|
Người
Tuyết Sau Nhà
Phu nhân Somerset
1
2
Có thể
nói, Miss Trask đảo
ngược hẳn cái lề thói cuộc đời mà chúng ta vẫn thường sống: Đẩy đời
thực vào một
xó xỉnh, chiếm càng ít không gian bao nhiêu, tốt bấy nhiêu, nhường chỗ
cho giả
tưởng.
Liệu cô hạnh phúc hơn những
kẻ chọn đời sống thay vì giả tưởng? Tôi nghĩ, cô hạnh phúc hơn. Nếu
không, tại
sao cô để tất cả của cải làm cái giải thưởng, khuyến khích mấy cô cậu
choai
choai viết tiểu thuyết tình? Đó chẳng phải là bằng chứng cho thấy, cô
hài lòng
rời bỏ thế giới này, qua thế giới tới, yên chí một điều, thế hệ đàn em
sẽ tiếp
tục đổi thực tại cuộc sống lấy những dối trá của văn chương.
Mặc dù nhiều người nghĩ, thật
quá quắt, nhưng tờ di chúc của Miss Trask quả đúng là một phán đoán
nghiêm khắc
đối với cái thế giới tởm lợm mà cô sinh ra, và cô đã, bằng mọi cách
tránh né,
để đừng phải sống nó!
Llosa.
Những
ngày Tết Ta vừa qua,
Gấu chẳng biết đi đâu, bèn ở nhà như vẫn ở nhà, "đọc chơi"...
vài nhà thơ, và dịch bài viết trên, vừa dịch, vừa nghĩ tới hai người,
một, là
chủ nhân một trang web, và một, nữ thi sĩ, cả hai đều là thân hữu của
TV, cả
hai đều có gì rất đỗi tương tự với Phu nhân Somerset.
Tuy nhiên, khi dịch
tới những
dòng cuối, thì Gấu nhớ tới Anne Frank, cô bé đã chết ở Lò Thiêu, và bài
viết của
Cynthia Ozick, cực lực phản đối cái chuyện biến cô gái thành một người
đương
thời:
Yet any projection of Anne Frank
as a contemporary figure is an
unholy speculation: it tampers with history, with reality, with deadly
truth.
Cynthia Ozick: Who Owns Anne Frank? [Ai sở hữu Anne
Frank?]
Mọi phóng chiếu Anne Frank,
như một
hình tượng đương thời đều là trò đầu cơ khốn nạn của đám tà ma ác quỉ.
Bởi làm
thế là đụng chạm tới lịch sử, tới thực tại, tới chân lý chết người.
Cũng
trong bài viết này, khi
nhắc tới câu nói của Miep Gies [người đã che chở cho gia đình cô bé,
cất giữ tập
nhật ký, không đọc, và sau trả lại cho bố của cô: Giả như đọc, chắc là
tôi đốt
bỏ], Ozick tưởng tượng, tập nhật ký,
đúng ra nên đốt bỏ, vì nhân loại khốn kiếp không xứng đáng đọc nó. (1)
(1)
Như được biết,
đúng
ra cuốn nhật ký đã bị đốt bỏ. Nhưng một ông thông dịch viên Ngụy can,
đừng, đừng,
có lửa sẵn ở trong đó rồi!
Sự tình sẽ khác hẳn, nếu không có ông thông dịch viên Ngụy.
Cynthia Ozick tự hỏi, sự tình sẽ ra sao, nếu bà thần hộ mệnh của Anne
Frank đó,
vứt tập nhật ký của cô vào thùng rác, hay lò lửa?
Khi ông thông ngôn Ngụy kia nói, có sẵn lửa ở trong đó, ông muốn nói,
hãy để
cho cuốn sách tự nó đốt nó?
*
Vào ngày Thứ Sáu, 4 Tháng Tám, 1944, ngày họ bị bắt, Miep Gies lên cầu
thang,
tới căn phòng ẩn náu, ngổn ngang bề bộn do bị lục soát. Gia đình nho
nhỏ gồm
một dúm người trốn chui trốn nhũi đó bị một điểm chỉ viên tố cáo. Người
này bán
họ với giá bẩy guilders rưỡi [chừng một đô], một đầu người, trọn gói
sáu chục
guilders. Bà nhặt lên mớ giấy mà bà nhận ra là của Anne, và cất, không
đọc, vào
trong một ngăn kéo. Nhật ký của Anne nằm im lìm trong đó cho tới ngày
ông bố may
mắn làm sao ra khỏi Lò Thiêu Auschwitz. "Giả sử như tôi đọc nó", bà
nói sau đó, "chắc là tôi đã đốt bỏ, vì nó tỏ ra quá nguy hiểm đối với
một
số người mà Anne đã nhắc tới".
Khác hẳn ông thông ngôn Ngụy, đó là Miep Gies. Một nữ nhân vật không
giống ai trong
câu chuyện này, một người đàn bà cực kỳ tốt, một kẻ cứu vớt thất bại, a
failed
savior, nhưng thành công trong việc cứu một đại tác phẩm không thể nào
thay thế
được, an irreplaceable masterwork.
Thật là sốc, [tôi cũng thấy sốc, khi nghĩ như vậy. Ozick], khi nghĩ
rằng, người
ta vẫn có thể tưởng tượng ra được một kết thúc, một lối thoát "thánh
thiện
hơn, cứu rỗi hơn": Nhật ký Anne Frank bị đốt bỏ, hoặc, "cũng theo hư
không mà đi" [vanished], hoặc, mất mát, thất lạc [lost].
Nghĩa là nó được cứu thoát, ra khỏi thế giới đã gây nên tất cả những
chuyện đó,
có đôi điều thực, và cứ thế lững lờ bay, bay lên cao mãi, ra khỏi thế
giới có
một sự thực thật là nặng nề, thật là khốn kiếp, về một Cái Ác đã được
đặt tên
và đã có con người trú ngụ [Lò Thiêu, Lò Cải Tạo].
Cynthia Ozick: Ai sở hữu Anne Frank?
Interview: Gao
Xingjian
…. I
don't just write now in
Chinese, I also write in French, and this is a new challenge. Is a
writer
capable of transcending his country and the limits of his mother tongue
to
undertake creative work in another language? I believe many writers
answer this
question via their literary works, thereby proving it is indeed
feasible. And
this is my experience too. Singing at Night is the fifth play I
composed in
French and it has just been translated into German. I believe a writer
cannot
only transcend national borders, but can also transcend his own
language .
... on the limits of a
writer's power and the recourse to exile.
The
writer is a weak
individual and cannot overcome political oppression; he can only flee,
or he
has to write for the government. The writer can't change an era. The
writer
can't change the world, or society, can't overcome political disasters,
religious restrictions, social habits and strange customs. But he can,
as an
individual, take up a pen, and, if he can face his loneliness, he truly
can
write down the truth of his times, and if he can truly write of
people's
predicaments in an honest way, then he can write a work that is of
value, and
it will naturally overcome restrictions - the political, the religious,
the
social. This is the writer's strength.
Cao Xueqin
[eighteenth-century author of Dream of the Red Chamber] was writing in
a closed
and despotic society in the early Qing dynasty. His books could not be
published. He wrote in secret. But today in China,
he's of the stature of Shakespeare,
and we are still studying him! [Laughs] Look how many interpretations
there are
of Shakespeare; it's the same for Cao Xueqin. China
and the West are the same.
These kinds of works can be written under conditions of autocracy. It's
a
question of the writer's strength.
But sometimes strength is not
enough. During Mao's time, during the Cultural Revolution, it was
totally
impossible to write. All you could do was flee. Dante fled Florence because
he couldn't write. Ibsen
fled Norway; it
wasn't until Norway
began to recognise him that he went back.
... on exile.
Exile
is salvation. Exile is
a writer's salvation. The goal is not exile. The goal is to write.
There have
been so many write!s who have been forced to flee in order to write.
Sometimes the
oppression isn't even that extreme, but they still leave. Like James
Joyce. It
wasn't political oppression. But Joyce and
Từ
trái sang phải: Carl
Robinson, Richard Pyle, Horst Faas, lái xe, Peter Arnett và Neal
Ulevich
Từ trái: Dirck
Halstead, UPI/Time, Horst Faas AP, Hugh Van Us, UPI, người chụp bức
hình di tản
nổi tiếng bằng trực thăng trên nóc nhà CIA, nhưng thường bị nhìn lầm là
Tòa Đại
Sứ Mẽo, Bob Davis, phóng viên tự do. Hình chụp trước Continental.
Thirty Years at 300 Millimeters
by Hubert Van Es
Một nhóm phóng viên chiến
trường nổi
tiếng từng tham gia tường thuật cuộc chiến Việt Nam sẽ có
cuộc hội
tụ hy hữu ở TP HCM vào tháng Tư này nhân kỷ niệm 35 năm ngày
kết
thúc chiến tranh.
Được biết
trong số họ có những tên tuổi như Peter Arnett (phóng viên
AP, người đoạt giải Pulitzer năm 1965 về phóng sự); Horst Faas
(AP,
Pulitzer 1965 và 1972 về ảnh); Neal Ulevich (AP, Pulitzer 1977 về
ảnh),
Barry Hillenbrand (tạp chí Time); Tim Page (tạp chí Time); Don
North
̣(hãng ABC); Ken Wagner (CBS); Jim Laurie (NBC); Carl Robinson (AP);
Dirck
Halstead (UPI và Time).
Ngoài ra,
đại diện cho phóng viên nhiếp ảnh huyền thoại Larry Burrows,
người đã tử trận năm 1971 ở Lào, là con trai ông - Russell
Burrows.
Cuộc hội tụ
có thể là lần cuối của các phóng viên lão làng và
một triển lãm ảnh thời chiến tranh Việt Nam sẽ được tổ chức
tại
Khách sạn Caravelle, nơi mà trước kia các hãng CBS và NBC đã
đặt trụ
sở.
Ông Carl
Robinson, phóng viên hãng Associated Press tại Sài Gòn từ 1968
tới 1975 cho biết: "Chúng tôi đã nghĩ rằng cuộc gặp gỡ 5 năm
trước đây là cuộc cuối cùng".
“Tuy nhiên sau
khi Hubert Van Es [người chụp bức hình di tản bằng trực
thăng năm 1975] qua đời năm ngoái, danh sách trao đổi thư từ gồm
300
người của chúng tôi đã có ý kiến sẽ gặp nhau thêm lần nữa.”
Những người
tham dự cuộc gặp sẽ một lần nữa thăm viếng những địa
chỉ nổi tiếng tại nơi mà một thời được mệnh danh là Hòn
ngọc Viễn
Đông; những địa chỉ như Dinh Gia Long, tòa nhà Eden nơi có tiệm
cà phê
Girval...
Thời điểm
chính xác của cuộc gặp và triển lãm ảnh sẽ được thông
báo sau.
Nhân
tiện, server cho biết về
trang đặc biệt, hình như bằng tiếng Nhựt, về Henri Huet , nhân bài viết
về anh
trên TV:
Henri Huet
*
Mới nhận mail của
Dirck, liền tức thì:
From:
Date: Thursday, July 21, 2005
11:36:18 PM
To: Nguyen_Quoc_Tru
Subject: Re:
It's
wonderful to hear from you Tru. How are you?
We missed you at the reunion in Saigon
in May.
Cuộc hội ngộ vào tháng Năm, the
reunion in Saigon
in May, là vào năm 1985, khi VC kỷ niệm Mười Năm Đại Thắng Mùa Xuân.
Mời
mấy anh ký giả Mẽo tới, trong có Dirck.
Hai Lúa lúc đó ở trong Trại Bà Bèo, sau chuyến đi Vàm Láng thất bại,
như đã kể
sơ sơ trong một bài viết.
Khi về được Sài Gòn thì lễ lạc đã qua. Tình cờ gặp Tám, nhân viên phòng
tối.
Anh nói, thằng Dirck hỏi thăm mày, nhưng tao với nó phải đứng xa nhau
cả mấy
thước. Sợ mấy ảnh, đầy đường lúc đó.
Chuyến đi "liên can" tới lễ kỷ niệm 10 năm đại thắng Mùa Xuân, của
những
người CS. Người bạn đi cùng ông già mang theo những danh sách, những
bản tin, những
tài liệu về miền Nam sau mười năm, phóng sự về những sĩ quan đi học
tập, tình cảnh
vợ con ở nhà, và ... MIA.
Nhật Ký TV
The Saigon Execution
Xử bắn
Ẩn hả, nhớ chứ
CBS's
Cameraman & UPI's Radiophoto Operator
Đồng Nghiệp Thời Chiến
Gấu: Nhớ xừ luỷ không?
Nguyễn Ngọc An [CBS's Cameraman]:
Ẩn hả? Nhớ chứ. Bữa nào mà chẳng gặp ở Press Center.
Cao Bồi, Bạn Gấu
Nhà Văn
Cựu
chủ [Time] viết về nhân viên
cũ.
(1) DIED. Pham Xuan An, 79,
Viet Cong colonel who worked during the Vietnam War as a highly
respected
journalist for TIME while spying for the communists—a double life kept
secret
until the mid-'80s; in Ho Chi Minh City. The first Vietnamese to become
a staff
correspondent for a U.S.
news outlet, An said he was an "honest reporter" who did not spread
misinformation. From his unique perch at TIME's Saigon bureau, the
popular,
plugged-in An was able to achieve feats for both sides, alerting the
Viet Cong
to the impending buildup of U.S. troops in the mid-'60s and secretly
arranging
for the release of American journalist Robert Sam Anson, captured in
Cambodia
by the Khmer Rouge.
[Từ trần. Phạm Xuân
Ẩn, 79 tuổi, đại tá Việt Cộng, trong chiến tranh Việt Nam, là một ký
giả rất
được kính trọng của tờ Time, cùng lúc còn làm công tác gián điệp cho
Cộng Sản -
một cuộc sống kép được giữ kín cho tới giữa thập niên 1980, tại Thành
Phồ Hồ
Chí Minh. Người Việt Nam
đầu tiên trở thành nhân viên chính thức, cho một tờ báo lớn của Mỹ, tại
một trụ
sở ở nước ngoài của nó. Ẩn nói, ông phục vụ như là một "thông tín viên
lương thiện", theo nghĩa, không phao tin dởm. Giống như một con cú, đậu
chót vót trên cao, từ vị trí độc nhất của mình ở tòa soạn báo Time, con
người
bình dân, giao thiệp rộng rãi, nằm vùng là Ẩn đó có thể hoàn thành
những kỳ
công cho cả hai bên, trong đó có việc báo động cho VC về những cuộc
điều động
quân đội Hoa Kỳ trong thời gian giữa thập niên 1960, và, bí mật dàn xếp
với lực
lượng Khờ Me Đỏ, để họ thả ký giả Mỹ Robert Sam Anson, bị bắt tại
Cambodia.]
Tẫu
có câu:
Tiểu lượng phi quân tử
Vô độc bất trượng phu
(Lượng nhỏ chẳng thành người quân tử
Không độc sao nên đấng trượng phu)
Cú ngửa tay xin tiền bạn cũ của PXA phải nói là cú tối tối độc, bởi vì,
với cái
tội để mất Miền Nam, rồi để mất cả nước, rồi đẩy cả nước xuống biển,
rồi đẩy cả
nước vô cơn băng hoại không làm sao ra thoát [Gấu tin là vô phương!],
biến cả
thế giới thành bãi đánh hàng nữa chứ!, tất tất tật đổ vào đầu PXA, khi
ông đánh
bức điện mở cửa Sài Gòn: Yankee mũi lõ chạy có cờ rồi, chúng không có
lý do nào
để trở lại nữa, Yankee mũi tẹt vô mau lên!
Không có bức điện của PXA, có thể tình hình khác đi.
Hơn ai hết, là một tổ sư cớm nằm vùng, như con cú từ trên cao nhìn
xuống, ông
quá rành điều này, như Ngọa Long ngày nào nằm khểnh trong lều tranh, mà
biết
thiên hạ sẽ phân ba.
PXA biết, nhưng không biết, cái không thể nào biết: Ông xa Đất Bắc lâu
quá, đã
mấy đời rồi, ăn cơm Miền Nam, ị ra cứt Miền Nam cũng đã mấy đời rồi,
trong cứt
không còn một tí Bắc Kít nào hết, nhưng trái tim ông hoàn toàn là Bắt
Kít, một
thứ Bắc Kít tuyệt vời, từ đó, là cái chân lý tuyệt vời, thống nhất đất
nước,
biến cả nước thành một Miền Nam tuyệt vời.
Trong ông Cái Ác Bắc Kít kể như không còn.
Vào những giờ phút cuối cùng, ông đi không được, là vì những chuyện đó,
chắc
chắn như vậy.
*
Năm học Đệ Nhất Chu
Văn An, ông thầy
dậy sử của Gấu là Vũ Khắc Khoan. Học
ban B. B8, ngay cổng ra vào, khi nhà trường còn nằm nhờ truờng Pétrus
Ký, miếng
đất sau trở thành Trung Tâm Học Liệu. Người hồi đó đi solex, rất nhiều
khi tới
cổng vẫy vẫy, ra ý, hôm nay Thầy bận, rồi đi. Nếu có vô lớp thì cũng ít
khi nói
về sử, mà thường là về kịch, về “chúng ta đã xuống thuyền”, và về…Hà
Nội.
Có một lần ông kể chuyện, về
mấy anh Tây mũi lõ, ở bên chánh quốc, thất nghiệp, đói rã họng, bèn
kiếm cách
xuống tầu tới Đông Dương, tới Hà Nội, không phải để kiếm việc làm,
thiếu gì, nhưng
mà là để làm “cái bang”, mỗi khi cần tí tiền, là ra nhà hàng Godard,
lấy cái nón
trên đầu xuống, lật lên, xin tiền đám Mít quí phái, và đám Tây Đầm.
Lũ Tây Đầm
ngượng lắm, vừa thấy cái nón lật lên, là thẩy tiền liền. Thấy "đường
được", là tếch.
Nhất định không chịu kiếm việc làm. Thế mới thú.
Đám Mẽo làm hùng hục, chỉ
mãi
đến khi quá chán cuộc chiến Mít, mới nghĩ ra trò này: Ăn xin thay vì
làm việc!
Liệu
Cao Bồi biết kỳ tích đó,
và anh sử dụng đòn ăn xin - không phải xin đám Bắc Bộ Phủ [mày cho tao
bao
nhiêu cho xứng công lao gian khổ “nằm Time [Tai, không phải Gai], nếm
XO”, làm
một tên cớm VC nằm vùng, bán đứng cả một miền đất đã từng cưu mang mấy
đời họ
Phạm, gốc Hải Dương, Bắc Kít - mà xin mấy anh bạn báo chí cũ, một công
đôi ba việc: Tao xin tiền tụi bay, vì tao lỡ lừa tụi bay, và chỉ có
cách xin tiền tụi bay, chịu nhục chịu nhã như thế, thì mới phần nào
chuộc tội, với cả tụi mày, và cả đồng bào của tao.
Tuyệt
chưa?
Thảo nào đã có thời đánh bạn với Gấu!
Le Goncourt du premier roman
attribué à Laurent Binet
Giải Goncourt cho tác phẩm
đầu tay về tay Laurent Binet
Le prix Goncourt du meilleur
premier roman français 2010 a été attribué mardi à Laurent Binet pour
HHhH,
consacré au «boucher de Prague», le nazi Reinhard Heydrich, qui est
aussi une
réflexion sur les rapports entre réalité et fiction.
Laurent Binet, 37 ans, est
agrégé de lettres, professeur de français dans la banlieue parisienne
depuis
dix ans et chargé de cours à l'université.
Son énigmatique HHhH se
réfère à l'un des surnoms donnés par les SS à Heydrich, «Himmlers Hirn
heisst
Heydrich» (Le cerveau d'Himmler s'appelle Heydrich), réputé l'homme le
plus
dangereux du IIIe Reich, bien plus que son chef Heinrich Himmler.
Patron de la Gestapo,
créateur des services secrets et de sécurité (SD), Heydrich avait droit
aussi
aux surnoms de «Boucher de Prague», une ville où il sema la terreur à
partir de
1941, de «bourreau» ou encore de «L'homme au coeur de fer», petit nom
donné par
Hitler lui-même, qui appréciait le physique «aryen» d'Heydrich, sa
férocité et
sa traque impitoyable des Juifs.
HHhH raconte l'histoire de ce
nazi et d'une mission, «Anthropoïde», lancée pour l'éliminer.
Chaque année, l'Académie
Goncourt attribue, outre le Prix Goncourt - la plus prestigieuse des
récompenses littéraires en France -, des Goncourt de la poésie, de la
nouvelle,
de la biographie, et du premier roman
5 năm
TTT ra đi
(22.3.2006-22.3.2010)
Có một chi tiết,
rất ư lạ lùng, về PXA, liên quan tới ông anh nhà thơ của Gấu.
Có thể Ẩn là người đế xướng một cú đối thoại giữa nhà văn hai miền trên
tờ Time,
sau khi Diệm bị làm thịt ít lâu, bằng cách phỏng vấn hai nhà văn, để kế
bên
nhau, trong cùng một số báo.
Chính PXA nói với Gấu về chuyện này. Ông còn cho Gấu biết, ngoài Bắc,
người được Time chọn để tiếp xúc, là Nguyễn Tuân.
Miền Nam,
là Thanh Tâm Tuyền.
Gấu có hỏi ông anh, ông xác nhận có.
Nhưng sau đó, Time không thực hiện cú này.
Như vậy, PXA phải là người đề xuất cái vụ chọn TTT, Time mà
biết cái
đếch gì, đúng không?
Tại sao lại huỷ?
Lý do: TTT là một tên “Chống Cộng điên cuồng", qua tờ Sáng Tạo, cuốn
Bếp
Lửa. Một tên Bắc Kỳ di cư. Một tên sĩ quan VNCH “có nợ máu với nhân
dân”?...
Liệu, Bắc Bộ Phủ đếch chịu TTT, và ra lệnh cho PXA: NO!
6 năm BHD
ra đi
Happy
Valentine’s
Buổi
đầu gặp gỡ Mr. Koestler
mới khó chịu làm sao
How Unpleasant to Meet Mr
Koestler
By Cynthia Koestler
Tôi
sinh ra tại Nam Phi ngày
9 Tháng Năm 1927. Vào cuối tháng Giêng 1948 tôi rời Cape Town, để tới
sống
với mẹ tôi tại Paris. Đứng trên boong tầu, nhìn mảnh đất từ từ lùi dần,
và
cuối cùng lẫn vào vùng sương mù cuối chân trời, tôi biết mình sẽ chẳng
bao giờ trở lại.
Tại Paris, tôi gia nhập
Alliance Francaise để làm quen trở lại và thực tập mớ tiếng Tây của
mình. Mặc
dù đã trải qua những ngày nghỉ hè tại bờ biển Normandy
vào năm 1938, tôi chưa từng biết Paris.
Tới mùa xuân, tôi bị cảm cúm, do thời tiết thay đổi. Rồi tôi kiếm được
một chân
thư ký tại cơ sở làm phim Warner Brothers. Tô
TVA vs
VTN vs TH
Tribute
to Koestler
Kỷ
Niệm
Câu
hỏi này, Gấu cũng thường đặt ra cho mình, và mường tượng ra được câu
trả lời, lần
chạy trốn quê hương, từ thành phố Parksé, Lào, vượt sông Mekong, qua
trạm kiểm
soát Thái bằng giấy tờ dởm, tên Lào, khi, ngồi trên chiếc xe buýt chạy
suốt đêm
từ biên giới, tới thủ đô Bangkok thì tờ mờ sáng, coi cuốn phim Nhật,
thuật đời
đời, kiếp kiếp của một kiếm sĩ, kiếp đầu làm vệ sĩ cho hoàng hậu, và
khi bà này
cởi chiếc… giầy ném cho anh vệ sĩ, chưa kịp trút xiêm y trầm mình xuống
bể tắm,
thì mối tình cuồng điên của cả hai bắt đầu, bắt đầu, kiếp nào cũng chỉ
có bắt đầu,
không hề có kết thúc.
Nhà
vua sai
chôn sống anh chàng
vệ sĩ, chôn đứng, bằng cách đắp bùn phủ kín anh
ta. Bức tượng bùn cứ đắm chìm trong cơn ru mãi ngàn năm, và chỉ tỉnh
giấc, lớp
bùn chỉ vỡ ra, khi chiếc giầy của hoàng hậu ném tới. Trong mỗi kiếp,
anh vệ sĩ,
bà hoàng hậu xuất hiện, qua những nhân vật này nọ, và họ nhận ra nhau,
khi chiếc
giầy xuất hiện, cũng qua những hình ảnh này nọ, có kiếp, chiếc giầy
biến thành
cái xú chiêng của cô con gái, như trong một truyện ngắn của TTT.
*
Đọc Liêu Trai, gặp một truyện tương tự, Gấu suy ra, con người, có rất
nhiều kiếp,
và trong mỗi kiếp, có một việc, gì đó, từ kiếp trước nữa, được lập lại,
và anh
chàng, cô nàng, trầm luân trong vòng luân hồi, như thế, chỉ thoát, chỉ
ngộ, khi
tìm ra được câu trả lời và hành động đúng theo, thì giải được
‘nan đề’, ‘nạn
đề’, hóa giải lời trù ẻo, lời nguyền, cho từng kiếp nhân sinh!
*
Trong Liêu Trai, là câu chuyện một anh chàng có vợ chồn, một bữa được
dự tiệc
cùng mấy cô bạn gái, chồn, của vợ, trong đám có Cô Chín, đẹp tuyệt vời,
anh
chàng tìm cách thả dê, giả đò đánh rớt chiếc ‘đũa cả’, cúi xuống lấy,
và, vừa
mò được bàn tay người đẹp, thì… tan tiệc.
Tiếc hùi hụi, đêm nằm gãi sồn sột, cô vợ thương hại, an ủi, hay là để
tui năn nỉ
cô ta giùm anh, về cùng chung một nhà cho có chị có em! (1)
Sự thực, như trong truyện, cô
vợ chồn nói, số kiếp của anh, nhân duyên của anh,
với Cô Chín chỉ có vậy. Đừng cố cưỡng.
Ngạc nhiên, hỏi, cô vợ chồn nói, kiếp trước, anh là học trò nghèo,
tương tư đến
ngắc ngoải, cô con gái một điền chủ, kiêm chủ nhà máy cưa, nhà máy xay
lúa gì
đó, tiền kiếp của Cô Chín. Trước khi chết, chỉ xin hửi bàn tay người
đẹp, rồi
đi. Cô gái thương tình, cho người mang đến chiếc xú chiêng, hay bikini,
hay
hàng có gân, nhưng hàng vừa tới, chưa kịp hửi, thì đã lìa đời.
Nhân duyên kiếp này, chỉ là hoàn tất lời nguyện của kiếp trước, nghĩa
là chỉ được
hửi thôi, cố cưỡng là mang họa.
*
Trong
Thất Hiền, tức 7 anh em
bạn thời còn đi học trong có C, ông em trai nhà thơ, Gấu thân nhất với
Phạm
Năng Cẩn, và, tất nhiên, có rất nhiều kỷ niệm lên xóm với anh.
Gấu có nick Trâu Nước, do anh ban cho, nói vậy là các bạn đủ hiểu!
Trong Chuyện
hai thành phố, trong “Những ngày ở Sài Gòn”, xb tại Sài Gòn, trước
1975,
Gấu có nhắc tới một cô bạn cùng học của PNC, vẫn thường nhét tiền vô
tập của
anh, vào những ngày phải đóng học phí, vì hồi đó Cẩn sống nhờ ông anh
ruột.
Sau anh bỏ học, nhờ bà cụ C. nói với bà bạn, bà Th. chồng làm hỏa xa,
xin chân
thư ký ga Long Khánh. Rồi anh cũng bỏ nghề thư ký, làm chân thông dịch
viên cho
Mẽo, làm việc mãi tít Pleiku, hình như vậy, cuối tuần đi máy bay, chắc
máy bay
quân sự của Mẽo, về Sài Gòn, hoặc cùng Gấu đi coi một phim mới, hoặc
kéo nhau
vô Chợ Lớn, kiếm một cái phòng, hai thằng quần một em, thường là vậy.
Những ngày bà cụ C bị bịnh, nhà thơ phải về Sài Gòn săn sóc, rồi tới
lượt ông
em về thay ông anh, bạn C có gặp Cẩn, và anh nhờ nhắn, mày nói với
thằng Gấu,
tao cám ơn nó viết về tao, nhưng thật chán quá, tao có một kỷ niệm thật
là
tuyệt vời về cô bạn, nó biết rất rành, vậy mà nó quên kể ra!
Ui chao quả có thế! Cái kỷ niệm đó thật là thần sầu, trên đời chỉ có
một, của
bạn Cẩn, không thể có cái thứ nhì!
Số là, cô bạn học, sau đó đi lấy chồng, trước khi đi, bèn hẹn gặp bạn
Cẩn lần
chót, tại một căn phòng tại… khách sạn!
Tới, gặp. Cô đứng trước một cái gương, cởi đồ, cho bạn Cẩn chiêm
ngưỡng, qua gương,
cái kho tàng tuyệt vời mà suốt đời Cẩn mơ tưởng…
Hưởng
hương hưởng hoa như vậy, là cũng đủ nhớ nhau đời
đời rồi!
|
|