\
Chúc Mừng
Giáng Sinh 2009
Quà Noel của Richie tặng Ông
Ngoại!
.
In
1979
the Canadian-American
mathematician Robert Langlands developed an ambitious and revolutionary
theory
that connected two branches of mathematics called number theory and
group
theory. In a dazzling set of conjectures and insights, the theory
captured deep
symmetries associated with equations that involve whole numbers, laying
out
what is now known as the Langlands program. Langlands knew that the
task of
proving the assumptions that underlie his theory would be the work of
generations. But he was convinced that one stepping stone that needed
confirmation — dubbed the "fundamental lemma" — would be reasonably
straightforward. He, his collaborators and his students were able to
prove
special cases of this fundamental theorem. But proving the general case
proved
more difficult than Langlands anticipated — so difficult, in fact, that
it took
30 years to finally achieve. Over the past few years, Ngo Bao Chau, a
Vietnamese mathematician working at Université Paris-Sud and the
Institute for
Advanced Study (IAS) in Princeton,
formulated
an ingenious proof of the fundamental lemma. When it was checked this
year and
confirmed to be correct, mathematicians around the globe breathed a
sigh of
relief. Mathematicians' work in this area in the last three decades was
predicated
on the principle that the fundamental lemma was indeed accurate and
would one
day be proved. "It's as if people were working on the far side of the
river
waiting for someone to throw this bridge across," says Peter Sarnak, a
number theorist at IAS. "And now all of sudden everyone's work on the
other side of the river has been proven."
Tuần
báo Time xếp việc nhà toán học Ngô
Bảo Châu chứng minh bổ đề cơ bản của Langlands vào "một trong
10
thành tựu khoa học lớn nhất năm 2009". [Viet-xì tốp đi thôi]
Câu trên, sai.
Đúng ra, phải viết: bổ đề cơ
bản cho lý thuyết Langlands.
Time dùng chữ Khám phá, Discovery, không
phải Thành tựu.
Toán, là phải hết sức chính xác, không lơ tơ mơ được! NQT
Nhưng tốt nhất, nên dịch cả
đoạn, bài trên Time, thì
toàn
thể dân Mít mới sướng mê tơi, sau bao nỗi nhục Anus
Mundi!
1 trong 10 của Mọi Thứ của năm 2009
Top 10 Những khám phá khoa học
7. Bổ đề cơ bản: Đã giải ra được.
Vào năm 1979, nhà
toán học Mẽo gốc Canada Robert Langlands phát triển một lý thuyết đầy
tham vọng
và cách mạng, nó nối kết hai ngành toán học được gọi là lý thuyết về số
và lý
thuyết về nhóm. Trong một bộ "đỉnh cao chói lọi" - dùng chữ VC cho nó
sướng, và ‘cân xứng’ [?] với cái nhục Anus Mundi - của những mò mẫm và
những
đốn ngộ, lý thuyết Langlands đã tóm được những đối xứng sâu thẳm kết
hợp với
những phương trình, liên quan tới trọn những con số, đưa ra được điều
mà bây
giờ được gọi là chương trình Langlands. Langlands biết, việc chứng minh
những
giả dụ nền tảng lý thuyết của ông, là một công việc đòi hỏi nhiều thế
hệ. Nhưng
ông tin tưởng, viên đá mở đường thì ở ngay trong tầm tay, đúng lý ra là
nó phải
như vậy. Và cái viên đá mở đường này được đặt tên là ‘bổ đề cơ bản’.
Ông, và
những cộng sự viên, những sinh viên đệ tử đã chứng tỏ là đúng, vài ba
trường
hợp đặc biệt của định lý cơ bản này. Nhưng trường hợp tổng quát, thì
chưa. Và
nó quá khó khăn, so với những gì nhóm của ông đã đạt được. Khó khăn
thật, bởi
vì họ đã mất 30 năm sau cùng mới đạt được thành quả. Vài năm gần đây,
Ngô Bảo
Châu, một nhà toán học Việt Nam làm việc tại Đại học [Université]
Paris-Sud, và Viện nghiên cứu cao cấp, Institute for Advanced
Study
(IAS), ở Princeton, đã tạo ra được
một chứng liệu,
thật thần sầu, rất ư là tài tình, của bổ đề cơ bản. Khi,
vào năm nay,
chứng liệu
này được kiểm tra, và công nhận là đúng, những nhà toán học trên toàn
thế giới
thở phào nhẹ nhõm. Họ hì hục quần thảo trên địa hạt này trong ba chục
năm qua,
và công việc làm của họ, thì đã được tiên đoán trước, là chắc như bắp,
thể nào
cũng có ngày bổ đề được chứng minh.
“Sự tình như thế này này, có những
người làm
việc ở thật xa, ở phiá bên kia bờ sông, họ đợi một cái tay nào đó, ở bờ
bên
kia, một ngày nào đó, buồn buồn thẩy một đầu cây cầu qua,” Peter
Sarnak,
một lý
thuyết gia về con số tại IAS, phán.
Và bây
giờ, bất thình lình, công việc làm của đám người bên kia bờ sông, được
xác nhận OK.
Ui chao, y chang “bổ
đề Hồ Chí Minh”, nhưng than ôi, y chang được có một nửa: Chờ hoài, đến
ngày 30
Tháng Tư 1975, ‘bờ bên kia’ ném sang một con bọ!
Đúng là 30 năm mới
có ngày nay, vui sao nước mắt lại trào!
*
Ngô Bảo Châu và một
trong
mười phát minh khoa học tiêu biểu nhất của năm 2009
Talawas.
Phát
minh, đếch được!
Phát minh, dịch qua tiếng Anh
tiếng U, là Invention, nôm na có nghĩa, phịa. Phịa ra một cái gì… chưa
có!
Còn khám phá có nghĩa là kiếm
ra một cái gì, đã có, nhưng chưa có ai mò ra nó!
Khám phá ra Mỹ Châu, thí dụ.
Phát minh ra khẩu AK 47. Ác
quá!
Phát minh ra cái máy may: May
quá! Khỏi phải may tay nữa!
Ối giời
ơi là giời. Có một
hai chữ “cơ bản” như thế mà hết ông Vẹt Xì Tọp Đi Thôi, đến Sến Cô
Nương dịch
không nên thân!
Chán quá!
Toán
học, không có lơ mơ được.
Gấu đã có kinh nghiệm về cái vụ này rồi. Ai học toán, mà không biết thế
nào là ‘định
nghĩa’.
Vòng tròn: Một đường cong khép
kín, tất cả những điểm ở trên đó, cách đều một điểm gọi là tâm vòng tròn
Hay, quĩ tích của những điểm cách đều một điểm gọi là tâm vòng tròn.
Vòng
tròn trực giao: Vòng tròn cùng nằm trong một mặt phẳng, tiếp tuyến tại
những giao điểm của
chúng, thì thẳng góc với nhau.
Năm Gấu thi Tú tài 2, bạn bè
rớt hết, trừ Gấu, khi trả lời vòng tròn trực giao là gì, đều thiến mẹ
khúc, “cùng nằm
trong một mặt phẳng.”!
Brodsky
chẳng đã từng phán, định nghĩa đường
thẳng là đường ngắn nhất qua hai điểm, đã hết quyến rũ ông từ lâu
rồi.
Bởi vì nó đi qua địa ngục,
con đường thẳng nối St. Petersburg của
ông với Stockholm.
Cũng thế, con đường thẳng nối
hai điểm Sài Gòn và Hà Nội, đi qua địa ngục.
*
Nếu
tôi không hiểu được vấn đề này thì tôi
tin rằng đa số người Việt Nam
cũng không hiểu được vấn đề này. Thấy Times bình chọn thì ta
cùng vui vỗ
tay, mà thực ra không biết vỗ tay vì cái gì.
Đông B
Đúng là đại ngôn!
Time - không
có s, ông lộn với tờ Thời Báo của tụi Anh, đây là tờ
tuần báo của
Mẽo, thưa ông Đông B! -
Cả bài viết, ông khoe khoang kiến thức toán
học, chẳng mắc mớ gì đến khám phá của Ngô Bảo Châu.
Cái gọi là bổ đề cơ bản này, mà NBC giải ra được, là
một cái gì mà những nhà toán học tin chắc là có, chưa chứng minh được,
đúng như nghĩa của từ assumption:
something taken for granted.
Còn chuyện Galois, định lý Abel, là khác, vì không
ai dám “taken for granted” cái định lý này!
Bởi thế Gấu mới so sánh:
1. Chân lý “nước Việt Nam là một”/chương
trình Langlands.
2. “bổ đề cơ bản” / “bổ đề
HCM, đánh cho Mỹ cút Nguỵ nhào”.
Chỉ có khác chút xíu, là cái
khúc chót, phát sinh con bọ, thay vì cái nhà Mít to lớn bằng 10 lần
trước!
Albert Camus, 50 năm sau khi
mất
Albert Camus và đạo đức học của
những giới
hạn
Ở trong
những tác phẩm sau này
của Camus, phong cảnh – và trên tất cả, phong cảnh quê ta, miền đất
thiên đàng Địa
Trung Hải của ông - vưỡn hiện diện, thường như là, một ham muốn tàn
khốc, an
atrocious desire, hay một hoài nhớ khủng khiếp, đến trở thành khốn khổ,
khốn nạn,
rất ư là hơi bị thảm hại [y chang Gấu, những ngày sắp lìa đời!], a
terrible
nostalgia: Marthe và bà mẹ của cô, những tên trộm cướp và những tên sát
nhân
trong Ngộ Nhận, làm thịt du
khách trong quán trọ, để có một ngày, có đủ vốn liếng,
tậu được một căn nhà bên bờ biển [Ui chao, chẳng lẽ đây là giấc đại
mộng của những
anh nhà quê Bắc Kít, những anh Cu Sài, xẻ dọc Trường Sơn,
hy vọng vô
được nước Xề Gòn, kiếm tí chiến lợi phẩm, về làng cũ, xây cái nhà gạch
nho nhỏ,
sửa sang phần mộ cho ông cụ, cưới một em ở Xóm Đoài, Xứ Đoài mây trắng
lắm?],
và cái anh chàng Tướng Về Hưu, Jean Baptiste Clemence, sau khi xây dựng
xong Địa
Ngục, bèn đi vào miền Sa Đọa, The
Fall, tên một tác phẩm của Camus, sám hối, và
trong một khoảnh khắc trầm thống, rống lên như một con quỉ, Quỉ Bắc
Kít, trong
một cuộc độc thoại nội tâm: “Ôi, mặt trời Bắc Kịt, ôi bãi biển Đồ Sơn,
ôi những
hòn đảo Hạ Long của những trận gió thương mại, ôi những hồi ức của thuở
thanh
niên, chúng mới làm cho đám Bắc Kít chúng ta chán chường làm sao!”
[‘Oh, sun,
beaches, islands of trade winds, memories of youth that make us
despair’]: Ở
Camus, cái đẹp và cái ấm mà con người được thừa hưởng từ thiên nhiên
không
chỉ thỏa mãn nỗi thèm khát của cơ thể, mà còn là một thứ thánh dược
thanh tẩy
tâm hồn!
Ui chao, những câu sau đây, trong Lần
Cuối Sài Gòn, của 'đại văn hào' Gấu Nhà Văn, mà không phải những
"thánh ngôn" 'thanh tẩy tâm hồn', ư?
Trong mỗi chúng ta đều có một
Sài-gòn âm ỉ cháy. Tôi khơi cục than hồng của tôi, để cho Sài-gòn của
bạn sáng
ngời.
Lần thứ
nhì bỏ chạy quê
hương, cùng nỗi nhớ Sài-gòn là sự thật đắng cay mà tuổi già càng làm
thêm cay
đắng: Một giấc mộng, dù lớn lao dù lý tưởng cỡ nào, cũng không làm sống
lại,
chỉ một sợi nắng Sài-gòn.
Trong
những đêm chập chờn mất
ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi tưởng hồn ma
của chính
mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời
đã chết
theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể. Tôi đọc lại
Nabokov và
lần ra sợi dây máu mủ, ruột thịt giữa tác giả-nhà văn lưu vong-con vật
đáng
thương-nàng nymphette tinh quái. Đọc Koestler để hiểu rằng, tuổi trẻ
của tôi và
của bao lớp trẻ sau này, đều bị trù yểm, bởi một ngày mai có riêng một
con quỷ
của chính nó: Miền Bắc, Hà-nội.
*
Dustin Nguyễn, Đỗ Hải Yến,
Tăng Thanh Hà - chị đã xem những phim của các diễn viên này chưa? Chị
có nhận
xét gì về diễn xuất của họ? Và đạo diễn Quang Bình nữa?
- Chị
bạn tôi khen, Hải Yến đóng Chơi vơi hay
lắm, cốt cách rất sang trọng. Tôi nghe tới đây
liền nghĩ, ôi, làm sao cô ấy
ra đồng được. Nhưng nếu cô ấy chịu ra đồng thì tốt chớ sao. Bạn Hà tôi
quen
trên truyền hình, anh Dustin Nguyễn tôi quen trên… tạp chí, còn anh
Bình quen
lúc… ký hợp đồng.
Nguyễn Ngọc Tư
Adam
Zagajewski
STAR
I returned to you years
later,
gray and lovely city, unchanging city,
buried in the waters of the
past.
I'm no longer the student
of philosophy, poetry, and
curiosity,
I'm not the young poet who wrote
too many lines
and wandered in the maze
of narrow streets and
illusions.
The sovereign of clocks and
shadows
has touched my brow with his hand,
but still I'm guided by
a
star by brightness
and only brightness
can undo or save me.
Bài thơ
trên, tả cảnh Gấu trở
về Hà Nội.
Gấu phóng dịch:
Ta trở
về với mi, nửa thế kỷ
sau,
Thành phố xám xịt, đáng yêu,
và chẳng có gì thay đổi
Chôn dưới những con nước của
những con hồ Bẩy Mẫu, Thuyền Cuông, Hồ Gươm, Hồ Tây
Ta đâu
còn là chàng sinh viên
của triết học, của thơ ca, và của tò mò
Cũng không còn là nhà thơ trẻ
viết rất nhiều dòng thơ
và lang
thang trong mê cung
của những con phố hẹp và của
những ảo tưởng
Chúa Cả Ngôi Cao, với những cái
đồng hồ và những cái bóng của nó,
Thò cánh tay xuống, chạm vào lông
mày của ta
Nhưng
ta vẫn được dẫn dắt bởi
một ngôi sao, bởi sự sáng ngời
Và chỉ sự sáng ngời
Là có thể làm lại, hay, cứu vớt
đời ta.
Chúa Cả
Ngôi Cao, là Gấu muốn
nói tới Nhà Thờ Hà Nội, khu Nhà Chung, trường Dũng Lạc... ở kế
bên Bờ Hồ.
Bài thơ, đọc song song với
bài thơ Những con phố sau của Hà Nội,
thì mới đã.
Những con phố
sau của Hà Nội
Nhà trại thui thủi, chẳng cần
Gấu
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu tôi không có thể về nhà được nữa.
Gấu thì yêu đến khốn khổ khốn
nạn cái
thành phố quá chớn này.
Nó thì mới dơ dáy, bệ rạc làm sao.
Và làm Gấu nhớ đến những câu chuyện cổ tích ru giấc ngủ ngày nào
Và những âm thanh của con phố làm tim Gấu đau nhói.
Quá nửa đêm, Gấu đi ra ngoài
kiếm một cái
gì đó cho đỡ khổ
Và cái mà Gấu kiếm đó, là danh vọng.
Thế là Gấu đi đến một quán rượu ở những con phố sau.
Nơi ai cũng biết tên Gấu.
Ồn, dơ, say, và, xỉn.
Nhưng chẳng ai độc ẩm ở đó.
Ở những con phố sau của Hà Nội.
Mấy tay bồi riệu mua cuốc lủi cho Gấu,
Mấy chị em ta khóc ròng khi nghe đọc thơ của Gấu
Tim Gấu đập, mỗi lúc một nhanh
thêm
Và Gấu nói với tên say gần bên cửa –
“Ta thì cũng như mi thôi, đời ta là một thảm họa
Và ta không thể trở về nhà được nữa.”
Nhà trại thui thủi, chẳng cần
Gấu, cũng
thui thủi
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu không có thể về nhà được nữa.
THE
BACK STREETS OF MOSCOW
Ui chao, hồi này già quá, cơ thể rệu rạo, hệ thống miễn nhiễm hết còn
OK,
thành thử con vai rớt Bắc Kít
hoành hành, đáng sợ thực! NQT
Trên art2all có mấy bài
lèm bèm
về thơ thật tuyệt của ông Chánh Tổng An Nam ở Ba Lê.
Cái nick của ông, Gấu mới đây
mới biết, là do Nguyễn Đăng Mạnh ban cho. Vậy mà cứ nghĩ, của Công Tử
Hà Đông.
Tế Hanh
Tô Thùy Yên
Zadie
Smith
Kadaré:
Le Diner de trop
Kỷ
niệm, kỷ niệm
Kỷ Niệm Tin Văn
Note:
Loạt bài "Kỷ niệm", viết loạn cào, không còn biết đầu đuôi ra sao,
nay gom về đây, tính in sách, làm văn chương tí chơi!
Chán Cái Ác Bắc
Kít rồi! NQT
Roland
Barthes
Ghi
chú về Brodsky
Chăm
sóc cô đơn
Tôi có
một người quen sau
nhiều năm ở hải ngoại, cùng vợ về Việt Nam, gặp một số bạn bè mới.
Ông ấy
kể là, suốt cả hơn một tháng ở Việt Nam, ông vẫn không tránh được cảm
giác kinh
ngạc và bất bình khi nhiều người đàn ông ông mới quen, có khi, chỉ mới
gặp lần
đầu, đều gọi vợ ông là “em” và xưng “anh” một cách ngon ơ. Ông cảm thấy
có cái
gì như bị xúc phạm. Ngày trước, ở miền Nam, là một công chức thuộc
loại
khá cao, ông sống trong một môi trường khá nhiều lễ nghi. Lâu lắm, ông
chưa
nghe ai, trừ ông và những người thân trong gia đình, gọi vợ ông là “em”
cả. Ông
cứ đinh ninh chữ “em” ấy là một cái gì ít nhiều có tính độc quyền. Vậy
mà…
Ngược lại, trong nhiều giới,
đặc biệt là giới văn nghệ, không ít người chỉ muốn người khác gọi là
“anh” hay
“chị” thôi. Tôi nhớ, lần đầu tiên gặp Mai Thảo, tôi gọi ông là “bác”;
ông xua
tay: “anh đi.” Ừ, thì… “anh”. Tôi vừa gọi “anh” vừa thấy hơi ngường
ngượng. Ông
sinh năm 1926, lớn hơn tôi đến 30 tuổi. Riết, cũng quen dần. Sau đó,
gặp Phạm
Duy, lớn hơn tôi 35 tuổi, tôi cũng lại cứ anh anh em em. Sau đó, gặp Võ
Phiến,
lớn hơn Mai Thảo một tuổi và trẻ hơn Phạm Duy bốn tuổi, quen miệng, tôi
cũng
gọi bằng “anh”; ông có vẻ hơi… sửng sốt. Thoáng nhìn, tôi biết ngay,
bèn đổi
lại “bác”. Thì mọi chuyện lại yên ổn. Thành ra, ở đây, ngay trong giới
văn
nghệ, cũng chẳng có luật lệ gì cho việc xưng hô cả. Tùy người.
Chuyện xưng hô trong tiếng
Việt, khó là thế.
NHQ Blog VOA.
Cách
xưng hô của người Việt,
quả là làm phiền người nước ngoài, nhưng đối với người Việt, chúng rất
ư là tuyệt
vời. Làm gì có chuyện gặp Võ Phiến, mà gọi bằng ‘anh’ cho được, chỉ trừ
khi giả
đò "quen miệng".
Bác Hồ cũng đã từng giả đò quen
miệng như rứa, khi vỗ vai “Bác” Trần [Hưng Đạo]!
Những anh, em, mình, tớ, cậu, ai ơi, ai gọi ai đó..."...
chúng quá tuyệt vời.
Tiếng Anh tiếng U, quá giản dị trong cách xưng hô, làm nghèo hẳn đi cái
nét đặc
biệt của cõi người ta (1), làm sao so bì với tiếng Việt được. Hình như
một
bà Hồng
Mao, Ỷ Lan thì phải, đã từng đi một đường vinh danh động từ porter, to carry,
trong tiếng Mít. Cách xưng hô trong tiếng Mít thì nó cũng tuyệt vời như
động từ
porter, tạm ví von vậy, mà thôi.
Brodsky đã từng chửi mấy thằng
con nít, “quen miệng" 'anh anh tôi tôi' với những bậc đàn anh, rằng,
phải có tôn ti
trật tự, đừng có hỗn!
Có thơ có vần có điệu rồi mới
có thơ tự do, rồi may mắn ra, có thơ tân hình thức, chứ làm gì có cảnh
“chó nhẩy
bàn độc”?
Lần Gấu
về lại Đất Bắc, một
phép thưa anh, chỉ trừ một NHT, là dám 'anh anh tôi tôi' với Gấu. Ở lâu
cứt trâu hoá bùn,
có thể, nhưng, làm gì có chuyện, vừa gặp một cái mà, “này, anh Võ
Phiến, ra tớ biểu!"
Và cũng thật khó có chuyện, gặp vợ người khác mà cứ 'nựng' "em" một
cách ngọt sớt,
như nhà đại phê bình kể tỉnh bơ!
Mà lại xẩy ra ở Việt Nam!
"Người" không kể tiếp, mấy thằng xàm
xỡ (2) đó, bị no đòn!
NQT
(1)
"cõi người ta", ở đây, phải hiểu theo ý của Heidegger, về 'căn nhà của
hữu thể', tức ngôn ngữ.
(2)
Chầy Sương chưa nện cầu Lam
Sợ lần khân quá ra xàm xỡ chăng?
Kiều [Từ điển Lê
Ngọc Trụ]
Có thể,
có, cái cảnh mà nhà
phê bình mô tả, về một đôi vợ chồng nhà nọ, nhưng, theo Gấu, những
người mà họ
gặp, đều là những 'đại gia', đỏ từ lỗ đít lên tới tận đỉnh đầu, thành
thử, cũng
chuyện thường ngày ở huyện!
V/v bức
hình chụp chung với Lê
Đạt và bức tranh “Giải thưỏng nhà nước”.
Thường thì bạn bè chụp hình,
chỉ như là một kỷ niệm.
Bức hình này không phải như vậy.
Khi chụp, là đã rắp tâm sử dụng,
như đang được sử dụng, như là một tang chứng?
Bái phục!
Liệu khi đó, có xin phép Lê Đạt?
NQT
Baudelaire
là thi sĩ chỉ có
một tập thơ. Nhưng chính Baudelaire đã cho lên giàn hoả nguyên vẹn toàn
bộ một
ấn bản thi phẩm Les Fleurs du Mal chỉ
vì tên mình bị viết thành Beaudelaire, nghĩa là thêm một chữ e oan
nghiệt.
Nhiều tài liệu văn học sử Pháp kể chuyện này; có tài liệu ghi nguyên
văn như
sau :”il fit mettre au pilon une édition de son oeuvre précisément
parce que
son nom était mal orthographié”.
Nếu Baudelaire “được” biên
tập thì đâu đến nỗi!
Trần Văn Tích, talawas
Cái vụ
này, hình như có rất
nhiều giai thoại. Một trong số, Gấu biết được, liên quan tới hàng ngụy
tạo, là
những cuốn sách quí, có lời đề tặng và chữ ký của Baudelaire.
Cái tay ngụy tạo này viết sai
tên của ông, thành Beaudelaire.
Và người mua phải cuốn đó,
bèn dí ngay tập thơ có lời đề tặng và chữ ký của Baudelaire, vào mặt
tên bán hàng,
như NHT đã từng làm, với một em nào đó!
V/v biên tập, có rất
nhiều giai thoại thú vị. Thường ra, một tác giả, nếu là thứ xịn, không
ưa đám
biên tập, và lại càng không ưa, mấy ông hiệu đính! Faulkner, thí dụ, bị
đám biên
tập của nhà xb làm ông bực đến nỗi nghỉ chơi luôn.
Kundera thì lại viết về những
bậc đại sư phụ, viết bảnh đến nỗi, đếch có độc giả, và đệ tử bèn xun
xoe, để tụi
em biên tập, nghĩa là, trang điểm, đánh bóng, làm cho hợp với thời đại…
là ẵm…
Nobel liền, và sư phụ bèn chửi, tao đầu cần Nobel!
Trường hợp Raymond Carver,
như mới đây khui ra, “nguyên tác” dở như hạch, và chính đám biên tập đã
ban cho
đời một ông Carver hiển hách hiện nay.
Biên tập của VC không dữ dằn, so với biên tập của những nhà xb nổi
tiếng trên thế giới, nhất là ở Mẽo.
Thế đấy.
Gấu
không nhớ tên vị đại sư
phụ, mà Kundera nhắc tới, trong Những
di chúc bị phản bội, đếch muốn đệ tử đánh
bóng mình, theo nghĩa, làm cho Thầy bớt u tối, để cho thiên hạ may mắn,
hạnh phúc,
là đọc được Thầy.
Trường hợp Carver, chắc là ông
biết ơn những nhà biên tập? (1)
(1) Đọc Man of
Constant Sorrow. Bản dịch trên Da Mầu
Nhưng
còn Borges?
Borges
than, “chính nước
Pháp đã phát minh ra tôi. Tôi đâu có hiện hữu. Caillois đã làm cho
người ta
nhìn thấy tôi. Than ôi, người ta nhìn thấy tôi: rõ quá!”
Quả
thế thực. Steiner, trong một bài viết tuyệt vời về Borges, Tigers in the
Mirror, Hổ ở trong Gương, cho rằng, danh vọng làm mất đi một cái
phần rất ư
là riêng tư của Borges.
Cái
tay nhà thơ Pessoa, cũng phán như thế, nổi tiếng là bỏ mẹ!
"Đôi
khi tôi
nghĩ về những con người nổi tiếng, và cảm thấy tất cả nỗi phiền hà vì
nó. Nổi
tiếng là chuyện tầm phào. Nó gây tổn thương tới cảm tính của bất cứ một
ai….
Một người trở thành nổi tiếng là mất tiêu luôn cuộc đời riêng tư của
mình… Những
bức tường bảo vệ sự riêng tư biến thành những tấm gương… Một khi trở
thành nổi
tiếng, là mất tiêu luôn cơ may trở lại với cõi u tối. Nổi tiếng là hết
thuốc
chữa. Như thời gian, làm sao có chuyện đảo ngược?"
Dấu chân của cái bóng
Trang Tin Văn, và Gấu,
cũng đang lâm vào tình trạng khốn khổ khốn nạn như vậy. Mười năm nay,
cứ làng
nhàng mỗi ngày có một dúm độc giả, chừng 50-100 vô coi, đột nhiên bây
giờ đang
có tham vọng biến thành một cái chợ cá thứ nhì, ngang ngửa với Chợ Cá
Bắc Kít! Chán
thế đấy!
Đúng là chuyện nọ xọ chuyện
kia, đang nói chuyện biên tập lại đi lạc qua chuyện nổi tiếng!
Còn cái
"body" của Em, anh có tính
"biên tập" không?
Tuyệt!