|
Sài
Gòn nghĩa là gì?
Ấn bản đặc
biệt, dành cho thân
hữu
và những người yêu sách đẹp
Ấn
bản thường
5 năm TTT ra đi
Nhà thơ
Hữu Loan đã ra đi
Nhà Thơ Hữu Loan: Giải thưởng
văn chương Khởi Hành 2007
Nhân
Ngày Sinh Lần
Thứ 80 của Văn Cao
Tại sao tôi viết
Tiến
Quân Ca?
Trang TMT
Xe thổ
mộ thì tuyệt vời, không
phải ở đâu cũng có. Sài Gòn không có xe thổ mộ đã lâu lắm rồi. Tôi nhớ
chỉ một
hai năm đầu vào Nam
thấy xe thổ mộ đưa các bà đi chợ. Sau này mỗi lần từ Sài Gòn xuống Bình
Dương, tôi
được đi xe thổ mộ từ bến xe đò Bình Dương về nhà dì tôi ở đường Châu
văn Tiếp,
quá miếu tử trận một chút. Tiếng vó ngựa gõ lóc cóc trên đường nghe hay
lắm,
lúc đó chẳng biết diễn tả thế nào, âm thanh khô và dứt khoát, xe đi dọc
bờ sông
Bình Dương (do sông Bé chẩy qua tỉnh), đường xá rộng, xe ít, người
thưa, gió từ
sông thổi lên, chiếc xe lắc nhẹ như đưa võng, thỉnh thoảng nghe tiếng
roi của
người xà ích quất nhẹ vào mông ngựa. Cái cảm giác cô gái tỉnh thành
được về quê
chơi, cái gì cũng thấy hay, cũng lạ tai, lạ mắt, cũng đẹp. Xe đưa về
đến sát
hàng rào nhà dì tôi, nhìn thấy cái giếng nước trong sân mới phải nhẩy
xuống.
Thời niên thiếu quê nhà, chao ơi, làm sao tả!
Tờ TLS
số 19 Tháng Ba, 2010,
trong bài đọc những lá thư của Sylva Beach, The Letters of Sylvia Beach,
Columbia University Press, một nữ thi sĩ,
và là chủ nhân một tiệm sách, còn là nhà xb, tuy bé con, nhưng hết sức
nổi tiếng Shakespeare and Company, đã từng xb
cuốn sách mang đến đủ thứ chuyện bực mình, và danh vọng cho chủ nhân,
tác phẩm Ulysses của James
Joyce.
Khi Nazi chiếm đóng Paris, bà nhất quyết
bám trụ, bà gốc Mẽo, và một bữa có một viên sĩ quan cao cấp Đức ghé
tiệm, nói
tiếng Anh như gió, speaking perfect English, hỏi mua cuốn Finnegans Wake, của
Joyce, bản độc nhất bầy trên cửa kính. Beach nói, sách bầy nhưng không
bán, và sau đó, lấy nó ra khỏi quầy.
Chừng hai tuần sau, viên sĩ
quan trở lại.
-Cuốn sách đâu?
-Tôi bỏ nó đi rồi.
Điên lên vì giận, viên sĩ quan nói,
ta sẽ cho người tịch thu hết của cải, sách báo của mi, nội trong ngày
hôm nay.
Vài giờ sau, bà cho đóng thùng
sách báo, bỏ biển tên tiệm, tên chủ tiệm. Người Đức không lấy được
cuốn sách, nhưng
bỏ tù được chủ tiệm. Beach trải qua 6 tháng trong trại tù ở Vittel,
chung với đám
Do Thái đang chờ tống đi Lò Thiêu.
Bà kể chuyện Hemingway giải phóng Paris, con phố
Odéon nơi có
tiệm sách của bà, và vị anh hùng Chuông
nguyện hồn ai nhảy ra khỏi chiếc xe Jeep
cùng những đệ tử, leo lên mái nhà, truy diệt mấy tên bắn sẻ Đức
Sylvia Beach được coi là bà mụ
của chủ nghĩa Hiện đại.
Gấu có nhớ Xứ Đoài không?
Thư
tín,
Đừng lèm bèm chuyện về Hà Nội không còn nhà.
Tôi đâu có nhớ Hà Nội, mà Sài Gòn.
Tôi thì Sài Gòn không, mà Huế cũng không.
Không hiểu sao chẳng thấy nhớ gì về Việt Nam
hết.
Brodsky cũng nói thế:
Cám ơn Trời cho tôi sống không quê nhà.
Thank God I was left on this earth without a homeland.
Kỷ
Niệm
160 thuyền nhân
sau cùng được Canada
nhận
Tuy
cùng là Mỹ, nhưng hãng
thông tấn AP giầu hơn UPI. Lương hậu hĩ hơn. Một số thông tín viên,
nhiếp ảnh
viên thường coi UPI là nơi học nghề. Khi đã có chút tên tuổi, chờ AP
bật đèn
xanh, là nhẩy. Tôi vẫn còn nhớ nhiếp ảnh viên Henri Huêt, người Pháp
lai, làm
cho UPI, sau về AP. Mỗi lần lên Đài, nơi tôi làm việc, anh hay nói
chuyện với
tôi, và chị Linh, nữ điện thoại viên phụ trách mạch Paris. Bằng tiếng
Pháp. Một
bữa, anh vừa quay đi, chị Linh ghé tai tôi nói nhỏ: Thằng chả ăn mắm
hút ròi,
chưa lột lưỡi đã biết tiếng Việt, vậy mà bầy đặt! Thực tình, cho tới
lúc đó,
tôi vẫn nghĩ anh không biết tiếng Việt.
Kent
Potter, được UPI cho làm
trưởng phòng hình ảnh, deskman, chỉ việc ngồi lựa hình, đánh caption
(4) gửi
đi, vậy mà gặp mặt là nghe anh than chán quá, chán quá. Chiến tranh gì
mà buồn
tẻ thế này! Đúng lúc đó, xẩy trận Hạ Lào. Anh nhẩy vội ra Trung. Chuyến
đó,
chiếc trực thăng chở phóng viên báo chí bị rớt, (trúng đạn?), chết đâu
mười mấy
mạng, trong có anh. Tôi cứ nghe như Thần Chết lắc đầu quầy quậy, giọng
bực
mình, tao đã bảo ở nhà, vậy mà không chịu, cứ nằng nặc...
Mùa
Xuân & Hạnh Phúc
Đặng Tiến
Người Pháp đọc sách
As for
me, I prefer to
smell French shit for five years, rather than Chinese shit for the rest
of my
life.
Ta thà ngửi
cứt Tây năm năm còn hơn ngửi cứt Tầu
cả đời
Di chúc
Bác Hồ
Trở lại nơi một thời vang bóng
THE
BACK STREETS OF MOSCOW
Ui
chao, hồi này già quá, cơ thể rệu rạo,
hệ thống miễn nhiễm hết còn
OK,
thành thử con vai rớt Bắc Kít
hoành hành, đáng sợ thực! (1)
NQT
Những con phố
sau của Hà Nội
Nhà trại thui thủi, chẳng cần
Gấu
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu tôi không có thể về nhà được nữa.
Gấu thì yêu đến khốn khổ khốn
nạn cái
thành phố quá chớn này.
Nó thì mới dơ dáy, bệ rạc làm sao.
Và làm Gấu nhớ đến những câu chuyện cổ tích ru giấc ngủ ngày nào
Và những âm thanh của con phố làm tim Gấu đau nhói.
Quá nửa đêm, Gấu đi ra ngoài
kiếm một cái
gì đó cho đỡ khổ
Và cái mà Gấu kiếm đó, là danh vọng.
Thế là Gấu đi đến một quán rượu ở những con phố sau.
Nơi ai cũng biết tên Gấu.
Ồn, dơ, say, và, xỉn.
Nhưng chẳng ai độc ẩm ở đó.
Ở những con phố sau của Hà Nội.
Mấy tay bồi riệu mua cuốc lủi cho Gấu,
Mấy chị em ta khóc ròng khi nghe đọc thơ của Gấu
Tim Gấu đập, mỗi lúc một nhanh
thêm
Và Gấu nói với tên say gần bên cửa –
“Ta thì cũng như mi thôi, đời ta là một thảm họa
Và ta không thể trở về nhà được nữa.”
Nhà trại thui
thủi, chẳng cần
Gấu, cũng
thui thủi
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu không có thể về nhà được nữa.
*
Tuổi Thiên Đường
Nhà văn
Nam Phi J. M.
Coetzee, trong bài điểm cuốn tiểu sử nhà văn Ba Lan, Bruno Schulz
(Regions of
Great Heresy: Bruno Schulz, A Biographical Portrait, nguyên tác tiếng
Balan của
Jerzy Ficowski; Theodosia Robertson dịch qua tiếng Anh, nhà xb Norton,
255
trang, $25.95), đã kể ra, một trong những đam mê từ những ngày còn con
nít của
Bruno Schulz, là ngồi lê la trên sàn nhà, mải mê vẽ, hết bức họa này
tới bức
họa khác, trên những tờ báo cũ. Sau này, trong những chuyến di chuyển
vào thế
giới sáng tạo, chỉ là một đứa trẻ vẫn sống cái "tuổi thiên tài" (the
age of genius), vẫn cố – một cách vô thức - tìm cách tiếp cận cõi huyền
đó (the
realm of myth). Và hình như, đây là người đàn ông mà đứa trẻ ngày xưa
đã trở
thành. Và tất cả những gì mà người đàn ông này hăm hở đòi cho được, chỉ
là tái
sở hữu những quyền năng đầu đời của mình, hay nói một cách khác, là để
"trưởng thành ở trong tuổi thơ" ("mature into childhood").
Lần trở về Hà Nội, thằng bé
ngày xưa và là tui ngày nay, một ông già, cũng cố đòi cho được, không
phải tuổi
thiên tài như me-xừ Schulz, nhưng mà là... tuổi thiên đường, sau bao
phen dọ dẫm
về nó.
Trong một lần dọ dẫm, tôi đã
kể qua, về lòng biết ơn của một đứa bé nhà quê may mắn được ra Hà Nội
học, nhờ
có một bà cô làm me Tây, ông Tây này là kỹ sư sở hoả xa Đông Dương.
Tôi viết, làm me Tây, vì thực
sự như vậy. Hai người sống với nhau đã lâu. Khi Nhật chiếm Đông Dương,
họ phải
chạy qua bên Trung Quốc. Tôi nhớ có lần nghe bà cô tôi nói, cái ông Tây
trẻ ở
cùng chung villa ngay bên hồ Hallais rất thương bà, nhưng tình nghĩa
những ngày
hoạn nạn khiến bà không thể bỏ ông Tây già, lớn hơn bà tệ lắm cũng hơn
chục
tuổi. Chỉ tới khi hiệp định Genève ký kết, họ mới làm giá thú, để hoàn
tất thủ
tục nhập nước Pháp.
Cái villa mà hai ông Tây ở
đó, nằm trên đường Nguyễn Du, Hà Nội. Ông cậu tôi lắc đầu khi nghe tôi
hỏi thăm
về con phố ngày xưa, nói, bây giờ nó có một cái tên khác, và rồi ông
ghé sát
tận tai tôi nói nhỏ, đường Hàng Lờ.
Ngày xưa, đứng trên đường
Hàng Lờ nhìn vào, bên cạnh villa về phía bên phải, là một viện bảo
sanh, bên
trái, một tòa nhà chỉ có bốn bức tường cao, nghe nói bị ma ám, cứ ngày
xây, đêm
đổ, và là nơi cư ngụ của một hai gia đình nghèo. Cả hai bên, tôi đều
gây
chuyện, và đều làm cho bà cô của tôi bực mình. Với những gia đình
nghèo, là một
chuyện giữa tôi và đám con nít nhỏ tuổi hơn. Chúng gây sự trước, và khi
xẩy
chuyện, tôi bị buộc tội bắt nạt con nít.
Còn bên trái, là vào những
ngày Hà Nội nhốn nháo, kẻ ở, người đi vào nam, cả một khu phố quanh hồ
Hallais,
ban ngày biến thành Chợ Trời, và ban đêm, Chợ Trộm. Đêm nào cũng nghe
tiếng
người la, Cướp, Cướp. Đêm, thay vì ngủ trong nhà, tôi kiếm một góc
khuất khuất
ở sân trước, để săn trộm. Luôn thủ sẵn một cây gậy.
Đi đêm mãi có ngày gặp ma.
Một bữa trộm vào nhà thiệt. Chúng lựa đúng chỗ tường thấp, nơi tôi
thường leo
vô, mỗi lần trốn nhà đi xem xi nê về muộn. Nhưng hóa ra là chúng chỉ
mượn
đường, để viếng nhà bảo sanh kế bên. Nửa đêm, nghe tiếng mấy bà đẻ la,
tôi giật
mình chồm dậy, thấy mấy tên trộm đang leo tường ra ngoài đường. Đuổi
theo,
chúng làm rớt một chiếc bàn ủi, như để chia phần cho tôi.
Đúng là để gieo họa, bởi vì
sáng hôm sau, mấy bà đẻ xúm nhau đứng trên ban công nhìn sang thằng bé
bằng
những cặp mắt nghi kỵ. Thế là bà cô tôi tế cho một trận. Bà chửi cháu
thì ít,
nhưng hàng xóm thì nhiều. Sau thằng con ông chủ viện bảo sanh, hình như
cũng
học trường Nguyễn Trãi với tôi, nói cho ông bố biết, và ông sang tận
nhà xin
lỗi.
Bài học đầu tiên trong đời,
do bà cô dậy, chớ ôm lấy chuyện thiên hạ mà có khi mang họa, tôi đã
không học
được, bởi vì, mãi sau này, khi vào Sài Gòn, tôi lập lại y chang sự ngu
ngốc kể
trên. Chuyện này, tôi đã kể trong truyện ngắn Lần Cuối, Sài Gòn. Nay
xin trích
đăng ở đây, để độc giả cười thêm một trận.
*
"Ôi, ôm Em trong tay mà
đã nhớ Em ngày sắp tới" (Thơ Thanh Tâm Tuyền).
Hãy cho tôi thăm lại con
phố Bonnard, nơi có bót Hàng Ken (1), chú bé di cư ngày nào ngơ
ngác rụt rè
làm quen, tự mình khám phá Sài Gòn. Gần gốc cây kia, chỉ còn trong cậu
bé ngày
xưa, một người đàn ông đánh đập dã man một người đàn bà. Không quên bài
học
Công Dân, chú bé chạy vào bót Hàng Ken, méc mấy ông cảnh sát. Chú bị ăn
bạt
tai, cùng những lời sỉ vả, người ta đánh "dzợ" người ta, mắc mớ gì
tới mày, hả thằng con nít? Đồ Bắc Kỳ di cư vô đây làm tàng! Ôi bài học
đầu tiên
khi tìm cách làm quen thành phố, được thời gian gọt rũa trở thành một
nốt ruồi
son đáng yêu biết là chừng nào, trên khuôn mặt "cô bé". (2)
Trên khuôn
mặt Sài Gòn.
NQT
Chú
thích:
(1) Bót Lê Văn Ken, như bạn
Thảo Trường còn nhớ, và cho biết. Tks. NQT
(2) BHD. Em không có nốt
ruồi
son mà là cái răng khểnh!
*
TV post lại ở đây, bài viết
đăng trên The New Yorker, June, 8 &15, 2009, Tuổi
Thiên Tài, The
Age Of Genius, của DAVID
GROSSMAN
Đọc đoạn mở đầu bài viết, Gấu bồi hồi nhớ
lại cái truyện ngắn đầu tay của mình.
THE AGE OF GENIUS
Tuổi Thiên Tài
The legend of Bruno Schulz.
Giai thoại về Bruno Schulz
BY DAVID GROSSMAN
Vào một buổi chiều Mùa Xuân,
Easter Sunday, 1933. Đằng sau quầy tiếp khách một khách sạn nhỏ ở Warsaw là
Magdalena
Gross, một điêu khắc gia, và cái khách sạn
khiêm tốn của bà là nơi đám văn nghệ sĩ và trí thức thường tụ tập. Ở
hành lang
lúc đó có một bé gái người Do Thái, chừng 12 tuổi, quê ở Lodz, cha mẹ
gửi học.
Một người đàn ông nhỏ, ốm, xanh xao, bước vô khách sạn. Anh ta có vẻ sợ
hãi,
theo cô bé Do Thái.
Gross hỏi, anh là ai.
-Schulz, anh ta trả lời, và nói
tiếp:
-Tôi là một thầy giáo, tôi viết
một cuốn sách, tôi…
Bà ngắt lời:
-Anh từ đâu tới?
-Từ Drohobycz
-Anh là một thợ múa ư?
-Cái gì? Ô, không phải.
-Nhưng mà anh tính làm gì ở đây?
Và người đàn ông nói, giọng
thầm thì:
-Tôi là một giáo sư trung học.
Tôi có viết một cuốn sách. Vài truyện ngắn. Tôi phải đi Warsaw nội trong
đêm và trao nó cho Madame
Nalkowska.
Gross nhìn xuống, ngắm nghía
anh chàng đàn ông. Zofia Nalkowska là một
tác giả Ba Lan nổi tiếng , và là một nhà viết kịch. Bà còn rất quen
thân với nhà
xb nổi tiếng Roj.
Bà mỉm cười hỏi:
-Nhưng mà làm thế nào mà anh gặp
được, và trao cuốn sách cho bà đó?
Người đàn ông lắp bắp, mắt
quay đi, giọng nài nỉ:
-Người ta nói với tôi là
Madame Gross quen biết Madame Nalkowska… Nếu bà ấy tỏ ra rộng rãi, tốt
bụng…
Theo cô bé Do Thái, có thể vì
người đàn ông có vẻ quá sợ hãi, và có thể, vì cái vẻ cứng đầu, bướng
bỉnh thật
là ảo não, tuyệt vọng của anh ta khiến bà Gross bỏ giọng trêu chọc và
đi đến chỗ để điện thoại.
Bà nói chuyện với Zofia
Nalkowska về người đàn ông.
-Nếu tôi phải đọc bản thảo của
bất cứ thằng cha căng chú kiết nào thì làm sao tôi có thì giờ viết
cái của tôi?
Bà Gross thầm thì, năn nỉ:
-Hãy làm ơn một lần mà. Bà chỉ
cần nhìn vài hàng trang đầu tiên, nếu thấy không được thì nói thẳng cho
anh ta
biết, để anh ta hết còn nghi ngờ về tài năng của mình, và đi làm nghề
buôn,
thay vì làm nhà văn! (1)
Bà Zofia Nalkowska miễn cưỡng
nhận lời
Bà Gross quay lại nói với anh
chàng đàn ông:
-Lấy một cái tắc xi. Nửa giờ nữa, bà ta sẽ tiếp anh, trong 10 phút.
Schulz chạy ào ra ngoài. Một
giờ sau, anh quay lại. Không còn tập bản thảo.
Bà ta nói sao? Bà Gross cũng
nóng ruột.
-Bà ấy ra lệnh tôi đọc mấy dòng
đầu bản thảo. Đọc thật lớn. Bà lắng nghe. Bất thình lình, bà ra
lệnh ngưng.
Rồi bà biểu tôi, hãy để lại bản thảo, trở lại khách sạn, bà sẽ liên lạc
liền…
(1) Ui chao
bạn có nhớ cái đoạn TTT kể chuyện
lần đầu tiên đọc MT, và sau đó, mời MT tới tòa soạn chơi, và MT tâm sự,
anh mà
chê nó, là tôi bỏ cái mộng “đành làm” nhà văn, “đành” đi buôn!
Ui chao, đọc một cái là Gấu nhớ đến cái lần gửi bản thảo truyện
ngắn đầu tay xuống
tòa soạn Sáng Tạo, và một buổi tối, tới nhà, nghe Cụ C. nói, mày viết
truyện
ngắn hả, tao nghe thằng T nói, mà nó còn nói, mày viết được lắm....
*
Gấu có tới ba cái truyện
ngắn
đầu tay. Tếu thế. Mỗi truyện là một thời kỳ, thời đại, theo kiểu của
Picasso,
thời xanh, thời hồng, thời lập thể… Thế mới ghê!
Truyện ngắn thực sự đầu tay,
tính theo dòng thời gian, Gấu bây giờ cũng chẳng thể nhớ tên, đăng trên
tuần báo
Mã Thượng, của tay Trịnh Vân Thanh, trang
VHNT do Huỳnh Phan Anh đứng đầu tầu, khoảng
1961. HPA khoái truyện này lắm. Đúng giọng tiểu thuyết mới, đúng giọng
Tel
Quel, theo nghĩa, chẳng có cái chó gì hết ở trong đó.
Quả thế thật. Đây là câu chuyện
mà Gấu còn nhớ đại khái, một bữa chủ nhật, Gấu mò đến nhà em chơi, em
mời ngồi
bàn, ở hành lang căn nhà, một tòa biệt thự nơi đường Trần Quang Khải.
Thế rồi
em ngồi cũng gần đó, nhặt rau, Gấu ngồi nhìn em nhặt rau mà cứ nghĩ
mình là những
cọng rau. Rồi ngồi lâu quá, em cũng nhặt rau xong, thế là về. Bữa đó
trời mưa.
Ra đường, đứng ngay cổng nhà, nhìn mưa, nhìn phố xá, nhìn người qua
lại, Gấu lẩn
thẩn tự hỏi:
Tại sao trời mưa?
|
|