|
Trân trọng giới thiệu:
Bà Phi
Tiểu thuyết
Tập I [trong bốn tập] đã phát
hành
The
paradox is irresoluble: the less one culture communicates with another,
the
less likely they are to be corrupted, one by the other; but, on the
other hand,
the less likely it is, in such conditions, that the respective
emissaries of
these cultures will be able to seize the richness and significance of
their
diversity. The alternative is inescapable: either I am a traveller in
ancient
times, and faced with a prodigious spectacle which would be almost
entirely
unintelligible to me and might, indeed, provoke me to mockery or
disgust; or I
am a traveller of my own day, hastening in search of a vanished
reality. In
either case I am the loser…for today, as I go groaning among the
shadows, I
miss, inevitably, the spectacle that is now taking shape.
—from Tristes Tropiques
Sunsan Sontag: A Hero of our Time
Đọc TMT
Old Man
Charles Simic
Backed
myself into a dark
corner one day,
Found a boy there,
Forgotten by teachers and
classmates,
His shoulders slumped,
The hair on his head already
grey.
Friend, I said.
While
you stood here staring
at the wall,
They shot a president,
Some guy walked on the moon,
Dolly, the girl we all loved,
Took too many sleeping pills
and died
In a hotel room in Santa
Monica.
Now and
then I thought of
you,
Listening to the squeak of
the chalk
On the blackboard,
The sighs and whispers
Of unknown children
Bent over their lessons,
The mice running in the
night.
Visions
of unspeakable
loveliness
Must've come to you in your
misery:
Cloudless skies on long June
evenings,
Trees full of cherries in our
orchard,
To make you ache and want to
be with me,
Driving a cab in New York City.
London
Review of Books, số kỷ niệm 30 năm, 1979-2009, Nov. 5 2009.
Lão
Một ngày tôi ẩn
mình trong góc tối,
Tìm được ấu thơ nơi đó,
Bị thầy cô và bạn bè ruồng bỏ,
Bờ vai trĩu,
Tóc đã bạc tự thưở ấy.
Em nhỏ ơi.
Khi em đứng đây nhìn đăm đăm vào bức tường,
Người ta đã bắn tổng thống,
Người ta đã lên cung trăng,
Dolly, người con gái chúng ta yêu,
Đã chết vì uống quá nhiều thuốc ngủ
Trong khách sạn ở Santa Monica.
Đôi khi tôi nghĩ
đến em,
Nghe tiếng rít của viên phấn
Trên bảng đen,
Những khát khao cùng những thầm thì
Của những đứa trẻ lạc loài
Bị uốn theo giáo điều,
Những con chuột nhắt chạy trong đêm đó.
Giấc mơ về nét đẹp không thốt thành lời
Phải đến cùng những bất hạnh của em.
Trời hoang đãng những
tối dài tháng
sáu,
Cây mọng trái trong khu vườn của chúng ta,
Làm đau em và ở lại với tôi,
Người lái taxi trong thành phố Nữu Ước
Gửi ông,
Hy vọng ông thích
Kính,
[Một độc giả/ thân hữu Tin Văn]
Tks. NQT
*
Ui
chao, tuyệt cú mèo. Gấu đọc
bài thơ, mà cứ nghĩ đến cảnh Gấu trở về lại Đất Bắc, là cũng để tìm
thằng cu Gấu
ngày nào, trốn ở một xó xỉnh nào đó.
Hắn cũng già như Gấu, hẳn thế, có
khi chết
trước Gấu, từ đời nào đời nào, cũng nên.
Thủng thẳng, hỡn hỡn, Gấu kiếm
cách dịch bài thơ hầu quí vị.
Bữa trước, có nhờ hai bà ngoại,
[hai nữ thần hộ mạng của Tin Văn!] dịch giùm, một bài tiếng Tây, một
bài tiếng
Anh, cả ai đều lắc đầu, thơ, đọc chưa chắc đã hiểu, hiểu chưa chắc đã
cảm, làm
sao dịch?
Gấu trả lời, dịch thơ là phải
điếc không sợ súng!
Trong những đấng dịch thơ, đếch
sợ cái chó gì hết, là Diễm Châu! Ông dịch đủ thứ thơ, đủ thứ tác giả,
một ngày
có thể tàn sát vài ba nhà thơ ngoại quốc, là chuyện thường!
Bạn ông, me-xừ Mít Butor, còn
cho Brodsky, sau khi bị nhà nước Liên Xô tống xuất, qua Việt Nam, xung
phong vác
AK xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, diệt được không biết là bao nhiêu Mỹ
Ngụy!
Thế mới ghê!
Cái vụ
này, Gấu tình cờ khui
ra, chứ không phải chuyện vạch lá tìm sâu, y chang trường hợp nhá phải
cục sạn khi
gậm bản dịch Trăm Năm Cô Đơn.
Vốn mê thơ Brodsky, thấy trên
web Tiền Vệ có bài thơ của Brosdky, đọc thấy kỳ kỳ, tự nghĩ, không lẽ
nhà thơ này
‘máu’ đến thế. Chẳng thua gì Bác Hồ, "thơ phải có thép", hay Phạm Tiến
Duật, "Đường
ra trận mùa này đẹp lắm."!
Thế là lui cui đi tìm bản tiếng
Anh, cũng có sẵn, thì mới vỡ ra là, cha nội này sửa thơ Brodsky, cho
vừa mũi
VC, vì ông ta vẫn tự hào là người đầu tiên giới thiệu nhà thơ bị nhà
nước LX đuổi,
tới độc giả Mít! (1)
(1)
Nhân chuyện nói
không với cuộc chiến, và nhân đọc thơ Brodsky (1940-1996), do Hoàng
Ngọc Biên
dịch, đăng trên Tiền Vệ, Gấu tôi xin ghi ra đây.
Odysseus nói
với
Telemachus
Telemachus
con yêu của ta,
Cuộc chiến thành Troy
giờ đây đã
kết thúc; ta không còn nhớ ai đã thắng trận.
Người Hy
lạp, hẳn thế, bởi cho đến nay chỉ có họ mới có thể
đánh gục được
nhiều người đến vậy khi xa quê hương mình.
[HNB dịch]
Bản tiếng Anh [Collected Poems
in English]
My dear Telemachus,
The Trojan war
is over now; I don't recall who won it.
The Greeks, no doubt, for only they would leave
so many dead so far from their own homeland.
Câu
trên, ông bố nói với
thằng con, ta đếch thèm nhớ, ai thắng trận.
Câu dưới, ông bố quả quyết, chắc chắn mấy thằng... VC, ấy chết xin lỗi,
mấy
thằng Hy Lạp, bởi vì chỉ chúng nó mới dám đi xa quê hương của chính
chúng nó.
Nhưng Brodsky viết, họ "để lại nhiều xác chết", chứ không phải "đánh
gục nhiều người".
Nhà thơ không hề phân biệt, giữa rất nhiều xác chết đó, cái nào được
coi là...
liệt sĩ, cái bị coi là... nguỵ.
Nhật Ký Tin Văn
Kỷ
niệm, kỷ niệm
Tưởng
niệm họa sĩ Ngọc
Dũng
Phụ
nữ và giả tưởng
Kun @ Mít
THEN
AND NOW
TLS May 25, 1984
Milan Kundera
We look
back to David Lodge's
review of The Unbearable Lightness of
Being. To see the review in full, go to
www.the-tls.co.uk
Graham
Greene, when described
as a Catholic novelist, is apt to say that he is rather a novelist who
happens
to be a Catholic. Milan Kundera, who was expelled from the Czech
Communist
Party in 1950, reinstated in 1956, expelled again in 1970 and finally
forced
into exile, has been insisting for many years that he is not a
"dissident
novelist" but a novelist who happens to be a Czech at a time of
peculiarly
tragic and poignant political experience for his country. Though he
writes,
inevitably, about that experience, he is offended by a political
reading of his
work. In an interview with Kundera published in the latest issue of
Granta Ian
McEwan asked him why.
Because it is a bad reading.
Everything you think is important in the book you've written is
ignored. Such a
reading sees only one aspect: the denunciation of a communist regime.
That
doesn't mean I like communist regimes; I detest them. But I detest them
as a
citizen: as a writer I don't say what I say in order to denounce a
regime.
Kundera repudiates the
sentimental Western attitude which sometimes takes the form of a
perverse envy,
that persecution automatically confers a special value and authenticity
on
writing from Eastern Europe. There is
a
character in his latest novel who has a Czech emigré mistress called
Sabina, a
painter:
Franz greatly admired
Sabina's country. Whenever she told him about herself and her friends
from
home, Franz heard the words 'prison', 'persecution' 'enemy', 'tanks',
'emigration', 'pamphlets', 'banned books', 'banned exhibitions', and he
felt a
curious mixture of envy and nostalgia .... the trouble was that Sabina
had no
love for that drama. The words ... were ugly without the slightest
trace of
romance. The only word that evoked in her a sweet nostalgic memory of
her
homeland was the word 'cemetery'.
Sabina
finds a biography of
herself in an exhibition catalogue that reads like the life of a saint
or
martyr:
She protested but they did
not understand her.
Do you mean that modern art
isn't persecuted under Communism?
'My enemy is kitsch, not
Communism!' she replied, infuriated.
From that time on she began
to insert mystifications in her biography and by the time she got to America she even managed to disguise
the fact
that she was Czech.
Milan Kundera has never,
of
course, tried to disguise his Czech nationality, but he has inserted
mystifications into his later fiction in order to elude reductively
ideological
interpretation. His marvelous first novel The Joke (1967), written in Czechoslovakia,
for Czechoslovakians, did not need that protection. A novel constructed
on
classic modernist lines, it uses temporal rearrangement of the
narrative line
and shifting limited viewpoints to retard but not ultimately to
frustrate our
understanding of its complex plot. The Joke cunningly interweaves
sexual with
political intrigue, betrayal and disillusionment, and maintains a
miraculous balance
between comedy and pathos, irony and compassion. Not surprisingly it
became a
cult book of the Prague Spring of 1968, and probably only Czech readers
can
fully appreciate its subtleties. Certainly Kundera felt that its huge
international success, partly sustained by the wave of sympathy for Czechoslovakia
under Russian occupation, vulgarized its message.
His first response seems to
have been to eliminate overt reference to politics in subsequent
fiction ....
The
Unbearable Lightness of Being
is rather more conventional in form than its
predecessor. Fantastic events in the magic realist mode are naturalized
as
dreams ....
TLS Nov 6 2009
Trên số
Le Magazine Littéraire,
Tháng Chín, 2009, có một bàn tròn văn học, giữa một số nhà văn lưu
vong, do Tâm
Văn Thi thực hiện.
Có giai
thoại thú vị sau đây,
do Atiq Rahimi, Goncourt 2008, kể, về Nasro Dinh, một nhân vật huyền
hoặc của văn
học nước ông, Afghanistan:
Một
buổi tối, có người bắt gặp
Nasro Dinh cầm một ngọn đèn, loay hoay tìm kiếm chìa khoá nhà của ông;
người đó
bèn kiếm phụ, và bất giác hỏi, nhưng ông mất nó ở đây hả, và ông ta trả
lời, không
phải ở đây, mà ở gần nhà tôi; vậy sao lại kiếm ở đây; ở đó, làm gì có
đèn mà kiếm.
Câu
chuyện trên tương tự câu
của Adam Mickiewicz, Milosz trích dẫn, trong
Ghi chú về lưu vong:
Anh ta
không tìm thấy hạnh phúc, bởi vì làm gì
có hạnh phúc ở xứ sở của anh ta.
He did not find
happiness, for there was no happiness in his
country.
Adam
Mickiewicz. Milosz trích dẫn
Lưu vong: Cách sử dụng
Hãy coi lưu vong là số kiếp,
theo nghĩa một thứ bịnh không sao chữa lành, chỉ có cách đó mới giúp
chúng ta vứt bỏ vào thùng rác những hoang tưởng về mình.
Lưu Vong: Khuôn Mẫu
Anh ta biết nhiệm vụ của mình,
và nhân dân đang chờ đợi những lời nói của anh, nhưng anh bị cấm nói.
Bây giờ, ở nơi anh đang ở, anh tha hồ mà nói, nhưng chẳng ai thèm nghe,
vả chăng, anh quên mẹ những gì anh phải nói.
Lưu vong: Thích nghi
Sau nhiều năm lưu vong, chúng
mình bèn tưởng tượng đời mình như thế nào, nếu chẳng lưu vong.
Lưu Vong: Chán Chường
Cú đánh đầu
tiên
vào đầu một nhà văn lưu vong, đúng như Võ Phiến đã từng cảm nhận: Nhà
văn lưu
vong không đem theo được cùng với ông ta, độc giả thân thương của mình!
Như thế có nghĩa, cùng với sự mất tích độc giả, nhìn vào những trang
viết cũ cứ
như nhìn vào hư vô.. là chán chưòng, tuyệt vọng, là sợ đếch ai còn biết
đến tên
ta [loss of name], sợ thất bại, và những dằn vặt về đạo đức [moral
torment].
Nhà văn lưu vong đau khổ bởi vì anh ta lúc nào cũng phải bám vào ý
thức, thói
quen tập thể. Có lẽ, anh ta, nhà văn như thế đó, chưa hề bao giờ học
đứng bằng
đôi chân của chính mình.
Anh ta có thể thắng, nhưng chỉ khi nào, trước đó, anh ta bằng lòng thua
[He may win, but not before he agrees to lose]
Lưu
vong là lâm vào tình cảnh thật đáng ngờ, nếu nói về mặt đạo đức, bởi vì
nó bẻ gãy kết nối của một con người với đám đông, nói rõ hơn, nó
tách một cá nhân ra khỏi một nhóm, và cá nhân này ngưng không còn chia
sẻ kinh nghiệm của mình với những đồng nghiệp bị bỏ lại. Những dằn vặt
về đạo đức phản ảnh sự vấn vương của anh ta với một hình ảnh hào hùng
về chính mình, và anh ta phải, từng bước từng bước, đi tới một kết luận
thật thê lương thật đau đớn, là: thật khó mà làm được một việc có
giá trị về mặt đạo đức, và càng thật khó, giữ cho được một hình ảnh
không hề hoen ố về chính mình.
*
Lưu vong, thiên di,
dời đổi,
không liên quan tới ngày tháng, thống kê hay quota, nhưng tới những số
mệnh của
từng cá nhân con người.
Cuốn Nouvelles Odysées mở ra
bằng những dòng trên.
Đây là một “anthologie” gồm
những bản văn của nhiều tác giả ở Tây, toàn di dân, hay lưu vong, như
Tahar Ben
Jelloun, André Makine, Francois Cheng…
Trong lời tựa, Eduardo Manet
viết: “Có nhiều lưu vong, di dân như có nhiều cát ở bãi biển”
Và họ
đều ‘viết văn như hành
lạc trong đau đớn bất lực" cả, Gấu mượn lời nhà đại phê bình để nói về…
cát ở bãi biển!
*
Gấu này, 'trâu chậm uống nước đục'
[“Anh đi muộn quá, hết mùa biển động từ đời nào đời nào rồi”, một bà
bạn văn đi
trước, than thở giùm], và, muộn còn hơn không, và, cũng cố ‘hành lạc
trong bất
lực đau đớn’, được chừng ‘vài chục ngàn trang’ net, nắn gân tí tí Con
Quỉ Bắc Kít,
đi được một đường vĩnh biệt Bông Hồng Chẳng Hỏi Vì Sao, đi gặp kịp Con
K, và vưỡn
còn dư tí bonus “quĩ thời gian’, và tính sử dụng nó, vào việc 'trước
trác', tệ lắm
là ba cuốn tiểu thuyết, một, viết về cú trở về lại Đất Bắc, một, về Gấu
Nhà Văn,
và một, về Những Ngày Ở Thiên Đường Đỗ Hoà, nông trường cải tạo Vẹm!
Hà, hà!
A free man, when he fails,
blames nobody.
(Được tự do rồi, thất bại, đừng ăn vạ ai)
(J. Brodsky, Phận lưu vong, The
Condition We Call Exile)
Of course, it's one hell of a
way to get from Petersburg to Stockholm;
but then for a man of my occupation the notion of a straight line being
the
shortest distance between two points has lost its attraction a long
time ago.
(Lẽ dĩ nhiên, đường từ Petersburg tới Stockholm đi qua địa ngục, nhưng
với một
người nghề ngỗng như tôi, ý niệm đường thẳng - là đường ngắn nhất giữa
hai điểm
- đã mất sự quyến rũ của nó từ lâu rồi.)
(Brodsky: Diễn văn nhận Nobel văn
chương)
Tôi không
là di dân, mà cũng chẳng bị tống xuất.
Thế giới bị
huỷ diệt không phải của tôi. Tôi chẳng hề biết nó.
(I neither
emigrated nor was deported.
The world
that was destroyed was not mine. I never knew it.
Henri
Raczymow, 'Memory Shot through with Holes').
Cuốn
Exile and Creativity, Gấu mua ngày 29 July, 1998, xưa rồi Diễm ơi, tại
tiệm
Britnell, xưa nhất Toronto.
Tiệm này nay biến thành quán cà phê. Khi nó chết, cả thành phố năn nỉ
đám con
cháu chủ tiệm đừng bán, đừng bán [đừng đốt, đừng đốt!], nhưng họ lắc
đầu, chán
sách quá rồi!
Tiệm
kế bên Toronto Reference Library. Đây
là thư viện đầu tiên Gấu được
cô giáo tại trung tâm tạm trú, shelter, đưa đi tham quan, liền sau ngay
khi tới
Toronto, từ trại tị nạn Thái Lan.
Một buổi tối, trong những ngày lạnh nhất kể từ 40 năm, như báo chí
mô tả.
Vừa tới phi trường, tối 18.1.
1994, là được đưa đi lãnh quần áo lạnh, giấy bốt, rồi được xe chở từ
phi trường,
xuyên qua bão tuyết mù trời, tối thui, tới shelter. Ngay liền sáng hôm
sau, bò
ra bên ngoài, kiếm tiệm phở, không hề biết, tiệm chỉ mở cửa vào lúc 11
trưa! Về,
chưa tới giờ làm việc, lại phải đứng ngoài trời tuyết, chờ nhân viên mở
cửa cho
vô!
Bất
giác nhớ ký giả Lô Răng, một
lần ngồi Quán Chùa, kể, lần ông đi Mẽo tu nghiệp, ở kế bên một bãi
biển, đêm nghe
tiếng sóng vỗ vào bờ, không hiểu sao, đều thành tiếng rao, Phở,
Phở!
Sau đó, được đi ăn phở, cũng vài
lần, rồi tới lần được cô bạn và ông chồng tới shelter thăm, chở đi ăn
phở. Cô bạn
cởi bao tay, bắt tay Gấu, tự nhiên như người văn minh, Gấu bắt tay, run
bần bật,
đúng như thế, khiến Gấu Cái “lại đâm bực”!
Dọn
Trả lời
mấy cái mail của học
trò NHQ:
Nếu
các bạn muốn “công khai”, thì
gửi cho NHQ, đề nghị cho đăng trên Tiền Vệ, hoặc NHQ Blog VOA.
"Gấu
này” sẽ
công khai trả lời.
Còn
nếu muốn Tin Văn đăng mấy
cái mail đó, thì hãy xin phép Thầy NHQ, nếu Thầy NHQ cho phép mấy bạn
thay mặt
Thầy “dậy bảo” Gấu này, thì lúc đó, sẽ tính, sau!
Regards.
NQT
|
|