÉVELYNE BLOCH-DANO




Bạn DTL của Gấu hình như càng ngày càng lậm đám nhà văn nhà thơ Bắc Kít. Trên trang net của ông sau cú phỏng vấn ông nhà văn VTH, tới nhà thơ NTT, đếch thèm phỏng vấn đám bạn Ngụy cũ của ông, quái thế.
Hay là đến tuổi ngựa Hồ hí gió Bắc rồi!
Lần phỏng vấn VTH, Gấu tính đi một đường hỏi ông ta, có phải chôm cái tít “Đêm giữa ban ngày” của Koestler? (1)
(1) VTH vs Koestler
Còn nhà thơ NTT này, có lần trên trang net của ông, thấy post một bài về Murakami, cái tay viết bài đi một đường cà chớn, ông nhà văn Nhựt bổn này, khi còn trẻ đã dịch qua tiếng Nhật cuốn Ruồi Trâu!
Gấu có vô blog của ông, còm, đề nghị sửa sai, nhưng thấy vũ như cẩn
*
Cuốn sách ưa thích của ông là gì?
Ruồi Trâu.
Tôi tự dịch lại cuốn sách đó vài năm trước. Tôi vẫn muốn tự dịch cuốn sách đó từ những năm 20 tuổi nhưng khi đó tôi chưa đủ sẵn sàng.
Nguồn: Hội ngộ văn chương
*
Đây là nguyên văn 10 Questions for Haruki Murakami
What's your favorite book?
Sarosh Shaheen Ottawa, Canada
 The Great Gatsby. I translated it a couple of years ago. I wanted to translate it when I was in my 20s, but I wasn't ready.
Cuốn sách gối đầu giường của ông?
Gatsby vĩ đại
. Cách đây mấy năm tôi đã dịch nó. Tôi muốn dịch nó từ những năm đôi mươi của mình, nhưng lúc đó tôi chưa sẵn sàng.

Của Mẽo mà thành của Liên Xô. Thế mới ghê!

Trên TV, có lần scan & post một bài điểm một cuốn sách viết về Brodsky, của tờ TLS, trong đó, người viết ca cẩm không được vô lục thư khố của Brodsky, vậy mà bà quản lý người Nga cũng vớ được, thế là bèn lên tiếng cải chính, thế rồi tờ TLS cũng lại phải lên tiếng, trên báo giấy.

Gấu, khi viết cho tờ Hợp Lưu, báo giấy, bị một độc giả lên tiếng về một bài viết, bèn hỏi xin địa chỉ, liên lạc, và khi biết được quả có độc giả như thế, không phải chỉ mình Gấu, mà còn thêm một ông bạn cùng tác giả, thêm chủ bút tờ HL, cùng phúc đáp.
Lần viết cho talawas, cũng thế, bị một đấng lạ hoắc, vặc, vì tin tưởng ở chủ sạp cá, bèn lên tiếng trả lời, hóa ra ông này nặc danh, khi biết được bộ mặt thực, bèn lảng!
Hai ông NTT, VTH chắc là người rừng, chưa quen văn minh làng xóm, đô thị... thôi, ông Gấu, bỏ qua cho chúng!
OK!


José Saramango: Người ta đã huyền thoại hóa Internet 

Le Magazine Littéraire:
Cuốn sách mới ra lò của ông là tập hợp những bài viết của ông trên blog. Liệu Internet có mang lại một hình thức viết, nhật ký, mà ông đã duy trì trong nhiều năm?

-Sự kiện thì đơn giản hơn là chúng ta tưởng tượng về chúng. Không phải tôi mà là bà vợ của tôi, Pilar đã đưa ra ý nghĩ viết blog. Lúc đầu tôi cưỡng lại, sau chịu thua. Trong vòng một năm tôi viết gần hàng ngày, rồi lơi dần, và không có ý định trở lại với nó. Nhưng làm sao mà biết được, biết đâu tôi hăm hở viết lại.

Ông mở ra bài diễn văn nhận Nobel, bằng câu phán: “Người thông thái mà tôi được biết, thì không biết đọc, biết viết”, khi nhắc tới ông nội của ông. Liệu ông muốn nói, có một số những hình thức của tri thức, và ngay cả khoa học, không cần tới chữ viết?
-Lịch sử đem đến câu trả lời. Trước hết, hãy nhớ là nhân loại, toàn nhân loại bắt đầu bằng cái sự không biết chữ. Theo nghĩa đó, một đứa trẻ sinh ra hôm nay, sinh ra trong tiền sử. Một khi phịa ra chữ là cứ phải tiếp tục phịa tiếp, bằng cách viết ra chữ! [Dans ce sens, un enfant nait aujourd’hui, nait dans la préhistoire. Une fois les langues inventées, il a fallu continuer à inventer, en les écrivant]. Tiến trình này cứ thế mà tiếp diễn. Để cho Internet đừng biến thành một cái phanh! Chúng ta sống trong một thời đại mà chẳng cần thiết phải học làm cái chó gì nữa!... Internet là nơi chốn mà sự ngu dốt toàn diện được bầy ra, như là một thí dụ để làm theo. Người ta đang huyền thoại hóa Internet!
Internet est le lieu où la plus totale ignorance est présentée comme un exemple à suivre. On est en train de mythifier Internet 

Ui chao, cuộc khởi nghĩa của đám đông mà lại hóa ra một sự ngu si hoàn toàn sao?

*

José Saramago

THE NOTEBOOK

Đúng là ông già gân: Khởi sự viết blog khi 85 tuổi!

Mở blog bằng lá thư tình gửi cho thành phố Lisbon của mình.

Lisbon của tôi thì  luôn luôn là một xóm nghèo với những con người có tí ti, nhưng trái tim thì đầy ắp...

In September 2008, at the age of eighty-five, José Saramago was feeling restless. “Here’s a job for you”, said his wife. “Write a blog”. And so the 1998 Nobel laureate began to record his reflections on an almost daily basis, jubilantly freed from the constraints of fiction and awed by the “infinite page” of the internet: “that place where I can most express myself according to my desires”. So close has this blog since become to Saramago’s heart that a review of it in a Portuguese newspaper caused him to break a vow, “which hitherto I have fulfilled to the letter – never to respond to, or even comment on, any criticism of my work”. The reviewer had remarked on Saramago’s “excesses of indignation”. The blogger was outraged: “How can one talk of excesses of indignation in a country where it is specifically lacking?”

Saramago may at times be Lear-like in his umbrage, but he opens his Notebook with a “love letter” to Lisbon: “My Lisbon was always that of the poor neighbourhoods . . . the Lisbon of people who possess little and feel much, still rural in their customs and in their understanding of the world”.


*

Tờ Le Magazine Littéraire, số về Dos, 3.2010, có bài của Trần Minh Huy giới thiệu Nam Lê, và Con tầu của anh.
Linda Lê, trong mục Sổ Tay nhà văn, viết về Melville.
Cái tít truyện ngắn bảnh nhất của Nam Lê, “Tình yêu, Danh dự, Thương hại, Kiêu ngạo, Thông cảm, Hy sinh” là từ Faulkner. Nhận xét của Hawthorne, về Melville làm nhớ đến Kiệt, trong Một Chủ Nhật Khác.

Nam Lê, phát hiện về một cắc kè hoa 

Đâu phải tình cờ mà truyện ngắn thần sầu mở ra Con tầu, tập truyện ngắn lọt mắt xanh giới phê bình và được giới thưởng ngoạn vồ vập ngay khi vừa ra lò, lại trình ra một anh chàng Nam lớ ngớ, thèm làm nhà văn và đang trong cơn khủng hoảng sáng tạo, bị chiếu bí bởi chính ông bố, từ tận đẩu tận đâu chợt tới thăm con.
Phải viết về cội nguồn của mi ư, Nam, như đám cò mồi văn học đề nghị? Chúng vẫn mê thứ văn học có mùi chủng tộc…. Người ta không thể giản lược một tác giả về gốc gác, cũng không thể, về những nét riêng, cũng không thể, về giai cấp xã hội của người đó. Theo tôi, nhà văn chỉ được xét đoán qua những chữ của anh ta.
Đừng tự nhốt mình, cũng đừng quên gốc gác, gia tài một ngàn năm nô lệ thằng Tầu…

Nathaniel Hawthorne nhìn thấy ở ông ta [Melville], một con người cũng đành cam chịu chìm vào hư vô, không thể nào tin, và cũng không thể cảm thấy thoải mái, về cái sự vô tri của mình.
Nathaniel Hawthorne voyait en lui un homme résigné à être anéanti, incapable ni de croire ni d’êre à l’aise dans son incroyance.

Kiệt mà chẳng 'cũng đành bò về để chìm vào hư vô...'.  trong cuộc chiến khốn kiếp, bởi một viên đạn của một tên đại uý khùng, ư?

Bạn phải đọc cái đoạn kết thúc cuộc tình Kiệt & Oanh & Hiền, dưới đây, thì mới thê lương là chừng nào: Cái tên khùng giết người tỉnh bơ chạy tập thể dục dưới bầu trời Đà Lạt!

Trời trắng nhễ nhại. Dưới các lũng, sương đang tan dần còn những vệt nhỏ phơ phất. Cỏ lá xanh tươi. Ngày hy vọng có nắng. Gã Trung Sĩ chui ra khỏi gian hầm bước lững thững trên quảng trường trống trải lặng lẽ. Các lớp học đã hoạt động.

Trong khi ấy, dưới Vũ Đình Trường nhìn thấy bao quát từ trên bãi đậu xe sau nhà Bộ Chỉ Huy, Đại Úy On mặc nguyên đồ trận, áo ngự hàn dã chiến, quấn khăn đỏ quanh cổ, đang chạy bộ lẽo đẽo một mình. Gương mặt y ngước vác như mải ngắm vòm trời đã sáng bạch.
1972-1973



Tưởng niệm Simone Weil


Kỷ Niệm

Niên học cuối của Lan Hương ở bậc trung học bắt đầu bằng những buổi sáng sớm giá lạnh xô đẩy trí nhớ tôi tìm lại Hà Nội, tôi thức giấc sớm, thân thể rét run, bàng hoàng tưởng như đang run rẩy trong một buổi sáng nào đó trong Hà Nội, tưởng như chiến tranh đã hết….
Những ngày ở Sài Gòn (1965)

Thời gian đó, còn ở căn nhà ở con hẻm Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Nhuận, phiá sau Hội đồng xã.
Sáng bữa đó, ngủ dậy, lạnh cứng người, thế là con virus Bắc Kít ngóc đầu làm ngụy, thế là nhớ em BHD, cũng một thứ virus Bắc Kít, thế là bèn tự nhủ thầm, xách xe chạy liền ra con đường băng ngang vườn Tao Đàn, thể nào cũng gặp em….
Gặp thật!
Em tỉnh bơ ngồi lên phía sau chiếc xe solex!


Hình Tượng I
Figures I
Gérard Genette