*
















*

Chúc Mừng Giáng Sinh
*
Cảm Tạ

trời. đục
sương. trĩu. ngang mặt
lấp. ló
những ngôi nhà. bóng mù
thanksgiving
sóng sánh. buổi sớm
ly café dở. gà tây nằm ngửa
bụng dạ. ăm ắp
vắng hoe. con đường mềm. mớn sương
cảm tạ. cây trang điểm
lá đẹp. mùa nâu. bình yên
cảm tạ. chốn tạm
bài nhạc. luôn bắt đầu. từ nốt lẻ
thanksgiving
rồi sẽ. đông đúc
rồi trời sẽ. đục nhiều hơn
cảm tạ. những miền nâu. cũ
cảm tạ. những hiện hữu
cảm tạ. những u. mơ
chảy loang. loáng tia nắng
đầu. chấp chới
dựng. những đường. khúc chiếc
về. điểm bắt đầu
như một. lời cảm tạ
cảm tạ. bạn. cảm tạ. em
thanksgiving
những tiếng chuông. nhỏ. lắc lư
theo con đường. còn lại

Đài Sử


Tưởng niệm Camus, 50 năm sau khi ông mất

“Papa, tôi không biết bố tôi nổi tiếng, cho tới khi ông mất. Tôi biết điều đó, lúc ông mất, và tôi chẳng ham. Với tôi, đó là cha tôi. Tếu, rất tếu. Tôi mê nụ cười của ông. Với những người khác, Albert Camus, đó là một huyền thoại, không phải một ông bố. Sự nổi tiếng, tôi không ý thức gì về nó, và nó cũng chừa chúng tôi ra, cho đến khi chúng rớt xuống anh tôi, và tôi, nó đè nát hai anh em. Tôi lúc đó 14 tuổi.”
“Ở trường học, khi người ta hỏi bố tôi làm nghề gì, tôi trả lời ‘nhà văn’, và nó làm tôi phải suy nghĩ. Làm thợ mộc, thì đúng là một nghề. Nhưng nhà văn?”

«Je me révolte, donc nous sommes ... »
“Il y a la beauté et il y a les humiliés.”
“Le bonheur et l'absurde sont inséparables”

“Il y a la beauté et il y a les humiliés.”
Có cái đẹp và có những người bị sỉ nhục.
Ui chao sao mà đúng y chang tình cảnh Mít, trước và sau
Anus Mundi [hậu môn của thế giới]
Trước, cả nhân loại nằm mơ ngủ dậy, biến thành Mít.
Sau, Mít, có nghĩa là, bị sỉ nhục!


Roland Barthes

Roland Barthes (1915 -1980), écrivain et sémiologue français, fut l'un des principaux animateurs du structuralisme et de la sémiotique en France. Du 26 octobre 1977, lendemain de la mort de sa mère, au 15 septembre 1979, Roland Barthes a tenu un journal de deuil, 330 fiches pour la plupart datées, et constituées en un ensemble publié pour la première fois sous le titre Journal de deuil aux Éditions du Seuil en 2009. Pour Barthes, «l’auteur est mort», Autrement dit, «la naissance du lecteur doit se payer de la mort de l’auteur». D'après sa compréhension des choses, l'auteur doit céder sa place au lecteur, qui s'approprie le contenu du texte et en fait sa propre lecture. Il nous sera difficile, en tant que lecteurs, de séparer l'écrivain de l'homme. Si entre-temps il est mort physiquement, il continue son existence dans la mémoire de nombreux vivants, principalement grâce à ses oeuvres. Notre lecture n'en sera pas une de réécriture du texte, mais d'écoute de ce que l'homme-écrivain Barthes nous révèle et nous voile de son propre deuil*.
Extraits
5 novembre 1977
Après-midi triste. Brève course. Chez le pâtissier (futilité) j'achète un financier. Servant une cliente, la petite serveuse dit Voilà. C'était le mot que je disais en apportant quelque chose à maman quand je la soignais. Une fois, vers la fin, à demi inconsciente, elle répéta en écho Voilà (Je suis là, mot que nous nous sommes dit l'un à l'autre toute la vie). Ce mot de la serveuse me fait venir les larmes aux yeux. Je pleure longtemps (rentré dans l'appartement insonore).
Ainsi puis-je cerner mon deuil. Il n'est pas directement dans la solitude, l'empirique, etc.; j'ai là une sorte d'aise, de maîtrise qui doit faire croire aux gens que j'ai moins de peine qu'ils n'auraient pensé. Il est là où se redéchire la relation d'amour, le «nous nous aimions». Point le plus brûlant au point le plus abstrait...
18 août 1978
L'endroit de ma chambre où elle a été malade, où elle est morte et où j'habite maintenant, le mur contre lequel la tête de son lit s'appuyait j'y ai mis une icône – non par foi – et j'y mets toujours des fleurs sur une table. J'en viens à ne plus vouloir voyager pour que je puisse être là, pour que les fleurs n'y soient jamais fânées.
Nguồn

Barthes nhà văn nhà ký hiệu học Tây là một trong những người chủ xướng của chủ nghĩa cơ cấu và ngành ký hiệu học tại Pháp. Vào ngày 26 Tháng 10 1977, liền sau cái chết của bà mẹ, ông viết nhật ký tang, gồm 330 tờ ghi chú [fiches], đa số có đề ngày tháng, nay được tập hợp và xb lần thứ nhất với cái tít “Nhật ký tang”, nhà xb Seuil, 2009.
Với Barthes, ‘tác giả đã chết’. Nói một cách khác “sự ra đời của độc giả phải được trả giá bằng cái chết của tác giả’. Theo trình tự của sự việc, tác giả phải nhường chỗ cho độc giả, và người này, ‘tóm lấy’ nội dung của bản văn, làm quen với nó, kiếm ra cách đọc của riêng mình. Thật khó cho chúng ta, như là những độc giả, tách rời nhà văn ra khỏi con người. Nếu như vào một lúc nào đó, con người bằng xương bằng thịt, chết, nhà văn vẫn tiếp tục hiện diện trong hồi nhớ của rất nhiều người còn sống, chủ yếu là do tác phẩm của mình. Cái đọc của chúng ta không phải là cái ‘tái viết’ bản văn, mà là cái nghe, điều mà con người-nhà văn Barthes thố lộ cho chúng ta, và che phủ cái tang của riêng ông.
*

Nhà văn Mẽo rất mê Barthes, là Susan Sontag. Bà viết hình như vài bài về Barthes, thí dụ: Writing Itself: On Roland Barthe, trong Where the Stress Falls
Mới thấy trên Gió O, Đào quân dịch một bài của Zadie Smith về Barthes và Nabokov
Đây là dịch phẩm đầu tay của Người, chăng?
*

An essay is an act of imagination. It still takes quite as much art as fiction.
Suffering from 'novel nausea', Zadie Smith wonders if the essay lives up to its promise.
Tiểu luận là hành động của tưởng tượng. Đâu thua gì giả tưởng.
Đau nhức vì ‘buồn nôn tiểu thuyết’, Zadie Smith mơ mòng tự hỏi, liệu tiểu luận bảnh như là lời hứa, của chính nó?
Bà này viết essay cũng thật tuyệt cú mèo. Gấu mê hơn nhiều, so với giả tưởng.
Cũng vậy, với Coetzee.
Bài essay đầu tiên của bà làm Gấu choáng, viết về Greene.

Bài mới đây, về Kafka.

Bà Zadie Smith này, quá mê EM Forster, bèn ‘viết lại’ cuốn Howards End của Thầy, thành cuốn On Beauty, của bà, chẳng chịu ‘lạng lách’ gì cả.
Chán thế!

Trong bài viết về Bếp Lửa của TTT, từ những năm 1970, Gấu nhận ra, số phận [sự thất bại] của cuốn này, BL, 'y hệt' cuốn La Nausée.
Susan Sontag cũng nhận ra điều này, mắc mớ giữa Sartre và Barthes:
… Although Barthes agrees with Sartre that the writer's vocation has an ethical imperative, he insists on its complexity and ambiguity. Sartre appeals to the morality of ends. Barthes invokes "the morality of form"- what makes literature a problem rather than a solution; what makes literature.

*

Đọc Bếp Lửa

“Beyond Criticism”: Vượt quá phê bình

Nhà độc giả vĩ đại thì hiếm lắm, hiếm hơn, so với nhà văn nhớn, Borges phán.
Bản thân Ngài, là một nhà độc giả nhớn. Montaigne đọc Seneca và đọc lại chính mình, Coleridge đọc Jacobi và Schelling....
G. Steiner: "Critic/Reader"
Giá như mà có thể thêm vô: Gấu đọc Steiner và đọc Gấu!

Bad sex award goes to Jonathan Littell's The Kindly Ones
Bad sex judges pay tribute to 'part-genius' of winning novel and hope winner 'takes it in good humour'

Lộng giả thành chân


Thu tin:

Ông Nguyễn Quốc Trụ, ông đã phi tang bài viết bênh vực Nguyễn Hữu Liêm, nhưng những hành vi của ông từ trước đến nay đã cho thấy ý đồ của ông. Ông đã không ngừng xuyên tạc, đánh phá, bôi bác những cây bút chống Cộng nổi danh của người Việt hải ngoại. Ông nên suy xét lại hành vi của ông và chấm dứt làm những điều có lợi cho Cộng Sản.

Tra loi:
Doc o day:
NHL
Hai ngoai la cai gi ma so, phai phi tang?
NQT

Ông đã không ngừng xuyên tạc, đánh phá, bôi bác những cây bút chống Cộng nổi danh của người Việt hải ngoại.
Ai vậy cà?
Còn ai vào đây n
ữa!


*

Trân trọng giới thiệu
Ra mắt độc giả đúng vào dịp Giáng Sinh năm nay.

*

Like the Coleridge hero who wakes to find himself holding the rose of his dreams, I knew these objects were not of the second world, which had brought me so much contentment as a child, but of a real world that matched my memories.
Như nhân vật của Coleridge thức giấc thấy mình cầm khư khư trong tay bông hồng đen của giấc mộng, tôi biết, tất cả những gì ở trong Tứ Khúc thì không phải là từ thế giới tưởng tượng bước ra, chúng thuộc cuộc đời này. Và chúng là một, với hồi ức của tôi, những ngày ở Sài Gòn.
NQT

Những Con Quỉ Đáng Sợ Của Dostoevsky.
Pamuk

Ui chao, cứ như thể Dostoevsky thì thầm vào tai tui, dậy cho tui cái ngôn ngữ bí mật của linh hồn, đẩy tôi vào xã hội của đám tiến bộ, tuy, bừng bừng vì những giấc mộng thay đổi thế giới, nhưng bị khoá chặt ở trong những hội kín hội hở, và hơi bị thích thú cái trò khốn nạn, đánh lừa những kẻ khác, nhân danh cách mạng (1), đầy đọa, làm nhục, làm mất nhân phẩm, những người không nói thứ ngôn ngữ cách mạng, không chịu cùng chia sẻ viễn ảnh về một ngày mai ca hát của chúng.

(1) Đúng là tình cảnh nước Mít, năm 1945, trong có hoàn cảnh một nhạc sĩ, nhà thơ, vì bát cơm của tổ trưởng tổ cách mạng, me-xừ Vũ Quí nào đó, mà phải cầm súng đi làm thịt tay ăng ten cho hiến binh Nhật, Đỗ Đức Phin, và sau này, sám hối, viết Tại sao tôi viết Tiến Quân Ca?


Dostoevsky

Tôi dậy một khóa học về Dos, và đã được hỏi nhiều lần là tại sao không viết một cuốn về Dos. Tôi luôn trả lời, cả một thư viện, với đủ thứ ngôn ngữ, về ông ta, đã có rồi, tôi lại chẳng phải là học giả. Tuy nhiên, còn một lý do khác.
Nếu viết, thì đây là một cuốn dựa trên sự thiếu tin cậy. Mà đã thiếu tin cậy, thì viết làm gì.

Nhà văn lớn lao này, Dos, đã ảnh hưởng, chẳng ai cùng thời với ông so được, ngoại trừ Nietzsche, lên tư tưởng Âu Châu và Mỹ Châu. Balzac không, Dickens không, Flaubert không, Stendhal không, tuy đều là những cái tên phổ cập hiện giờ. Ông ta sử dụng một hình thức tiểu thuyết mà chưa ai dám dùng, trước ông hay sau ông, mặc dù George Sand đã thử bắt chước, để trình bầy một hiện tượng bao la rộng lớn mà chính ông kinh nghiệm, từ bên trong con người của ông, và do đó cảm nhận được: sự băng hoại của niềm tin tôn giáo.
Những chẩn đoán của ông về cơn băng hoại này, hoá ra là thật là đúng. Ông nhìn ra cơn băng hoại này, và hậu quả của nó, ở trong đầu của tầng lớp sĩ phu Nga. Cuộc Cách Mạng Nga đã tìm thấy những lời tiên đoán về nó, của nó, ở trong
Lũ Người Quỉ Ám, đúng như Lunacharsky công khai thú nhận, và trong Huyền Thoại về Viên Đại Phán Quan" [The Legend of the Grand Inquisitor].

Một nhà tiên tri? Hiển nhiên rồi. Nhưng còn là một ông thầy nguy hiểm. Bakhtin, trong cuốn về tính thi học của Dos đã đưa ra giả thuyết, tiểu thuyết đa giọng là phát minh của những nhà văn Nga. Đa giọng khiến Dos thành một nhà văn hiện đại: ông nghe những tiếng nói, rất nhiều tiếng nói, ở trong không khí, chúng cãi cọ lẫn nhau, đưa ra những tư tưởng trái ngược nhau, thế giới chúng ta hiện đang sống chẳng y hệt như vậy sao: một nền văn minh hỗn mang, của những giọng nói chỏi nhau?
Đa giọng của ông bị hạn chế, tuy nhiên. Đằng sau đa giọng đó, ẩn giấu một con người nóng bỏng niềm tin. Một vị thiên sứ. Còn gì đa giọng hơn là cái xen với những người Ba Lan trong
Anh em nhà Karamazov: một xen hài thô kệch không xứng với tính nghiêm trọng của tác phẩm. Cách sử trí nhân vật Ivan Karamazov xem ra còn mạnh hơn cả những gì một thể dạng đa giọng cho phép. (1)

[(1) Nathalie Sarraute nghĩ khác. Trong một bài viết, trong Thời Ngờ Vực, mà Hai Lúa còn nhớ đại khái, bà cho rằng, những nhân vật của Dos. có người cứ thế đi thẳng tới Đạo, họ là Thánh, ngay từ bẩm sinh. Còn một loại nhân vật chọn con đường tủi nhục, lầy lội, phải đóng đủ thứ vai, trong có vai hề, tự châm biếm, tự làm nhục chính mình....]

Dos. nhà ý thức hệ được tách biệt hẳn ra khỏi  Dos, nhà văn, ấy là để bảo vệ sự lớn lao vĩ đại của ông; sự lớn lao này thường bị những lời tuyên bố không may làm tổn thương. Ở đây, may mắn làm sao, có Bakhtin, và ông này giúp đỡ cho chúng ta thật nhiều, qua giả thuyết của ông về Dos.
Nhưng vấn đề ở đây, sự thực nó như vầy: Nếu không có một thiên sứ Nga, và lòng quan hoài cho một nước Nga khốn khổ khốn nạn, thì làm sao có được một nhà văn quốc tế, như thế?
Không phải chỉ do lòng quan hoài cho một nước Nga khốn khổ khốn nạn, đã cho ông sức mạnh, mà, chính nỗi lo sợ của ông về một tương lai của nước Nga, khiến ông viết, bắt buộc ông phải viết, để đưa ra một lời cảnh cáo.

[Những cắt nghĩa của Milosz về Dos có thể áp dụng, để cắt nghĩa những nhà văn của miền bắc như NHT, PHT. Một cách nào đó, chúng còn giải thích sự nổi tiếng 'quốc tế' của những nhà văn này, và làm họ tách biệt hẳn ra khỏi những nhà văn miền nam. Nói rõ hơn, nhà văn miền nam không đụng phải những vấn đề như vậy. Họ 'đếch cần' ý thức hệ. Đây là một bất hạnh, nhưng với riêng 'Hai Luá', một hạnh phúc.
Và hơn thế, chúng cắt nghĩa hiện tượng Trâm Thạc.]

Liệu có thể coi ông, Dos, là một tín đồ Ki Tô?
Khó nói lắm.
Có lẽ, Dos cũng đành chọn cho mình một chỗ quì trong nhà thờ bởi vì ông chẳng nhìn thấy một cứu rỗi nào cho nước Nga, ngoài Thiên Chúa giáo ra. Nhưng đoạn cuối
Anh em nhà Karamazov cho phép chúng ta nghi ngờ, chắc gì những sức mạnh huỷ diệt mà Dos quan sát lại tìm ra được một đối trọng ở trong đầu của ông? Cái anh chàng ngây ngơ trong trắng thánh thiện là Alyosha trẻ tuổi đó, như 'dáng đứng' [projection] của một nước Nga Thiên Chúa giáo, liệu anh ta có thể làm được chuyện cứu vớt Cách Mạng Nga?
Nếu đúng như thế thì hoá ra hơi bị ngọt, và hơi bị sến.
[That's just a bit too sweet and kitschy]
Ông chạy trốn sến, [tôi muốn nói], sự tầm thường, rẻ tiền. Ông tìm kiếm những mùi vị chua, cay, đắng, độc, strong flavors. Những tổ sư tội lỗi, nổi loạn, khùng, điên của thế giới văn chương tìm tới những cuốn tiểu thuyết của ông để xin tá túc. Hình như là chúi mãi xuống cõi âm u tội lỗi đó, là một điều kiện, như trong những tác phẩm của ông chỉ ra, để có được sự cứu rỗi, nhưng ông cũng đã sáng tạo ra những kẻ trầm luân đời đời, thí dụ như Svidrigailov và Stavrogin.
Mặc dù nhân vật nào của ông mà chẳng là ổng, ông dành ưu ái, cho cái kẻ giống ông nhiều nhất, đó là Ivan Karamazov. Đó là lý do tại sao Lev Shestov nghi ngờ, rất ư là chính đáng, theo tôi, rằng, Ivan Karamazov đã diễn tả, cái sự bất khả, không thể nào, tận cùng, tối hậu, của một niềm tin, ở mấy me-xừ thánh thiện, trong trắng như Trâm như Thạc, ấy chết xin lỗi, như Trưởng Lão Zosima và Alyosha.

Nhưng Ivan tuyên bố, hùng hồn, xử sự phách lối, ra làm sao?
Chàng trả lại "cái vé", của Đấng Sáng Tạo, chỉ vì mỗi một giọt nước mắt của một đứa bé, và sau đó rao giảng Huyền thoại về một vị Đại Phán Quan, ba cái thứ huyền thoại này do chàng phịa ra, lẽ tất nhiên, mà ý nghĩa của nó là nhằm dẫn dắt chúng ta tới kết luận, nếu không thể nào làm cho nhân loại hạnh phúc dưới dấu ấn [the sign] của XHCN, ấy chết xin lỗi, của Chúa Ky Tô, và nếu như vậy, thì tại làm sao mỗi một trong chúng ta lại không thử bắt tay với quỉ sứ, để đem lại hạnh phước, và đây là nguồn cơn của con bọ VC: sản phẩm của một liên minh giữa Đỏ [CS] và Xanh [Đô La Mẽo], nghĩa là giữa Quỉ và Quỉ.

Berdiayev viết, nhân vật Ivan này "bắng nhắng" quá [Ivan is characterized by 'false oversensitivity'] và chẳng nghi ngờ chi, nhận xét này cũng có thể áp dụng cho Dos.

Dos viết, trong một lá thư cho Bà Fonvizin rằng, nếu ông bị phải chọn, giữa sự thực và Đấng Ky Tô, ông sẽ chọn Đấng Ky Tô. Nhưng, những người chọn sự thực có vẻ như đáng nể trọng hơn, ngay cả khi sự thực có nghĩa là từ chối Đấng Ky Tô, như là bề ngoài nó có vẻ như vậy [như Simone Weil khẳng định]. Ít ra những ngưòi này cũng không trông mong vào cái sự kỳ quái khác đời của họ, và cũng không xây dựng những thần tượng, từ những hình ảnh của chính họ.
Nếu có một điều gì đó, khiến cho tôi phải nhẹ lời, đó là Shestov, ông này tìm được cảm hứng, cho cái gọi là triết học bi đát của ông, là từ Dos. Shestov rất quan trọng đối với tôi. Chính là nhờ đọc ông mà Joseph Brodsky và tôi đã tìm hiểu được lẫn nhau, ở trong cõi trí tuệ.
Milosz's ABC's
(1) Nhân vật này, rất ư ly kỳ, Milosz viết một bài dài về ông, Shestov, hay là Sự Trinh Nguyên, Trong Trắng của Niềm Thất Vọng Chán Chuờng, đuợc in trong To Begin Where I Am.

Theo Shestov, cuốn quan trọng nhất của Dos, là Hồi Ký Viết Dưới Hầm, cuốn này đẻ ra tất cả các cuốn khác.
Đây mới là đệ tử đích truyền của Dos. Ông tin rằng, cái gọi là sự bình an trong tâm hồn, là rất đáng ngờ, bởi vì trái đất chúng ta sống, nó đâu có sửa soạn trước, để đón rước, xin mời mấy người vô đâu? Ông chỉ khoái những tay, thí dụ như Pascal, "cherchent en gémissant" ["tìm kiếm trong rên rỉ"].

Tin Văn sẽ cống hiến bạn đọc, bản dịch bài viết tuyệt vời này.
Milosz's ABC's
*
Bài của Milosz viết về Dos mà chẳng ‘khủng’ sao?


Gấu, đúng lý ra, là đã quen Cô Tú, từ những ngày cô làm cho hãng AP.
Hồi đó, có một dạo, ngay sau khi Huỳnh Thành Mỹ mất, Gấu có thói quen, sau khi gửi vô tuyến viễn ảnh, sau khi chờ Tokyo thông báo kết quả, là theo ông Hưng, AP man, ghé hãng AP, ở phía trên lầu Passage Eden, uống một ly “cà phê tức thời”, vừa uống vừa ngắm bức hình Huỳnh Thành Mỹ to tổ bố treo trên tường, sau đó, cả hai xuống lầu, ghé cái ngõ hẹp giữa hai bức tường, nơi cho mướn những cuốn tiểu thuyết đen série noire, lục lọi một hai cuốn chưa đọc (với ông Hưng là Carter Brown, còn Gấu, Chase, hoặc Simenon), rồi chia tay ông bạn già.

Huỳnh Thành Mỹ là nhiếp ảnh viên hãng AP đầu tiên bỏ mạng trong khi UPI, người đầu tiên bị cuộc chiến làm cho sống dở chết dở là Nguyễn Thành Tài. Anh là người giới thiệu gã chuyên viên trẻ cho UPI, ngay sau khi AP có mạch vô tuyến viễn ảnh. Một lần, vì quá đói hình, anh mò lên, nghe đâu khu Long Thành, gạ một người lính làm "người mẫu" cho anh chụp một série hình, cảnh một anh lính trúng đạn Việt Cộng, buông rơi súng rồi từ từ khuỵ xuống. Đối với một chuyên viên sử dụng camera, chuyện này quá thường, nhưng với một nhiếp ảnh viên, đây là một hành động đòi hỏi sự gan dạ, bình tĩnh, làm chủ bản thân, làm chủ tình hình... Bạn cứ thử tưởng tượng trong lúc súng nổ đạn bay mà cứ bình chân như vại, căn từng chút ánh sáng, lấy từng góc độ cho không phải một, mà năm, bẩy tấm hình nghệ thuật, chụp một người trúng đạn đang từ từ... từ giã cõi đời.

Hình đem về hãng, rửa ra, gây chấn động trong đám phóng viên, nhiếp ảnh viên UPI. Viên trưởng phòng hình ảnh tuyên bố, kể từ chiến tranh Algérie đến nay mới lại có một série hình độc đáo như vậy. Trước mắt, Tài được thưởng "Nhiếp ảnh viên số một trong tháng". Câu chuyện đúng ra không ngừng ở con số một đó, vì tiếp theo vinh quang, tiền bạc của ngày hôm nay, còn giải thưởng Pulitzer của ngày mai. Nhưng không ngờ khi hình được đăng lại trên báo chí Việt Nam, đám cảnh sát Tổng Nha ngửi thấy mùi là lạ qua cái tên Việt Nam, Nguyễn Thành Tài. Giá tên một nhiếp ảnh viên người Nhật, người Mỹ thì lại không sao. Họ bèn liên lạc với tiểu khu, nơi có trận đánh xẩy ra. Sau khi được xác nhận không có một trận đụng độ, chạm súng nào trong thời gian đó, họ sau cùng kiếm ra anh lính đã tử trận nhưng vẫn còn sống. Tài bị kết tội "phá hoại tinh thần chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng Hòa." Sau vụ đó, anh hết còn được UPI tin tưởng. Trong một lần theo hành quân, anh bị mảnh mìn muỗi cài giữa đám lá cây xớt qua mang tai, không may chạm dây thần kinh, trở thành ngớ ngẩn, sau cùng bị UPI cho thôi việc.
Cõi Khác


Hồn Ốc






Kỷ niệm, kỷ niệm

*

Đây là bãi sông, nơi ông cụ Gấu bị một đấng học trò làm thịt.
Về, Gấu mới biết là ông bị bắt không chỉ một mà tới hai lần, theo như cô con gái của ông chú của Gấu, Chú Cầm, Trùm VC vùng Việt Trì, cũng bị bắt nhưng trốn được. Cô con gái cho biết, ông cụ Gấu bị bắt lần thứ nhất, là đúng vào ngày phát thưởng cho học sinh trường tiểu học Việt Trì mà ông cụ là hiệu trưởng, trước khi đóng cửa trường nghỉ Tết. Trong gói quà nào cũng cho truyền đơn của VC. Chúng bắt ông, rồi thả. Ông về bên kia sông, làng Thanh Trì, quê của Gấu, ăn Tết cùng gia đình. Bà cụ tham mấy phiên chợ Tết, ở lại. Chúng bèn đưa cái thư mời dự tiệc tất niên, mang về cho ông. Đọc xong, là ông đi dự tiệc tất niên, và không trở về nữa. Đúng 30 Tết.
Gấu tin là bà cụ có đọc lá thư, đàn bà ưa tò mò, và nghĩ không có gì, vì nếu chúng bắt thì đã bắt rồi!
Cái gì làm chúng giết, lần sau?
Gấu nghĩ, chúng mời ông chạy sang Tầu theo chúng. Ông từ chối.
Ông cụ không theo Vẹm. Chắc chắn như vậy, nếu không, bà chị, thằng em Gấu đều phải được công nhận là con liệt sĩ. Gấu có hỏi chuyện này với cô con gái Chú Cầm, cô cho biết, ông bố của cô cho biết, anh giáo Dương chỉ là cảm tình viên của Đảng.
Cái gì làm ông cụ không tin… VC?
*
1945. Cách mạng, Độc lập, Tự do, Dân chủ, Hạnh phúc... đến thăm gia đình anh rất sớm, đem cha anh đi biệt tích, để lại lá thư mời dự tiệc tất niên của một người học trò cũ, khi đó cầm đầu nhóm võ trang chiếm giữ huyện lỵ, nơi ông làm Hiệu Trưởng trường Tiểu Học.
Không ngờ đó là một cái bẫy. Trong đầu óc non nớt của anh vẫn còn giữ lại cảnh tượng, buổi sáng đám người vũ trang chận đường khám xét, chủ ý là đòi tiền mãi lộ, đòi thịt cá, con gà, con vịt, mớ rau, mớ tép... của những người dân quanh vùng đổ về thị xã những ngày họp chợ. Có thể cha anh, với tư cách một người Hiệu Trưởng, một người thầy cũ, đã khuyên bảo người cầm đầu một điều gì đó. Nhưng tôi không hiểu, khi nhà trường đã đóng cửa nhân dịp Tết, và cha anh đã đem mấy đứa nhỏ về quê ở ngay bên kia sông, mẹ anh vì tiếc phiên chợ cuối năm nên nán ở lại, tại sao tới lúc đó người học trò mới có ý định thủ tiêu người thầy cũ. Nếu có thì giờ, anh nên tra cứu tìm tòi tài liệu, xác định thời điểm đám người vũ trang bỏ chạy khỏi Việt Trì, Vĩnh Phúc, có thể anh tìm ra nguyên nhân cái chết của cha anh.
Ông không ưa người Pháp. Suốt quãng đời dạy học, ông bị đổi đi nhiều nơi. Lục Yên Châu, Vĩnh Yên (Phú Thọ) và Việt Trì (Vĩnh Phúc) là ba nơi sau cùng trên con đường trở về khúc sông định mạng. Ông như bị nó ám ảnh , dẫn dụ. Hồi nhỏ ông thường bơi từ bên này sông ra tới giữa sông, và những lần lặng sóng, tới tận bờ bên kia, tới Việt Trì, rồi lại bơi về. Có thể đám người vũ trang muốn ông theo bọn chúng, nhưng cái cảnh chận đường chiếm đoạt tiền bạc, tài sản đã làm ông bất bình, và lá thư mời là cơ hội, hoặc tội ác cuối cùng người học trò cũ hy vọng thực hiện trước khi bỏ chạy, hoặc trước khi chịu cùng một số phận như vậy.
Ông bị đám người vũ trang thủ tiêu bằng cách buộc đá bỏ xuống sông, như lời một người bạn tù nào đó kể lại. Theo lời kể, cha anh đã không giả ngu giả dại như người khác. Cái tính lì lợm, bướng bỉnh nhưng dễ tin người, di truyền tới anh, trở thành ngu ngơ, khù khờ, nếu không muốn nói là đần độn. Có lần nghe anh kể tôi thấy tội nghiệp, đời thuở nhà ai chỉ vừa nghe nói tới tên cô bạn đã nghĩ ngay đây là người của mình, rồi lặn lội lên tận Đà Lạt, tới tận khu nội trú, chỉ để nghe, ở đây có một cô sinh viên có tên như thế nhưng đã về Sài-gòn.

*

Bà cụ Gấu @ 29/8D NBK St. Saigon cc 1960