|
Sinh nhật [năm ngoái] Gấu
Vậy là
có thể ăn thêm một sinh nhật nữa!
Hà, hà!
How can I survive without
your mail?
Làm sao qua nổi con trăng
này, nếu không có mail…?
Xạo!
*
Many moons ago the dollar
was
870 lire and I was thirty-two.
Nhiều trăng trước, một đô
ăn 870 lire, còn tớ thì 32 tuổi đầu
Brodsky mở ra thiên du ký ngắn Water Mark, Thuỷ Ấn, viết về
chuyến viếng
thăm Venise của ông.
Bao mùa trăng trước, khi gặp BHD, Gấu vẫn còn tuổi teen.
Gấu có nhớ Xứ Đoài không?
Mùa
Xuân & Hạnh Phúc
Đặng Tiến
Kỷ niệm sầu như tiếng thở dài,
Đêm chìm trong tiếng khóc tương lai.
Tầm xa hạnh phúc bằng đêm tối,
Tôi mất thời gian, lỡ nụ cười.
Đời sống ôi buồn như cỏ khô,
Này anh, em cũng tợ sương mù.
Khi về tay nhỏ che trời rét,
Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ.
Nhã Ca
As for
me, I prefer to
smell French shit for five years, rather than Chinese shit for the rest
of my
life.
Ta thà ngửi
cứt Tây năm năm còn hơn ngửi cứt Tầu
cả đời
Di chúc
Bác Hồ
Trở lại nơi một thời vang bóng
Tôi nhắc tới rạp Majestic ở phố
Huế, bởi vì chỉ còn nó là sống
sót, sau Hà Nội tiếp quản, sau Hà Nội cải cách ruộng đất – đại bác đêm
đêm dội
về thành phố, người phu địa chủ quét đường, dừng chổi lắng nghe! – sau
Hà Nội
Nhân Văn Giai Phẩm, sau Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi - và để đánh đổi sự sống
sót, nó
đành mất tên, trở thành Rạp Tháng Tám.
Ông
cậu cho tôi biết, tiền thân của nó là Majestic.
Anh
chàng xe ôm bảo tôi: đây là rạp xi nê độc nhất của Hà Nội bây giờ.
Lẽ
dĩ nhiên đường từ St
Petersburg
tới Stockhom đi qua địa ngục, cũng vẫn nhà thơ người Nga, trong bài
diễn văn nhận
giải Nobel văn chương, đã tuyên bố như vậy.
Nobel hay không Nobel, tôi cũng
thử
bắt chước ông và tuyên bố: Lẽ dĩ nhiên, con đường trở về Hà Nội đi qua
địa ngục.
Bà
chị Phúc của Gấu, con duy nhất của Bác Giáo Thái, ông anh ruột của ông
cụ Gấu.
Bà đã từng cảnh cáo Gấu, lần
Gấu trở lại đất Bắc, khi chỉ hình ông bố, và huân
chương Đảng của ông:
-Cả lò nhà mày là Cộng Sản.
Ra ngoài ấy liệu liệu mà viết!
Chưa
hết đâu, Hà Nội càng
khuya càng nhìn rõ cái nhọc nhằn của phụ nữ. Phần đông phu quét đường,
phu hốt
rác ban đêm là phụ nữ. Họ làm việc trong thầm lặng. Khẩu trang che
ngang miệng,
chổi cầm tay, vừa đi vừa đẩy cái xe cút-kít, họ cúi xuống lề đường nhặt
từng
gói rác trong những căn nhà hai bên phố vứt ra, họ đi vòng những gốc
cây quét
đống rác ai đó vừa đổ vội cuối ngày. Đôi khi họ nhặt lên một bó hoa
tàn, đứng
tiếc rẻ, ngắm nghía một chút, lưỡng lự một chút, rồi mới bỏ vào thùng
xe. Có
bao giờ họ nhận được một bó hoa tươi không nhỉ?
Gặp nhau tại Sài Gòn
Bà mẹ trong hình
và ngoài đời
Sawada không chết vì cuộc chiến
Việt Nam, nhưng sau đó, khi nó
chuyển qua Kampuchia. Anh là người, có lúc tôi nghĩ, may mắn, vì luôn
luôn có mặt
trong những trận đánh lớn, và cứ nhè những khía cạnh cuộc chiến muốn
giấu, để
mà lột trần ra. Cái xấu, cái ác, có lẽ cũng là chuyện làm xàm, đôi khi
chán ngắt,
chính vì vậy Thần Chết muốn giấu, cũng nên! Thông thường đám phóng viên
Tây-phương, cứ thấy xác chết là "mê", chụp hình lia lịa. Hình của
Sawada là những gì hết đỗi tầm thường, nếu không muốn nói, nhàm chán, y
hệt như
nếu không có những xác người "bầy ra đấy", nó vẫn phải "xẩy
ra": hình một người lính VNCH "chán đời", ngồi thừ, điếu thuốc gắn
trên môi, "để đó". Có vẻ như anh không còn một chút hơi sức, chỉ để
kéo một hơi thuốc. Có vẻ như anh chẳng vui gì mà hút thuốc, sau khi
người bạn
thân vừa tử trận. Hay là anh nghĩ, không biết con vợ "bay bướm" ở nhà
có "buồn" vì anh vẫn còn sống... Bản chất ù lì, "tiêu cực"
có khi cần thiết cho sáng tạo, hơn là sự hăm hở, sôi sục, muốn "viết",
"chụp". Hình mấy mẹ con bơi qua sông chạy giặc: vẻ "trơ ra"
của thiên nhiên. Vũ Ngọc Phan đã từng chê Nguyễn Tuân: muốn kéo thiên
nhiên xuống
cho vừa ý con người...
Tên của cuộc chiến
Interview: Gao
Xingjian
Ha Jin
Ngôn
ngữ
của sự phản
bội
Sản
phẩm tưởng tượng
Trong
lời nói đầu của blog Mùa
Biển Động, nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã nói như vậy. Tuy
là tưởng
tượng, không đúng sự thật nhưng được in trên giấy trắng mực đen, sẽ đi
vào lịch
sử của văn học.
Sáng
nay tôi đọc chương
151, có một chi tiết nhỏ qua lời kể của nhân vật đại úy
Thường
về tay thiếu tá quận trưởng quận Diên Khánh khiến tôi bàng hoàng, run
rẩy! Xin
thưa: vị thiếu tá quận trưởng Diên Khánh ở thời điểm cuối cùng đó là
cha của
tôi!
Xin
thưa: Cha tôi không biết hút thuốc, không uống rượu bia, ông được mệnh
danh là
thiếu tá Coca; nhà văn đã tưởng tượng ra cha tôi ngậm ống vố, hút
Dunhill!?!?
Xin
thưa: Cha tôi không hề thích coi xinê, cuốn phim duy nhất ông mua vé
cho toàn
tiểu khu đi coi là phim Patton.
Vào thời khắc dầu sôi lửa bỏng đó, ông không dắt vợ coi đi coi xinê như
lời kể
của nhân vật đại úy Thường, cái radio là bạn của ông.
Xin
thưa: Cha tôi ở lại Nha Trang cho đến phút cuối chứ không theo mẹ con
tôi vào
Sài Gòn trên chiếc C130 chở thương binh. Phút cuối, cha tôi theo tàu
của Thủy
Quân Lục Chiến vào tới đảo Phú Quốc qua ngã Rạch Giá, tìm về Sài Gòn.
Tiếc! Tôi
không còn nhớ chính xác tháng ngày cha tôi về được Sài Gòn.
Xin
thưa: Cha tôi không thần thế, không bạc tiền, không chạy qua Mỹ. Ông ở
lại và
đi tù cho tới năm 83, vượt biên 84 và tới Mỹ 85.
Cha
tôi mất đã hơn 15 năm, khi tôi đủ khôn lớn để đặt dấu hỏi thì ông không
còn
nữa. Với ông, tôi nghĩ, mọi sự đã vô thường. Riêng tôi, dù tưởng tượng,
dù chi
tiết rất nhỏ, sản phẩm của nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã cứa một vết
thương sâu
hoắm trong tim tôi, vì tôi biết chắc chi tiết tưởng tượng liên quan tới
cha tôi
đó hoàn toàn sai sự thật.
Buồn.
Viết đôi dòng đối thoại gửi đi.
Hoàng Đại Dương
Tình lơ
Nguyễn Ngọc Tư
V/v Tình
Lơ.
Hẳn là Cô Tư đọc Cuốn
Theo Chiều Gió, và bởi vì cùng một nỗi ám ảnh về một Miền Nam sâu
thẳm của một William Faulkner, một Margaret Mitchell, mà viết ra nó.
Scarlett và Melanie ở đây là hai chị em giống nhau như đúc. Và thầy
giáo Thành trong Một Mối Tình, thì biến thành anh chồng ngớ ngẩn lầm cô
chị với cô em, hoặc ngược lại.
Cái không khí chung của tất cả truyện của Cô Tư, vẫn là ảo tưởng về ông
anh Bắc Kít ruột thịt cuối cùng hóa ra… kẻ thù!
Scarlett khi vỡ ra, bèn đoạn tuyệt với ảo tưởng, quyết tâm xây dựng lại
thiên đàng Tara, chờ ngày Rhett [chắc
là đi học tập cải tạo] trở về!
Một độc
giả TV đã khều nhẹ Gấu, Cô Tư làm sao mà đẹp như ông Gấu tưởng tượng
ra, như thế!
Gấu này đành phải thú thực,
sợ Cô Tư còn đẹp hơn cả những W. Faulkner,
những Margaret Michell! Tất cả những sáng tác của Cô Tư đều bàng bạc
trong đó, một Miền Nam đã mất, và gốc rễ của nó, phải tính từ thời Adam
và Eva bị tống ra khỏi Vườn Địa Đàng, biến thành một lũ “giả-Do Thái”
[giả ở đây giống như trong từ ‘giả cầy’!], lang thang
khắp miền trái đất, một nửa reo rắc tai ương, một nửa ăn mày lòng
thương hại của nhân loại.
*
Với mọi quốc gia toàn thể
tự nguyện đi đầy như thế, một sử thi sẽ được viết ra một ngày nào đó -
về cái sự
nó bị xé ra khỏi đất mẹ của nó, và cái sự nó bị huỷ diệt tại miền Siberia. Chỉ những quốc gia như thế, chính
chúng,
mới có
quyền cất lên tiếng nói của chúng, để nói về tất cả những gì chúng trải
qua: Chúng ta
không có những từ ngữ để nói giùm cho chúng.
Solz
Hậu Hiện Đại
Hậu Hiện
Đại
Cái vụ “quái trạng” đang om xòm
chợ cá, về
chuyện, ai là người đầu tiên phịa ra từ hậu hiện đại, và vào năm nào…
làm Gấu
nhớ đến một ý của Auden, đại khái, một nhà thơ có thể tự hỏi, tại sao
mình làm
thơ vào lúc sáu mươi tư tuổi, thí dụ, nhưng không bao giờ, vào năm
1940, vẫn
thí dụ.
Mượn ý của Auden, sự ra đời của một nhà thơ, hay một dòng thơ, hay bất
cứ sự ra
đời của một tư tưởng, một trào lưu triết học… hệ tại ở hai điều, “tại
sao” và
“như thế nào”, theo Gấu.
Hậu hiện đại là hiện đại được đẩy đến cực điểm của nó, khi nhân loại
phải đối
diện với Cái Ác của thế kỷ hung bạo, thế kỷ 20.
Postmodernism.
After 1945, there was radical questioning of
the basic,
savagery in human
nature. William Golding, Iris Murdoch, Norman Mailer, and John
Fowles
brought this theme into fiction. The freedom to write explicitly of sex
and
violence was taken further. Drama and the novel now presented the human
dilemma
in terms influenced by French existentialist philosophy. The theatre of
the
absurd, with Samuel Beckett and Harold Pinter, took dramatic speech
away from
the communicative and naturalistic to the inconsequential. The term
Postmodernism has been given to the extension of Modernism into a more
radical
questioning of the integrity of language and the uncertainty of all
linguistic
performance.
Đó là cái phần "tại sao".
Còn "như thế nào" liên quan đến những biểu hiện của chủ nghĩa này,
trong các ngành nhân văn, nghệ thuật.
Roland Barthes hình như cũng đã viết về vấn đề này, nếu Gấu nhớ không
lầm. Ông
nhấn mạnh đến cái “pourquoi” và cái “comment” của văn chương.
Nhìn như thế, Mít chưa có hậu hiện đại. Và chỉ có, khi đối mặt với Các
Ác Bắc
Kít, mà nguyên nhân và hậu quả, là Cuộc Chiến và Lò Cải Tạo.
*
Ngay từ khi Solz còn sống, tác phẩm Tầng Đầu Địa Ngục của ông
đã được
đưa lên TV ở Nga, ‘không bỏ một chữ’, mượn chữ của nhà văn NMG khi đưa Sông
Côn Mùa Lũ về trở lại Việt Nam. Lẽ dĩ nhiên, cũng có sự lợi dụng
của Putin,
nhưng thà rằng là như vậy! Nhà nước Nga cho bạch hóa hồ sơ mật. Nhưng ở
một
nước cựu chư hầu của Liên Xô, là Việt Nam, Solz vẫn là một cấm kỵ, và
trong
nước Mít vẫn than thở giùm cho ông, sinh không gặp thời. Cái sự không
đọc, và
giới thiệu Solz, Akhmatova, Mandelstam… mới là một quái trạng, bởi vì
chỉ có
bắt đầu đọc những nhà văn nhà thơ ngày nào còn bị cấm kỵ ở quê hương
của chính
họ, thì mới giải trừ được nọc độc toàn trị, trong khi chờ đợi những tác
phẩm
dám nhìn thẳng vào thực tại Việt Nam. Có thể bằng suy nghĩ đó, Nguyên
Ngọc dịch
Kundera. Sự xuất hiện của những tác phẩm tố cáo tội ác Đức quốc xã của
Hitler
theo tôi, là cũng nằm trong suy nghĩ như trên. Trong khi những nhà thơ
Xô Viết
như Yevtushenko, như Mayakosky… với những vần thơ ái quốc xúi tưổi trẻ
hy sinh
cho lũ già ở Bắc Bộ Phủ tha hồ hưởng thụ, vậy mà vẫn có người lôi ra
mân mê,
cái đó cũng là quái trạng.
Ngay cả cái sự giới thiệu hậu hiện đại, làm như đây là cơ hội ngàn vàng
của văn
học trong nước, để theo kịp trào lưu thế giới cũng là quái trạng!
*
Applebaum gives the final word of her splendid book to the writer Lev
Razgon. A
Communist believer, Razzgon was arrested in 1938 and spent the next
eighteen
year in labor camps and exile. In 1990 he was allowed to see his own
archival
file in the Lubyanka building of the KGB-"a thin collection of
documents
describing his arrest and the arrests of his first wife, Okksana, as
well as
several members of her family." Razgon read the file and later wrote a
moving essay about it, the fate of his wife's mother, and the "strange
absence
of repentance on the part of those who had destroyed all of them."
But his final thoughts, it seems to Appplebaum, are more ambivalent:
I have long since stopped turning the pages of the file and they have
lain next
to me for more than an hour or two, growing cold with their own
thoughts. My
guardian [the KGB archivist] is already beginning to cough suggestively
and
look at his watch. It's time to go. I have nothing more to do here ....
I go
downstairs, along the empty corridors, past the sentries who do not
even ask to
see my papers, and step out into Lubyanka Square.
It's only 5 p.m., but it's already almost dark and a fine, quiet rain
falls
uninterruptedly. The building remains beside me and I stand on the
pavement
outside, wondering what to do next. How terrible that I do not believe
in God
and cannot go into one quiet little church stand in the warmth of the
candles,
gaze into the eyes of Christ on the Cross and say and do those things
that make
life easier to bear for the believer. ...
I take off my fur hat, and drops of rain or tears trickle down my face.
I am
eighty-two and here I stand, living through it all again ... I hear the
voices
of Oksana and her mother ... I can remember and recall them, each one.
And if I
[have] remained alive, then it is my duty to do so ....
*
Applebaum khép lại “Gulag một lịch sử” của bà bằng những dòng trân
trọng dành
cho nhà văn CS tin tưởng sắt đá vào chủ nghĩa, Lev Razgon. Ông bị bắt
vào năm
1938 và trải qua 18 năm tiếp theo trong tù cải tạo và lưu vong. Vào năm
1990
ông được KGB cho phép coi hồ sơ mật về trường hợp của ông.
*
Coi cái sự mân mê những vần thơ vệ quốc của những nhà thơ như
Yevtushensho là
quái trạng có lẽ không đúng. Đây là do mặc cảm phạm tội, và do cái sự
bất khả
tưởng niệm [The Inability to Mourn,
tác phẩm Alexander và Margarete
Mitscherlich, viết về sự im lặng về tội ác Nazi của dân chúng Đức] nếu
chúng ta
để ý đến trường hợp của Grass, như Coetzee viết về ông, trong bài Những
nạn
nhân [điểm cuốn Cua Bò, Crabwalk,
NYRB 12 June, 2003]:
Những người
cùng thế
hệ của Grass giữ sự im lặng bí ấn về những năm chiến tranh, Grass thú
nhận, bởi
vì mặc cảm tội lỗi cá nhân của họ vượt lên trên hết, và sự “cần thiết
chấp nhận
trách nhiệm và ăn năn hối lỗi chỉ có thể có, khi có một người nào đó
xâm mình
mở đường”.
*
Trong Quần đảo Gulag, Solz dành một chương viết về những quốc
gia lưu
vong, Tin Văn sẽ scan ấn
bản rút gọn. So
sánh với Mít, quả là toàn thể một miền đất - Miền Nam –
sau 1975, xứng đáng được gọi
là "quốc gia lưu vong". Những cú như 10 ngày cải tạo, kinh tế mới..
như được lấy ra từ sách lược của Người [Stalin].
Với mọi quốc gia toàn thể tự
nguyện đi đầy như thế, một sử thi sẽ được viết
ra một ngày nào đó - về cái sự nó bị xé ra khỏi đất mẹ của nó, và cái
sự nó bị
huỷ diệt tại miền Siberia. Chỉ những quốc gia như thế, chính
chúng, mới
có quyền cất lên tiếng nói của chúng, để nói về tất cả những gì chúng
trải qua:
Chúng ta không có những từ ngữ để nói giùm cho chúng.
Solz
Solzhenitsyn comes back to this theme at several points. "The
imagination
of writers is poverty-stricken in regard to the native life and customs
of the
Archipelago," he writes. How could a Western writer, in particular,
describe the perturbation of a human soul placed in a cell filled to
twenty
times its capacity and with no latrine bucket, where prisoners are
taken out to
the toilet only once a day! Of course, much of the texture of this life
is
bound to be unknown to Western writers; they wouldn't realize that in
this
situation one solution was to urinate in your canvas hood, nor would
they at
all understand one prisoner's advice to another to urinate in his boot!
It takes a writer such as Shalamov to convey something, a tiny human
fragment,
of the reality of Kolyma. It takes
Primo Levi
to describe Auschwitz.
Applebaum: Gulag a history
Phải
có nhà văn như Shalamov để
viết về tí người còn sót trong trại tù Kolyma.
Primo Levi để miêu tả Lò Thiêu.
5 năm
TTT ra đi
(22.3.2006-22.3.2010)
TTT
& ông em, ngồi sau, [Bạn
C. trong Thất Hiền của Gấu]
@ Vườn Bờ Rô, Sài Gòn
Thơ Thanh Tâm
Tuyền, tự nó, là một thế giới, và đồng thời một không gian nhìn ra thế
giới.
Đây là đặc tính của thơ Thanh Tâm Tuyền, ở những nhà thơ khác dù rất
hiện đại,
cũng không có, hoặc không rõ nét. Ví dụ trong thơ Tô Thuỳ Yên, chủ yếu
ta thấy
thảm kịch Việt Nam; thơ Lê Đạt chủ yếu phản ánh tâm cảnh người dân châu
thổ
Sông Hồng; thơ Dương Tường đưa vào nhiều tiếng nước ngoài, thảnh thót
giọt mưa
dương cầm tím mộng scheherazade, vẫn là cái liếc nhìn ra thế giới,
không phải là
tầm nhìn sâu thẳm, xâu xé, xoáy vào thân phận làm người, chủ yếu là
người nhược
tiểu. Nói như vậy, không có ngụ ý rằng thơ Thanh Tâm Tuyền nhẹ tính
cách dân
tộc. Phân biệt dân tộc với nhân loại là phiến diện: trong thế giới có
Việt Nam và trong Việt Nam có thế
giới. Trong «Guernica» của Picasso có Bến Tre, trong
tranh khắc gỗ đình làng Việt Nam có
Picasso. Tôi nói thơ Thanh Tâm Tuyền trong hình thức và nội dung là một
bước ngoặt
trong nghệ thuật và tâm thức Việt Nam là vậy.
Tuy nhiên cũng phải ghi nhận với ít nhiều tiếc rẻ là lối thơ Thanh Tâm
Tuyền không
có người thừa kế.
Nguồn
Đọc bài
viết của NCK, Gấu
nhận ra một sự thực "chói lòa":
Đối với lũ chúng tôi, TTT là
thần tượng, không phải văn chương, mà đời thường, và qua bài viết này
của NCK, đời tù!
Mấy thằng ngu, thấy Gấu này
hay nhắc tới ông, hay nhắc tới Faulkner, bèn tức điên lên, tại sao mày
không
nhắc đến chúng tao, cũng thi sĩ, cũng nhà văn, cũng bạn quí!
Chúng đâu có hiểu, cả trong
đời sống lẫn trong cõi mộng, Gấu này bảnh hơn chúng rất nhiều: Đều có
Thầy!
*
Gấu đã từng nghe, một vì giáo
sư Ăng Lê, đã từng dậy một ông bạn quí của Gấu. Gấu quen ông, những
ngày cuối
đời, ở hải ngoại. Có lần, nhân nhắc đến đấng bạn quí, ông bèn kể, có
lần thầy
gặp lại trò, trong một chốn đông người, và có thể, không có cách nào để
tránh
mặt thầy, ông học trò bèn lừ lừ đến, chìa tay bắt tay vị thầy ngày nào,
gật gù:
Ngày trước moa có học toa!
Câu chuyện trên Gấu nghe
"đích thân" ông giáo sư Ăng Lê, kể, nhưng cách kể của Gấu “đểu", so
với thái độ "minh triết" của vị giáo sư.
Steiner,
nhiều học trò như
thế, vậy mà khi được hỏi, ông chỉ nhớ, một em sinh viên, nói
thắng vào
mặt
Thầy, moa chán những bài học
minh triết của toa quá rồi, moa đếch thèm
học nữa.
Cô bỏ đi, lặn lội đến một nơi tận cùng trái đất, để làm một cô giáo
tỉnh lỵ,
chắc thế, chân trần... Trên Tin Văn hình như có nhắc tới chuyện này
rồi. (1)
(1) Trong đời
tôi,
tôi đã gặp được năm hoặc sáu sinh viên phú bẩm (doués), sáng láng
(créatifs)
hơn tôi. Một lần ở [Đại học] Cambridge, một trong những nữ sinh viên,
con chim
đầu đàn của khóa học, đã nói với tôi: "Tôi ghê tởm tất cả những gì thầy
dậy
tôi; tôi quá chán tất cả những gì mà thầy đại diện; tôi chẳng bao giờ
thèm nghe
nói về văn hóa, và tôi bỏ đi làm một người y sĩ chân trần ở Trung
quốc." Vài
năm sau, tôi được mời thăm Bắc kinh, và vị Đại sứ Anh quốc đã cho tôi
tin tức
về người đàn bà này. Bà là một y sĩ, trong một làng quê không điện
không nước…
Vậy đó, bà ta có lẽ là một thành công độc nhất của tôi.
Văn hóa
không làm tăng tính người
Nhật Ký TV
*
Tôi
không muốn làm nhà thơ. Mà chỉ muốn làm một anh văn
nghệ làng nhàng. Một thằng nói, chứ không hát.
Xin lỗi vì đã trần tình như
vậy, nhưng là một Tư Mã Giang Châu
đã quá hân hạnh ở trên cõi đời này rồi.
R.L. Stevenson
*
Là một nhà thơ chứ, lẽ dĩ
nhiên!
Một nhà thơ vụng về, nhưng một nhà thơ.
[Borges trả lời phỏng vấn]
NGUYỄN LƯƠNG VỴ
PHỐ CŨ DƯƠNG CẦM THU
Lá vàng rơi thương tưởng Dương
Cầm Thu
Phố ươm nắng vàng câm. Âm biếc nắng
Bờ bến gọi. Thức tròn mùa xa vắng
Em đi đâu?! Dương cầm réo sông xa
Dương Cầm Thu ngấm men rượu
Hoàng Hoa
Phố thầm nhắc một mái lầu phong nguyệt
Màu cổ điển. Rằm phơi âm bất tuyệt
Em đi đâu?! Cỏ ướt khúc tình sầu
Dương Cầm Thu tóc xõa Dương Cầm
Nâu
Phố khuya hát ngàn sông. Rêu nhớm rễ
Âm níu Nhạc. Ngàn sông bay nắng xế
Để ngàn khuya tan theo Dương Cầm Thu
Muốt tay em mềm hết dấu sương
mù
Phố điêu khắc. Dương Cầm Thu chín đỏ
Lá say hết âm vang chìm đáy mộ
Nắng vàng câm. Âm biếc nắng nhớ nhau
Nắng vàng câm. Vang bóng đến
ngàn sau
Phố ngực nõn dậy thì trăng ướt mượt
Phím chất ngất. Dương Cầm Thu hẹn ước
Trăng gọi nước xuôi ngàn. Đàn vang bước em đi…
8/2005
Quả là một khúc thần sầu. Chất
viril [chất
đực], chất eros [chất huê tình], chất sauvage [dã man, tàn bạo]...
nhưng cũng
thật thơ mộng:
Em đi đâu, cỏ ướt khúc tình sầu.
Thơ NLV âm vang thơ của những bậc đi trước ông.
Rõ nhất, là Joseph Huỳnh Văn, rồi tới Bùi Giáng, rồi tới Thanh Tâm
Tuyền [chất
đàn ông, hung bạo mà cả hai đấng kia không hề có].
Có lần, Gấu thú thực, chưa tìm ra chìa khoá vô cõi thơ NLV. Có NTN, lần
anh
viếng thăm Mẽo, và nhà thơ này gật gù, đúng, mỗi cõi thơ là mỗi chìa
khoá. Thơ
của tôi, chìa khoá nằm ở mãi cõi Thơ Đường.
Nói chung, thơ của mấy ông này, chìa khóa thì đều nằm trong Cõi Điên
cả.
Trừ Joseph HV, cõi thơ Ky Tô, giống của Brodsky.
Trừ TTT, cõi thơ trí tuệ, gần cõi thơ Milosz, nhưng lại thiếu cõi quê
của
Milosz.
Cõi quê như chính ông tâng bốc:
It is good to be born in a small country where nature is on a human
scale,
where various languages and religions have coexisted for centuries. I
am
thinking here of Lithuania,
a land of myth and poetry.
Thật lốt lành khi sinh ra tại một xứ nhỏ, nơi thiên nhiên không so le
với con
người, nơi ngôn ngữ và tôn giáo cùng rong ruổi bên nhau qua nhiều đời.
Tôi đang
nghĩ về Lithuania,
miền đất của huyền thoại và thi ca.
Milosz, Diễn văn Nobel văn chương.
Với TTT, thì đây là Đất Bắc mà
ông đã từ bỏ, và khi trở về, thì như một
tên tù:
Chiều
cuối năm qua
xóm nghèo
Mưa
bay lất phất gió căm
căm
Đường
lầy trơn nhà cửa tối tăm
Trốn
đâu lũ trẻ mặt lem luốc
Co ro
đứng coi tù qua thôn
Vác bó
cuốc nặng bước loạng choạng
Về
trong xây xẩm buổi tàn đông
Lạnh
lẽo nhà ai không đèn lửa
Ảm đạm
lòng ta chiều cuối năm
78 (Thơ
ở đâu xa)
Thơ TTT, sở dĩ không có truyền
nhân, chính
là do cái chất trí tuệ của nó.
Như Adam Zagajewski viết về Milosz:
Tưởng Niệm Czeslaw Milosz [1911-2004]
Trí
Tuệ và Những Bông Hồng
Adam Zagajewski
6 năm BHD
ra đi
Ba ấn bản khác nhau
|
|