|
Chúc Mừng
Giáng Sinh 2009
Cu Lùn
Richie đi shopping
Giáng Sinh
Khu Chợ Tầu
1997:
Tuyên thệ & Lãnh CMND của Canada!
Sau
này, khi thi đậu quốc tịch, và được phát thẻ công dân Canada,
Gấu gọi
điện thoại về Sài Gòn báo tin cho Bà Trẻ, bà mừng quá, nói:
Bây giờ, cháu
lại
là người rồi!
Nhân
đây cũng xin được nói lời cảm tạ đất nước đã cưu mang Gấu tui trên mười
năm trời,
kể từ ngày lên máy bay, rời trại chuyển tiếp Panat Nikhom ở Thái Lan,
với tờ giấy
mầu vàng "landed immigrant" [di dân thường trú], vượt hai đại dương,
tới thành phố Toronto, vào đúng một ngày bão tuyết, trận bão tuyết
khủng khiếp
nhất kể từ 40 năm, theo như báo chí địa phương lúc đó, 44 độ âm. Đó là
ngày 23
tháng 11 năm 1994.
Trên mười năm trời, mới thỏ thẻ một lời cám ơn, liệu như vậy
là quá trễ chăng?
Trong một câu chuyện mà Gấu tôi đọc từ hồi còn nhỏ, [hình như
trong tập "Những Tâm Hồn Cao Thượng" do Hà Mai Anh dịch từ một tác
giá Ý, De Amicis (?)], có một cô bé bị câm, được một bác sĩ chữa trị.
Một đêm nọ,
cô bé trong lúc cố tập nói, bất thình lình âm thanh phát ra. Thế là cô
bé cứ âm
thầm ngậm những âm thanh đầu tiên đó, đợi tới sáng, khi vị bác sĩ tới
giường
cô, bấy giờ cô mới thốt lên mấy âm thanh mà cô tập nói suốt trong đêm:
Con cám
ơn bác sĩ.
Trường hợp của Gấu tôi cũng tương tự như vậy, nhưng không
phải những
âm thanh đầu tiên, mà có thể, cuối cùng, của một người già cảm thấy sắp
sửa đi
hết cuộc đời của mình. NQT
Giáng
Sinh, ngồi nhà đọc chơi vài bài thơ!
Cứ theo
lịch sử mà nói, thì
luôn luôn, cá nhân bị buộc tội phản bội xứ sở của nó.
Tại sao chúng ta không nói ngược
lại, theo kiểu đổi bên, nghĩa là, bây giờ đến lượt Gấu buộc tội xứ sở
Mít phản
bội Gấu!
Hà, hà!
Ý trên, là của Ha Jin, trong
bài Ngôn ngữ Phản bội, The Language
of Betrayal, trong Nhà văn như là Di dân,
The writer as Migrant.
Ông giải thích thêm:
Rất nhiều xứ sở là những tên
phản bội đối với những công dân của chúng.
Cái tội ác tệ hại nhất, khốn kiếp nhất mà xứ
sở phạm, đối với một nhà văn, là, khiến nhà văn đếch làm sao viết với
sự chân
thật, và với sự toàn vẹn của người nghệ sĩ.
The worst crime the country
commits against the writer is to make him unable to write with honesty
and
artistic integrity.
Karl Schlagel
REVOLUTION ON MY MIND: WRITING A DIARY UNDER STALIN
by Jochen Hellbeck.
Harvard, 436 pp., £19.95, May
2006,9780674021747
Note:
Hôm qua vào tiệm sách ngày
boxing day thấy quyển Les
Chuchoteurs của Orlando Figes - định
mua tặng bác làm quà Noel nhưng thấy số trang : 800 thì dội lui, bác
còn thì
giờ đâu mà đọc, sách lại in chữ nhỏ.
Thiệt là buồn khi đọc băng in
rời ngoài quyển sách lời của Emmanuel Carrère : Quyển sách này thật
hay, Figes
đặt tên lại cho người chết, cho người bị xóa tên. Đối với chúng ta đó
là những
câu chuyện, nhưng với họ, đó là cả cuộc đời.
Avec ce livre magnifique,
Figes redonne un nom aux morts, aux effacés de la mémoire. Pour nous ce
sont
des histoires, eux c’était leur vie.
*
Tính thẩy tờ London Review of Books,
16 Tháng Tám, 2007 [đúng sinh
nhật Gấu, tếu thế!], vô lò sưởi, vội nín lại, vì thấy bài Đời lại tái sinh, điểm
cuốn "Cách mạng ở trong đầu: Viết nhật ký dưới thời Stalin".
Cũng một
dòng với Những Kẻ Nói Thầm,
của Orlando Figes.
Gấu đâu còn thì giờ mà đọc!
Thôi thì đọc bài này, thay cho cuốn sách 800 trang chữ nhỏ.
Tks, and Happy New Year to both of U, O and K.
NQT
*
Sống với VC, cấm nghĩ, theo Sến Cô Nương.
Cái chuyện viết nhật ký, lại càng cấm!
Một số
báo, những ngày đầu.
Bài viết về Primo Levi cho mục Tạp Ghi, báo Văn Học của NMG:
Đây là một người,
hay là Bi kịch của một người lạc quan
chôm từ
số báo này.
Cũng đã tính thẩy vô lò sưởi, lại tiếc!
Cái tít mới tuyệt làm sao: Divine Breath and Dust:
Hơi thở thì thánh thiện như
của BHD
Bụi trần thì như thằng cha Gấu!
Ui chao, tẩu hoả nhập ma đến
nơi rồi!
Cái tít bên trong tờ báo, cũng
thật tuyệt:
The centaur’s ghastly tale (1)
(1) The centaur’s
ghastly tale: Câu chuyện khủng
khiếp của con
quái vật.
Centaur: Quái vật, ở đây
được dùng để làm bật ra từ Century, thế kỷ, theo Gấu!
Primo Levi như là một ký sự
gia về Địa Ngục, và tiểu luận gia về thiên
nhiên.
These volumes are
revisionist
in the best sense of the term. We might say schematically that they
offer an
image of Levi as not only a "Dante of our time" (as a recent American
study put it), but also a Montaigne of our time; not only the
chronicler of modern
Hell, but also the probing and mature essayist of the self, human
nature and
nature itself. Even in the preface to his most "infernal" book, If
This Is a Man, Levi's ambition is measured: "[this book] sets out to
provide some material for a calm study of certain aspects of the human
mind." Primo Levi deserves his place in the century's canon not only
for
his accidental and awful encounter with history's whirlwind, as he
called it,
but also for that calm and not so calm study of the human mind, within
and
beyond testimony.
Tuyệt!
*
Một
trong những chương của cuốn sách viết về "Sự hung dữ vô dụng". Những
chi tiết về những trò độc ác của đám cai tù, khi hành hạ tù nhân một
cách vô cớ,
không một mục đích, ngoài thú vui nhìn chính họ đang hành hạ kẻ khác.
Sự hung dữ
tưởng như vô dụng đó, cuối cùng cho thấy, không phải hoàn toàn vô dụng.
Nó đưa
đến kết luận: Người Do thái không phải là người.
(Kinh nghiệm cay đắng này, nhiều
người Việt chúng ta đã từng cảm nhận, và thường là cảm nhận ngược lại:
Những người
CS không giống mình. Ngày đầu tiên đi trình diện cải tạo, nhiều người
sững sờ
khi được hỏi, các người sẽ đối xử như thế nào với "chúng tôi", nếu
các người chiếm được Miền Bắc. Câu hỏi này gần như không được đặt ra
với những
người Miền Nam, và nếu được đặt ra, nó cũng không giống như những người
CSBV tưởng
tượng. Cá nhân người viết có một anh bạn người Nam ở
trong quân đội. Anh chỉ mơ, nếu
có ngày đó, thì tha hồ mà nhìn ngắm thiên nhiên, con người Hà-nội, Miền
Bắc. Lẽ
dĩ nhiên, đây vẫn chỉ là những mơ ước, nhận xét hoàn toàn có tính cách
cá nhân).
*
Primo Levi
deserves his place in the century's canon not only for his accidental
and awful
encounter with history's whirlwind, as he called it, but also for that
calm and
not so calm study of the human mind, within and beyond testimony.
Primo Levi xứng đáng
với chỗ ngồi của ông, theo ‘tiêu chuẩn chọn lựa’, của thế kỷ, không
phải chỉ vì
cuộc gặp gỡ tình cờ, và đáng sợ với ‘cơn gió lớn’ [chữ của ông] của
lịch sử, nhưng
còn là vì cái nhìn trầm ngâm, và cũng không trầm ngâm cho lắm, về cái
đầu của
con người, ở trong vòng, và vượt quá khỏi, chứng liệu.
Levi-Strauss
Book of the
Year
Sách trong năm
The Secret Lives of Somerset Maugham
Arthur
Koestler, Man of
Darkness
Arthur
Koestler, Người
của Bóng tối
Không
nhà văn nào của thế kỷ 20 có được những tao ngộ ly kỳ như Arthur
Koestler: chơi toàn quái chiêu, gặp toàn những đấng hách xì xằng, có
mặt - ở đúng nơi, đúng chỗ, đúng
lúc - thảm họa xẩy ra!
27
tuổi Đảng, ông trải qua trận đói mùa đông 1932-33, ở Kharkov, giữa hàng
triệu người
dân Ukrainians ngắc ngoải và chết đói. Chạy kịp về phía nam nước Pháp,
khi những binh đoàn
Nazi xâm lăng nước Tây, ngay sau gót chân, vào năm 1940; chộp được
Walter
Benjamin, cưa đôi với ông mẻ “ken”, và chỉ vài tuần sau, triết gia
người Đức
này chơi quá “liều” [liều lượng], tự mình cho phép mình đi luôn. Tay
guru ghiền, dân Harvard, Timothy Leary đã từng chia cho Koestler những
mẻ thuốc
psilocybin, vào giữa thập niên 1960, “Phu nhân sắt” Margaret Thatcher,
đã nghe
theo những lời cố vấn của ông, trong cuộc tranh cử của bà vào năm
1979.
Simone de Beauvoir đã có lần được 'hầu hạ' Koestler, nhưng sau đó
lại tỏ
ra thù ghét ông và hư cấu thành một nhân vật cực kỳ thông minh, có tài
làm đàn bà vãi linh hồn, đầm đìa hai chân!
V/v
tài chăn gối, "trường túc bất chi lao", của nữ hoàng hiện sinh de
Beauvoir, thì khỏi
chê. Như đoạn sau đây, trên tờ TLS, trong bài điểm cuốn hồi ký của
Lanzmann chứng
tỏ:
The young Claude was, for several happy years, Le
Castor’s live-in lover, if not her only one: before they first went
to bed,
she warned him that six other people were already in the frame.
Claude Lanzmann's
liberated memories
Albert
Camus, 50 năm sau khi
mất
“Who
taught you this, doctor?”
The answer came promptly:
“Sufferings”
Ai dậy ông điều này, Bác sĩ?
Đau khổ…
“Do you really imagine you
know everything about life?”
The answer came through the
darkness, in the same cool, confident tone:
“Yes”
Ông thực sự tưởng tượng ông biết mọi chuyện về cuộc đời?
Câu
trả lời vượt qua bóng tối, cũng bằng một giọng tươi mát, tin cậy:
Đúng như thế
The Plague, Dịch hạch, bản
tiếng Anh, người dịch:
Gilbert Stuart (New
York:
Alfred A. Knopf, Inc. 1948, pp 118, 119)
*
Le Magazine Littéraire:
Albert Camus là một khuôn mặt
trí thức nổi cộm trong đời sống tinh thần của nước Tẩy… Ngoài ra còn là
một nhân
vật, một huyền tượng…
Olivier Todd: Tôi mất năm năm
với thằng chả, để viết cuốn tiểu sử về hắn ta. Trong đời thường, cũng
cay
đắng ngọt bùi lắm [sucrées-salées: đường ngọt, muối mặn]. Một bữa, vào
những năm
1950, tôi đang ngồi Cà phê Marie, chỗ quảng trường Saint-Sulpice, với
bà vợ tuyệt
trẻ của tôi [avec ma très jeune femme]. Camus tới, ngồi ở quầy, và nhìn
bả như
muốn lột trần truồng bả ra, [qui n’arrête pas de la déshabiller des
yeux.] Tôi tức
điên lên…
Alain Finkielkraut: Tức điên,
hay sướng điên lên? [Furieux ou flatté?]
ALAIN
FINKIELKRAUT*
« Camus plutôt que Sartre»
• Sartre est à la fois un
philosophe de la liberté et un philosophe de la libération. L'homme est
condamné à être libre, montre-t-il dans “l'Etre et le Néant”. Libre,
c'est-à-dire
irréductible à ses appartenances, son identité, sa psychologie même.
Car
l'homme selon Sartre n'est pas substance mais conscience :
non-coïncidence à
soi, arrachement ou échappement originel à toute définition. Le garçon
de café
joue à être garçon de café. J'admire toujours la maestria avec laquelle
Sartre
déébusque, sous le nom de « “mauvaise fois”, ”l'oubli du non-être” et
les ruses
des individus pour croire ou faire croire qu'ils sont ce qu'ils sont.
Je ne
suis plus sûr cependant que cette grande pantomime emmbrasse la
totalité du
phénomène humain.
Mais Sartre dit aussi que
personne n'est encore libre, que la liberté, l'humanité même sont à
venir. Et
cet avenir, il se le figure sous les deux traits de la fraternité et de
la
souveraineté. Aujourd'hui, je ne suis pas moins allergique à ce double
idéal
qu'aux bévues politiques commises en son nom. Pourquoi les hommes
devraient-ils
penser et vivre à l'unisson? La pluralité n'est pas un mal destiné à se
résorber dans une commuunauté fusionnelle, mais une donnée de la
condition
humaine. Et comme le montre
Hannah Arendt, l'humanité s'atteste dans l'amitié
qui vit de la distance entre les êtres, non dans la fraterrnité qui
l'abolit.
Quant à l'idée de
souveraineté ou de règne de l'homme, elle conduit Sartre à intégrer
toute réalité
dans l'histoire et à considérer toute limite comme un obstacle
temporaire ou
une mystification bourgeoise. Le
contraire de ce que fait Camus quand il écrit
que « si la révolte pouvait fonder une philosophie, ce serait une
philosophie
des limites, de l'ignorance calculée et du risque ». Les
sartriens m'ont
longtemps convaincu que Camus était un philosophe pour classe
terminale; je
pense maintenant que rien n'est plus urgent ni plus audacieux que
l'alliance de
la révolte et de la mesure préconisée par “l'Homme révolté”.
(*) Professeur à l'Ecole
polytechnique. Dernier ouvrage paru : «l'Ingratitude» (Gallimard, 1999).
Trích
từ Người Quan Sát, số đặc biệt về Sartre, [13-19 Janvier, 2000], 20 năm
sau khi ông ra khỏi Lò Luyện Ngục, và trở lại!
Bây giờ, nhìn lại, Kẻ Xa Lạ, tuy bảnh như thế, nhưng nếu phải so găng
với Buồn Nôn, Gấu nghĩ, cũng... căng lắm đấy!
*
Hannah Arendt, trong bài viết
Chủ nghĩa hiện sinh Pháp, lần đầu xuất hiện trên The Nation, 162, Feb
23, 1946,
sau in trong Essays in Understanding 1930-1954, trích dịch sau đây:
Một buổi diễn thuyết gây hỗn loạn với hàng trăm người tham dự trong khi
hàng ngàn
người tẩy chay. Sách triết học bán chạy, giống như truyện trinh thám.
Kịch,
thay vì hành động, thì là đối thoại, suy tư siêu hình, vậy mà công diễn
hết tuần
này qua tuần khác. Những nghiên cứu về hoàn cảnh con người trong thế
giới, những
liên hệ cơ bản của con người, Hữu thể và Hư vô, không chỉ dấy lên một
trào lưu
văn học mới, mà còn được coi như những dẫn dắt khả hữu về một đường
hướng chính
trị mới mẻ. Triết gia trở thành nhà báo, ký giả, kịch tác gia, tiểu
thuyết gia.
Họ không còn là những thành viên của những đại học, nhưng mà là những
kẻ xuống đường,
những gã lang thang, những ‘bohemians’, ở khách sạn, sống trong tiệm cà
phê - sống
một cuộc đời công cộng, public life, đến độ chối từ luôn cuộc đời riêng
tư.
Đó là chuyện đang xẩy ra tại Paris,
qua mọi báo cáo,
tin tức. Nếu cuộc Kháng Chiến không hoàn tất nổi một cuộc cách mạng Âu
châu, có
vẻ như, nó lại gây ra, ít ra là tại Pháp, một cuộc nổi loạn thực sự, a
genuine rebellion,
của đám trí thức, mà ở giữa những cuộc chiến, thì ủ rũ như gà chết
[nguyên văn:
mà cái sự ngoan ngoãn trong liên hệ với xã hội hiện đại thì là một
trong những
khiá cạnh buồn bã của cảnh sắc buồn thảm của Âu châu trong giữa những
cuộc chiến).
Và dân chúng Pháp, vào lúc này, thì có thể như quan tâm tới đám triết
gia xuống
đường của họ hơn là đám chính trị gia. Điều này có thể cho thấy, họ
muốn kiếm một
lối thoát ra khỏi hành động chính trị, và lao vào một thứ hành động chủ
nghĩa, activism; nhưng điều này còn
cho thấy,
Sartre
là người đầu tiên hiểu
rằng cú Mai 68 là hồi chuông báo tử dành cho cơ cấu luận....
Tribute
to Albert Camus
by Jean-Paul Sartre
Six months ago, even
yesterday, people wondered: "What is he going to do?" Temporarily,
torn by contradictions that must be respected, he had chosen silence.
But he
was one of those rare men we can well afford to wait for, because they
are slow
to choose and remain faithful to their choice. Some day he would speak
out. We
could not even have dared hazard a guess as to what he might say. But
we
thought that he had changed with the world as we all do; that was
enough for us
to be aware of his presence.
He and I had quarreled. A
quarrel doesn't matter-even if those who quarrel never see each other
again-just another way of living together without losing sight of one
another
in the narrow little world that is allotted us. It didn't keep me from
thinking
of him, from feeling that his eyes were on the book or newspaper I was
reading
and wondering: "What does he think of it? What does he think of it at
this
moment?"
His silence, which according
to events and my mood I considered sometimes too cautious and sometimes
painful, was a quality of every day like heat or light, but it was
human. We
lived with or against his thought as it was revealed to us in his
books-especially The Fall, perhaps the finest and least understood-but
always
in relation to it. It was an exceptional adventure of our culture, a
movement
of which we tried to guess the phases and the final outcome.
He represented in our time
the latest example of that long line of moralistes
whose works constitute perhaps the most original element in French
letters. His
obstinate humanism, narrow and pure, austere and sensual, waged an
uncertain
war against the massive and formless events of the time. But on the
other hand
through his dogged rejections he reaffirmed, at the heart of our epoch,
against
the Machiavellians and against the Idol of realism, the existence of
the moral
issue.
In a way, he was that
resolute affirmation. Anyone who read or reflected encountered the
human values
he held in his fist; he questioned the political act. One had to avoid
him or
fight him-he was indispensable to that tension which makes intellectual
life
what it is. His very silence, these last few years, had something
positive
about it: This Descartes of the Absurd refused to leave the safe ground
of
morality and venture on the uncertain paths of practicality. We sensed
this and
we also sensed the conflicts he kept hidden, for ethics, taken alone,
both
requires and condemns revolt.
We were waiting; we had to
wait; we had to know. Whatever he did or decided subsequently, Camus
would
never have ceased to be one of the chief forces of our cultural
activity or to
represent in his way the history of France and of this century.
But we
should probably have known and understood his itinerary. He said so
himself:
"My work lies ahead." Now it is over. The particular scandal of his
death is the aboliition of the human order by the inhuman.
The human order is still but
a disorder: it is unjust and precarious; it involves killing, and dying
of
hunger; but at least it is founded, maintained, or resisted by men. In
that
order Camus had to live. That man on the move questioned us, was
himself a
question seeking its reply; he lived in the middle of a long life; for
us, for
him, for the men who maintain order and for those who reject it, it was
important for him to break his silence, for him to decide, for him to
conclude.
Some die in old age while others, forever on reprieve, may die at any
minute
without the meaning of their life, of life itself, being changed. But
for us,
uncertain without a compass, our best men had to reach the end of the
tunnel.
Rarely have the nature of a man's work and the conditions of the
historical
moment so clearly demanded that a writer go on living.
I call the
accident that
killed Camus a scandal because it suddenly projects into the center of
our
human world the absurdity of our most fundamental needs. At the age of
twenty,
Camus, suddenly afflicted with a malady that upset his whole life,
discovered
the Absurd-the senseless negation of man. He became accustomed
to it, he
thought out his unbearable condition, he came through. And yet one is
tempted
to think that only his first works tell the truth about his life, since
that
invalid once cured is annihilated by an unexpected death from the
outside.
The Absurd might be that
question that no one will ask him now, that he will ask no one, that
silence
that is not even a silence now that is absolutely nothing now.
I don't think so. The moment
it appears, the inhuman becomes a part of the human. Every life that is
cut
off-even the life of so young a man -is at one and the same time a
phonograph
record that is broken and a complete life. For all those who loved him,
there
is an unbearable absurdity in that death. But we shall have to learn to
see
that mutilated work as a total work. Insofar as Camus's humanism
contains a
human attitude toward the death that was to take him by surprise,
insofar as
his proud and pure quest for happiness implied and called for the in·
human
necessity of dying, we shall recognize in that work and in the life
that is
inseparable from it the pure and victorious attempt of one man to
snatch every
instant of his existence from his future death.
"Tribute
to Albert
Camus:' From The Reporter Magazine, February 4, 1960, p. 34.
Copyright 1960 by The Reporter
Magazine Company. Translated by Justin O'Brien. Reprinted by permission
of the
author and The Reporter Magazine.
Camus: A Collection of
Critical Essays
Edited by Germaine Brée
20th Century Views
Cứu
rỗi hay điêu tàn: Sống
chung với kiểm duyệt?
Kỷ Niệm
Cái
thú, đọc toàn tổ sư,
ngay khi vừa mới ti toe tí tiếng Tây của Gấu, nhìn bề ngoài quả đúng
như me-xừ
Xìn Phóng, "nick" của Trần Phong Giao, phán, "cậu" tính loè thiên hạ
hử,
nhưng sự thực, đây là một thói quen có từ khi học toán,
được Gấu bệ qua văn chương: thà chết vì tức, chứ nhất quyết không chịu
coi lời
giải có sẵn,
của một bài toán khó!
Gấu có hai kỷ niệm đẹp ơi là đẹp
về chuyện này, một với BHD và bạn học của cô, và một, với anh bạn cùng
học,
lần cùng
đi thi Tú Tài I, và gặp một bài toán lý, [phần quang học, lắp đặt kính
hội tụ,
phân kỳ tứ lung tung gì gì đó]. Gấu đã kể một lần rồi, nay xin kể lại,
chờ có hứng
bắt tiếp vào cái vụ đọc.
Đó là năm học thi Tú Tài I. Gấu,
sau khi thi đậu trung học, bà cô Me Tây nghe tin mừng quá, từ bên Tây
ra lệnh, qua một bà cô ở Sài Gòn, hãy học
tiếp, tao sẽ gửi tiền về chỗ bà con một bà bạn cùng ở bên này. Tháng
tháng đến đó lấy tiền trả tiền cơm.
Trước đó, sống nhờ bà chị họ,
Chị Giậu, vợ nhà văn Nguyễn Hoạt, nhưng nổi tiếng với mục ‘tạp ghi’ Nói hay Đừng
[Nứng Hay Đòi], trên tờ Tự Do,
với cái tên Hiếu Chân.
Bà chị có sạp bán bún chả
ngay chợ Vườn Chuối,
*
Quang Dũng
trên
tạp chí Văn Học
Trên talawas
đột nhiên mấy hôm trước đăng lại bài của Trần Văn Nam, "Từ giấc mơ
Tây Tiến đến giấc mơ hòa bình", lần đầu xuất hiện trên tạp
chí Văn
Học số 140, ghi là "xuất bản tại Sài Gòn 1971": chính xác là số
140, ra ngày 6/12/1971. Với tôi thì thật là may vì đúng số này quyển
tạp chí
tôi có lại bị mất bìa, thành ra nhờ có bài kia mà biết được cái bìa
hình thù ra
sao:)
NQT
said...
Trong
số những người cộng tác mật thiết với tờ Văn Học, là Dương Kiền, ngoài
đời là
luật sư, nổi tiếng với kịch Mắt Lưới,
phu nhân là bà Kim Anh, con bà
Nguyễn Thị
Vinh, thuộc Tự Lực Văn Đoàn.
Gấu này cũng có thời gian cộng tác với tờ Văn Học. Phan Kim Thịnh,
không biết
gì về văn học, nhưng đối đãi với anh em rất được.
Tòa soạn ngay Ngã Sáu Sài Gòn, phía bên kia có tiệm cà phê nổi tiếng.
Gấu gặp
nữ văn sĩ TD, lần đầu ở đây. Hà, hà! NQT
December 13,
2009 12:52 PM
Tờ VH,
của Phan Kim Thịnh, lúc
đầu do Dương Kiền trông coi. Khi dọn về Ngã Sáu Lê Văn Duyệt, DK đã
nghỉ làm,
PKT bèn nhờ Nguyễn Đình Toàn trông coi, anh kéo Gấu về theo. Tòa soạn
nằm trên đường
Lê Văn Duyệt, ngay Ngã Sáu Sài Gòn, với những con đường như Ngô Tùng
Châu, Võ Tánh,
Phạm Hồng Thái… và Gia Long: nhà của BHD ngay kế đó!
DK, chơi thân với bạn C.
trong Thất Hiền, cùng dân luật. Gấu chơi thân với Dương Phục, em trai
DK, bạn của
thằng em trai. Toàn thể đám bạn chuyển giao cho Gấu, sau khi thằng em
mất. Gấu
có nhiều kỷ niệm với đám này, nhiều hơn, trong tất cả đám bạn, những
ngày ở Sài
Gòn.
Gấu gặp nữ văn sĩ Trùng Dương,
lần đầu, ở quán cà phê Phương Khanh [hình như vậy], ở phiá bên kia
đường LVD, đối
diện với tòa soạn. Một thứ restaurant, đúng hơn. Đám này hay ngồi bên
ngoài, ngắm
xe cộ qua lại. Bài đầu tiên viết cho VH, là bài điểm cuốn Thị Trấn Miền
Đông, tân
truyện, nouvelle, của
Viên Linh. Lần qua Cali,
anh cho coi copy bài điểm sách. Đọc, được lắm. Chững chạc lắm, đúng
giọng điểm
sách!
Bài điểm sách đó, mà VL có được,
cũng rất là ly kỳ. Kỳ tới kể tiếp.
Quyết & Chiêu,
bạn cố chuẩn uý Nguyễn Quốc Sỹ, em ruột Gấu
@ Thanh Mai Restaurant, Little Saigon
Em mình mất, thì mình đi thăm bạn em mình vậy.
*
Cultural
Amnesia: Notes in the margin of my time
Thư mục: Tổng hợp
|
Đăng ngày:
03:42 21-09-2007
Gấu vừa mới nhắc
tới Tỉnh Giấc Hôn Thuỵ,
kéo dài từ sau cái chết của thằng em trai, một năm sau Mậu Thân, tức là
năm
1969, cho tới khi chạy trốn thoát quê hương, tới được trại tị nạn vào
năm 1990,
thú vị làm sao, cứ như là buồn ngủ gặp chiếu manh, đọc trên TLS số đề
ngày 14
Tháng Chín, 2007, bài của Adam Bresnick , điểm Clive James: Sự mất
trí nhớ
văn hoá: Ghi nhận bên lề thời của tôi.
Unforgetting:
Memos on Melville and Mao,
reminders of Montaigne: a literay and political journey with Clive
James.
Không thể quên:
Những nhắc nhở về
Melville và Mao, những việc hôm nay chớ để ngày mai của Montaigne: Cuộc
du
ngoạn về văn hóa, và chính trị với Clive James.
Độc giả, nghe đây:
Tôi, chính tôi, là
chất liệu của cuốn sách của tôi [Montaigne]
Nhưng ông cẩn
trọng độc giả liền ngay
đó:
Đó không phải là
lý do để bạn sử dụng
thời gian rảnh rỗi của mình vào một việc làm lãng nhách và vô ích đấy
nhé.
... Against the
persistent cult of Leon
Trotsky: "[he] lived on for decades as the anassailable hero of
aesthetically minded progressives who wished to persuade themselves
that there
could be a vegetarian version of Communism".
[Phóng dịch: Leon
Trotsky: [Ông ta] sống
hàng chục niên, như là một người hùng bốn bể thọ địch, của đám tiến bộ
mê cái
đẹp, đám người này cố tự an ủi, và thuyết phục chính họ rằng, chủ nghĩa
cộng
sản có thể có được một ấn bản không có mùi máu, dành cho những người ăn
chay
trường].
Đọc câu trên, Gấu
bỗng nhớ đến... Hoàng Phủ
Ngọc Tường,
người ham chơi, như một
anh VC trong nước ca tụng ông.
Đây cũng là một
người hùng bốn bề thọ
địch! Người hùng của biến cố Mậu Thân, và của... Nguyễn Mộng Giác,
trong Mùa
Biển Động.
Người ham chơi. Ăn
chay trường?
Viết bên lề lịch
sử mà bỏ qua nhân vật
này, thật uổng!
Và đúng là, mắc
bệnh mất trí nhớ văn hoá!
Giữa ông này và
Nguyễn Mộng Giác, ngoài
đời chắc hẳn phải có đụng độ, bởi vì ông nhà văn bê nguyên con, luôn cả
cái tên
của ông này, vô tiểu thuyết của mình. Để vinh danh, hay để không vinh
danh,
theo Gấu, đều không được. Ông nhà văn nghe có lần bị hỏi, nói, tôi hư
cấu. Hư
cấu kiểu này, thì quá nhảm. Bản thân Gấu cũng đã từng bị một ông đưa vô
tiểu
thuyết, tuy chẳng hề đụng độ với ông ta, vậy mà cũng chẳng cần hỏi hiếc
làm gì
cho mệt.
Cái chuyện ông
theo VC, theo Gấu, là
quyền, là lý tưởng của ông, như của bao nhiêu con người khác, sống ở
Miền Nam,
nhưng tin tưởng vào Miền Bắc, vào cuộc chiến tranh giải phóng, thống
nhất đất
nước.
Nhưng khi chiến
tranh chấm dứt, tất cả
đều ngã ngửa, thì có gì để mà tự hào?
Viết về những ông
này, mà có tí tự hào,
thì đều là cứt đái. Thực tình là như vậy.
*
Gặp lại những nhân
vật của Koestler, những
nhân vật văn chương còn mang nặng những nét đặc thù của nguyên mẫu
ngoài đời,
những Roubachof suốt đời tắm bằng máu của kẻ khác, kể cả của người yêu,
bạn bè,
đến khi chết lại mong trở thành những Thánh Tử Đạo, đọc lại nhhững câu
văn mang
sự thực khủng khiếp còn hơn cả những lời nguyền rủa: "Bằng roi vọt
chúng
ta quất lên đám đông đang rên rỉ, bắt họ hướng về hạnh phúc chỉ có tính
tương
lai và hoàn toàn lý thuyết...", tôi bỗng nhận ra một điều thật giản dị:
Nếu những tác phẩm lớn đều cưu mang trong nó bóng dáng của những tác
phẩm lớn
khác - một cách nào đó Hemingway chú giải Joyce, Camus mô phỏng Kafka,
rõ ràng
Garcia Marquez viết lại Faulkner... - Cũng vậy, những bạo chúa chỉ là
những bản
sao của những bạo chúa khác. Staline bắt chước Néron, cả hai đều có
tham vọng
văn chương, một muốn làm thi sĩ, một muốn ngự sử văn đàn, kẻ ban phát
giải
thưởng văn học. Mao diễn lại tuồng đốt sách, chôn học trò. Molotov chỉ
mong
người đời coi là một Robespierre của Cách Mạng Nga. Người ra lệnh bắn
vào sinh
viên biểu tình tại Thiên An Môn là một học trò đắc ý của Chu Ân Lai,
ông này
lại là một học trò đắc ý nhất của Cách Mạng Pháp. Polpot đã từng du học
ở Paris.
Tất cả đều tâm đắc
một điều: Không có một cuộc cách mạng nào mà không có quá độ. Một cuộc
cách
mạng không đổ máu thì rất đáng ngờ.
Lần Cuối Sài
Gòn
Kant bừng tỉnh giấc ngủ độc
đoán khi đọc Hume. (1)
TTT bừng tỉnh giấc
hôn thụy, khi , ở tù
VC, lần đầu tiên nhận thư nhà từ Miền Nam, biết bạn mình là Mai
Thảo đã
thoát.
Văn Cao, chấp nhận
ở lại... Thiên Thai,
sáng tác Buồn Tàn Thu, tặng Phạm Duy, biết bạn mình sẽ dinh tê,
sẽ vào Nam,
và sẽ gieo
nhạc buồn của ông đi khắp chốn?
Gấu bừng tỉnh giấc
mơ Cô Tiên, khi thấy
mình ở trong trại tị nạn Thái Lan, biết, đã chuyển sang một kiếp khác...
(1)
Texte
|
Kant fut «réveillé
de son sommeil dogmatique» le jour où il lut Hume, notamment la subtile
et pénétrante critique de la connaissance de la causalité, développée
dans la septième section de l'Essai sur l'entendement humain de
I748.
Cette critique lui révéla que le jugement de causalité n'est point,
comme on le croyait, un jugement analytique tirant de la cause l'effet
qui s'y trouverait précontenu; mais un jugement synthétique affirmant
une «connexion nécessaire» entre une cause et un effet radicalement
hétérogènes l'un à l'autre. La critique de Hume montrait qu'une telle
connexion n'est connaissable ni a priori par déduction (l'effet n'étant
point analytiquement précontenu dans ]a cause) ni a posteriori par
expérience (l'expérience ne pouvant donner à connaître que des
conjonctions empiriques entre des événements «entièrement lâches et
séparés», mais jamais des connexions nécessaires). Cette critique
induisait au scepticisme et compromettait gravement les «lumières», non
seulement celles de la métaphysique prétendant connaître des réalités
transcendantes, mais celles mêmes de la physique prétendant connaître
des nécessités phénoménales. Seules subsistait, scientifiquement
valable, la mathématique, parce que, les jugements mathématiques étant,
aux yeux de Hume, des jugements analytiques, leur nécessité pouvait
être connue a priori.
Kant bừng tỉnh
"giấc ngủ độc đoán" bữa đọc Hume, đặc biệt cái đoạn ông ta phê bình
thật là tính tế, thật là tới chỉ, ý niệm nhân quả, được khai triển ở
phần thứ bẩy của Essai sur l'entendement humain de I748...
*
Tôi chẳng thế nào
mà tỏ ra khiêm tốn được. Có quá nhiều điều cháy bỏng ở trong tôi; những
lời giải cũ tán loạn ra, rời rụng ra, những cái mới thì chẳng ra làm
sao, chẳng ra đầu ra đuôi.
Thế là tôi bắt đầu, mọi chuyện, một điều, liền tù
tì, cùng một lúc.
Như thể tôi có cả một thế kỷ ở phía trước tôi.
Canetti, 1943.
Susan Sontag trích dẫn, trong Under the Sign of Saturn [đây là
tên bài viết về Walter Benjamin, sử dụng cho toàn tập], chương Mind
as Passion: Cái đầu như là đam mê.
|
Dọn Tiếp!
Talawas
& Bauxite
Thú thực, vụ talawas bị đánh
sập thật là khó hiểu.
Nếu bảo đây là trang phản động,
thì hoàn toàn sai.
Hãy nhớ lại, khi talawas bị
tường lửa, Gấu mừng quá, reo lớn, PTH vội vàng lên tiếng trên BBC, này
đừng có
nghĩ tụi này làm trò lấy điểm với hải ngoại!
Sau Cú Mậu Thân đợt I, tới đợt
II, đọc những còm, của những đấng như KM, thí dụ, thật quá nhảm, có cảm
tưởng, talawas
còn tệ hơn giai đoạn đầu, cớ sao bị đánh sập?
Vô lý quá!
Bauxite, thì cũng rứa. Một đấng
như PT, gần đất xa trời, khi ‘bỏ qua’ mạng mình, vì mạng bauxite, là đã
kể như,
còn hơi thở nào, là của bô xịt, là sống chết cho Đảng Bô Xít! Ông ta
phải thấy,
không thể nào có cái chuyện rút ra được nữa. Vậy mà cũng lại nệ, sức
khoẻ, mổ
tim, mổ gan, để sinh chuyện!
Thua cả lão tướng quân!
Đúng là toàn chuyện ruồi bu!
Chuyện toàn phạm!
Nhân
chuyện Phạm Toàn, viơ Tông
canh, vieux Tonkin, hơn cả Gấu, sắp hàng, lấy vé, đứng trước Gấu cả một
cây số,
vậy mà ‘vừa đéo vừa run’ [xin phép cho nói tục một tị], khiến Gấu nhớ
đến một ông
bạn, kém Gấu chừng hai con giáp, thổ công xứ Một Vạn Con Voi. Cứ mỗi
lần xong,
về, là ông lại tiếc nuối thời trai trẻ, và mối tình với một cô gái
bán hàng
tại một chợ trong xóm, tại Sài Gòn.
Ông dân nhà quê, lên Sài Gòn,
trọ học, cùng nhà trọ với cô gái, nhưng lại nằm ngủ ngoài hiên. Còn cô
gái, những
lần bán hàng, về trễ, cửa khoá, mệt, là chui dzô mùng, kéo cái mền,
chưa đủ ấm,
bèn ôm chặt lấy cậu học trò. Vậy mà dòng dã mấy niên học, cậu học trò
chẳng dám
giở trò.
Ông nói, nhiều lần, cô ta gần
như mời gọi, 'body' của em nè, edit [biên tập, cắt xén, mổ xẻ..] gì thì
edit đi, vậy mà vẫn không dám.
Hỏi, tại sao, ông
nói, chỉ sợ
đụng vô một cái, cô có bầu, là hết đi học, lo phụ bán hàng với cổ!
Ui chao, không lẽ Phạm tiên
sinh, cũng có một nỗi lo, lớn như thế?
Đúng là chuyện, một vạn con voi, không được bát nước xáo!
Thế
nào là văn chương hiện thực?
|
|