*


















*

Đêm Thánh Vô Cùng

Đêm Giáng Sinh, làm sao Chúa bỏ quên lũ chúng tôi! Người cũng không quên mấy đứa nhỏ: tụi nó đã sửa soạn lễ Giáng Sinh cùng với mẹ, ngay từ đầu tháng, bằng cách cặm cụi làm côngfetti, không phải để ném lên đầu nhau, mà là để bán cho người dân Sài Gòn, đông nghẹt quảng trường Kennedy, đêm Chúa ra đời. Nếu khát nước, bạn có thể vừa mua côngfetti, vừa uống ly nước trà của bà mẹ chúng, trên chiếc bàn dã chiến, di động chung quanh tượng Đức Mẹ, có khi tới tận Nhà Hát Lớn trên đường Tự Do.


Roberto Bolaño 'would much rather have been a murder cop'

Được hỏi, nếu không làm nhà văn, thì làm gì, Bolano cho biết, “chắc chắn” sẽ làm một tay cớm hình sự, “trở về phạm trường, một mình, vào ban đêm, và không sợ con ma nào”.
Được hỏi nếu bị mấy thằng cha phê bình nắn gân, thì sao, ông nói, cứ mỗi lần có thằng nào chê tôi viết dở là tôi chỉ muốn khóc, bò lê bò càng trên sàn nhà, vò đầu bứt tai, hết viết nổi, hết thèm ăn, bớt hút thuốc, tập thể thao, đi ra bãi biển cách nhà cũng không xa, hỏi đám hải âu, mà tổ tiên của chúng đã từng ăn cá, cá đã từng rỉa thịt Ulysses: “Tại sao ta? Tại sao? Ta đâu có… ‘xoa đầu, nắn chim’ nhà phê bình nào đâu?” [Ta đâu có làm điều gì tai hại cho mi?]
Hà, hà!


Cultivating Loneliness


Herta Muller Nobel 2009
Back to the Gulag
Hunger's angel
JANE YAGER
Herta Muller
ATEMSCHAUKEL
304pp. Hanser. €19.90. 978 3 446 23391 1

This year's Nobel Prize-winner, Herta Muller, most of whose books have dealt with her life in Ceausescu' s Romania, turned to a new subject in 2001: the post-war internment of Romania's ethnic Germans in labor camps. Muller began interviewing survivors about the long-taboo subject of their experiences in the camps. Among her interviewees was the poet Oskar Pastior, a fellow Romanian born German-language writer. Muller’s conversations with him soon gave rise to the idea that the two of them would jointly write a book based on Pastior’s life in the Gulag and they visited the sites of labor camps together, filled notebooks with handwritten drafts and sketched-out chapters. Pastior's death in 2006 left Muller, by her own account, paralyzed with loss. A year later she embarked alone on writing the book, Atemschaukel (English working title: "Everything I Own I Carry with Me"), which was published in Germany in August.
In 1945, to punish Romania for her wartime alliance with Nazi Germany, the Soviet Union demanded reparations in the form of the forced labor of the country's ethnic Germans. Herta Muller’s mother, one of the tens of thousands who were deported, spent five years in a Gulag in Ukraine; Oskar Pastior, four years. In Atemschaukel, the fictional Leopold Auberg, deported from Sibiu (Hermannstadt) at the age of seventeen, describes his five years in a labor camp in eastern Ukraine. Leo shovels coal, lugs bricks, carries sacks of cement. Fed starvation rations of bread and soup, he forages for wild plants and frozen potato peelings to defeat the brutal arithmetic that governs the camp: 800 grams of bread taken in daily, I gram expended with each shovelful of coal a worker lifts. With the strange precision that is typical of her writing, Muller notes the Gulag's many processes of input and output, loading and unloading, all of which echo the fundamental caloric equation that determines survival.
Immersed in his own hunger, Leo mostly avoids noticing the deaths of his fellow inmates: "you convince yourself that those who are missing have just been transferred to a different camp". As the reader views Gulag life from his increasingly hallucinatory perspective, other prisoners pass in and out of focus, their roles brief but memorable:
Irma Pfeifer, who drowns in wet cement; mentally disabled Kati, who survives five years never knowing she is in a labor camp; the lawyer Paul Gast, who steals his wife's food until she dies, then barters her coat for the affections of a new girlfriend. Dominant among these characters is the angel of hunger (Hungerengel, a word coined by Pastior), a spectral figure who weighs each inmate on his gruesome scales: "The angel of hunger looks at his scales and says: you're still not light enough for me, why don't you relax?".
In the Gulag, "each of us feeds on his own words"; the text savors language with the same intensity that the starving narrator brings to his spoonfuls of thin soup. When food is scarcest,' the prisoners pass the time reciting recipes. "Telling recipes is a greater art than telling jokes . . . . Recipes are the jokes of the angel of hunger". And words can tip the scales in favor of survival, every bit as much as food does. In the camp Leo latches on to the words his grandmother said when he was deported, "I know you'll come back". The memory of her words takes on formidable power. "A sentence like that keeps a person alive."
Reversals of subject and object abound in Atemschaukel: toothbrushes forget people, the air in the room watches Leo, cement steals laborers. To describe this feature of Muller's writing as anthropomorphism, as .some critics have done, accounts for only half of what she achieves. In turning inanimate objects into animate subjects, she also does the reverse. Cold, hunger, exhaustion and homesickness, all things that "though not living aren't dead", make the prisoners their objects. Muller structures the novel in short, meditative chapters that shape coal, sand and other materials of forced labor into characters.
Hunger is a solitary state - "you can't join in someone else's starvation" - and even after the food returns, the loneliness remains. Home offers no solace: released from the camp after five years, Leo returns to his family to find the damage done to him irreparable. His icy, repressed family echo the depictions of Romania's ethnic Germans in Muller's previous books, such as her early short story collection Niederungen (Nadirs, 1999). In Atemschaukel it is Leo's homosexuality - an unspeakable fact in his family and in 1950s Romania - that becomes the cause of lifelong alienation. The anonymous lovers Leo meets in parks have taken objects and animals as their code names: the hat, the seagull, the thread. Leo is first "the player", later "the piano".
Atemschaukel is neither a historical novel nor a first-person account of the Gulag. Though many German critics hailed the book as a masterpiece, its unusual combination of poetic fiction and documentary precision made some reviewers uneasy. One critic argued in Die Zeit that a Gulag book cannot be written second-hand, and called Muller's lyrical style too romantic for the subject matter. Others have claimed that the Nobel committee should have awarded the prize jointly to Muller and Pastior, or that Muller should have named Pastior as the co-author of Atemschaukel. Pastior's contribution is indeed fundamental to the book, but Muller wrote Atemschaukel alone, and she has been very open about the part he played in the book's creation. She has an ability to distil concrete objects into language of the greatest intensity and to sear these objects on to the reader's mind. Her creative powers make of Pastior's experiences a work of rare force, a feat of sustained and overpowering poetry.
TLS Nov 20, 2009

Atemschaukel is neither a historical novel nor a first-person account of the Gulag. Though many German critics hailed the book as a masterpiece, its unusual combination of poetic fiction and documentary precision made some reviewers uneasy.
“Cái cột đèn biết đi thì nó cũng đi” [Mọi cái tôi sở hữu tôi mang theo với tôi] thì không phải là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, cũng không phải một cái ‘ký’ [tạm dịch từ ‘account’] viết bằng ngôi thứ nhất, về Gulag. Mặc dù được nhiều nhà phê bình Đức ca ngợi, một đại tác phẩm, nhưng cái sự quyện lẫn khác bình thường giữa giả tưởng thơ ca với sự chính xác mang tính tài liệu, sự kiện thực, khiến một số nhà điểm sách cảm thấy hơi kỳ kỳ.
Cái tay điểm sách trên tờ Die Zeit phán một câu thật bảnh:
Sách [viết về] Gulag không thể viết [bằng thứ ngôn ngữ, theo kiểu] 'second-hand'.
[One critic argued in Die Zeit that a Gulag book cannot be written second-hand, and called Muller's lyrical style too romantic for the subject matter.]
Câu trên gửi tặng Bùi Ngọc Tấn, Chuyện Kể Năm 2000, thật tuyệt!
Bạn đâu có quyền viết văn, làm thơ nhờ...   Cái Ác, Lò Thiêu, Lò Cải Tạo!
Đừng có lộn câu phán của Gide về Dos: Tác phẩm lớn có sự tham dự của Quỉ!
NQT
Hunger's angel ? Có vẻ như bà Nobel này... chôm đề tài của... Gấu:
Liệu Cái Đói [Bắc Kít] sẽ cứu chuộc thế giới?
Cứu chuộc ư?
Biến thế giới thành bãi đánh hàng, đúng hơn!
*
Cẩn bạch:
Những bài tiếng Anh tiếng U trên Tin Văn, đa số, nếu không muốn nói là hầu hết, đều từ nguồn riêng của Gấu, nghĩa là, từ sách báo Gấu bỏ tiền ra mua [nói chuyện tiền bạc, chán quá!], post lên, nếu có thì giờ dịch hầu quí vị nào không rành ngoại ngữ, chứ không hề có ý khoe chữ, hay không tôn trọng độc giả.
Bài nào có trên net, thì làm link, lâu lâu cũng quên, link rồi mà còn copy, xin độc giả miễn thứ.
Tin Văn không phải là một trang net sống nhờ những cơ quan ‘từ thiện’ như facebook, yahoo 360… thành thử cũng có nhiều bất tiện về còm, về nối kết bạn bè… tuy nhiên, nó hách hơn rất nhiều, bởi vì, chính vì thế mà độc giả TV rất tôn trọng lẫn nhau, và tất nhiên rất quí Gấu, ít khi làm bực mình vì những cái còm lôm côm!
Cái Chợ Cá sở dĩ biến thành Chợ Cá, ấy là là do độc giả của nó quyết định, chứ không phải do chủ Chợ Cá!
[Cái này là 'nịnh' Sến Cô Nương!]
Best Regards. NQT

Một trong những kỷ niệm thú vị nhất, v/v post bài tiếng Anh tiếng U, của Tin Văn: Nhờ Tin Văn scan và post một bài viết trên TLS về Brodsky, bà quản lý gia tài của thi sĩ biết tới nó [quái thế, chẳng lẽ bà này đọc TV hàng ngày ư?], bèn viết thư trả lời TLS, và sau đó, TLS phải đi một đường phúc đáp trên báo giấy!

 Một cú thật ngoạn mục!

Server Tin Văn cho biết, một tay Nga Xô, link một bài viết về Brodsky mà Gấu này scan từ một tờ TLS [bỏ tiền ra mua nhé!].
Nhưng mà, Niên Xô nàm sao mà đọc được Gấu Mít?
Thư sau đây, là của người phụ trách kho tàng Brodsky [Ann Kjellberg, Executor and Trustee, Estate of Joseph Brodsky] viết cho tờ TLS, để đưa ra hai cái còm, về bài điểm sách của tờ này, Brodsky dưới cái nhìn của những người cùng thời với ông.
Bài điểm này, cái bà Ann này, đọc trên Tin Văn. Thế mới thú.
Lại nhớ đến Đào quân, và bài viết của ông, khi ông điểm cuốn sách của một tác giả mũi lõ, và tay này bèn viết thư không phải để cám ơn, mà để yêu cầu sửa cái hình của dịch giả, mà Đào quân lầm là hình tác giả!


Turkish delight
The Museum of Innocence.
By Orhan Pamuk.

Trong cuốn tiểu thuyết thứ tám - thứ nhất kể từ khi được Nobel, vào năm 2006 – Orhan Pamuk, sinh tại Istanbul năm 1952, quần tụ một số nhân vật với những âu lo, phiền hà về tính Thổ nhĩ kỳ và tính hiện đại, sự chân thật và sự bắt chước. Những con người trong cuốn sách của ông lúc nào cũng hoài vọng Tây Phương, trong khi sống tại một nơi chốn mà họ cảm thấy phù du, bệ rạc, nhếch nhác… Buồn, lúc nào cũng cảm thấy mất mát, thua thiệt, Bảo Tàng Viện của sự Ngây Thơ là cuốn dễ tiếp cận, và thật sâu thẳm, của Pamuk


Tribute to Levi-Strauss


Văn Chương Dấn Thân


Đọc TMT


Hồn Ốc



Kỷ niệm, kỷ niệm


 Tâm Tài Mỹ

… Lúc ấy tôi đang khẩn trương chuẩn bị báo cáo chuyên đề “Phong trào văn thơ âm nhạc vận động hòa bình những năm 1964-1966 ở miền Nam Việt Nam” với William Joiner Center (WJC) ở Boston nên tôi không thực hiện được lời đề nghị của anh bạn nhà thơ năm xưa.
Nguyễn Đắc Xuân. talawas.

Đây là chi tiết thú vị nhất của bài viết. Nó cho thấy, chỉ sau khi trả bài xong xuôi cho đề tài “Mít’s Disapora” của WJC - vẽ bộ mặt Mít lưu vong mong ngày đoàn tụ với quê nhà - tác giả NDX mới rảnh rang để trả lời Liên Thành!


Gỡ cái mặt nạ 'tên sa đích văn nghệ' ra, thì khó mà có thể trở về làm Gấu nhà văn bình thường được.
Nhưng đã gỡ ra rồi, [đã phong kiếm qui ẩn rồi], vậy mà cố đeo vô lại, thì sao?
Hà, hà! Căng thật!


Giữa lòng đen

Kun @ Mít

Nhưng, phải Kafka mới là kẻ tử đạo, văn, và cùng lúc, đời, khi phán, trong cuộc đấu sinh tử, tay đôi, giữa anh và thế giới, hãy ở bên… thế giới!
In the duel between you and the world, back the world. (1)
Kafka 
Thần sầu!
(1)
Câu trả lời của Kafka


Nam Le’ File


Dọn Tiếp!